watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Bốn kiếp thùy liễu-Kiếp thứ nhì - tác giả Sơn Táp Sơn Táp

Sơn Táp

Kiếp thứ nhì

Tác giả: Sơn Táp

G ia đình tôi vào cung hồi giữa thế kỷ XIV, khi tướng Chu Nguyên Chương sau khi đánh đuổi quân Mông ra khỏi đất Trung Hoa lên xưng vương và lập ra triều Minh. Ngài ban thưởng các chiến hữu và phong cho cụ tổ tôi là tướng Minh Khải tước hiệu Vĩnh Phúc công.



Trong ba thế kỷ, qua mười thế hệ, gia đình tôi không ngừng theo đuổi vinh hoa, phú quý và quyền lực. Đàn ông thì giữ chức vụ cao còn đàn bà thì được gả vào các gia đình quyền quý.



Rồi một ngày, cùng với nạn đói, nhiều băng đảng trộm cướp xuất hiện. Chúng hoành hành khắp nơi, làm bá chủ các địa phương, bao vây Bắc Kinh và công phá cồng Cấm Thành. Hoàng đế thắt cồ tự tử trong vườn thượng uyển, và tướng Lý Tự Thắng, thủ lĩnh bọn phiến loạn, lên ngôi.



Các rợ ở Mãn Châu nhân sự hỗn loạn bên trong đất nước Trung Hoa, liền tràn xuống phía Nam. Có một viên tướng phản bội, ra mở cổng thành cho chúng. Lý Tự Thắng, kẻ cướp ngôi, trúng một phát tên xuyên qua người mà chết. Thủ lĩnh rợ bên ngoài trở thành chủ nhân mới của Cấm Thành, lập ra triều Thanh.



Gia đình tôi có ba trăm người bỏ mạng trong làn khói chiến tranh hoặc dưới lưỡi búa đao phủ. Một cụ tổ của tôi may mắn thoát cuộc tàn sát. Cụ lang thang suốt hai năm trời rồi cuối cùng định cư tại cao nguyên Tây Nam. Những dòng sông dữ dội, những triền núi cao chót vót, nơi cư trú của các đám dân hoang dã, đã bảo vệ cụ và giữ kín bí mật nguồn gốc của cụ. Cụ thay tên đổi họ, cưới vợ, cả cuộc đời còn lại cụ chỉ làm một công việc chăn nuôi.



Trong thời kỳ dài đằng đẵng đợi cho triều đại Mãn Châu sụp đồ để cho các vị quan phấm quay trở lại triều đình, các cụ tổ của tôi không hoạt động gì cả mà chỉ lo làm giàu. Gia đình đông con gái, thường gả cho các thổ quan; làm thế là để nuôi ảo tưởng khôi phục lại quyền lực vô song của gia đình Nhưng hình như bị trời trừng phạt mà gia đình rất hiếm con trai. Trải qua nhiều thế hệ, gia đình tôi lúc nào cũng đứng trước nguy cơ tuyệt tự.



Cha tôi cưới con gái một đại thương gia vùng Tây Nam. Của hồi môn của bà gồm đất đai rộng lớn, hàng đàn gia súc và nhiều cửa hàng. Hai năm sau hôn lễ, cha tôi mua thêm hai thiếp. Các bà đó, chẳng bà nào sinh hạ được cho cha tôi một mụn con



Sau rồi, mẹ tôi, người đàn bà khả kính sau ba nghìn ngày nhiệt tâm cầu kinh và theo phương pháp chữa trị vô cùng đau đớn của một bà phù thuỷ, bà đã mang thai. Anh tôi và tôi những ngày đầu tiên cùng sống chung với nhau trong bụng mẹ, đầu đối đầu. Chúng tôi gắn bó với nhau như một cơ thể duy nhất.

Không gian sống của chúng tôi sớm trở nên ngột ngạt. Tôi phải vật lộn để được thoải mái hơn. Anh tôi cũng làm như tôi, nhưng những cú huých của anh mạnh hơn. Anh ấy xuống tấn, chèn tôi, bóp nghẹt tôi, dẫm đạp lên tôi, đạp đầu tôi xuống để vươn lên.



