watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Bốn kiếp thùy liễu-Kiếp thứ ba - tác giả Sơn Táp Sơn Táp

Sơn Táp

Kiếp thứ ba

Tác giả: Sơn Táp

S áu giờ sáng, trời gió và trên trời mây bay đi hết.



Ngoài đường phố đã đầy những tiếng ồn ào. Đàn phong cầm chơi đi chơi lại những điệu nhàm tai giữa tiếng trống náo nhiệt. Tiếng hát cất lên rồi lắng xuống, những tiếng vỗ tay lẹt đẹt. Một giọng nói được loa phóng thanh khuếch đại bật lên: “Cách mạng là lý trí tối cao! Hoan nghênh các chiến sĩ Cách mạng! Ai không muốn có cách mạng hãy cuốn xéo!”



Năm 1966, năm có những sự kiện lớn dồn dập xảy ra thì tôi mười sáu tuổi. Một lớp lông tơ màu đen mọc lún phún phía trên môi trên của tôi. Sâu thẳm trong lòng, tôi đã phải chịu đựng nỗi đau vô hạn của một thiếu niên muốn được trưởng thành làm đàn ông.



Đầu tôi tràn ngập những ý nghĩ thiểu não lẫn những cơn choáng váng. Con tim trống rỗng, tâm hồn đờ đẫn, tôi lang thang trên các đống đổ nát của cung điện Mùa Xuân. Tương lai không làm tôi quan tâm, tuổi thơ không làm tôi hoài niệm, nỗi lo lắng duy nhất của tồi là đau đớn tự vấn: “tôi là ai?”



Vào một buổi sáng mùa hè đẹp trời, điều kỳ diệu đã xảy ra.



Tiếng động kích thích tính hiếu kỳ, tôi lấy xe đạp đi ra khỏi nhà. Đúng ngã tư Trung Quan Thôn, tôi gặp sinh viên trường đại học Thanh Hoa từ khu nội trú đến. Họ mặc đồng phục màu xanh áo lính, ngực đeo hình chủ tịch Mao Trạch Đông, cánh tay phải đeo băng đỏ đậm, họ phất cờ và căng biểu ngữ dài mười mét, làm bằng hai tấm rèm giật ra từ phòng hội họp, Trên biểu ngữ viết “CHỦ TỊCH MAO TRẠCH ĐÔNG MUÔN NĂM”.



Tôi để xe đạp trên vỉa hè và chen vào với đám đông. Không ai nhận ra sự đột nhập của tôi, tôi lấy quyển sách nhỏ màu đỏ trong túi ra cầm tay rồi cùng đoàn người diễu hành.



Tính hiếu kỳ kích thích khiến tôi tiến bước nhanh hơn những người khác. Chẳng mấy chốc tôi gặp nhóm sinh viên mới gồm con em nông dân, công nhân và viên chức nhỏ. Họ ăn mặc kém hào nhoáng hơn. Họ mặc quần áo nhàu nhĩ màu xanh lơ: từ một năm nay, cả bộ quần áo màu xanh lá cây kiểu quân đội trở thành đồ vật xa xỉ, quý hiếm Băng đeo tay của họ không đúng kích cỡ chính thức. Họ nhiệt tình tự may lấy bằng tay bằng tay rồi nhuộm màu đỏ đầy thánh kính. Không khí hừng hực ngọn lửa nhiệt tình, những con người này toả rạng niềm vui. Một cô gái, có thể nói là bé gái vì nom rất trẻ con, ngồi trên chiếc xe kéo ba bánh, chơi phong cầm điêu luyện điệu nghệ. Xung quanh cô, là những bức chân dung Mao chủ tịch nhảy múa. Một thanh niên cao to, tóc cắt trọc, dẫn đầu nhóm. Anh mặc áo vét xanh là lượt cẩn thận nhưng vá ở khuỷu tay. Loa phóng thanh trước miệng, anh ta đọc thơ của Mao:



Một mình đứng trước cái rét mùa thu,

Giữa dòng Siang đang trôi nhanh về miền Bắc

Đến tận mũi đảo Cam

Ta nhìn qua hàng ngàn ngọn núi đỏ chót

Những tầng tầng lớp lớp cảnh rừng nhuộm đỏ

Trên những dòng sông mênh mông, xanh trong

Hàng trăm con tàu đua nhau lao đi

Đại bàng đập cánh vào không gian vô tận

Cá bơi lượn ngang mặt nước.

Mọi người, trong sương giá, tranh đua tự do

Xúc động trước mênh mông này

Ta cất tiếng hỏi con sóng bao la

Ai là người chèo lái con tàu chìm nổi.



Theo nhịp những vần thơ tuyệt đỉnh, ông mặt trời nhô lên từ sau rặng cây, trút xuống chúng tôi cả đại dương ánh sáng. Bị xô đẩy vì sinh viên chen lấn nhau đế dán lên tường và cột điện những bức tranh chế giễu kẻ thù nhân dân, tôi nhập vào hàng ngũ trường đại học Bắc Kinh, nơi đang bùng nổ chiến tranh.

Hai đoàn người đi sát bên nhau, văng vào nhau các câu lên án mỉa mai, mắt gườm gườm nhìn nhau thù địch. Bất chợt trong mớ hỗn loạn, có hai cô gái trẻ được đồng đội công kênh trên vai, nâng cao lên phía trên đám đông, họ đối mặt với nhau. Hai cô gái bắt nhịp cho cả bọn cùng cất giọng đồng ca những điệu hát cách mạng. Trong phe của tôi, mọi người hát hết mình bài “Đông phương hồng” và ở phe bên kia lại vang lên thật to “Ra khơi nhờ tay lái vững”. Sau đó, phe đầu tiên bất chợt hoà giọng ‘'Tiến lên! tiến lên! đội ngũ ta tiến về phía vầng dương”, phe thứ hai hát đối lại bằng bài “Ngôi sao đỏ rực sáng lấp lánh”...



Đứng dưới lá cờ trường Đại học Nhân dân, tôi được yên thân. Hai sinh viên nắm tay tôi. Sát cánh bên nhau, hàng trăm thanh niên kết thành một khối và hát những bài thơ của Mao Chủ tịch. Tiếng tôi hát chìm giữa dàn đồng ca đang rống lên. Tôi không nghe thấy giọng tôi nói, nhưng những lời thơ làm đầu tôi quay cuồng và bụng tôi nóng ran.



Lý tưởng mà chúng tôi say mê là: nước Trung Hoa thịnh vượng, nhân dân Trung Hoa hạnh phúc, giai cấp công nhân rạng rỡ nụ cười thoả mãn, trẻ con giống như những bó hoa tươi.

Bỗng nhiên tất cả hoàn toàn yên tĩnh, giọng một người diễn thuyết vang lên. Từ loa phóng thanh loan ra giọng nói dịu dàng, trong sáng và rành mạch:



" Thưa các đồng chí, chúng ta đang sống trong một thời kỳ hoàn toàn trong sáng. Tám năm chiến tranh chống Nhật Bản, bốn năm chiến đấu chống Quốc dân đảng làm đất nước kiệt quệ và biến nền văn minh chúng ta chỉ còn lại là con số không. Thế hệ chúng ta gắn liền với nền dân chủ nhân dân không biết đến cả chế độ nô lệ lẫn giết chóc. Chúng ta đã học phân biệt thiện với ác, đẹp với xấu, dũng cảm với đớn hèn, chúng ta ý thức được rằng chúng ta sẽ hy sinh tương lai cho sự nghiệp tái thiết đất nước. Nhưng chúng ta thiếu kinh nghiệm cho nên chúng ta khao khát được tôi luyện giống như thép ước ao được nung đỏ trong lò cao.



“Chúng ta, những người sinh viên, nôn nóng cải thiện xã hội. Hôm qua, chúng ta muốn trở thành kỹ sư, giáo sư, thủ thư và tặng cho đất nước tri thức của chúng ta. Hôm nay, Mao Chủ tịch kính yêu của chúng ta nói: “Cần phải nghi ngờ tất cả cần phải đánh đổ tất cả”. “Nghi ngờ tất cả”, có nghĩa là bản thân mình phải tự đánh giá, dám biết coi khinh, tin tưởng vào dự cảm của mình, tin tưởng vào tuổi trẻ. Trong châm ngôn “cần phải đánh đổ tất cả”, Người cầm lái vĩ đại đã cho chúng ta thấy nhiệm vụ của chúng ta và chỉ cho chúng ta con đường cần phải đi, đó là: làm cách mạng.



Điều này có nghĩa là chúng ta phải mạnh bạo, loại trừ trong bản thân ta tất cả những nguyên tắc đã được thiết lập còn sót lại, rồi lật đổ xã hội cũ với tất cả các thành phần thối nát của nó.



Mao Chủ tịch còn nói “những kẻ đại diện cho quyền lực đã trở thành những tay tư sản, chúng tồn tại nhờ dựa dẫm vào sự ngoan ngoãn của tuổi trẻ”. Thầy cô giáo, cha mẹ chúng ta và một số người lãnh đạo cứng nhắc, bảo thủ đã trở thành chướng ngại vật cho cách mạng xã hội Trung Quốc. Họ sợ sự tiến bộ, sợ cách mạng văn hoá sẽ làm họ mất quyền lực. Các đồng chí, tương lai thuộc về tuổi trẻ. Chúng ta hãy tập hợp nhau lại dưới lá cờ của tư tưởng Mao, dùng phép lành của nó mà đập tan mọi quyền lực, đánh đổ những kẻ xét lại, bọn tiếu tư sản, những kẻ bảo vệ chế độ phong kiến.



“Mao Chủ tịch muôn năm! Cách mạng văn hoá vô sản muôn năm! Đại đoàn kết nhân dân Trung Hoa muôn năm!”



Tiếng hát lại cất lên Tràn ngập niềm xúc động mãnh liệt, tôi không thể nói gì dù chỉ nửa lời. Chưa từng bao giờ có bài diễn văn tác động mạnh mẽ đến tôi như vậy. Mỗi lời nói xuyên thâu trái tim tôi. Từ một

năm nay, lần đầu tiên tôi có bao nhiêu là suy nghĩ suy tư chen lấn trong đầu.



Tôi chưa bao giờ nghi ngờ cha mẹ tôi, chưa bao giờ nghi ngờ thầy cô giáo của tôi. Họ là chân lý tuyệt đối. Cuộc sống của tôi trôi chảy, bình lặng, yên ổn; Tôi từng là học sinh ngoan ngoãn, vâng lời, thích đọc sách, thích chơi cờ, chơi bóng đá, mơ ước đỗ vào trường đại học Bắc Kinh để rồi một ngày nào đó sẽ trở thành nhà vật lí thiên văn



Trong những dự định mênh mông về cuộc sống như vậy, quyết định của bản thân tôi có vai trò như thế nào? cha mẹ tôi có vai trò như thế nào? Tôi được giáo dục phải biết tôn trọng, phải biết vâng lời. Chưa bao giờ tôi dám ngang cao đầu kêu gào, hát hò và diễn đạt ý kiến riêng thành lời dõng dạc Tôi là một thứ bù nhìn được sản xuất ra theo dây chuyền rồi được phân phát cho một chức năng, một số phận. Không bao giờ dám phủ định hay gạt bỏ vì cái gì, tôi không còn biết tôi là ai nữa. Chỉ có cách mạng mới rèn được cho tồi một bản sắc



Tôi tìm trong đám đông cô gái ban lúc nãy nói trên loa phóng thanh, đúng lúc đó, hàng nghìn Hồng vệ binh từ trường đại học đi ra nhập vào nhóm chúng tôi. Ai đó chuyền cho tôi lá cờ đỏ. Một nữ sinh viên phát cho tôi tờ giấy in những chỉ thị mới nhất của Uỷ ban Trung ương Cách mạng văn hoá Tôi gập nó lại làm đôi, nhét vào túi áo vét, nơi gần sát trái tim.



Trên các đường phố và đại lộ, chúng tôi làm thành dòng sông đen, còn những quyển sách nhỏ màu đỏ mà chúng tôi cầm vẫy vẫy trên đầu thì giống như hằng hà sa số bọt sóng biến, trên đó như có hàng trăm vạn mặt trời. Từ đại lộ Trung Quan thôn đi xuôi, chúng tôi vượt qua cầu đá trắng, diễu qua trước trụ sở Bộ Xây dựng và tiến vào đại lộ Trường An.



Trong khi chúng tôi biểu lộ lòng trung thành đối với Mao Chủ tịch, thì hàng trăm nghìn người Bắc Kinh hiếu kỳ tụ tập trên vỉa hè cổ động chúng tôi. Quân đội can thiệp thô bạo không cho họ đứng tràn vào với chúng tôi, tạo thành hai bức tường song song ngăn cách dân đứng xem và đoàn người biểu tình cùng chúng tôi. Quân đội can thiệp thô bạo không cho họ đứng tràn vào với chúng tôi, tạo thành hai bức tường song song ngăn cách dân đứng xem và đoàn người biểu tình.



Sau hai giờ diễu hành, chúng tôi bắt đầu thấy mệt. Những cốc nước được những người lính giơ cao lên phía trên vai và chuyến đến cho chúng tôi. Để cảm ơn họ, chúng tôi lại hát vang những bài ca cách mạng. Mọi người nhiệt liệt hoan hô chúng tôi, và để đáp lại, chúng tôi gào to những khấu hiệu cổ động tinh thần đoàn kết. Chúng tôi sống trong những giây phút tràn ngập tình yêu và sự kết đoàn.



Công chúng không được phép đi lại trên đại lộ gần quảng trường Thiên An Môn. Bọn lính bắt chúng tôi dừng lại và phân chúng tôi ra xếp hàng thành từng khối vuông. Chúng tôi rất khó tụ hợp với nhau như trước đó. Mặt trời đổ những vốc than hồng xuống chúng tôi Chúng tôi bê bết mồ hôi, chen lấn nhau lại càng làm cho mồ hôi đổ ra nhiều hơn. Hồng Vệ binh theo các trường phái tư tưởng khác nhau lợi dụng cơ hội này để chửi bới lẫn nhau. Bất chợt, như cơn gió lốc nổi lên giữa đại dương, niềm say mê cuốn hút chúng tôi vào một cơn cuồng loạn tập thế. Tiếng hát của chúng tôi lại cất lên cuồng nhiệt. “Tư tưởng Mao Trạch Đồng muôn năm!”, “Đảng Cộng sản muôn năm!”, chúng tôi trích đọc một lần nữa bài thơ của chủ tịch mà ai cũng đã thuộc lòng:



Nhiệm vụ đang chờ đợi

Những nhiệm vụ khẩn cấp nhất

Thời gian đang giục giã,

Một vạn năm, thật quả dài

Phải cướp thời cơ ngay hôm nay, ngay giờ phút này,

Bốn bể sục sôi trong cuồng loạn giữa mây và sóng

Năm châu đứng dậy trong bão táp nổ bùng.

Để quét sạch bọn bất lương khỏi trải đất

Sức mạnh của chủng ta vô song...



Dần dần đám đông bắt đầu rùng rùng chuyển động. Các đồng chí của tôi, họ đều cao hơn tôi khoảng nửa cái đầu, kéo tôi hấp tấp đi lên. Ngọn cờ tôi giương cao ngược chiều gió đập phần phật vào mặt tôi, những lúc nó bay ra hướng khác, tôi nhìn thấy cả một biển những đôi má đỏ lững, một rừng cánh tay chỉ thẳng lên trời, những bức chân dung Mao Chủ tịch tung bay phía trên đầu Đám đông hỗn loạn huyên náo kéo nhau đi; Tôi hét vào tai một nam sinh viên hỏi chuyện gì đã xảy ra. Anh này ra hiệu rằng anh ta không nghe thấy tôi nói gì hết.



Đám đông dừng lại. Thật là xô bồ hỗn loạn. Đột nhiên, những người đi phía trước tôi tự dưng tháo chạy.

“Chạy đi đâu đấy? Đợi tôi với!”



Thậm chí ngay cả những người chậm như sên tụt ở phía sau cũng vượt lên trước tôi. Tôi tức tối chạy theo họ, vướng víu với ngọn cờ đè nặng trên vai. Những tiếng kêu cuồng loạn nổi lên Xung quanh tôi, những Hồng Vệ binh giật mũ cát két tung lên trời Nước mắt họ trào ra Một cô gái trẻ chuệnh choạng ngã phịch xuống đất. Tôi chạy đến giúp cô ấy đứng dậy. Mũi chảy máu nhưng không hề biết mình bị thương, cô nhặt quyến sách đỏ bị rơi xuống đất rồi lại tiếp tục chạy, vừa chạy vừa hét.



Đến lúc đó tôi mới nghe được một giọng run run đặc sệt miền nam được khuếch đại bởi hàng trăm chiếc loa phóng thanh: “Xin chào, các tiểu hồng binh thân yêu của tôi!”



Cùng lúc với giọng nói ấy từ trời cao vang xuống, thì tựa như trong cơn mê. Cổng Thiên An hiện ra phía cuối biển người mặc đồng phục xanh. Đó là một mái nhà khổng lồ lợp ngói bóng loáng tựa trên những cây cột đỏ sẫm trên một miếng đất cắm hàng nghìn cây cờ tung bay phần phật. Tim tôi đập thảng thốt. Chủ tịch Mao chắc hẳn sẽ đứng đó để tiếp đón bầy đệ tử! Tôi nháo nhác nhìn khắp nơi tìm bóng dáng của người, nhưng đám đông trong cơn hoảng loạn giống như con tàu đang chao đảo. Tất cả làm tôi hoa cả mắt, những ngọn cờ bay phần phật, những bức chân dung đập vào nhau kêu lách cách, những chú chim bồ câu được tung lên trời, những quả bóng đủ màu sắc sặc sỡ bay lên.



“Mao Chủ tịch muôn năm, Mao Chủ tịch muôn năm!”, tôi gào câu kinh của tôi đến nghẹt thở. Trong những chiếc loa phóng thanh, tiếng chủ tịch lại cất lên, như để trả lời tôi: “Các tiểu hồng binh thân mến, xin chào các đồng chí!”



Những giọt nước mất thất vọng chảy đẫm má tôi. Chạy đến đoạn cuối của đoạn đường diễu hành mà tôi vẫn chưa một lần được thoáng nhìn thấy bóng dáng Người. Tôi quay đầu lại một lần cuối.



Như thể có ý trời, vài sinh viên dịch chuyển vị trí. Thế là giữa hai ngọn cờ đỏ, tôi nhìn thấy phía trên cao Thiên An Môn, một vết màu trắng đứng đầu những người lãnh đạo mặc quần áo sẫm màu. Mao Chủ tịch giơ cao tay chào đám đông đang run rẩy.



Rừng cờ lại khép lại. Ngay lập tức tôi lại bị đám đông nuốt chửng.



Ở trường trung học, đầu tháng Chín không ai lên lớp nữa: học sinh đến trường để học chỉ thị mới hay tranh luận về con đường xã hội chủ nghĩa. Uỷ ban cách mạng đầu tiên được thành lập mà tôi không hề biết. Đến cuộc họp thứ tư thì Uỷ ban này gọi tôi.



Cuộc họp diễn ra ở góc phòng học thể dục. Trong số các thành viên uỷ ban, tôi nhận ra một số người học cùng tôi ở lóp cuối cấp. Những người khác hẳn là học lớp dưới. Không ai trong số họ là thành viên đoàn đại biển sinh viên trong đó tôi phụ trách công tác tuyên truyền và đài phát thanh của trường.



Thấy tôi đến, một số người gật đâu với tôi, một số khác có vẻ hung tợn hơn không hề nhúc nhích. Tôi ngồi tách ra, với tư cách là quan sát viên.



Hai Hồng Vệ binh đến từ trường Đại học Nhân dân nói chuyện với chúng tôi về “tờ cảnh báo ngày 16 tháng Năm”, trong đó Bộ Chính trị Trung ương Đảng đề cập đến những phần tử xét lại tồn tại trong nội bộ Đảng. Chúng rình thời cơ đế chiếm quyền lực và biến nền chuyên chính vô sản thành sự bạo hành tư bản. “Tờ cảnh báo” cho hay việc chống lại bọn phản cách mạng này quyết định tương lai của Đảng và vận mệnh của nhân dân Trung Hoa. Toàn Đảng cần tập hợp lại dưới đại lá cờ Cách mạng Văn hoá, kết án những kẻ giả danh cách mạng đang đứng đầu các ngành khoa học, giáo dục, thông tin và xuất bản.

Một nữ sinh bất đầu diễn thuyết. Chị gợi ý chúng tôi cần phải tổ chức lại ủy ban cách mạng làm sao cho có hiệu quả hơn, phải xây dựng những dự án cụ thể để hưởng ứng lời kêu gọi trong “Tờ cảnh báo”.



Tôi thất vọng vì giọng nói của chị, đơn điệu mà không có gì duyên dáng Thật tiếc sẽ chẳng bao giờ có dịp gặp lại người thiếu nữ chưa từng quen biết có giọng nói trong sáng đến thế và dịu dàng đến thế.



Gió ùa vào qua cửa sổ và chạy suốt dọc chiều dài phòng tập thể thao. Tiếng cái gì đó rơi xuống ngắt quãng cuộc nói chuyện. Yên lặng bao trùm quanh chúng tôi, đầy vẻ đáng sợ, kích động.



Khi còn trẻ con, chúng tôi ai cũng đã chơi trò đánh trận giả. Chúng tôi dựa theo những bộ phim hay những cuốn truyện tranh, bắt chước nhân vật trong đó. Bọn con trai thì điều khiển kiếm gỗ và lấy lá thuỳ liễu kết thành vòng đội lên đầu. Bọn con gái thì cuốn khăn quanh đầu giả làm y tá. Để tập luyện, chúng tôi chạy vào rừng, nhảy xuống hố, trèo lên mái nhà. Đôi khi, chúng tôi chuẩn bị tinh thần đối đầu với tra tấn. Chúng tôi tự tạo ra những công cụ khiếp đảm, chơi trò đao phủ và tử vì đạo. Mỗi tuần một lần, loa phóng thanh treo trên cây phát ra những hồi còi báo động rồi một giọng nói chói tai nhắc nhở chúng tôi phải chạy trốn dưới hầm. Đối với người lớn, đó là những hoạt động đóng giả và luyện tập, còn đối với trẻ con, đó thực sự là cuộc phản công của Quốc dân đảng. Chen chúc nhau trong những hang động tối tăm và ẩm ướt, chúng tôi run lên vì kích động Phía trên kia... kẻ thù ở khắp nơi. Chúng lùng sục, thả bom xuống chúng tôi.



Chúng tôi bước vào hoạt động kháng chiến.



Bên ngoài phòng tập thể dục là cả một sự hỗn loạn. Sau hàng loạt tiếng chuông, chúng tôi nghe thấy tiếng bước chân thình thịch, tiếng người cười nói huyên náo, tiếng xe đạp lăn bánh. Trời còn sáng, nhưng những thanh chắn song đằng sau khung cửa sổ đen đi vì khói và bụi làm cho căn phòng tối hẳn lại. Phòng tập thể dục, rộng mà vẫn ngột ngạt, giống như một hang thú.



Thế là chiến tranh đã xảy ra!



Tiếng người nói phá tan yên lặng “Chúng ta hãy cùng thề đi! Tôi thề sẽ bảo vệ Đảng Cộng sản Trung Quốc và người lãnh đạo cách mạng vĩ đại, Chủ tịch Mao, cho đến chết”.



Bị cuốn theo không khí kịch tính, tôi cũng thề như tất cả mọi

người:

“Tôi xin thề sẽ bảo vệ Đảng Cộng sản Trung Quốc và người lãnh đạo cách mạng vĩ đại, Chủ tịch Mao, cho đến chết”.

Sau lễ tuyên thệ, không khí dịu xuống, người ta bắt đầu vạch kế hoạch hoạt động tương lai.

“Đồng chí có sẵn sàng ủng hộ chúng tôi không?”. Đột nhiên người ta quay sang hỏi tôi Tôi đã chờ đợi điều này. Sau giây phút giữ im lặng một cách có tính toán, tôi nghiêng đầu chấp thuận. Người thanh niên cầm đầu nhóm tuyên bố: “Chúng tôi bổ nhiệm đồng chí làm phó chỉ huy Uỷ ban Cách mạng”.

Sau loạt vỗ tay ngắn gọn, anh ta trải cuộn giấy dưới đất.

“Đây là tờ báo đầu tiên của trường trung học chúng ta. Sáng ngày mai ta sẽ dán lên bảng giữa trường. Đồng chí Vân, nhiệm vụ của đồng chí là xuất bản tờ báo này và đồng chí sẽ là chủ biên; ngày mai đồng chí cho phát hành vào giờ đầu buối sáng, sau khi trích đọc các châm ngôn của Chủ tịch Mao”.



Tôi lướt mắt nhanh những chữ in đậm trên tờ báo viết bằng mực đỏ. Khải Dung, hiệu trưởng trường, bị tố cáo là kẻ cầm đầu những người theo chủ nghĩa xét lại. Người đàn ông gần năm mươi tuổi, cựu chiến sĩ Hồng Quân, đối với tôi đã từng là cả một chuyện bí ẩn. Tôi gặp ổng trong những cuộc họp với lãnh đạo nhà trường khi họ tổ chức tiếp đại biểu học sinh. Mắt lim dim, ông tỏ ra thích thú với việc lăn lăn điếu thuốc lá đang hút giữa những ngón tay nhuốm vàng, ông cứ đế cho chúng tôi nói rồi đáp lại những điều khiếu nại của chúng tôi chỉ bằng một cái gật đầu Với sự im lặng của những người lãnh đạo, các dự án cải tổ của chúng tôi không bao giờ được tiến hành trọn vẹn mà thường xuyên phải bỏ giữa chừng. Kể từ khi tôi nhận thấy ông viết sai lỗi chính tả, tôi bắt đầu nghi ngờ ông có được vị trí của mình là đã tham gia cuộc Trường Chinh, vẻ bí ấn của ông che giấu sự rỗng tuếch và sự thiếu năng lực.



Sáng hôm sau, chúng tôi thả một quả “bom” khổng lồ lên bộ tham mưu, đài phát thanh của chúng tôi kể chi tiết các tội danh của người đã từng lãnh đạo trường trung học của mình từ mười lăm năm nay. Khi đọc xong, tôi được coi như một nhân vật anh hùng vào thời kỳ cổ đại đã làm rung chuyển cả núi non.



Những Hồng Vệ binh do uỷ ban chúng tôi bầu ra đã phá cửa phòng làm việc của ông hiệu trưởng. Họ bắt ông, đạp đố đồ đạc bên trong, quang tài liệu trong phòng lung tung khắp nơi rồi giam vị hiệu trưởng có tư tưởng xét lại này trong phòng tập thể dục.



Cuộc hỏi cung kéo dài. Kẻ thù khăng khăng không chịu nhận tội làm hư hỏng đầu óc thanh niên, cản trở tinh thần cách mạng của họ. Để thanh minh, ông ta luôn mồm nhắc đi nhắc lại rằng ông ta là người lính

đấu tranh vì tư tưởng Mao, vì lợi ích của nhân dân. Những lời cầu nguyện lải nhải của ông làm chúng tôi bực mình. Chỉ khi nhận được những cú đá thật mạnh ông ta mới câm miệng.



Ngày hôm sau, ba bốn chục tờ nhật báo được dán khắp nơi trước tiền sảnh của các giảng đường. Trong đó, nhiều người phản cách mạng khác cũng bị tố cáo: cô giáo dạy chính trị hành hạ chúng tôi bấy lâu bằng những mánh khoé làm cho đội ngũ giáo viên ghét bỏ học sinh; nữ thư ký của hiệu trưởng bị nghi ngờ tằng tịu với hiệu trưởng .Cần phải có thêm những cuộc bắt bớ cần phải tuyển thêm nhân viên.



Tôi khuấy trời đảo đất để có một bộ đồ đồng phục quân đội, rồi tôi đổi cuốn s

ách đỏ quý giá lấy một chiếc thắt lưng to bản dùng trong những năm năm mươi của Quân Chí nguyện sang giúp Triều Tiên. Cánh tay tôi đeo băng thêu mấy chữ vàng “Hồng Vệ binh” và trên ngực là tấm huy hiệu dập nối chân dung Chủ tịch Mao trên nền đỏ son.



Đại hội đấu tố đầu tiên diễn ra trên bãi đất thể thao, tại đó người ta dựng lên một khán đài. Tôi đã dùng hết sạch nguồn dự trữ vải đỏ của trường để trang trí. Ở cuối khán đài, trên nền rèm đỏ son, treo tấm ảnh chân dung chủ tịch yêu quý của chúng tôi Những kẻ xét lại và đồng đảng sẽ được xét xử và phê phán dưới ánh mắt của Người.



Theo mốt mới nhất, bọn chúng sẽ phải đội mũ nhọn dài hai mét, làm bằng giấy, trên đó viết tất cả các tội danh bằng mực đen. Một tấm bìa nặng ba kilô sẽ được treo trên cổ chúng, run rẩy đung đưa họ tên kẻ bị xử tội viết dưới một dấu thập đen. Chỉ có mỗi cô thư ký của ông hiệu trưởng cũ, thay vì đeo chuỗi hạt trang sức thì lại phải đeo cái rổ thủng, dấu hiệu của sự suy đồi. Người ta bắt chúng cúi gầm đầu xuống, thế rồi từng học sinh lần lượt lên sân khấu liệt kê tội ác, tố cáo sự phá hoại của chúng rồi nhổ nước bọt lên đầu chúng. Sau mỗi bài diễn văn, đám người tham gia lại hét thật to “Chủ tịch Mao Trạch Đông muôn năm!”, “Cách mạng văn hoá muôn năm!”. Đại hội kết thúc trong những ca khúc cách mạng sôi nổi và những lời tuyên thệ long trọng thề trung thành với Mao Chủ tịch.



Một buổi sáng, xuất hiện trên tường trường học đầy những tờ báo chỉ điểm chúng tôi là kẻ phản bội Cách mạng văn hoá thật. Ngày hôm sau, chúng tôi phản công lại bằng cách dán chồng lên loạt áp-phích vu khống đó những tờ báo của chúng tôi.



Ngày 1 tháng Mười, Uỷ ban đối lập có tên là Hồng Thạch đã vây kín khu thể dục, biến nó thành trụ sở bộ tham mưu của uỷ ban này đồng thời giam giữ tù nhân của chúng tôi cùng với hai người đồng chí của chúng tôi. Buổi tối, họ tổ chức kết án ngay tại đó. Các đồng chí của chúng tôi bị hạ nhục, tra tấn cùng lúc với các giáo sư phản cách mạng.



Ngày mùng 2 tháng Mười, nhóm Hồng Thạch tấn công đài phát thanh. Từ trên đầu cầu thang, tôi nhận ra một số cựu thành viên đoàn đại biểu học sinh trong số các học sinh đang giơ cao gậy gộc, vợt cầu lông và dây thắt lung. Chúng tôi tự vệ bằng những gì có sẵn trong tay. Có một kẻ trong đám đông xông lên mở lối, trèo lên cầu thang. Hai Hồng Vệ binh của chúng tôi xông vào hòng cướp vũ khí của anh ta thì bị anh ta dùng dây thắt lưng quật ngã. Anh ta tiến được đến lối vào phòng ghi âm và đối mặt với tôi. Chúng tôi nhìn nhau chòng chọc.