Tôi nghe thấy những tiếng kêu xa xôi. Một giọng người tôi chưa từng nghe thấy đang rên lên vì sung sướng và tự hào. Tôi hiểu rằng anh tôi đã bỏ tôi. Nỗi cô đơn làm tôi kinh sợ. Buồn bã, thất vọng, tôi không biết nên ngủ đi hay là nên gắng sức. Tôi cong người đập đầu vào bức tường mềm mại bao bọc lấy tôi. Tôi hoàn toàn kiệt sức, ngột thở, thế rồi bỗng nhiên không khí mát mẻ, ánh sáng và cái lạnh ùa đến! Người ta nắm lấy hai chân tôi, đánh vào đít tôi. Lạnh quá! Lạnh quá! Tiếng kêu thoát ra từ cổ họng tôi, và tôi bật khóc.



Gia nhân vội vã may thêm áo. Anh tôi và tôi được đặt trong căn buồng ấm áp, nằm cạnh nhau trên cùng một giường, cả hai đều được quấn trong chăn bông lụa. Tiếng bước chân lại gần. Một đám đông vào phòng.

“Con trai Xuân Di của ta đâu, “Điềm lành mùa xuân” của ta đâu?” giọng đàn ông nôn nóng hỏi.

“Đứa to hơn, hồng hơn, cái đứa kêu to nhất ấy, thưa lão gia”, một giọng kéo dài lê thê đáp lại



Rồi những lời chúc tụng cất lên, Người ta khen anh tôi, ca ngợi vẻ đẹp của anh ấy. Những tràng pháo cười giòn giã.



Giọng phụ nữ, cương quyết nhưng hơi run cất lên khiến ai nấy im bặt: “Con bé gái này quá gầy yếu, nó không chắc sống nổi đâu. Con trai ơi, dù sao cũng cứ phải đặt tên cho nó. Rồi sau đó, gọi thợ đến đóng cho nó một chiếc quan tài”.



Những tiếng thì thầm nổi lên. Họ bàn bạc với nhau rồi thống nhất đặt tên cho tôi là Xuân Ninh, “sự yên ả của mùa xuân”.



Mắt nhắm nghiền, lông mày nhíu lại, tôi chìm vào lặng thinh. Thỉnh thoảng, tiếng anh tôi cười hả hê lôi tôi từ sâu thẳm của thế giới Bóng tối trở về. Tôi bỗng khóc thét lên. Má tôi rát bỏng, giọng tôi như xé vải. Tôi tìm cách thách thức với anh tôi. Đứa con trai được kích thích hét váng lên inh ỏi cho đến khi tôi ngạt thở và những tiếng thét của tôi trở thành những tiếng rên yếu ớt.



Bà tôi kéo tuột anh tôi ra khỏi bầu vú mẹ. Mẹ tôi suy yếu hoàn toàn sau kỳ sinh nở. Bà cho anh vào phòng của mình, tìm cho anh một bà vú to khoẻ, được ăn uống nhồi nhét như một con ngỗng nhà nuôi. Khi Xuân Di đi rồi, mấy ngày sau thì tôi tăng cân.



Ba tuổi, anh tôi được mặc váy ngắn, đội mũ chiến nhẹ, rồi được đặt lên yên ngựa.



Khi vừa tròn bốn tuổi, bà cho mời thầy giáo nổi tiếng tỉnh Tứ Xuyên về dạy học cho anh ấy.



Ít lâu sau, bà chết ở đám tang của bà, người ta nắm tay tôi đẩy về phía một đứa con trai nhỏ có khuôn mặt cau có.

“Xuân Di, đây là em Xuân Ninh của mày; Xuân Ninh, đây là anh Xuân Di của mày”, người ta nói với chúng tôi.



Tôi quỳ xuống chào. Anh ấy mặc tang phục may bằng vải lanh trắng. Tôi chỉ có kỷ niệm về anh trai tôi quấn trong tã trắng, suốt ngày lắc đầu gào thét. Trong năm năm tách nhau, anh ấy lớn lên nhiều. Tôi không nhận ra được khuôn mặt anh ấy, ngày xưa bé tí tẹo, đỏ hỏn và đầy nếp nhăn. Anh ấy cao hơn tôi một cái đầu. Những bài tập võ làm cho cánh tay anh ấy nở nang, đôi vai dày cuồn cuộn. Má đầy thịt bao xung quanh cái mũi tẹt dí xuống mặt Anh ấy khinh khỉnh nhìn tôi vẻ thù địch Tôi mỉm cười. Anh ấy cong môi trên lên, đáp lại bằng một cái nhăn mặt khủng khiếp. Tôi sợ, nước mắt rưng rưng. Anh tôi quan sát tôi, vẻ mãn nguyện. Tôi cố gắng hết sức không khóc, mỉm cười với anh ấy lần nữa. Anh ấy quay đi.