Anh ta chính là người đại diện môn thể thao của trường, là trưởng nhóm bơi lội mà tôi là thành viên. Trong số tất cả các trận đấu, thì môn bơi là môn thể thao thanh lịch nhất, tình hữu nghị giữa các vận động viên bơi lội trong nhóm rất trong sáng và minh bạch, tựa như làn nước xanh biếc mà chúng tôi vẫn quăng mình xuống ngụp lặn.



Tôi muốn thuyết phục anh ấy tham gia vào phe nhóm của chúng tôi. Nhưng, cứ như tự dưng bị phát điên, anh dùng dây thắt lưng giáng thẳng xuống đầu tôi. Tôi loạng choạng, tai ù đặc. Điên dại lên, anh ta tiếp tục đập tôi. Choàng tỉnh sau cơn choáng váng đầu tiên, tôi hiểu ra rằng nếu không tự vệ thì sẽ bị anh ta giết chết. Tôi nhặt chai bia to lăn lóc dưới đất, đập vỡ tan rồi chọc thắng vào bụng anh ta. Anh ta co quắp, nhìn tôi bằng ánh mắt vằn những tia máu Tôi kinh hãi, vận hết sức xoáy cái chai. Một thứ chất lỏng nóng hổi len lỏi chảy vào mấy ngón tay, xuống cánh tay rồi đọng thành dòng suối máu dưới cánh tay tôi. Tôi thả chai bia ra, cả thân người cao to của anh ta lảo đảo. tôi tóm lấy cổ và với một sức mạnh không ngờ, kéo lê anh ta đến tận đầu cầu thang. Tôi hét lên chiến thắng, và phô bày chiến công đẫm máu của mình. Mọi ánh mất đố dồn về phía tôi.



Từ cổ họng tôi bỗng phát ra một tiếng cười điên loạn, tôi giơ chân đá thẳng vào đít người đại diện môn thể thao. Anh ta trượt xuống rồi lăn lông lốc theo bậc cầu thang.



Lợi dụng sự hoảng loạn của quân địch, chúng tôi dồn rồi vây chúng vào khu thể dục.



Đội tiếp viện đến liền tối hôm đó, chỉ huy trưởng của. Ủy ban cách mạng của trường trung học bên cạnh là người bạn thân thiết của tôi từ hồi mẫu giáo, cử những Hồng Vệ binh hung dữ nhất tới. Chúng tôi phá cửa. Sau ba tiếng đánh giáp lá cà, các thành viên Hồng Thạch bị bắt gọn.



Không thèm tra tấn chúng, chúng tôi thả cho chúng tự do để tỏ lòng khoan hồng, giữ lại những kẻ tha thiết muốn đi theo chúng tôi, và từ đây trường trung học cấm cửa những kẻ nào có lập trường khác với chúng tôi.



Ngày mùng 5 tháng Mười, chúng tôi tái lập Uỷ ban cách mạng của trường. Tôi được nhất loạt bầu làm chỉ huy trưởng.



Ngày mùng 6 tháng Mười, cuối buổi chiều, tôi vẫn giữ chiếc khăn băng trên đầu rồi đội thêm mũ lính để che cái sẹo. Tôi cởi bỏ chiếc áo vét vẫn còn vết máu dù đã được giặt kỹ, mặc áo sơ mi đi mượn được. Tôi kiên quyết không cho lính bảo vệ đi kèm. Nhét dao găm vào túi, tôi đạp xe về nhà.



Bỏ lại phía sau tiếng ì èo, ra khỏi mấy bức tường của trường trung học, tôi ngạc nhiên thấy tất cả mọi người chẳng có gì thay đối. Yên tĩnh bao trùm cả thành phố như đang thiếp đi trong giấc ngủ.



Hai con la mệt mỏi chậm chạp kéo lê một cái cây. Làn gió nhẹ vờn những chiếc lá bạch dương xào xạc ở hai bên lề đường dải nhựa. Mùa hè vẫn còn đó với cái nóng nhẹ nhàng.



Vừa đạp xe, tôi vừa quan sát thành phố với sự háo hức của một kẻ vừa mới lại thoát khỏi chốn Địa Ngục. Nhưng dần dần, niềm vui thú được thấy ông mặt trời rực rỡ và bầu trời lúc nào cũng trong xanh biến mất. Một ý nghĩ lạ lùng bao bọc lấy tôi làm tôi hoảng hốt: nếu tất cả những điều mà tôi làm từ tháng Chín đến nay là vô ích thì sao? Liệu tôi có đánh nhau trong một cơn mê và vì một cơn mê hay không? Bởi vì cuộc đời vẫn hờ hững trôi



Nắng muộn buổi chiều trải khắp dãy nhà tôi ở làm lớp than vụn mỏng chồng chất hàng năm nay trước cánh cổng chính phản chiếu lấp lánh. Gia đình tôi sống ở tầng lầu thứ hai, đầu cùng hành lang dài không cửa sổ được soi sáng bằng hàng bóng điện vàng. Dãy nhà tôi ở gồm giáo sư, bác sĩ, kỹ sư đủ tiêu chuẩn được nhà nước cấp nhà cũng như phần lớn hàng xóm, ngay từ khi ra trường, cha mẹ tôi đã ghi tên vào danh sách chờ. Cứ hai tháng một lần, mẹ tôi lại đến trình diện tại phòng uỷ ban chính trị của bệnh viện Bắc Kinh, nơi cha và mẹ tôi làm bác sĩ phẫu thuật. Người ta trả lời mẹ tôi rằng một khu chung cư đã được xây xong, nhưng đầu tiên phải dành chỗ cho các cán bộ cao cấp. Lần khác, người ta lại nói phải tôn trọng và ưu tiên cho người nhà nạn nhân chiến tranh. Lại lần khác nữa, cha mẹ tôi phải nhường nhà cho một đôi vợ chồng già hưu trí, bởi vì với tư cách là những người cộng sản chân chính, cha mẹ tôi biết hy sinh hạnh phúc riêng. Mười tám năm sống với niềm hy vọng sẽ chuyến chỗ ở vào ngày mai, chúng tôi phải hài lòng với hai căn phòng bé tí, không có bếp cũng không có nhà tắm. Chúng tôi phải đi vệ sinh chung với hàng xóm cùng tầng.



Trong hành lang chất chồng hàng đống đủ thứ lộn xộn nào than, nào lốp xe đạp, nào chậu, rồi cả xe đấy chở đồ nữa Trên bức tường rạn nứt, người ta treo lủng lẳng hành, tỏi, hạt tiêu, túi bột giặt và các công cụ làm bếp.



Có ai đó đang nhóm lửa và lăng xăng bên cạnh bếp lò. Đó là cô hàng xóm đang chuấn bị nấu bữa ăn tối cho chồng đang có phiên trực đêm ở bệnh viện, là đồng nghiệp của cha mẹ tôi. Cô quẳng rau vào chảo to, rau lèo xèo trong dầu nóng. Lợi dụng lúc âm thanh hỗn loạn, tôi lách ra phía sau lưng cô mà đi nhưng vẫn bị gọi giật lại.

“Vân, mày đây rồi, cô kêu to, mấy ngày rồi không về nhà. Mày đi đâu thế?

Trong khu nhà chật chội như tổ kiến thế này, chẳng ai có gì bí mật được với ai. Tức tối, nhưng tôi cố rặn cười. Tôi không muốn chọc tức vợ đồng nghiệp của cha mẹ tôi.

“Cháu ốm.. ” Tôi ấp úng vài từ ngọng nghịu, khó hiểu.

Cô hối hả đảo rau trong chảo nên không kịp nhìn mặt tôi và tin lời nói dối của tôi.

“Ổm à? Khổ thân cháu! Thế thì mày ngủ ở đâu? Thế nào? Ở trường học á? Phải cho bọn tao biết tin tức với chứ. Bọn tao có thể đi xe cứu thương đến đón mày. Mày xanh lắm cháu ạ Thôi đi nghỉ nhanh đi. Chốc nữa tao qua thăm”.



Tôi vội vàng rảo bước.



Tôi mở cửa và định nhảy lên giường thì thấy cha tôi.



Tôi với cha tôi có một mối quan hệ đặc biệt Cha nuôi tôi bằng sự dịu dàng nghiêm khắc. Cha đối xử với tôi bình đẳng, chịu bỏ thời gian để nghe tôi.



Cha nêu gương sáng về sự khéo léo. Trước giải phóng, học tại khoa Y cũ của trường đại học Bắc Kinh, cha từng tuyên thệ trước Đảng Cộng sản và làm việc trong các tổ chức bí mật. Khi nước Trung Hoa mới ra đời, Nhà nước cử cha sang Matxcơva để bổ túc kiến thức với các bác sĩ tăm tiếng của Liên Xô. Một bệnh viện ở Matxcơva mời cha tôi ở lại làm việc với các cơ hội rất hấp dẫn. Nhưng cha tôi từ chối để trở về Bắc Kinh.



Cha tôi là nhà phẫu thuật có tên tuổi, say mê nghề nghiệp, nghiêm khắc với bản thân nhưng rất rộng lượng với người khác. Tuy nhiên, không rõ vì lý do gì, nhưng từ một năm nay, tồi phải chịu đựng các khiếm khuyết của thần tượng của mình, tôi thấy cha quá tốt, quá cứng nhắc. Sự thương cảm của cha gần giống sự ngây thơ làm tôi tức tối. Tôi muốn được nghe cha phàn nàn. Vô ích. Cha hài lòng với chút ích lợi cỏn con người ta cho và nhiệt tình thực hiện hết lòng các nhiệm vụ mệt nhọc được giao.



Cha tôi không biết nghĩa của hai từ chơi và giải trí. Trong suốt mười bảy năm, cha không bao giờ làm cho tôi được một cánh diều hay một lần mang tôi đi chơi vườn bách thú. Khi cha rủ tôi theo cha đi dạo buổi tối, cha bắt đầu trò chuyện với tôi, không phải để cho vui đâu mà là để hướng tôi thành người đàn ông đường hoàng, có đạo đức



Cha bắt tôi ngồi trên giường, đối diện với cha, nói với tôi về việc thi tuyển vào Đại học được tổ chức vào tháng Sáu tới, rồi hỏi tôi định làm gì.



Cha nói với tôi: “Dù có tham gia làm Cách mạng văn hoá thì cũng không được quên việc học hành. Theo ý con, ai sẽ là những người xây dựng nước Trung Hoa xã hội chủ nghĩa trong mười năm, hai mươi năm tới khi mà thế hệ của cha mẹ đã già hết cả? Thanh niên ngày hôm nay sẽ là trụ cột của ngày mai. Đừng quên nhiệm vụ của con. Không có kiến thức vững vàng, con sẽ không thế góp viên đá của con đi xây dựng công cuộc hiện đại hoá xã hội Trung Hoa”.



Tôi cúi đầu Trong thâm tâm, tôi đồng ý với ông. Nhưng chính sự khôn ngoan của cha mẹ làm tôi căng thẳng bởi vì lúc nào nó cũng có lý, cho nên tôi muốn kháng cự lại quyền năng vững chắc của cha tôi.

Thế là tôi nói: “Nhưng thưa cha, cha đã quên mất đấu tranh giai cấp! Quên cả mối hiểm nguy đang đè lên chế độ xã hội! Nếu chúng ta không thanh toán hết bọn phản cách mạng, đất nước sẽ không bao giờ có được hoà bình, và chúng ta sẽ chẳng bao giờ xây dựng được cái gì cả. Cha hãy hiểu tình hình khẩn cấp đó!”

Cha nhìn tôi, ngạc nhiên.

“Đấu tranh giai cấp, tất nhiên là không được quên. Nhưng con, con còn quá trẻ để biết cách phân biệt bạn thù. Con không hiểu gì về những được thua chính trị. Con hãy tập trung vào chuyện học hành thì hơn”.

Tôi phẫn nộ phản công lại: “Thái độ bi quan của cha rất là nguy hiểm! Mao Chủ tịch của chúng ta đã viết thư cho Hồng Vệ binh trường trung học thuộc đại học Thanh Hoa đế động viên họ chiến đấu chống lại sự uế tạp. Hôm nay, các buổi học đều ngừng. Ai cũng đều tham gia cách mạng văn hoá Trí thức rất quan trọng nhưng chỉ có Cách mạng mới là đáng kể”.

Bất chợt giọng nói khác ngắt lời tôi: “Mày tưởng thay đổi được thế giới, nhưng mà mày đi đấu tranh với bạn học cùng lớp! Đấy mà là Cách mạng văn hoá à?”



Mẹ tôi bước từ phòng bên cạnh, run lên vì giận dữ.

Cảm thấy bị mắc bẫy của cha mẹ, tôi không nói thêm câu gì nữa.

Mẹ nói tiếp: “Tại sao con lại mặc áo người khác? Quần áo con đâu rồi? Có gì trên trán vậy? Có phải bị thương không đấy?”

“Không, không có gì đâu mẹ ạ” tôi nằm co quắp trên giường, lấy tay che đầu.



Là con gái của một bác sĩ danh tiếng, mẹ tôi theo chủ nghĩa cộng sản vì chán ghét xã hội Trung Quốc nửa phong kiến, nửa thực dân hồi đầu thế kỷ. Giống như phần lớn phụ nữ trong các gia đình trí thức được giải phóng bằng con đường học đại học, mẹ tôi là người đầy nhiệt huyết.



Mẹ chìa tay ra cho tôi. Nhưng tôi không động đậy. Mẹ tủi thân, rưng rưng nước mắt.



Từ một năm nay, mẹ luôn làm tôi phẫn nộ vì cứ đọc đi đọc lại các tiểu thuyết Nga rồi khóc lóc cho số phận của những nhân vật mà mẹ thích. Nước mắt của mẹ làm tôi khó chịu.



Thay vì tiến lại bên mẹ và xin mẹ tha thứ như trong thâm tâm tôi mong muốn thì tôi lại đờ người ra. Tức tối, tôi đấm tay xuống giường. Thế rồi tôi ngồi bật dậy, đi thẳng ra cửa

“Mày đi đâu đấy?” Cha gọi theo hỏi.

“Con đi đây!”

“Hãy ở lại nhà. Đừng làm chuyện ngu ngốc nữa, cha xin con đấy!”



Tôi quay đầu lại. Cha tôi đã đứng dậy khỏi ghế; mẹ đứng ngay cạnh bên cha. Đã hết ánh sáng ban ngày và màn đêm bao bọc cha mẹ trong chiếc áo khoác dày. Chết cứng trong cảnh tuyệt vọng giống như hai tảng đá đen.



Đi về phía họ có nghĩa là từ bỏ Cách mạng, quay lưng lại với họ, có nghĩa là huỷ diệt những người mà tôi yêu quý nhất trên thế giới này Tôi cảm thấy hận thù mãnh liệt đối với bản thân tôi, đối với cha mẹ là người đã sinh ra tôi, đối với số phận đã huỷ hoại sự hoà hợp giữa chúng tôi.



Tôi xoay nắm đấm, kéo cánh cửa và lao ra bên ngoài. Tôi đi nhanh theo hành lang, nơi hàng xóm đang nấu nướng. Khói, mùi vị sặc sụa, những mẩu lời nói như tát thẳng vào mặt tôi. Tôi vấp phải cái gì đó, không nhìn lại xem cái gì bị đổ, tôi bắt đầu chạy. Tôi chạy bốn bậc một xuống cầu thang, xô hai cánh cổng mở toang.



Đêm, cây cối, tự do.



Lúc tôi mở khoá xe đạp thì cửa sổ nhà tôi ở tầng hai cũng mở ra. Tôi nghe thấy tiếng gọi đầy lo lắng của mẹ. Lần này, tôi không quay đầu lại, tôi lau những giọt nước mắt đang lăn trên má, trèo lên xe đạp lao mình vào phố tối.