Sau hôm đưa ma, người ta không cho anh ấy bú vú nuôi nữa và cho ở với mẹ của hai chúng tôi. Nhưng anh ấy trốn đi gặp vú nuôi đang làm việc trong bếp. Vú vứt đồ làm bếp xuống, ôm anh ấy vào lòng khóc nức nở. Cả hai trốn trong góc chứa đồ. Bà ấy cởi khuy áo ra. Anh tôi nằm trên đầu gối bà, mắt nhắm hờ, bám lấy bầu vú bú chùn chụt. Tay còn lại vặn vẹo chơi nghịch bầu vú bên kia. Anh ấy ngủ thiêm thiếp, mơ màng, chìm vào mùi thơm da thịt của vú nuôi.



Thế rồi cả hai bị phát hiện. Chồng của vú làm việc trong chuồng ngựa được gọi đến, người ta cho ông ta một món tiền. Sáng hôm sau, ông ta gói ghém hành lý ra đi, mang theo cả người vợ. Xuân Di không thấy vú nuôi nữa, lo lắng điên cuồng. Anh ấy một mình bí mật sục sạo chuồng ngựa, nhà bếp, nhà kho, vào cả trong các buồng lạnh đã được đóng chặt bằng khoá to qua lối cửa sổ, lật rèm che phòng ngủ, rũ gối, tìm trong từng góc vườn. Anh ấy không tin được là vú nuôi có thể biến mất, nên quyết tâm tìm cho bằng được cho dù vú có biến thành bông hoa, thành cái bóng hay thành hơi nước. Mùi da thịt vú ám ảnh anh. Anh ấy đánh hơi như chó dại. Đêm, anh ấy tỉnh dậy, âu sầu thiểu não.



May mắn thay ngày tháng trôi đi. Nỗi ám ảnh giống như giấc mơ biến mất. Anh trai tôi tìm thấy niềm vui mới.



Anh ấy được phép ra khỏi nhà nếu có gia nhân đi kèm. Họ cưỡi ngựa một mạch xuống núi theo hình chữ chi. Phía dưới, đồng cỏ trải rộng đến tận chỗ trời cao cúi cong xuống, hoà vào trong bao la. Ngẩng đầu lên có thể thấy ngôi nhà kiên cố, giống một con đại bàng đậu trên mỏm đá bo bo canh giữ đất đai của mình. Đám người phi nước kiệu. Trái đất run lên, thảo nguyên lao lên, trùm xuống, ào sâu vào con ngươi và lồng ngực của anh. Đôi lúc, cả bọn dừng lại vì một toán kị sĩ trong những bộ quần áo kỳ lạ vấy bẩn tiến đến gần. Cả đoàn chờ cho toán kị sĩ lại gần và xuống ngựa. Anh trai tôi ngạc nhiên nghe thấy mình được gọi là thiếu gia. Anh tôi khinh khỉnh quan sát đám người hoang dại đó cúi mình rất thấp để chào anh.

Một hôm, viên quản gia tháp tùng anh trai tôi quàng tay vẽ một vòng và nói:



“Thưa thiếu gia chủ, những ngọn núi này, đất đai này và súc vật kia là của người. Bọn người kia là nô lệ của người”.



Theo cánh tay của tên quản gia, mắt anh tôi đưa từ mỏm núi này sang mỏm núi khác rồi dừng lại trên thảo nguyên nơi gió thổi bạt cây cỏ tạo nên một đường chạy dài như một đường cày rộng. Anh hắng giọng, muốn nói một câu gì đó trang nghiêm. Nhưng trong đầu anh chẳng có gì mà nói. Bỗng nhiên có tiếng vỗ cánh đồm độp, một con sếu bay ngang trời.



“Sếu trắng kia, của ta!”, anh trai tôi mừng rỡ kêu lên rồi chạy bổ theo để bắt.



Anh tôi cảm thấy mình côi cút kể từ khi bà tôi qua đời Anh tôi hoàn toàn bối rối khi được dẫn tới gặp mẹ. Ngược với bà tôi lúc nào cũng chung thuỷ với màu áo lam, mẹ tôi lại mặc toàn lụa và gấm đẹp. Tóc mẹ đen nhánh, dùng dầu quế chải bóng mượt. Một con chim phượng miệng ngậm viên ngọc to trang trí búi tóc của mẹ. Anh tôi ngắm mẹ, miệng há hốc ra, chẳng nghe được gì chẳng nghe được tiếng ai nói hết. Mẹ tôi thở dài đứng dậy bỏ mặc anh tôi đang đờ người ra đó. Anh đứng như tượng phỗng, lòng tràn ngập một nỗi buồn lạ lùng. Đôi khi, tâm trạng mẹ vui vẻ, mẹ để cho anh ngồi cạnh rồi hỏi anh muốn ăn gì, thích đồ chơi gì, việc học hành của anh thế nào. Mẹ đặt bàn tay nặng những nhẫn lên đầu anh, anh tôi thẹn đỏ như gấc, người cứng đờ lại.



Anh trai coi khinh tôi. Bà tôi không bao giờ nói với tôi nửa lời, bà dạy cho anh biết kiêu ngạo khi là thân trai, là người nối dõi tông đường. Tuy nhiên, anh vụng trộm quan sát tôi. Đối với anh, những việc tôi làm lúc thức dậy, lúc một nhũ mẫu và hai thị nữ hối hả tắm cho tôi, chải tóc rồi mặc quần áo cho tôi, là một nghi lễ đáng xấu hổ. Buồi chiều, sau khi phi ngựa một vòng trở về, người đầy bụi và mồ hôi, anh thấy tôi đang ngồi một chỗ tránh nắng và tránh gió. Tôi đứng lên bắt chuyện với anh.



Lúc nào nhìn thấy anh, tôi cũng thấy vui vẻ. Còn anh thì nhìn lại tôi đầy vẻ khinh rẻ tàn bạo đến mức hễ còn cách anh năm bước là tôi đứng sững lại không dám bước tiếp nữa.



Đối với tôi, trả thù anh rất dễ. Xuân Di lúng túng trước những âu yếm vuốt ve của mẹ, còn tôi lại nhào vào vô cùng thích thú. Nằm trên đầu gối mẹ, tôi vặn vẹo người, vầy vò váy lụa của mẹ, chơi với các đồ trang sức của mẹ, hít hà mùi nước hoa của mẹ. Sự sỗ sàng này làm anh tôi bực bội tức giận vì anh cảm thấy mình lố bịch.



Một đêm, tiếng tôi hét làm anh thức giấc. Anh đứng lên trên nệm, vén màn rèm lên, rồi tuồn ra khỏi giường. Bà nhũ mẫu cùng ngủ trong phòng với bọn hầu gái biến đâu không biết. Tò mò, anh tôi đẩy cửa bước ra sân. Những bóng đen in hắt trên lối đi đến toà nhà đối diện, từ đó có tiếng tôi kêu khóc và rên rỉ.



Anh tiến lại gần cửa sổ, nhấm nước bọt cho ướt ngón tay, rồi làm thủng một lỗ trên tờ giấy bản rồi dán mắt vào đó. Những gì anh nhìn thấy làm anh sợ chết cứng. Anh thấy tôi ngồi trên giường váy kéo lên, và được một hầu gái mặc bộ đồ chàm giữ lấy. Bà quản gia, trước kia là vú nuôi của mẹ tôi, ngồi trên ghế đẩu trước giường, tay áo xắn lên. Bà tay cuốn băng quanh bàn chân tôi. Mỗi một vòng, bà lại thít chặt lại. Ngoài tiếng nức nở của tôi chỉ có sự im lặng trang trọng. Trong bóng tối, anh tôi thấy bà nhũ mẫu của anh tay cầm kéo, bên cạnh là một nữ tỳ bê chậu nước và một nữ tỳ khác bê một cái giỏ. Quần áo màu sặc sỡ của họ thành những mảng đen trong bóng tối. Mẹ ngồi trên ghế, tựa lưng vào tường, hơi cau mày mỗi khi tôi kêu quá to.