Nhiều tháng liền, tồi không về nhà Cha mẹ tôi đến thăm tôi ở trường trung học. Lần nào họ cũng bị lính gác giữ lại. Mẹ mang đến cho tôi một giỏ đựng quần áo sạch, trứng luộc, giấy viết thư. Mẹ muốn nhận được thư của tôi. Nhưng làm thế nào mà kể được cho mẹ nghe cuộc sống mới của tôi?



Tôi đi khắp các trường trung học để nhén ngọn lửa cách mạng. Tôi trao đổi ý kiến với các sinh viên. Tôi tham gia các cuộc biếu tình, các cuộc tranh luận do uỷ ban trung ương của Cách mạng văn hoá tố chức; tôi được phu nhân chủ tịch tiếp đón trong Điếu Ngư đài. Bà động viên chúng tôi và chuyển lời chào của Người cầm lái vĩ đại tới chúng tôi. Tôi đấu tranh chống lại những kẻ nhạo báng tư tưởng vĩ đại của chúng tôi. Làm thế nào cho mẹ tôi hiểu sự cần thiết và vẻ vang của tinh thần cách mạng mãnh liệt này?



Cùng với vài người bạn cùng lớp làm nhà truyền giáo tư tưởng Mao, chúng tôi đi dọc ngang khắp đất nước Trung Hoa bằng tàu hoả đế tìm kiếm những cuộc phiêu lưu lớn. Tình bạn kỳ diệu gắn kết những người Hồng Vệ binh. Đó là ngọn đuốc bùng lên từ sự nhạy cảm lại được các sự kiện mài giũa. Thêm vào đó, cái nóng bức làm cho ngọn đuốc đó lan truyền nhanh nhạy hơn, an ủi trái tim của những người lính lang thang.



Vào mùa xuân, cha mẹ tôi phải đi cải tạo tại trường mùng 7 tháng Năm. Mùa ấy lạnh thê thảm. Gió bấc từ Xibêri tràn qua các thảo nguyên Mông Cổ thổi ào ạt trên thành phố và vùi thành phố trong xoáy cát sa mạc. Tôi đã đến làm việc với tất cả các trường mùng 7 tháng Năm quanh Bắc Kinh trước khi gặp cha mẹ tôi. Phía bên kia hàng rào dây thép gai, cha mẹ tôi đang dùng cuốc xới đất. Tóc mẹ cắt ngắn, bù xù. Chiếc áo vét lót bông của mẹ như quá mỏng trong thời tiết xuân giá lạnh. Mẹ làm đất chăm chỉ như một cô gái nhỏ. Mẹ đứng dậy lau mồ hôi trên trán. Rồi mẹ nhìn thấy tôi và giơ hai tay về phía tôi Nhưng tôi quay lưng chạy đi.



Rồi mùa hè chợt đến. Ngày lại ngày, thành phố ngập tràn tiếng ve, nóng nực và đầy ánh nắng. Các phe phái cách mạng lao vào cuộc chiến đẫm máu với nhau. Trước tình hình đó, quân đội phải can thiệp và nắm quyền chỉ huy. Theo lệnh của thủ tướng, các trường học lại mở cửa, các buổi học lại được tiếp tục. Chỉ trừ những giáo sư đang chịu hình phạt trong trại, còn lại tất cả mọi người đều quay trở lại làm việc. Tôi dự thi và đỗ vào trường Đại học Bắc Kinh. Ở khoa, chúng tôi chẳng học hành gì cả. Tôi đi chơi, kết bạn, tham gia vào các cuộc tranh luận. Trung tâm cách mạng đã chuyến chỗ. Bắc Kinh hết năng lượng, hết sức tưởng tượng, tàn lụi đi.



Tôi quyết định gia nhập vào đội quân hàng triệu sinh viên đi về những vùng xa xôi hẻo lánh đế khai hoang. Tôi ghi tên ở Văn phòng phân bổ Hồng Vệ binh về nông thôn Trung Quốc, tôi huỷ thẻ cư trú của mình tại Bắc Kinh.



Tin này làm cha mẹ tôi sầu não vì không hiểu và sẽ không bao giờ hiểu tôi. Nhưng trường mùng 7 tháng Năm đã tước quyền cha mẹ của họ. Cha mẹ tôi không nói lời nào, để cho tôi ra đi.



Ngày mùng 1 tháng Mười hai, cuộc tập trung gồm mười nghìn người diễn ra ở sân vận động Bắc Kinh. Giữa sân cỏ, hàng nghìn sinh viên từ biệt thành phố chôn rau cắt rốn của mình. Người ta hoan hô chúng tôi; những cô bé gái má phấn, đeo nơ đỏ trên hai bím tóc, nhào đến với chúng tôi giống như những chú bồ câu non vui tươi. Các em buộc những bông hoa đỏ sẫm vào hàng khuy áo của chúng tôi.



Buổi chiều, chúng tôi ra đến nhà ga. Côn tàu chật như nêm, không thể len vào trong toa được, trong đó những Hồng Vệ binh chen chúc nhau như đàn gia súc. Tôi trèo lên vai một đồng đội, nhảy vào qua cửa sổ Các cô gái đã ngồi chật kín mấy chiếc ghế dài. Cách xuất hiện của tôi làm các cô có vẻ rất vui và tỏ ý muốn giúp đỡ. Tôi kéo tay đồng đội giúp họ trèo lên, còn các cô gái thì để cho họ lao qua đầu mình. Sau đó, các cô xếp va li làm hai trong số chúng tôi có thể ngồi được trên chỗ để hành lý.



Con tàu rùng mình lắc lư.



Tôi bị kẹp giữa một bức tường người và một cái lưng. Phía trên vai tôi, qua gương chiếu hậu, tôi nhìn thấy khung cảnh mùa thu đang lướt qua. Hát những bài ca cách mạng và ngâm thơ Mao chủ tịch làm chúng tôi mệt nhoài. Nhịp điệu đoàn tàu lắc lư đều đều ru tôi vào giấc ngủ nhẹ nhàng, đầy những hình ảnh lẫn lộn và những đoạn đối thoại không rõ ràng.



Bất chợt, tôi nghe thấy có người nói: “Cho tôi xin phép”.



Tôi mở một mắt ra, thấy một cô gái có khuôn mặt xanh xao bị kẹt trong góc tường. Kể từ khi chúng tôi đến, cô là người duy nhất không nói gì, không cười một tiếng nào.

“Cho tôi xin phép”, cô nói và cố gắng đứng lên. Nhưng, người này bị lèn chặt bởi người kia, chúng tôi gắn chặt với nhau như là vạn lý trường thành: không thế nào có được một chỗ trống đế cho cô gái đi ra!

Những định kiến xấu của tôi về con gái, những định kiến ngu xuẩn và trẻ con bỗng thức dậy. Mặc cho cô gái kêu xin, tôi cứ nhắm mắt lại.

“Cho tôi xin phép”, cô gái lại nằn nì.

Không ai nhúc nhích.

“Cho tôi xin phép”, cô gái cất cao giọng run rẩy, hình như sắp khóc đến nơi. “Cho tôi xin phép, tôi muốn đi nhà vệ sinh”.



Tôi nhận ra giọng nói dịu dàng và trong sáng như pha lê của người con gái đã đọc cả một bài diễn văn dài hôm đi biếu tình tôi mở mắt ra.



Hàng nước mắt lấp lánh trên má cô gái. Tôi đánh thức người đồng chí bên cạnh đang nằm cuộn tròn và đẩy mạnh anh ta một cái. Tôi đưa tay ra cho cô gái và kéo cô ra khỏi chỗ ngồi.



Chúng tôi phải mất gần một giờ đồng hồ mới đi đến được nhà vệ sinh ở đầu toa. Vô địch bơi lội trong cuộc thi thành phố, tôi bơi trong biển người, kéo theo cô gái như chiếc phao bơi. Khi cô bước ra khỏi nhà vệ sinh, đối mặt với đám đông lúc nhúc đen đặc, chúng tôi không còn đủ dũng khí mà quay trở về vị trí. Đứng tựa lưng vào cửa nhà vệ sinh, cứ thế chúng tôi ngủ thiếp đi.



Chiều hôm sau, chúng tôi đến thành phố Mỹ Lâm, đổ bộ xuống cái sân ga bỗng chốc trở nên quá bé nhỏ. Trên quảng trường, cây cối rất xanh. Trời mưa bụi. Mới đầu, chúng tôi vô cùng sung sướng vì thời tiết như vậy rất dịu, trái ngược hẳn với cái khô cằn ở Bắc Kinh. Nhưng ít phút sau, cái lạnh ấm ướt thấm vào người qua lần áo khoác ướt Sinh viên xếp hàng trước văn phòng đón tiếp. Nhóm chúng tôi phải đợi đến tận tối mới vào trình diện được. Hai Hồng Vệ binh đón tiếp ghi tên chúng tôi vào một tờ giấy rồi bảo chúng tôi đợi. Khi đếm đủ năm mươi tên trên danh sách thì họ cho chúng tôi lên hai chiếc xe tải, chở chúng tôi vào trung tâm thành phố. Tối hôm đó, chúng tôi ngủ trong Nhà hát nhân dân đã được biến thành nhà ngủ tập thể. Những chiếc nệm rơm được kê trong phòng thay quần áo, trên sân khấu, dọc theo hành lang. Khi chúng tôi đến, mấy người lính phát cho chúng tôi chăn mỏng.



Đêm trước trời mưa, nước mưa thấm qua chỗ nứt trên mái nhà, tạo thành từng vũng nước. Khi đi lại, giày của chúng tôi in trên nền thành những vết đen sì. Không khí lạnh đượm mùi khói thuốc lá, mùi bùn đất, mùi nước tiểu và ẩm mốc tôi run lập cập trên chỗ nằm, không tài nào chợp mắt được. Tôi cố gắng vô ích xoa dịu những suy nghĩ cứ điên đảo trong đầu như một con ngựa bị tuột dây cương. Tôi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến phòng riêng của tôi, nghĩ đến phòng bếp ấm cúng của mẹ tôi. Tôi vô cùng ngạc nhiên phát hiện ra là tôi nhớ cha mẹ mình da diết .Tôi nhớ đến cô gái mà tôi vô cùng ngưỡng mộ tài hùng biện trong đám người biểu tình cách đây hơn một năm và giờ đây tôi gặp lại cô trên chuyến tàu này. Cô nói cô là sinh viên văn học cổ điển ở trường Đại học Nhân dân và tên cô là Liễu.

“Liễu à? Tôi vừa cười vừa nói. Tên này có trong một bài thơ của Vương Duy(8):



Kệ Thành triêu vũ ấp khinh trần,

Khách xả thanh thanh liễu sắc tân,

Khuyến quân cảnh tận nhất bôi tửi,

Tây xuất Dương Quan vỏ cố nhân.(9)



Cô gật đầu, đôi gò má ửng đỏ.

Tôi lại trêu chọc: “Nhưng, bạn Liễu này, tên bạn mang dấu ấn của thời kỳ phong kiến đấy. Tại sao bạn lại không thay nó đi?”



Cô cúi đầu nói với tôi: “Đúng vậy, em muốn đổi tên đấy chứ. Em thích tên là Bạch Dương. Nhưng sửa đổi giấy tờ tuỳ thân rất phức tạp. Thế rồi em lại muốn đi về nông thôn nên không có thời gian đế làm các thủ tục cần thiết”.



Nhìn cô gái vừa sầu não vừa xấu hổ, tôi an ủi: “Cũng chả sao. Tên Liễu độc đáo hơn”.



Mắt tôi vẫn nhìn lên mái vòm nhà hát nhưng tôi không thể không mỉm cười cho được, sự ngây thơ của cô nữ sinh này làm tôi bối rối. Đáng tiếc là tôi đã lạc mất cô trong đám đông lúc xuống tàu.



Ngày hôm sau, chúng tôi thức giấc vì tiêng kèn hiệu. Những người lính đến lôi chúng tôi ra khỏi giường và suốt ngày hôm đó huấn luyện chúng tôi trên quảng trường nhà hát. Chúng tôi học cách đứng nghiêm, nghỉ, quay phải, quay trái và bước đều. Buổi tối, lại có thêm một nhóm Hồng Vệ binh nữa từ nhà ga tới. Tôi lợi dụng lúc hỗn độn chuồn vào thành phố dạo chơi. Những con phố chìm trong màn đêm. Đôi khi, ánh sáng rọi xuống từ cửa sổ trên tầng cao hoặc bóng đèn treo trên mái che bắt ánh sáng yếu ớt xuống ngọn cây, vỉa hè, rọi vào tấm biển báo, bức tường đổ, rọi lên mặt tiền của nhà nào đó lỗ chỗ vết đạn, lên cả bùng binh mọc đầy cỏ dại. Các đại lộ thì hẹp còn tượng Mao chủ tịch thì chẳng có vẻ gì oai vệ. Tôi thấy mọi thứ đều buồn bã đậm tính tỉnh lẻ. ít khi gặp người dạo chơi nhưng lại luôn luôn gặp các ụ chướng ngại vật, dây thép gai, những hố đào để trú ẩn. Một tốp Hồng Vệ binh có vũ khí tuần tiễu trước lối vào của một nhà máy bắt tôi dừng lại. Họ khám xét tôi rất kỹ càng và vặn hỏi đủ điều. Khi biết tôi từ Bắc Kinh đến và đã tham gia và có tham gia cuộc tuần hành ngày 8 tháng Tám thì họ mới hết ngờ vực. Họ chuyến sang hỏi tôi về sức khoẻ của Mao Chủ tịch.



Lúc đó đúng vào giờ ăn tối. Họ mời tôi ăn bánh có nhân. Họ nói, ngay từ khi bắt đầu Cách mạng văn hoá, thành phố này có hai phe phái. Phe họ mang tên Phương Đông Đỏ còn phe đối lập lấy tên là Thái Dương Đỏ Người thuộc phe Thái Dương Đỏ tấn công toà thị chính, là nơi được Phương Đông Đỏ bảo vệ. Nhưng những kẻ ăn không ngồi rồi, quân trộm cướp, giết người là những kẻ thuộc phe Thái Dương Đỏ, chúng chế tạo những chai xăng làm vũ khí tấn công, ăn trộm dùi cui, sủ dụng súng chì.



Quản khách xanh, sẳc liễu mới mẻ



Mời bạn uống cạn thêm một chén rượu nữa,



Vì đi ra Dương Quan phía tây, bạn sẽ không còn cổ nhân.



VỊ Thành: tên đất, thành cũ, nay ở phía đông huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây (N.D)

Dương Quan: tên một cừa quan cũ, nay ở phía tây nam huyện Đông Hoàng, tỉnh Cam Túc (N.D)

và dao phay để vây hãm toà thị chính và khu vực của những người thuộc phe Phương Đông Đỏ. Hai bên dùng bạo lực chọi bạo lực. Hai phe phái đều có nhà máy sản xuất vũ khí, chiếm bệnh viện, trường học, nhà máy. Bên nào cũng đều tuyên thệ sẽ bảo vệ lãnh thổ cách mạng của họ đến hơi thở cuối cùng.

“Ở Bắc Kinh, quân đội đã kiểm soát tình hình, tôi nói nhỏ, Mao Chủ tịch..”

“Mao Chủ tịch bị người ta tư vấn sai. Thủ tướng Chu Ân Lai là kẻ cầm đầu bọn xét lại của cả nước. Chính hắn là kẻ phản bội cách mạng, phản bội tư tưởng Mao. Ớ đây, chúng tôi chống cự lại quân đội. Chúng tôi chỉ quy phục khi nào tiêu diệt xong phe Thái Dương Đỏ”.



Một thành niên còn nói thêm: “Đồng chí biết không, hai trăm người của chúng tôi đã hy sinh. Món nợ này phải trả bằng máu”.