Cuốn băng xong, bà quản gia khâu nó lại. Chiếc kim lấp lánh. Mẹ đưa cho bà ta cuộn băng thứ hai để bó nốt chân kia. Các đốt ngón chân đau nhức, tôi khóc lóc giãy giụa. Một bà nhũ mẫu lấy cánh tay ghì chặt tôi lại. Thỉnh thoảng, một cô thị tỳ lấy khăn ướt lau mặt tôi đẫm nước mắt và mồ hôi. Thay vì đến giúp tôi thì anh tôi lại run lẩy bẩy ngoài cửa sổ. Gió rú ngoài vườn, lá xào xạc. Một con chim cất tiếng khàn khàn rồi tung mình vào bầu trời. Kinh hoàng không thể tả được, anh tôi trốn vào phòng riêng, chui xuống đống chăn.



Đêm đó, tôi không ngủ được. Cạn nước mắt vì khóc, tôi rên khừ khừ. Nỗi đau đớn ở chân tôi lan ra khắp nơi, đùi tôi ngứa ngáy. Ngày hôm sau, người ta bắt ép tôi đứng lên. Dù tôi van xin thảm thiết, nhưng tôi vẫn bị bắt buộc phải đi lại trên đôi chân bó chặt. Yên lặng bất thường ngự trị trong vườn. Người ta nói anh tôi bị sốt.



Anh ấy nằm liệt giường mười ngày.





Năm lên sáu tuổi, anh tôi và tôi đã tỏ ra có tính cách trái ngược nhau. Xuân Di hung hăng và hiếu động còn tôi lại biết kiềm chế tính đỏng đảnh, biết giữ ý tứ trong lời nói, biết đoán trước những đòi hỏi của mọi người. Anh tôi thích chế ngự thiên hạ, còn tôi chỉ thích làm hài lòng người khác. Khuôn mặt Xuân Di là một vũ trụ hỗn độn mà ở đó thiên nhiên chưa định hình. Gió, mây và mù dày đặc vần vũ giữa đất và trời. Anh ấy có mũi quá to, đôi má quá phình, mí mắt quá hụp làm cho đôi mắt chỉ còn tựa như hai đường kẻ mảnh - có thể gọi là giống bố. Người ta nói rằng khuôn mặt tôi có những nét đẹp nhất của ông bà tôi, lộng lẫy và kiêu sa. Ngay cả cha chúng tôi, người nghiêm khắc và ủ ê, đôi lúc cũng tỏ ra cảm động khi nhìn tôi. Cha trút tiếng thở dài và phàn nàn tại sao tôi lại không phải là con trai.



Ngôi nhà của chúng tôi vốn chỉ là một nơi trú ấn, một pháo đài, một vương quốc của những kẻ bị lưu đày. Qua nhiều thế kỷ, gia đình tôi cố gắng phục hồi lại vẻ huy hoàng, thanh tao ngày xưa. Nhưng nằm trong một vùng thiên nhiên chỉ có thể có được cái hùng vĩ và sự thô kệch, con mắt nhìn của cha ông tôi cũng biến đổi. Cách xa đô thành, tin tức hiếm khi đến được với các cụ, thế là các cụ chỉ biết đến vẻ lộng lẫy của quá khứ qua những bức chân dung các cụ tổ và những câu chuyện truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác, rút cục các cụ đã biến ngôi nhà thành một sự phô trương kiêu kì đầy mâu thuẫn.



Tường nhà rất dày, quét sơn đỏ, mùa hè thì mặt trời thiêu đốt, mùa đông thì gió bấc đập ình ình, đôi chỗ bở ra, rơi xuống để hở những viên đá đen, nơi cho địa y xanh bám vào. Cánh cửa trang trí bằng đinh đồng đóng trên khung cửa vẹo vọ vì mưa gió nắng sương. Các tấm đá lát được đẽo cắt thô thiển, màu xám xỉn lót lối đi. Cây cối không có chút dịu dàng nào: những cây thông, cây trắc bách diệp, các loài tùng bách cành lá xoắn xuýt vào nhau vì gió thổi quá mạnh, sét đánh nứt cả thân cây tạo thành những ngọn giáo thép được nước mưa mài sắc thêm. Một cụ tổ nào đó trồng được mấy cây thùy liễu. Nửa thế kỷ sau, thân liễu bắt đầu rỗng, lại bị sét đánh, cành liễu tàn tạ xơ xác rạp xuống tận mặt đất. Nhưng mỗi khi gió nổi lên, tự nhiên đám cây cối nổi hứng lạ kỳ, chúng cùng nhau nhảy múa.