Anh ta khuyên tôi không nên đi ra ngoài đường vào ban đêm nữa và đề nghị đưa tôi về đến tận nhà hát. Anh dẫn tôi trở về nhà theo những con phố nhỏ, tránh các đại lộ và các đường phố lớn. Thế rồi anh ấy dừng lại, nói với tôi:

“Tới chỗ tiếp theo cậu rẽ phải thì sẽ gặp đại lộ nhà hát. Còn tôi không đi xa thêm nữa”.



Tôi siết chặt tay đồng chí ấy để cảm ơn.

Thay vì bỏ đi, người thanh niên ấy cứ đứng im không nhúc nhích, rồi nói với tôi bằng giọng do dự: “Tôi có thế hỏi đồng chí một điều được không?”



Không đợi tôi trả lời, người thanh niên này nói tiếp: “Lúc nào tôi cũng mơ ước đi Bắc Kinh, được gặp Mao Chủ tịch. Nhưng tôi sắp chết đến nơi rồi, ước mơ của tôi sẽ không bao giờ trở thành hiện thực. Đây là chiếc phù hiệu tôi đeo từ khi mười một tuổi. Đồng chí làm ơn, khi nào trở về Bắc Kinh diễu hành trước Thiên An Môn, hãy đeo nó lên áo của đồng chí. Dù tôi có chết đi rồi thì Mao Chủ tịch cũng đón tiếp tôi và người sẽ biết rằng tôi không bao giờ phản bội người!”



Sau khi luồn vào tay tôi một vật tháo từ chiếc áo khoác ngoài, anh ấy quay đi rồi biến mất trong bóng tối.

Ở lối vào của nhà hát, nơi có ánh sáng đèn, tôi quan sát vật được người thanh niên đó đưa cho. Đó là một chiếc huy hiệu nhỏ hình chữ nhật. Tên trường trung học, ngôi sao đỏ sáng lấp lánh trên nền bạc trắng.



Ngày hôm sau, luyện tập lại tiếp tục Thỉnh thoảng, từ xa vọng lại tiếng súng máy và những giọng nói không nghe rõ nói gì. Một tối, chúng tôi tập trung trong phòng diễn kịch. Chính trị viên leo lên một chiếc ghế. Ông chia bừa một trăm Hồng Vệ binh thành năm đơn vị, mỗi đơn vị hai mươi người trong đó có hai đơn vị nữ, chỉ định năm người lính đã huấn luyện chúng tôi là thủ trưởng các đơn vị. Ông đề nghị chúng tôi tạm thời bầu các phó đơn vị và một chỉ huy đại đội. Tập họp lại một cách ngẫu nhiên, ngoại trừ vài người bạn cùng xuất phát với chúng tôi từ Bắc Kinh, còn lại những Hồng Vệ binh đó chẳng quen biết gì nhau. Chúng tôi làm ra vẻ thống nhất chọn ra những người lớn tuối nhất bầu làm chỉ huy trong một thời gian ngắn.



Ba ngày sau, ba chiếc xe tải quân đội đến tìm chúng tôi. Sau nửa ngày đường, ba chiếc xe này đỗ lại cho chúng tôi xuống trước cổng một ngôi làng. Ngay khi ba xe tải này vừa đi khỏi thì một chiếc xe khác tới. Một người chỉ huy cùng ba mươi lính nữ mặc toàn màu xanh nhảy xuống khỏi xe. Chúng tôi hoan hô nhiệt liệt vì sự tiếp ứng này. Trong số những người mới đến, tôi nhận thấy có Liễu.



Nằm dưới chân núi bao bọc bởi cánh rừng tre, ngôi làng thực ra chỉ là một ấp nhỏ gồm mười hai gia đình cày cấy khoảng một chục mẫu lúa. Để khỏi làm phiền họ, chúng tôi bắt chước Hồng quân trong cuộc Trường Chinh, ngủ dưới mái hiên nhà họ, dưới bầu trời đầy sao. Tuy nhiên, ngay hôm sau, chúng tôi đã bắt chước họ dựng lều để ở.



Người làng dạy chúng tôi làm đất nhuyễn trộn với lá cây, dạy chúng tôi xây cất nơi ở theo kiểu nguyên thuỷ nhất và lớp mái bằng cành tre. Chỗ đất nhuyễn trộn lá cây còn thừa, chúng tôi dùng đế xây giường ngủ. Quân đội cho chúng tôi mượn rơm tết đế nằm thay cho đệm.



Cuộc sống ổn định dần. Vài ngày sau, một cái bếp gồm năm lò nấu xuất hiện, dùng để đun nấu những thức ăn thô nhất. Chúng tôi tính sẽ có thể tự túc trong vòng một năm. Trong khi chờ đợi, chúng tôi ăn gạo cho chính phủ cấp



Chúng tôi ăn mừng năm mới 1969 đầy xúc động Không có rượu, không có thịt, không có nến, chúng tôi nhóm nhiều ngọn lửa trại phía trước lều. Một sinh viên mang đàn phong cầm đến, chúng tồi cùng hát Ngọn lửa bùng lên, cái nóng làm cho lòng chúng tôi thấy nhớ nhung và hy vọng. Tôi nhớ lại những lần dạo chơi trong đống đổ nát của cung điện Mùa Xuân, một thời kỳ dài lạc lối và tự tìm chính bản thân mình. Tôi nhận thấy rằng nỗi buồn thiểu não đã rời hẳn khỏi tôi kể từ khi tôi rời Bắc Kinh. Ở làng quê, tôi lại tìm thấy tôi đúng lúc tôi không tìm kiếm mình nữa.



Ngày mùng 1 tháng Một, chúng tôi đưa ra tối hậu thư cho Tạo hoá Tạo hoá phải đế cho chúng tôi làm việc đế biến mảnh đất sườn núi đầy nắng thành một thảm lúa. Sau khi phát quang một miếng đất rộng làm rào cản lửa, chúng tôi đốt rừng tre, đốt dần từng khoanh một.



Khi chúng tôi mới đến, đỉnh núi còn chìm trong sương mù. Sau trận mưa, núi non gây cho chúng tôi ấn tượng sâu sắc vì màu tối thẫm của nó. Khi chúng tôi còn ngủ ngoài trời dưới ngàn sao, còn quen với âm thanh của thành phố, tiếng tre nứa rì rào, hoà âm của những tiếng đục, tiếng trầm, tiếng trong, tiếng cao, tiếng thanh cao và tiếng hoang dại làm chúng tôi không tài nào ngủ được. Xen với những âm thanh đó là những phút lặng, làm chúng tôi còn nghe rõ hơn nữa tiếng gió xô đập trở lại. Những tiếng thầm thì, rất khó nhận ra, giống như những tiếng rì rào của nước suối chảy, cất cao dần lên theo bước đi của gió xuyên qua cánh rừng. Chúng lớn dần đến khi biến thành tiếng ầm ào của một đàn hàng trăm con ngựa, rồi hai trăm, ba trăm con. Bỗng nhiên, có tiếng gầm gừ của đất, tiếng thác nước ào ạt đổ, tiếng ầm ào của những ngọn sóng va vào những mỏm đá nổi.



Bãi đốt rừng kéo dài nhiêu ngày. Vì chúng tôi nghe theo dự báo thời tiết, trong những ngày này gió rất nhẹ nên cột khói đen bay thẳng đứng lên trời. Từ làng, người ta có thể thấy lửa cháy, giống như con quỷ đang gầm gừ, nhảy nhót, xuống tấn rồi phi nước đại.

Trong trại, chúng tôi không trò chuyện gì với nhau. Đôi khi, có tiếng cười căng thẳng bật lên.. Uy lực của ngọn lửa ám ảnh chúng tôi. Một vài nữ nông dân muốn đến miếu nhỏ nằm đầu bên kia làng để đốt hương cầu trời khấn phật. Chúng tôi giữ họ lại, giải thích cho họ rằng niềm tin đó là mê tín kiểu phong kiến trước kia, dân chúng không có ánh sáng khoa học, ông Trời và thần đất khiến họ kinh sợ. Ngày nay, nhờ Đảng Cộng sản, chủ nhân tuyệt đối của thế giới mới, Nhân dân chỉ huy cả Trời lẫn Đất! Cũng tối hôm đó, chúng tôi đập vỡ tượng thần bằng đất sét và vứt tung toé các mảnh vỡ ra khắp nơi.



Sau khi rừng bị đốt, ngọn núi bị chinh phục mở ra một khung cảnh thiếu não. Nhưng chúng tôi không để nó chìm vào cảnh thê lương. Khi những ngọn cờ đỏ được cắm khắp nơi trên đám tro tàn, thì cuộc chiến đấu bắt đầu.



Tre là một loại cây dẻo dai nhưng rễ của nó không ăn sâu mà ăn rộng đến lạ. Cuốc, hái trong tay, chúng tôi lật từng mẩu đất cháy để triệt hạ hoàn toàn bộ rễ.



Liễu yếu ớt như là dải lụa. Sau vài ngày, tay của em phồng rộp, không còn đủ sức để cầm cuốc cuốc đất. Nhưng em bướng bỉnh, với cái xới đất nhỏ, em tìm nhổ từng rễ tre. Tháng một, ban đêm trời băng giá. Ban ngày, sương mù rơi xuống mặt đất ấm ướt như tấm màn bằng sắt. Chẳng mấy chốc, má chúng tôi nẻ căng rạn nứt, tay bầm tím và máu rỉ ra từ làn da nứt nẻ Thường xuyên, tồi thấy Liễu thổi vào bàn tay mình rồi xoa xoa vào nhau. Em cắn môi tiếp tục xới đất. Khi làm xong miếng của tôi, tôi lại ra muốn giúp Liễu kiêu ngạo, em từ chối, nhưng rồi sau cũng lung lay. Một lần, tôi làm em giật mình vì bắt gặp em làm việc ban đêm. Trong trại không có ai. Tôi nghe thấy tiếng xới đất của em đập phải hòn đất rắn đanh vì giá rét.



Tôi hỏi tại sao em ở lại làm việc trong khi tất cả bạn bè đã trở về ăn tối. Ngạc nhiên vì giọng nói của tôi, em run rẩy. Sau một hồi im lặng thật lâu, em bỗng khóc nức nở.



Em nghẹn ngào giải thích rằng từ lâu em rất xấu hổ vì mình chậm chạp và yếu đuối. Em cảm thấy có lỗi khi trong một ngày những người khác làm được gấp đôi số việc em làm.

“Hai bàn tay này thật là vô ích, em vừa nói vừa tuyệt vọng giơ hai tay ra trước mặt, không bao giờ em trở thành nông dân được, không bao giờ có thể thực hiện tốt các yêu cầu của cách mạng”.



Tôi an ủi em, Cách mạng của chúng ta xuất phát từ trái tim. Nó không phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả hoạt động. Khi chủ tịch kính yêu đưa ra chiến dịch “Về nông thôn tham gia cải tạo”, là người muốn chúng ta thay đổi tư duy, muốn chúng ta giũ bỏ khỏi đầu óc tiểu tư sản sự kiêu ngạo của giới trí thức.



Liễu khóc lâu lắm. Em kể em sinh ra trong một gia đình quân nhân cao cấp, được cha mẹ nuông chiều. Vây quanh em nào là tài xế, y tá, bác sĩ, đầu bếp, cần vụ và bảo vệ. Em chỉ biết tập trung toàn bộ sức lực vào việc học hành. Cha em cấm em không được đi về nông thôn. Ông giữ cho em một vị trí trong ban tuyên truyền của trung đoàn do ông chỉ huy. Liễu nổi dậy chống lại các ưu tiên ưu đãi, em trốn khỏi gia đình, tin tưởng rằng sự thô ráp của đồng quê và các công việc chân tay sẽ làm cho em rắn rỏi lên.

“Cha mẹ đã huỷ hoại cuộc sống của em”, em chua chát nhắc lại.

Tôi không biết phải cư xử thế nào. Những giọt nước mắt của cô gái này làm tôi cảm động và bối rối. Tuy nhiên, cuối cùng tôi cũng thuyết phục được em trở về trại, về đến cổng làng, em gạt nước mất, bắt tôi phải thề giữ bí mật về gốc gác của em.



Bây giờ tôi mới biết Liễu hơn tôi tám tháng. Liễu đã học năm thứ nhất chương trình thạc sĩ của trường Đại học Nhân dân. Nhờ năng khiếu đặc biệt, nàng đã học xong trung học trong vòng bốn năm.



Nàng thuộc lòng hàng trăm áng văn cổ. Khi bị tôi giễu cợt, nàng lại ngâm cho tôi nghe hàng giờ liền các áng văn cố để tôi có dịp châm chọc kiểu cách phong kiến của những áng văn nàng vừa đọc tôi nghe.



Rồi mùa xuân cũng đến. Gió nhẹ mở những cánh hoa đỗ quyên vàng cam Chúng tôi đổi dòng chảy của nhiều con suối để tưới cho cánh đông bậc thang trồng lúa. Từng tầng một, làn nước bình yên phản ánh nền trời xanh.



Bắt đầu cấy.



Để kích thích không khí hăng say làm việc, chúng tôi tổ chức thi đua. Tôi thường dẫn đầu nhóm, còn Liễu lúc nào cũng đứng cuối cùng nhóm. Nàng dấm dúi khóc, tôi lại an ủi nàng Bây giờ, tôi đã biết kể cho nàng nghe những câu chuyện vui. Nàng cười, nước mắt lưng tròng rồi quên hết mọi khó khăn gian khổ. Nàng có vẻ tươi vui hơn so với hồi mùa đông. Đôi má nàng hồng hơn, khuôn mặt nàng vẫn có da có thịt dù điều kiện sống của chúng tôi vô cùng khắc khổ.



Trong thời gian nghỉ ngơi các nữ sinh đến lấy quần áo của nam sinh mang ra ao giặt. Việc này trở thành một thông lệ. Chúng tôi đền ơn bằng cách sửa sang lại mái lều hoặc thu dọn đệm nằm cho họ. Liễu lấy quần áo của tôi giặt rồi trả lại, gấp ngay ngắn đặt trên giường. Những chỗ rách được vá lại vụng về. Những chiếc cúc mới thay thế cho những chiếc cúc cũ bị đứt.



Không lâu sau, dưới ánh nắng vui tươi rạng rỡ, những thân lúa đã mọc lên, sườn núi được bao phủ bằng lớp lụa xanh Ai có thể tin được mới chỉ ngày hôm qua thôi, đó còn là một vùng đất cháy thành than!



Xung quanh khu trại, chúng tôi biến những chỗ đất bỏ hoang thành vườn cau. Những luống đậu, cà chua, cà tím, khoa tây, cà rốt, dưa chuột, và cải thi nhau nảy mầm. Ông trưởng thôn tặng chúng tôi hai con gà nhép và ngay lập tức chúng tôi đã mơ thấy cả một chuồng gà đông đúc



Ngày này qua ngày khác, trang trại dần dần thay đổi đến mức không thể nhận ra nổi. Những mảng màu mới xuất hiện; cây cối rậm rạp hơn; ánh sáng làm thay đổi bóng hình những mái lều; nước ao ánh lên vẻ êm mượt. Những người dân làng trước đây chưa quen biết thì bây giờ đã trở thành thân thuộc. Những con ong vo ve, ruồi và chuồn chuồn lượn đuổi theo nhau, những chú cánh cam và bọ ngựa ngủ gà ngủ gật dưới mặt trời.



Trong khu trại của chúng tôi, nam nữ sinh viên bắt đầu thành đôi yêu đương, không thể tách rời giống như cây sồi với bóng của nó Liễu và tôi trêu chọc không thương tiếc những người bạn đang yêu hết hồn. Chúng tôi tự hào vì tình bạn trong sáng giữa chúng tôi như tình cảm anh chị em.



Sau vụ cấy, rồi chúng tôi cũng có chút thời gian nghỉ ngơi. Chúng tôi dạo chơi trong rừng. Những con đường ngoằn ngoèo dẫn chúng tôi vào miền bí mật của rừng núi.



Trời đẹp, không khí khô. Khi hít thở thật sâu, hai lỗ mũi như bị bỏng, có thế ngửi thấy mùi hương thanh cao của lá xanh.



Mặt trời dát những mảnh vàng lấp lánh lên thân cây. Mặt đất rải đầy một lóp lá vàng kêu xào xạc dưới bước chân. Phía trên đầu chúng tôi, những thân tre khổng lồ tạo thành một mái vòm. Cành cây cọ vào nhau, cong xuống rồi thả ra. Gió rung từng chiếc lá run rẩy.



Một hôm, bị lạc trong rừng - chúng tôi cố tình bị lạc vì khát khao những điều bất ngờ - chúng tôi thấy một ngôi nhà đổ nát. Hàng rào sụp đổ hoàn toàn, đây đó chỉ còn lại những đống đá. Ngôi nhà ngày xưa có nhiều phòng. Chỉ có một phòng được những người đi hái măng và những thợ săn gà lôi sửa lại. Họ lợp lại mái, đắp lại tường, bịt cửa sổ và đặt một cái giàn thay cho cửa vào.

Trong nhà rất tối. Những cuộn chiểu tre chất đống ở góc nhà, dành cho những người chậm chân phải ngủ lại qua đêm. Chúng tôi còn tìm thấy một cái lò đất, một cái nồi sành, mấy cái bát mẻ và một ít cành tre để nhóm lửa; ở miền núi, khi phải ngủ trong một chỗ trú ấn như thế này, người ta sẽ chuấn bị đầy đủ mọi thứ trước khi ra đi để sẵn cho những người đến sau.



Một cái bàn và ba chiếc ghế dựng trước cửa làm chúng tôi chú ý. Dương xỉ xen đầy mặt đất đến nỗi cỏ phải xuyên qua đám dương xỉ mà mọc. Liễu quét là khô. Em nhổ cỏ và bới đám dương xỉ ra. Em dọn quang được một phần chiếc bàn. Đó là một chiếc bàn cẩm thạch.



Chúng tôi ngồi trên ghế. Thời tiết ẩm ướt. Chúng tôi đánh hơi trong gió có mùi của một cơn bão sắp nổi lên.



Liễu trở nên suy tư, đột nhiên, em nói: “Anh có nghe thấy tiếng rừng tre đang run ray không? Chúng thì thầm bằng một thứ tiếng mà em biết Nhưng mà tại sao em lại không tài nào nhớ ra nổi?”

Một con chim có bộ lông sặc sỡ tung mình lên bầu trời.

“Em có mê sảng không? Em đã từng nghe thấy tiếng vỗ cánh này rồi”, Liễu nói tiếp

Cơn mơ mộng của Liễu làm tôi run sợ.

Tôi thấy em buồn đến vô vọng nên không nói gì nữa.

Tôi im lặng làm em bối rối, em nhìn tôi chăm chăm một hồi lâu rồi nói: “Ban nãy em rủ anh đi với em vì muốn nói với anh một chuyện...” Liễu dừng lại. Tôi nài em nói tiếp.



Em nhìn tôi không chớp. Bỗng nhiên hai hàng nước mắt tuôn trào và chảy dài trên má em. Em thầm thì: “Em không thế nào còn chơi đàn dương cầm được nữa!”

Tôi hỏi em tại sao.

Em càng khóc to hơn. Em chìa cho tôi xem những ngón tay đỏ lựng, các đốt tay sưng vù

Tôi nhận ngay ra triệu chứng của bệnh viêm khớp.

“Em có đau không?”

Em nức nở không thể thốt nên lời.

Tôi nắm chặt tay em trong tay tôi. Tôi nhớ lại suốt mùa đông, em cày đất bằng cái xới đất nhỏ, em giặt quần áo của tôi vào lúc đầu mùa xuân nước ao chắc phải vô cùng băng giá!



Em thở dài rồi nói em bắt đầu học dương cầm từ khi sáu tuổi. Năm mười lăm tuổi, em phải chọn giữa nhạc viện quốc gia và trường đại học. Em đã quyết định đi học trước rồi trở thành nghệ sĩ dương cầm sau.



“Em không nên than thở về số phận của mình. Trở thành nhạc sĩ dương cầm là ước mơ kiểu tư sản và theo chủ nghĩa xét lại. Nhưng anh có hiểu không, đấy là ước mơ thời trẻ con của em! Để thực hiện được cần phải bỏ ra ba nghìn giờ tập luyện”.



Những lời Liễu bộc bạch làm trái tim tôi tan nát. Là con trai của gia đình bác sĩ, tôi biết nỗi đau đớn và những di hại của căn bệnh mà Liễu mắc phải. Thế nhưng, tôi lại nói với em: “Liễu ơi, hãy vững vàng lên, em là một chiến sĩ”.



Tôi tự hẹn sẽ chữa khỏi bệnh cho Liễu. Những ngày nghỉ, tôi đi khắp làng để tìm cho em quả phúc bồn tử, dâu tây và nhiều loại quả khác giàu vitamin c có vào đầu mùa hè ở đó. Nhớ những lời trò chuyện giữa cha và mẹ tôi, tôi mang về cả cho em lá cây dâu tây đế nấu nước uống cho em.



Khi mùa gặt bắt đầu thì những người lính giã từ chúng tôi. Chúng tôi bầu ra chỉ huy mới trong số sinh viên. Tôi được bầu làm chỉ huy trưởng của cả đại đội.



Lợi dụng quyền lực, tôi để Liễu ở lại khu trại, chỉ cắt cử nàng làm việc bếp núc. Nàng chống lại, hễ hết việc trong bếp núc là lại chạy ngay ra ngoài đồng.



Thu hoạch lúa xong thì vụ cấy mới lại bắt đầu liền.



Tháng Bảy, trời đầy mây đen như là những vũng chì rồi mưa như trong nạn đại hồng thuỷ. Để cứu lúa, chúng tôi thay phiên nhau canh chừng bờ đê, khơi những lỗ tháo nước. Đất sũng nước, nhão nhoẹt. Đất vỡ ra, bùn ào xuống ruộng lúa. Mỗi đêm, tôi phải thức dậy hai đến ba lần vì người bảo vệ đánh kẻng báo động. Tôi khoác vội chiếc áo tơi lá tre, lao mình vào bóng tối đầy mưa. Ngọn đèn pin làm đuốc soi tỏ bùn đen, những vũng nước, lá rụng. Bất chợt, tôi nghe thấy một tiêng kẻng, hai tiếng rồi ba, bốn tiếng kẻng báo động khẩn cấp. Đó là báo hiệu núi đe doạ đổ sụp xuống đầu chúng tôi.



Một hôm, mưa bắt đầu ngớt hạt. Sương mù dày đặc. Đứng trên ruộng lúa, tôi thấy những khoảng đất toạ thành những bậc thang khổng lồ được làn mây bạc bao phủ. Tôi nhớ lại sự kiêu ngạo của mình lúc vừa đắp ruộng xong: lúc đó tôi tin rằng thiên nhiên đã bị chúng tôi khuất phục.



Giờ đây, một khung cảnh khác hiện ra trước mắt. Núi non sũng nước, bức màn mưa mênh mông, bầu trời vô thuỷ vô chung. Con người thật mong manh, nhỏ bé và nực cười làm sao, và tôi cũng là một kẻ trong đám ấy.



Mùa thu đến. Mặt trời cứu vãn đôi chút những hư hại do mưa gây ra và đem đến cho chúng tôi một vụ mùa đẹp đẽ.

Ủy ban cách mạng của thành phố Mỹ Lâm cử một đoàn đại biểu đến chỗ chúng tôi. Tôi cho rằng, họ muốn kiểm tra công việc của chúng tôi. Điều làm cho chúng tôi bất ngờ là sáu thành viên của đoàn từ chối ngủ trên những chiếc giường mà chúng tôi dành cho họ và muốn trọ ở nhà dân. Trưởng thôn choáng ngợp trước vẻ quan trọng của họ nên bố trí chỗ cho họ ngay.



Sáng hôm sau, đoàn đại biếu triệu tập tất cả một trăm ba mươi sinh viên dưới chân núi, ở chỗ rừng trống mà chúng tôi vẫn dùng làm nơi hội họp. Như những người nông dân thực thụ, nhiều người trong số chúng tôi đến họp mà vẫn chít khăn trên đầu. Cũng là một cán bộ lãnh đạo nên tôi cảm thấy vô cùng tức tối khi đoàn đại biểu giấu chúng tôi mục đích chuyến viếng thăm của họ, hơn nữa không ai trong chúng tôi được hỏi ý kiến trước khi tổ chức cuộc họp. Tuy nhiên, tôi cũng theo đám đông, ngồi một góc đế quan sát cho rõ.



Trưởng đoàn là một thanh niên khoảng hai mươi lăm tuổi, vóc người trung bình, gầy. Một lọn tóc của anh ta lò ra khỏi chiếc mũ lưỡi trai quân đội. Đằng sau cặp kính dày, cặp lông mày như chiếc bàn chải phủ xuống đôi mắt như mắt cóc. Đôi môi mỏng, hơi có vẻ đàn bà che giấu nội tâm anh căng thẳng. Anh ta nhảy lên một tảng đá, im lặng một lúc để cuốn hút sự chú ý của chúng tôi, sau đó, một tay chống nạnh, anh ta kêu gọi chúng tôi.



“Thưa các đồng chí, binh sĩ và Hồng Vệ binh. Tôi được Uỷ ban cách mạng của thành phố Mỹ Lâm cử đến đế thông báo với các đồng chí một tin quan trọng! Phương Đông Đỏ, nhóm phản cách mạng nay đã bị Quân đội nhân dân vinh quang đánh tan!”



Những tiếng thì thầm nổi lên. Sau khi những người lính đi khỏi, có tin đồn rằng phe cách mạng Thái Dương Đỏ liên minh với quân đội.



Những thành viên của phe Phương Đông Đỏ bị dồn đuổi, tụm lại trong trường đại học Mỹ Lâm. Người ta cũng còn đồn rằng cuộc bao vây đó kéo dài được hai mươi ngày, rồi thì đạn dược và thực phấm cạn kiệt, hội Phương Đông Đỏ ăn phải chất asen và để lại cho quân đội cả một phòng đầy xác chết. Từ đó, Thái Dương Đỏ chiến thắng.



“Hạt nhân của nhóm phản cách mạng đã bị tiêu diệt, người thanh niên nói tiếp. Nhưng những kẻ đồng loã với Phương Đông Đỏ vẫn còn lẩn trốn giữa các sinh viên đi cải tạo ở nông thôn. Chúng tìm cách lợi dụng sơ hở đế tàn phá phong trào cách mạng của chúng ta”.

Anh ta giơ cánh tay lên, hô to “Cách mạng văn hoá muôn năm”, “Chủ tịch Mao Trạch Đông muôn năm”, “Tư tưởng Mao Trạch Đông muôn năm”. Hơn một trăm giọng sinh viên lặp lại mấy câu khẩu hiệu, không một chút dũng khí. Sau mười tháng cải tạo, cứ cày bừa trên đồng và đếm từng hạt thóc, chúng tôi hoàn toàn thành những kẻ đờ đẫn, chẳng còn biết gì là niềm say mê nữa.



Những thành viên khác của đoàn đại biểu đứng dưới chân mỏm đá. Tất cả bọn họ đều trẻ trung, sạch sẽ trong bộ trang phục quân đội, dây thắt lưng da đeo súng ngắn, họ có cái vẻ ngỗ ngược cao đẹp mà tôi từng có vào thời kỳ đi khắp Bắc Kinh cùng các nhóm cách mạng đế truy lùng đồng đảng xét lại. Đối diện với mấy vị thượng đế này là chúng tôi trong những bộ quần áo rách rưới, lưng còng xuống, khuôn mặt khắc khổ, đôi tay chai sạn, những con mắt nhìn trống rỗng, chúng tôi trở thành nông nô của họ.



Đoàn đại biểu bực mình. Họ thấy chúng tôi thiếu năng động. Để kích thích chúng tôi, họ đề nghị ngay lập tức biến cuộc họp động viên tinh thần thành cuộc họp tố giác. Tôi ngắm một nhìn vầng thái dương dần dần đứng bóng. Hạt thóc, nặng như bụng bà chửa, đang đợi chúng tôi trên núi.



Tôi cất cao giọng để người trên đỉnh mỏm đá nghe thấy tiếng: “Chúng ta có thể hoãn buổi tố giác lại vào buổi tối được không? Chúng tôi phải đi cắt lúa vào mùa này, mỗi phút trong ngày đều rất quý giá”



Đề nghị của tôi được toàn bộ sinh viên ủng hộ. Đám đông ồn ào, sắp sửa giải tán. Trưởng phái đoàn nhìn tôi vẻ khinh bỉ: “Buổi họp kết thúc ở đây, anh ta nói mà mặt nhăn nhúm. Buổi họp tới vào tám giờ tối nay tại nhà ăn”.



Đoàn đại biếu trưng dụng một phòng ở nhà của một người nông dân làm văn phòng. Một trăm ba mươi tù nhân lần lượt được triệu tập đến tra hỏi. Việc thanh tra kỹ lưỡng này làm đảo lộn trật tự công việc của chúng tôi. Đồng lúa trở thành quảng trường đế chúng tôi tụ tập trao đổi tin tức. Người ta nói rằng đoàn đại biểu là lính cũ của nhóm Thái Dương Đỏ, bọn họ ôm trong lòng mối hận dai dẳng và luôn luôn bị ám ảnh vì một nỗi sợ hãi.



Là người đầu tiên được hỏi cung, tôi soạn một bản báo cáo hết mực trung thực. Đại đội của chúng tôi chủ yếu gồm sinh viên từ Bắc Kinh đến khi chúng tôi đến Mỹ Lâm, quân đội tập trung chúng tôi trong nhà hát nhân dân. Cư trú ở vùng chân núi này, vì những khó khăn về giao thông, chúng tôi gần như cách ly với thế giới. Trong điều kiện như vậy, làm sao chúng tôi có thể liên lạc được với người của phe Phương Đông Đỏ và dự phần vào xung đột chia rẽ thành phố Mỹ Lâm? Phái đoàn không đôi co gì. Viên chỉ huy hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, đồng thời quan sát cuộc hỏi cung đang diễn ra dưới cặp kính đen sì. Anh ta không nói nửa lời. Khi tôi rời văn phòng, anh ta dõi mắt theo tới tận cửa rồi lạnh lùng chào tôi.



Tôi cố gắng trấn tĩnh nỗi lo lắng của các bạn. Theo tôi, cuộc hỏi cung chỉ là hình thức, và đoàn đại biểu sẽ sớm rời sang làng khác. Nhưng những người bi quan nhất nói rằng họ sẽ chưa đi khi chưa tìm thấy một kẻ tay sai trong số chúng tôi.



Cậu Trương béo có cha mẹ quê ở Mỹ Lâm, được triệu tập đến văn phòng lần thứ hai. Khi quay về anh ta có vẻ thay đổi nhưng không ai cậy miệng anh ta được nửa lời giải thích về những việc vừa diễn ra. Sống cùng lều với anh ấy, biết tính cách hay hoảng sợ của anh ấy, rồi bỗng nhiên, một buổi chiều, các thành viên của đoàn đại biểu ra tận ruộng đế bắt tôi.



Họ đeo còng vào cổ tay tôi rồi áp giải tôi về làng Viên chỉ huy, lúc nào cũng có điếu thuốc lá gắn trên mép, đang đợi tôi ở bàn làm việc.