Mấy khóm đỗ quyên, loại hoang dại nhất, cũng ra được hoa nhưng than ôi chỉ là những bông hoa ốm yếu bé tí. Hoa hồng leo lên tường nhà, nở ra những bông hoa xỉn màu và hương chúng chỉ thơm thoang thoảng. Chính vì vậy mà gia đình chúng tôi rất quý hoa mẫu đơn, loại hoa sống trên núi đá mà vẫn không mất đi vẻ đẹp rực rỡ và cao quý. Các cụ nhà tôi còn lại tạo những giống mẫu đon mới, lấy tên của các nữ hoàng triều Minh mà đặt. Mẫu đơn chẳng tìm cách quyến rũ chúng tôi, ngược lại, chúng làm cho cuộc sống của chúng tôi càng thêm đau đớn tan nát bằng cái lối bất ngờ nở rộ như sét đánh.



Những cái chòi sơn son được lợp mái ngói đá đen. Những cửa sổ có hình thù chạm trổ, những cánh cổng hình mặt nguyệt làm chúng tôi vui mắt. Những dãy hành lang có mái lợp nối liền các ngôi nhà chạy ngoằn ngoèo qua vườn. Chúng che nắng, che mưa, che tuyết cho chúng tôi. Hai trăm căn phòng tạo thành một mê cung. Để đi lại từ nhà này qua nhà nọ, phải mở cửa, nâng rèm, đi ngang một vách ngăn có hình chạm trổ rồi vòng qua bức tường chắn bằng đá hoặc tấm bình phong sơn thếp và khảm xà cừ.



Anh tôi khoái trá chiêm ngưỡng cơ ngơi rộng rãi đượm vẻ tăm tối này. Một vết nứt, một con thằn lằn hoặc thậm chí là một mạng nhện, cả cái gì đó xấu xí cũng đều làm anh ngạc nhiên và mơ màng. Anh chú ý đến rất nhiều căn phòng không người ở, những góc không ai đặt chân vào đầy ắp bóng tối và bụi bặm.

Bầu trời của chúng tôi có màu xanh ngọc còn mặt trời thì đỏ thắm. Nhưng ở vùng núi này, xen lẫn với những buổi đẹp trời là những ngày bão táp. Anh tôi sợ tiếng đất gầm gào, sợt tiếng sấm nổ đùng đoàng nhưng lại thích những giây phút hiếm hoi trước cơn giông, lúc mà bầu trời thì không một gợn mây, và những cột mây mù mịt xô đấy nhau ở phía dưới thung lũng. Trên đỉnh núi, một thứ ánh sáng xanh xao soi lên mái nhà, trèo vào trong vườn, làm biến mất mọi bóng hình. Một nỗi âu lo khó tà từ ngọn cây bò xuống, làm cho những người hầu gái mặc quần áo lụa cảm thấy hoảng hồn, xua đuổi lũ côn trùng đang trốn trong những đọt cây.



Anh trai tôi ghét những ngày lễ Tết, khi cả ngôi nhà như bừng tỉnh sau những ngày dài u ám. Việc chuẩn bị được kéo dài nhiều ngày, tùy theo tầm quan trọng của từng dịp. Người ta lau chùi nhà cửa, treo đèn lồng trong phòng khách có bày biện bàn ăn. Có tiếng ư ử hát, tiếng váy sột soạt, tiếng cười như những hạt ngọc lăn tròn từ phòng này sang phòng khác, rồi tràn ra đầy ắp khuôn viên. Vàng bạc, châu báu, nhung gấm lụa là lóng lánh khắp nhà, những món đồ chơi xem ra cũng có vẻ quý giá, treo đầy tường là tranh vẽ, thư pháp của các bậc thầy. Anh tôi đi dạo quanh quanh, người cứng đờ trong bộ quần áo mới, lòng không vui. Anh lỉnh vào bếp, nơi người ta hối hả nhặt rau, gọt củ, cắt tiết gà, treo thỏ lên đế lột da, nhổ lông gà gô, đôi khi còn chọc tiết lợn nữa. Máu động vật sùi bọt làm anh chóng mặt. Thấy mặt anh tái xanh tái xám, những người làm trong bếp buông lời pha trò trong khi vẫn thọc sâu đôi tay vào lòng ruột con vật. Anh tôi co rúm người lại, muốn ngoảnh mặt đi, nhưng có sức thôi miên kỳ lạ cứ níu anh lại. vẫn còn đờ đẫn, anh được dẫn đến trước mặt khách mời là những vị quyền cao chức trọng trong vùng, bụng phệ, nhạt nhẽo và trang sức phủ đầy người. Có cha giám sát nên anh buộc phải nói chuyện với mấy vị này. Họ hỏi han anh chuyện học hành, rồi cất giọng the thé nói chuyện với nhau về lịch sử, đọc thơ, bàn về về du ngoạn và các sự kiện xảy ra. Anh cảm thấy hoàn toàn xa lạ với những người này và chỉ muốn nhớ lại cảnh cạo lông máu me trong nhà bếp, nhớ lại những con mắt đau đớn và lóp da hồng của những con vật bỗng biến thành đỏ thẫm.



Bị anh trai khinh thị, lại không có ai là bạn ngoài mấy người hầu buồn thảm, tôi sống một cuộc đời đơn độc. Niềm vui thú nhất của tôi là ngửa đầu ra đằng sau đi lang thang trong các dãy nhà. Đi từ phòng này sang phòng khác, tôi ngắm nghía những tấm hoành có hoạ tiết nối ngang các cột nhà. Tôi tìm cách nhận diện ở đó những nhân vật truyền thuyết, các anh hùng trong sử sách và những con vật huyền thoại.



Rồi tôi ra nằm mơ mộng dưới gốc cây. Thỉnh thoảng mây trắng đến chói mắt đột nhiên chồng chất thành đống trên trời tạo thành quả núi. Những tia nắng màu tím, màu xanh, màu xám vây quanh những đám hơi nước, khoét thành những thung lũng, cắt thành những thành vách, tỉa hình những mỏm núi. Có gì trong những đám mây nhỉ? Truyền thuyết kể lại rằng mây cõng trên lưng cả một xứ thiên đường, ở đó, trong những cung điện, chủ nhân của chúng là những người bất tử, sống cuộc đời không lo âu và đầy lạc thú.



Không như Xuân Di, tôi lại nóng lòng mong đến ngày lễ Tết, thời gian trôi chậm chạp muốn làm tôi chết. Hương, khói, pháo hoa, đèn lồng son, những món ngon, quần áo thêu thùa và cả những nghi lễ chán ngắt đều làm tôi cảm nhận thấy sự tồn tại của các vong hồn.



Tại sao mùa thay đổi? Năm mới mang đến tuyết và lạnh, Vào Tết Nguyên Tiêu, gió bấc thổi ù ù, những chiếc đèn lồng rung rinh, hắt ánh sáng yếu ớt lên lớp nhũ đá lạnh cứng. Vào tết Thanh Minh, tuyết vẫn còn đọng lại nhưng bị mặt trời nhuộm đen. Đâu đó vang lại những tiếng róc rách bí ẩn, nước nhỏ giọt xuống từ đám lá cây, đập tong tong vào mái nhà. Vào lễ Đoan Ngọ, mồng năm tháng năm âm lịch, người ta làm bánh nếp gói lá tre, người lớn buộc dây lạt nhuộm xanh nhuộm đỏ vào cánh tay chúng tôi để đánh lừa ma quỷ, những kẻ gieo rắc bệnh tật. Sau ngày Tết, mùa xuân ngự trị trên núi. Từ những miền đất xa xôi, hạc trắng quay trở về, cánh giang thẳng trên trời. Tại sao ngày lại dài ra? Tại sao không khí đặc hơn? Cây cối hít thở, uốn đưa, vươn dậy, hướng thẳng lên bầu trời. Những chú ong bụng đốm đập đập đôi cánh trắng bạc. Ai cho chúng niềm vui làm mật nhỉ? Một chú bướm leo lên tận trên đỉnh núi chót vót, lượn lờ dưới những thân cây. Bàn tay thiên thần nào vẽ nên vẻ duyên dáng của nó? Mùa hè trôi qua, tết Trung Thu gọi mùa thu tới. Vì tinh tú nhẵn nhụi và tròn trịa soi sáng cánh rừng bắt đầu thưa lá. Người ta thấy rõ màu đỏ trên cánh rừng, màu vàng trong các bụi cây, nho lủng lẳng dưới giàn đầy lá. Ngôi nhà kiên cố nghiêng mái trên đó có những hình ác thú quỳ gối tạc bằng đá hoa cương. Hỡi các anh bạn ác thú của tôi, những người canh giữ cho những buổi đêm yên tĩnh, các anh có thấy thần núi đi ngang qua chăng? Mùa thu đi qua vào ngày mồng chín tháng chín, vào dịp tết Trùng Dương. Lúc đó, những chậu cây hoa cúc được mang tới, mùi ẩm ướt, vẻ mong manh báo hiệu sắp đến lúc tuyết rơi. Mùa đông ơi, ngươi đi đâu, rồi ngươi từ đâu quay lại?