Tôi ngồi lên ghế, bình thản hỏi lý do họ bắt tôi. Anh ta mỉm cười và rút ra một quyển sổ: trong tay anh ta là quyển nhật ký của tôi

Cuộc hỏi cung bắt đầu. Phái đoàn kết tội tôi là thành viên của Phương Đông Đỏ đã tham gia mưu phản lật đổ Đảng Cộng sản và Mao Chủ tịch. Bằng chứng là quyển sổ nhật ký của tôi đã ghi lại cuộc gặp gỡ với cậu thanh niên thành viên của Phương Đông Đỏ và tấm huy hiệu của trường trung học Sao Đỏ.



Không thể để sự vu khồng bóp nát, tôi phẩn nộ vặn lại răng, lúc nào tôi cũng cư xử như một người chiến sĩ chân chính của cuộc Cách mạng văn hoá. Họ bực dọc, xắn tay áo lên và tuột dây thắt lưng ra



Cứ mỗi cú bị họ quật vào người là tôi lại tuôn ra những lời nguyền rủa họ. Khi còn thiếu thời, tôi vẫn lo lắng tự hỏi là những người cách mạng chân chính, không biết, tôi có chịu được tra tấn mà phản bội hay không. Bây giờ, niềm tin vào sự vô tội của mình làm nảy sinh trong tôi sức mạnh giúp tôi chiến đấu chống lại bất công.



Bình minh hé rạng, đoàn đại biểu giam giữ tôi trong ngôi miếu được họ biến thành nhà tù. Tôi lết đến tận bàn thờ, chỗ đó các bức tượng phật đá bị họ tháo bỏ sạch. Tôi thấy vẫn còn những chiếc gối rách trước kia các tín đồ dùng để quỳ gối. Mặc kệ mọi điều, tôi nằm thẳng cẳng lên đó.



Toàn thân run lẩy bẩy, tôi không tài nảo ngủ được. Mặt trời lách qua khung cửa sổ bé tí tẹo nằm cách mặt đất hai mét, ném một tia sáng lên trên bàn thờ, Tôi nhìn những hạt bụi nhỏ li ti quay tròn trong chùng ánh sáng yếu ớt đó.



Ai là người tiết lộ cho phái đoàn biết quyển nhật ký của tôi? Ai phản bội tôi? Phải chăng Trương béo đã bán rẻ tôi để thoát thân khỏi cơn lúng túng? Hay là cô Hoài, người đã nhìn thấy tôi viết nhật ký vào một hôm dậy sớm hơn thường lệ?



Ai đã rình rập tôi? Ai đã theo tôi khắp các nơi tôi giấu quyển nhật ký? Hay là Lý, gã đàn ông độc miệng và tò mò như một con cú vọ? Cũng có thể là Phương chăng, vì tôi đã mắng anh ta khi anh ta lấy nệm của tôi mà không hỏi? Không, không thể được. Làm sao anh ta biết tôi viết gì khi anh ta mù chữ? Ngoại trừ trường họp tối hôm trước, trong lúc say xỉn tôi đã thổ lộ bí mật với anh ta?



Chiều hôm sau, những cú đá kéo tôi ra khỏi giấc ngủ, tôi bị giải ra khỏi làng. Họ dựng gần mỏm đá cái bàn tròn, phía trên là những thửa ruộng bậc thang. Cờ đỏ ở hai phía bàn xử án phần phật trong gió, làm khung cảnh thêm màu sắc mới và có vẻ uy nghiêm. Một băng rôn đỏ chót được căng ra phía trước sân khấu, trên đó viết một hàng chữ màu trắng: “Cuộc họp xử án kẻ xét lại phản cách mạng Vân”.



Tôi thở phải vì thoát khỏi cảnh sống cách ly, và đầu óc bị ám ảnh bởi kẻ tố cáo không lộ diện, tôi cứ nghĩ mình phát điên mất. Họ giải tôi lên trên sân khấu. Mặc dù có một tấm bìa to tướng treo ở cổ viết các tội danh của tôi, tôi vẫn có thế ngửng đầu lên được và chỉ trong loáng mắt tôi đã nhìn bao quát hết cảnh đồng lúa Những mảnh ruộng tạo thành những tấm gương vỡ ngoạn mục chồng chéo lên nhau. Từng tảng mây phản chiếu lên vách núi những ánh đen. Một dải sương mù bồng bềnh trên cánh rừng tre.



Bắt đầu buổi họp, họ đọc các châm ngôn của Mao Chủ tịch. Sau đó, viên trưởng đoàn vạch tội “mất cảnh giác và tinh thần giảm sút trong đội ngũ Hồng Vệ binh”.



Họ buộc tay tôi quặt ra phía sau, đẩy tôi ra phía trước sân khấu, đối diện với tất cả mọi người rồi dúi tôi gập người xuống. Kịch bản dàn dựng theo kiểu cổ điển. Lúc ở trường trung học, tôi từng tổ chức hàng chục buổi biểu diễn kiểu này nhưng điều mới lần này là chính tôi đóng vai kẻ bị kết án.



Cái biên viết tội buộc băng dây thép mỏng xiết chặt lây cổ tôi.

Lưng tôi bầm dập, đôi chân tôi như có ngàn ngọn lửa thiêu đốt, cơ bắp tôi đau đớn, đầu tôi muốn nổ tung ra. Khi người ta đọc diễn văn, tôi muốn quan sát thái độ bạn bè. Họ bực tức hay thờ ơ? Trong thâm tâm tồi cứ nghĩ những người đã cùng với tôi lao động, đã chiến thẳng bão táp và xây dựng cuộc sống mới sẽ chống lại đoàn đại biểu. Tôi nghĩ, dưới áp lực của bạn bè tôi, người ta sẽ tuyên bố tôi vô tội. Nhưng tôi chỉ nhúc nhích một tí là những kẻ tra tấn lại tung lên người tôi hàng loạt cú đấm đá. Tôi đành lòng cúi mặt nhìn mũi giày mình đang đi.



Sau vài câu khẩu hiệu và những bài ca cách mạng, ai đó nhảy lên sân khấu, rồi tôi nhận ra giọng Trương béo. Hắn bắt đầu rên rỉ: tôi đã cố gấng nhồi nhét cho hắn những tư tưởng xét lại bằng cách phỉ báng những thói quen nông dân; tôi nói phải học đọc và học viết đế khỏi ngu xuấn. Hắn nói rằng lương tâm hắn buộc hắn phải đọc mấy trang nhật ký của tôi và hắn thấy rất kinh ngạc.

“Đối với Vân, hẳn nói với giọng thiếu tự tin, giống như đang đọc một bài tập đọc, cải tạo ở nông thôn chỉ là ngụy trang, là dịp để len lỏi vào đội ngũ những người tiền tiến để truyền bá nọc độc của tư tưởng phản động”.



Theo hắn, khi tới thành phố Mỹ Lâm, tôi đã bắt liên lạc với các thành viên của nhóm chống đối cách mạng Phương Đông Đỏ, nhanh chóng thiết lập quan hệ với chúng. Chúng tôi trao đổi ký hiệu để nhận nhau, đó chính là huy hiệu có tên một trường trung học. Nhiệm vụ của tôi là phát triển hệ thống phản cách mạng ở nông thôn.



Tên Trương béo dừng lại vì những tiếng rên từ cổ họng tôi thoát ra.

“Đồ dối trá! Đồ tồi! Mày sẽ phải trả giá cho những lời bịa đặt của mày...!”



Một trận mưa nắm đấm rơi xuống người tôi, chẹn ngang câu nói của tôi. Ai đó tiếp lời Trương, tôi nhận ra giọng Hoài. Cô ta tố cáo tôi không quan tâm đến bạn bè. Một hôm, cô ấy ốm rất nặng, thế mà tôi còn cưỡng bức cô ấy ra đồng làm việc.



“Đồ lừa đảo! Đồ chó!” tôi tuồn ra những lời chửi rủa, đáp lại, chúng xối xả quất hàng trận mưa dây thắt lưng xuống người tôi. Tôi ngã xuống. Chúng dựng tôi dậy. Lý nhảy lên sân khấu nói mưu đồ phá hoại của tôi đã thất bại. Tôi giấu cuốc thuống không cho bạn bè làm việc, tôi lợi dụng bão tháng Bảy để đục đê làm lúa ngập lụt

“Vu khống! Vu khống!”



Nhưng những lời phản bác của tôi bị chìm trong tiếng hô khẩu hiệu của viên chỉ huy đoàn đại biểu để cả đám đông nhại lại: “Đả đảo quân phản cách mạng Vân! Đả đảo kẻ phản bộ Cách mạng văn hoá! Tư tưởng Mao muôn năm!”



Ai đó nhổ nước bọt vào mặt tôi và kết tội tôi lạm dụng lòng tin và sự tín nhiệm của sinh viên. Người đó khẳng định rằng tôi thù địch với đoàn đại biểu và nói những lời dối trá bỉ ổi về phía đoàn.



Mọi người lần lượt lên sân khấu. Tôi không còn chửi bới được nữa vì để chặn họng, bọn chúng nhét bít tất vào miệng tôi. Tôi mới thấu hiểu rằng mọi chi tiết trong cuộc sống hàng ngày đều có thể dùng đế bịa ra mọi lời xuyên tạc. Tôi vỡ lẽ ra đã bị tất cả những người mà tôi tin tưởng phản bội lại, những người mà mới ngày hôm qua còn cười với tôi và tôi coi đó đều là bạn bè. Thế rồi sau đó là sự vỡ mộng cuối cùng, cú đau đớn nhất trong mọi cú đòn, hoàn toàn hạ gục tôi.



Giọng viên chỉ huy vang lên trong loa phóng thanh: “Đồng chí Liễu, đồng chí đã dũng cảm tố cáo kẻ phản cách mạng, chính đồng chí tiết lộ nơi hắn giấu quyến nhật ký, bằng chứng cho niềm tin tưởng của chúng ta, đồng chí không có gì nói trước công chúng sao?”



Máu tôi lạnh đi trong huyết quản. Tôi thu hết sức lực ngẩng đầu lên. Tôi nhận ra Liễu trong đám đông.



Tôi nhìn em bằng đôi mất đầy hận thù đến nỗi mắt tôi phát đau. Bất chợt, một cú thắt lưng quật xuống đầu tôi, thái dương tôi kêu ong ong, tôi ngất xỉu.



Đêm hôm sau cuộc đấu tố, tôi thật buồn. Tôi ngắn nhìn chị Hằng qua ô cửa sổ bé tí tẹo. Chị Hằng tròn vành vạch như một khuôn mặt, nhìn tôi bí ẩn. Chị nghĩ gì về tôi? Chị nghĩ gì về thế giói mà chị dát những ánh bạc? Tách biệt với thế giới trần gian, từ trên trời cao ngó xuống, chị có tỏ tường từng kiếp người chăng? Chị là người biết các anh hùng thuở xưa, biết các triều đại, hoàng đế, những tì thiếp, những nhà thơ, chị còn soi sáng trái đất này cả khi chúng tôi không còn nữa, chị có biết tương lai của tôi chăng?



Nhưng vầng trăng lặng lẽ di chuyển và biến mất khỏi khung cửa sổ.



Ngày hôm sau, hỏi cung và tra tấn lại bắt đầu. Mệt mỏi, vô vọng, tôi không thừa nhận mọi tội lỗi và muốn chết luôn dưới đòn roi. Tôi còn có thể hy vọng gì nữa khi cuộc sống chỉ là lăng nhục và bội phản? Nhưng than ôi, cơ thể của tôi lại dẻo dai. Những vết bầm tím, những vết thương và máu mủ còn làm thân thể tôi càng thêm quyết liệt bám riết lấy sự tồn tại khốn khổ.



Vào giờ ăn trưa, cả đoàn đại biểu áp giải tôi ra miếu thờ. Chúng trói tôi lại rồi đi ra nhà ăn. Ngay khi chúng vừa đi khỏi, tôi nghe thấy tiếng nức nở yếu ớt. Lê đôi chân cứng đờ vì đau đớn, tôi lại gần cửa sổ cất tiếng hỏi ai đang khóc.

“Em ạ”, Liễu trả lời.

“Cút đi! Tao không còn muốn nhìn thấy mặt mày nữa, cút khỏi đây ngay. Để tao yên”.

“Xin hãy nghe em! Chúng đến hỏi em anh cất quyển sổ nhật ký ở đâu. Một buối tối, em thấy anh giấu cái gì đó trong thân cây liễu này.. Em không muốn nói gì với họ cả... Nhưng họ nói rằng vấn đề rất quan trọng, rằng anh tham gia hội mưu phản cách mạng. Em không tin họ. Em nghĩ quyển nhật ký sẽ chứng tỏ anh vô tội... Em thật ngu ngốc khốn khổ làm sao...”

“Câm đi!”. Tôi hét hết sức mình. Niềm tin mà tôi gửi gắm nơi em, kỷ niệm về những ngày tuyệt diệu bên nhau làm trái tim tôi tan nát. Nước mắt tôi rỉ ra. Giọng tôi tan nát:

“Sao mày còn đến đây kể lể những chuyện thêu dệt gian dối như thế? Chúng cử mày đến đây để moi móc những lời thú tội của tao chứ gì! Cút khỏi đây ngay, đi mà nói với mấy thằng chủ của mày rằng chính chúng mới là những kẻ phản cách mạng!”

“Em xin, Liễu cũng hét lên. Xin Vân hãy tha thứ cho em! Tất cả hoàn toàn là lỗi của em. Em chết vì ân hận!”

Giận dữ điên cuồng, tồi điên loạn lao người vào tường và la hét:

“Đồ đạo đức giả! Biến đi! Mày không phải là bạn tao nữa! Mày phản bội tao! Cút đi!”



Tiếng la hét của tôi thu hút sự chú ý của đoàn đại biểu. Chúng mở cửa, bịt miệng tôi lại. Tôi lăn lộn dưới đất, kiệt sức, bất lực, hết biết thẹn, hết danh dự.



Vào buổi đấu tố tiếp theo, số lượng người tham gia giảm xuống. Nông dân quay trở lại với vườn mộng và chỉ có ba phần tư số sinh viên đến dự. Cơn sốt của họ hạ xuống. Những lời kết tội tôi đơn điệu, đầu voi đuôi chuột, không còn nhiệt tình, không còn hùng hồn. Tên chỉ huy đoàn đại biểu thụi tôi một cú vào giữa mặt, mũi tôi bắt đầu chảy máu. Ngay cả máu cũng không còn tạo được hiệu quả mong đợi nữa. Lũ đao phủ và những kẻ phán quyết tôi đã mệt mỏi.



Trở về miếu thờ, nỗi đau đớn của tôi dường như dịu xuống. Tôi ngủ dưới bàn thờ như một con chó vừa bị đòn. Mạng nhện, bóng tối và mũi thối của chính tôi không còn làm cho tôi ghê tởm nữa. Tức giận và ám ảnh trả thù sôi sục trong tôi từ nhiều ngày nay bỗng biến mất. Yên tĩnh trở lại. Ánh hoàng hôn nhạt dần ở cuối chân trời. Màn đêm buông xuống. Được ru bằng những tiếng kêu ngắt quãng của lũ dế và côn trùng, cuộn tròn trong một niềm cảm xúc gần như sung sướng, tôi săp ngủ thì có ai đó trườn đến gần cửa sổ và gọi tên tôi. Tôi nhận ra người đó nhưng không trả lời.

“Em biết anh ở đó, Liễu nói với giọng buồn bã. Nhưng anh không muốn nói với em nữa Đành vậy... Em sẽ không được tha thứ. Em sẽ không bao giờ tha thứ cho mình”.

Tôi nghe thấy tiếng cô ấy khóc.

“Vân, em mang đến cho anh lọ thuốc bôi này. Nó có thể làm các vết thương bớt đau đớn”.



Có cái gì đó đập vào chấn song cửa số, nảy vào phía trong điện thờ, lăn trên nền. Một giây phút yên lặng trôi qua. Tôi vừa nghĩ chắc cô ấy đi rồi thì nghe thấy tiếng cô ấy nói:

“Vân, anh ngủ đấy à? Anh đang mơ gì thế? Ngày hôm qua em đi dạo một mình trong rừng tre. Em trèo lên tận chỗ ngôi nhà đổ nát..

Tiếng cô nức nở làm lính gác thức giấc. Cô ấy chạy đi.

Mặt trăng trèo lên trên cửa sổ, có vẻ lo lẳng suy tư rồi lại biến mất. Tôi nhìn góc trời được thắp sáng qua bước đi của chị. Khoảng trời đó chậm chạp tắt dần, rồi những vì sao xuất hiện. Tối đó, tôi không tài nào nhắm mắt được. Tôi nghĩ về cha mẹ tôi. Các chi tiết của quãng đời đã trôi qua quay trở lại trong tôi, rõ ràng đến độ đáng kinh ngạc: tôi nghe thấy tiếng réo của rau ném vào chảo mỡ, những chiếc nồi va vào nhau, những tràng cười ròn rã, tiếng xe đạp bấm chuông dưới cửa sổ. Đó là lũ bạn cùng lớp tôi đến. Tôi sung sướng, yên ổn. Buổi đêm hắt ánh sáng mờ đục lên cửa kính. Vâng, Tết đến! Những tiếng pháo nổ, tiếng pháo hoa rít lên. Nhà nào cũng làm bánh bao. Bên cạnh tôi mẹ tôi toả ra mùi thơm của xà phòng hiệu Thiên Miếu.



Nhưng tiếng gió gầm gừ và tiếng tre trúc thầm thì kéo tôi trở lại với thực tế. Tôi rùng mình. Đầu óc tôi đột nhiên sáng láng hơn bao giờ hết.



Cái mà tôi bị thiêu trong cuộc sống thành thị, đó chính là sự tiếp xúc với đất đai. Tôi ăn cơm mà không biết nó được làm ra như thế nào, không biết cả những giọt mồ hôi đã đổ xuống. Sự tồn tại của tôi là toà lâu đài nhỏ bé dựng trên những công trình vô hình của hàng triệu người. Để sờ mó tận thực tế, tôi tham gia Cách mạng văn hoá, nó làm cho tôi phải chịu lạnh, chịu nóng, chịu lao động và chịu tù đày để cho tôi có dịp chứng tỏ sức chịu đựng của mình và rũ bỏ tính kiêu ngạo của mình. Trong vòng một năm, các sự kiện xảy ra đã đảo lộn cả số phận tôi, mang tôi đến những mảnh đất tôi chưa từng biết tới. Hôm qua, còn là người chỉ huy cách mạng, hôm nay tôi đã là tù nhân. Tôi nóng lòng muốn biết số phận tiếp theo ra sao. Vì thế giới đã mở cửa cho tôi, ngày mai tôi vẫn cứ tiếp tục cuôc hành trình. Tôi sẽ đi xa, thât xa.



Cuộc đời của tôi là một chuyến lữ hành cô độc! Hành lý của tôi nặng trĩu những nỗi nhớ nhung!Tôi đứng dậy khỏi chỗ nằm, nhặt cái lọ nhỏ mà Liễu vừa ném vào cho tôi qua cửa số. Tôi thở dài nhìn nó.

Đây chính là lúc tôi rũ bỏ hết mọi con người đồng điệu mà ra đi Hoàn toàn đơn độc.

Ngày hôm sau của buổi họp xét xử, phái đoàn quyết định lên đường. Họ mang theo nạn nhân của cuộc điều tra.



Sinh viên tụ tập lại để xem tôi ra khỏi nhà tù. Đầu ngẩng cao, đôi tay bị trói quặt sau lưng, tôi nhìn tận mặt họ soi xét. Họ cúi xuống lẩn tránh ánh mắt nhìn của tôi. Tôi tìm kiếm Liễu nhưng không thấy.



Người ta vứt tôi lên xe tải, xe đi rất lâu mới dừng lại. Những thành viên trong phái đoàn bước xuống, chỉ có hai người lính gác canh chừng tôi. Nằm ườn một góc, tôi khoan khoái lẳng nghe âm thanh thành phố.



Xe tải lại chuyến bánh. Âm thanh thành phố nhỏ dần. Khi chúng tôi một lần nữa dừng lại, họ cho tôi xuống xe. Đó là chỗ bờ rìa một cánh rừng. Họ đẩy tôi đi về phía toà nhà có tường bao quanh, bên trên cắm dây thép gai. Tôi thay bộ quần áo nông dân đầy máu mủ để mặc bộ quần áo tù nhân sạch sẽ.



Tôi nghe nói những người mới vào tù sẽ bị đánh đập thật lực cho tới khi rơi rụng hết ý định trả thù và tính kiêu ngạo, y như thế người ta đập bụi bám trên quần áo vậy. Khu tôi ở ken đặc tù nhân chính trị - các giảng viên đại học bị vu khống dẫn tới chỗ chết. Ở đây, hiếm khi có tra tấn. Sau khi đổi tên để lấy số hiệu, con người trở thành đồ vật, trở thành một chiếc bóng.



Nhưng cái đói mới là sự tra tấn hiệu quả hơn cả những cú đấm và dây thắt lưng da quất. Một bát nước và nửa bát cám mỗi ngày duy trì sự sống trong chúng tôi, triền miên thất vọng.



Trong các giấc mơ, bát mì, thịt, rau, những thứ tầm thường nhất bỗng có một sắc thái sống động, một hương thơm tuyệt đỉnh làm tôi phát cuồng phát điên. Nhưng tất cả biến mất khi tôi mở mắt ra. Đôi khi, lửa thiêu đốt dạ dày, đầu óc điên loạn, tôi hau háu dõi theo những con gián khổng lồ đang bò trên vết tường nứt. Tôi có một thèm muốn rất động vật là cắn vào da thịt chúng.



Suốt ngày, tôi nằm ẹp một chỗ, mê man. Ý niệm về thời gian bắt đầu lờ mờ. Suy nghĩ của tôi chậm dần, cơ thể tôi khô héo. Tôi chỉ còn là một miếng củi. Kỷ niệm về Bắc Kinh và núi rừng hiện về lộn xộn, hình ảnh mờ ảo. Chỉ có ám ảnh về chuyện ăn chiếm hết cả tâm trí, làm tôi mê sảng và nhắc tôi nhớ mình là con người.



Một buổi chiều, người ta báo có người đến thăm tôi, rồi tôi được dẫn ra phòng tiếp khách. Chỗ đó thật nhớp nhúa. Tiếng thì thầm lẫn với tiếng khóc nghẹn ngào. Mỗi tù nhân được ngồi một bàn, đối diện với gia đình mình. Kể từ khi bị bắt, họ cấm tôi liên lạc với thế giới bên ngoài. Có thể một người bạn cùng đi với tôi từ Bắc Kinh đã biên thư cho cha mẹ tôi, chắc hẳn họ đã được thả khỏi trường mùng 7 tháng Năm nên tìm ra tôi trong nhà tù này. Tôi lúng túng đưa mắt tìm một khuôn mặt quen thuộc, tôi nhận ra Liễu

“Làm sao em tìm thấy anh? Làm thế nào mà em đi khỏi làng? Em làm gì ở đây?” Tôi hỏi Liễu dồn dập với giọng khàn đặc, đầy trách móc.

Mặt tái xanh, Liễu không trả lời.



Tôi nhìn xung quanh. Bốn góc phòng, những người lính gác có trang bị vũ khí đứng im phăng phắc như tượng, không ai chú ý đến chúng tôi.



Bất chợt, tôi nắm lấy tay Liễu, ghì chặt lấy em bằng tất cả sức mạnh của mình.

“Liễu..Giọng tôi nghẹn lại.



Em mỉm cười.

Chúng tôi cứ đứng như vậy, tay trong tay, không cất lên được một lời. Ngửi thấy mùi hương ấm áp của Liễu, tôi cảm thấy niềm hạnh phúc thật lớn lao.



Lính gác bắt đầu đuổi những người đến thăm và áp giải tù nhân quay trở về. Hết mộng mơ, tôi kêu lên: “Liễu, anh đói!”

Nước mắt Liễu tràn ra.

“Chúng lục soát em lúc em đến. Chúng lấy hết mọi thứ em mang vào cho anh”.

“Liễu nghe anh, dọc theo nhà tù có một chỗ cỏ mọc trên bờ tường. Chỗ đó gần như không bao giờ có bọn lính gác đi tuần. Anh có thể đến đó khi đi dạo. Anh xin em, lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng, hãy vứt qua chỗ tường đó cho anh một cái bánh bao hoặc một nắm cơm hay mì sợi, gói vào giấy báo ấy”.

Liễu vừa khóc vừa gật đầu.

“Đừng bao giờ đến thăm anh nữa. về làng đi. Quên anh đi!”



Một lính gác đi về phía chúng tôi Liễu vội vàng đứng lên. Em nhìn tôi như thể bằng ánh mắt ấy, em muốn lôi tôi ra khỏi cái hang thú tối tăm này rồi mang tôi đi với em ra ngoài ánh sáng. Em quay đi, không nói lời nào.



Phần còn lại của ngày hôm đó chìm ngập trong bóng tối. Nhiều lần nản chí, ý nghĩ về cái chết lướt qua đầu tôi.



Ngày hôm sau, ngay lúc thức dậy, lập tức tôi hối tiếc đã áp đặt Liễu thoả mãn đòi hỏi của tôi. Tôi tự trách mình ích kỷ. Quãng đời trước khi tôi ngồi tù hiện lên. Nó trôi qua chậm rãi, nặng nề. Tôi lại như thấy Liễu, quần áo của em, khuôn mặt em, tôi nghe thấy giọng nói dịu dàng của em rành rọt giữa tiếng rùng mình của rừng tre. Mỗi kỷ niệm về em đối với tôi là một nguồn vui sướng và nguồn buồn khổ. Khi chiều xuống, tôi thấy ở đoạn cuối sân có một gói nhỏ. Lợi dụng lúc lính gác sơ hở, tôi tách ra khỏi đám đông những người đang đi dạo và lén lút nhặt lấy.



Có hai cái bánh bao. Buổi tối, tôi chia sẻ với ba thầy giáo cùng trại. Tôi cắt phần của tôi thành nhiều miếng nhỏ. Suốt đêm tôi nhai, kéo dài sự vui thích tới tận mẫu vụn cuối cùng.



Ngày hôm sau, cái đói càng hành hạ tôi khốc liệt hơn nữa. Cùng với nỗi đau đớn đó là sự tuyệt vọng bị đẩy ra ngoài lề cuộc sống và bị toàn thế giới lãng quên.



Nhưng, vào đầu buổi tối, tôi lại thấy ở chân tường có gói mới với hai chiếc bánh nhân thịt.



Liễu vừa biến những ngày ở tù của tôi thành địa ngục.



Em đang ở đâu? Trong trí tưởng tượng của tôi, tôi thấy em lang thang suốt ngày ở thành phố Mỹ Lâm còn đêm đến thì ngủ dưới gậm cầu. Em không có tiền. Em đi xin trong các quán ăn. Em ăn cắp.



Làm thế nào em trốn khỏi làng? Phải chăng em đã băng qua hàng nghìn cây số bằng đôi chân trần? Liệu em có bị những đồng chí của tôi truy lùng khi họ phát hiện ra em biến mất hay không? Liệu có bọn lưu manh trong thành phố tấn công em không? Có bọn trẻ con hỗn láo nào sỉ nhục em không? Em có lạnh không? Em có đói không? Bao nhiêu lần trong ngày em phải rơi nước mắt?



Chẳng bao giờ có đau đớn nào khủng khiếp như nỗi đau của tôi. Cuối buổi chiều, khi nhận thấy gói quà em gửi, tôi cảm động và cảm thấy ruột gan quặn thắt vì đau đớn. Buổi tối, niềm vui câm lặng trào lên từ sâu thẳm trong hồn tôi. Tôi chia sẻ gói thức ăn với những người bạn tù, họ hau háu nhìn miếng ăn, cái nhìn của những kẻ chết đói. Suốt đêm, tôi nhai đi nhai lại và liếm mép, tôi sung sướng, tự hào vì được một người con gái xinh đẹp chăm sóc, một người con gái gan dạ, đặc biệt nhất trên đời. Đôi khi tôi cứ để cho mơ mộng thoải mái lang thang. Tôi thấy chúng tôi cưới nhau. Em làm bánh bao cho tôi. Đôi tay của em trắng và thon trở lại, khéo léo nhào bột, nhào niềm say mê của chúng tôi trong cuộc sống hàng ngày. Tôi thấy chúng tôi có con, cùng nhau già đi. Một trăm năm! Cuộc sống thật ngắn ngủi đối với những người không thể xa nhau!



Nhưng ngày hôm sau, tôi lo lắng và cầu trời cho em đừng đến nữa, cho em quên tôi đi. Thu qua đi, đông chớm đến bên ngoài khung cửa. Buối tối buông xuống như tấm màn màu xám, nỗi lo lắng của tôi tăng lên. Thế giới ngoài kia đối với tôi dường như đầy quỷ dữ: làm thế nào Liễu sống qua ngày? Thường xuyên tôi không nhận được gì trong mấy ngày liền. Tôi điên lên vì lo lắng, muốn vượt ngục ra ngoài để kiểm tra cho chắc chắn không có điều gì xảy ra với em. Rồi buổi tối, một gói gì đó bay qua bờ tường làm tôi yên tâm rằng em vẫn còn sống.



Người ta còn cho phép em vào gặp tôi thêm một lần nữa. Quần áo em có mùi hôi, đôi mắt em dường như to quá trên khuôn mặt gầy gò. Cầm tay em trong tay, tôi cầu xin em trở về Bắc Kinh, về với cha mẹ em.



Em gật đầu.

“Đợi anh ở Bắc Kinh”, cuối cùng tôi nói, Sợ hãi vì tuyên bố này, tôi dừng lại giữa chừng.



Em cười.

Cuộc sống tự lập làm em rắn rỏi lên, có vẻ vững chãi hơn. Đôi mắt em ánh lên một thứ ánh sáng tinh ranh, vui tươi



Trước khi ra đi, em đặt vào lòng bàn tay tôi đoá hoa cúc. Để tránh bọn lính kiểm soát, em đã giấu nó trong tóc.



Tối hôm sau, tôi đi dạo giữa những người bạn tù. Đầu cúi gằm, tôi còn đang mơ về cảnh em đặt hoa cúc trong lòng tay tôi thì bỗng nghe thấy một giọng hô lên: “Ai? Đứng im!”



Tôi vội vàng quay đầu lại phía bức tường. Một vật gì đó được ném qua tường vào bên trong, bung ra trong sân đúng lúc những tiếng súng vang lên.



Tôi xô người lính gác muốn giữ tôi lại, tiến lại phía bức tường. Tất cả tù nhân đều đi theo tôi. Trong tiếng hỗn loạn, tôi còn nghe thấy phía bên kia bức tường có người nói: “Nhặt xác đi. Cô ta chết rồi”.

Liễu là ai? Em vụt qua đời tôi như ngôi sao đổi ngôi. Em đi đâu? Tìm em ở đâu?



Tôi buông người xuống đất. Thầy giáo chung phòng giam đưa cho tôi một gói giấy bị mở tung.



“Một con gà”, thầy nói, nước mắt lưng tròng.


-----------


Chú thích:

8 Vương Duy (701 - 761), một trong những nghệ sĩ lớn nhất đời Đường, nổi tiếng về hội hoạ, thi ca và âm nhạc. Bài thơ tạ từ này đã được hát khắp đất nước Trung Hoa.

9 Dịch nghĩa:

Khúc Vị Thành

Tại Vị Thành, mưa sáng làm ướt lớp bụi nhẹ
Bốn kiếp thùy liễu
Giới thiệu
Kiếp thứ nhất
Kiếp thứ nhì
Kiếp thứ ba
Kiếp thứ tư