Vào những ngày lễ Tết, tôi ngồi vào bàn dành cho phụ nữ dựng ở những căn phòng phía trong, tôi chỉ được nhìn thấy các vị khách mời khi tham dự cảnh biếu diễn. Trong vườn theo truyền thống của những gia đình giàu có, các cụ tổ cho xây một cái chòi dùng làm nơi biểu diễn ca kịch. Một cái ao ngăn đôi chỗ ngồi của khách nam và khách nữ. Gió mang lại cho tôi nghe chuyện của đám người ngồi phía bờ bên kia. Họ nói về những thị thành xa xôi, bí ấn, những phong tục kỳ lạ. Họ nói cả chuyện ma, chuyện người hiện hồn, cả chuyện người da trắng mắt nâu.



Tôi rất hay nghe thấy tên Bắc Kinh, thành phố của vạn sự phồn hoa kỳ thú. Thế thì Bắc Kinh ở đâu nhỉ? Làm sao đến được đó?

Ở đó có bao nhiêu nhà? Bao nhiêu mèo? Có bao nhiêu người con gái như tôi? Bờ hè đường ở đó có màu gì? Ở đó có chim nô đùa trong lá không? Có sư tử đá đứng trước cửa chế nhạo người đi ngang qua không?



Tôi có một nhũ mẫu già người thường chải bộ tóc dài của tôi. Mồ côi từ nhỏ, bà sinh ra ở một tỉnh lị xa xôi, vẫn giữ kỷ niệm về một vùng đất xanh tươi được tưới tắm bởi những dòng sông đầy ắp cá. Bà mất cả con lẫn chồng trong trận dịch tả, rời bỏ vùng quê mình, bà được nhận vào làm nàng hầu trong một gia đình quan phẩm. Mỗi khi ông chủ đổi chỗ làm, bà cũng đều đi theo để hầu bà chủ. Trong chiếc xe do la kéo, giữa các gói đồ đạc và hòm xiểng, bà quan sát thế giới bên ngoài qua kẽ rèm. Bà quen dần với tiết trời đặc sương mù, bà quen nghe những giọng nói chói tai, quen với con đường dài tối tăm, ấm ướt, chen chúc đầy những người bán hàng. Bà tự đày ải mình đi từ thị thành này qua thị thành khác. Đời bà là một cái trượt dài tới chốn lạnh giá, chốn im lặng, tới vùng đất khô rắn, càng ngày càng cằn cỗi hơn.

Bà biết tới hàng nghìn số phận đủ thoả mãn trí tò mò của tôi.

Sáng khi ngủ dậy, bà đoán mộng cho tôi; buổi tối trước khi đi ngủ, bà kể chuyện ma để giữ tôi ngồi im trên giường. Đôi bàn tay bà thô và nhám chải đầu cho tôi, cử chỉ của bà chậm và chẳng biết thương hại là gì. Đôi khi tôi có cảm giác cái phần hồn của tôi bị kéo căng ra, bị chải bới và sắp tuột khỏi cổ, rớt xuống theo mái tóc của tôi. Tôi gào lên. Nhưng già Lý gầy gò, khô đét trong áo ngoài màu chàm, tóc bạc phơ cuộn thành búi tó, cương quyết tiếp tục nói:

“Đời ta chỉ là một quãng ngắn. Ta sống nhiều đời. Ta còn sống tiếp nhiều đời nữa”.



Không để cho tôi có thời gian kịp đặt câu hỏi, già Lý nói tiếp:

“Dưới đất, có một nước mà ngay cả mặt trời cũng không tới được. Ớ đấy cũng có nhà của, đường phố, thành thị giống như ở đây vậy. Nhưng lúc nào cũng tối om. Trên bầu trời đen sì có một vầng trăng xanh xao. Người ta gọi xứ ấy là Âm Phủ bởi vì đó là nước của các vong hồn.

- Vong hồn là cái gì? - Một buổi sáng tỉnh dậy tôi hãi hùng kêu lên.

- Là tất cả những ai từng sống trên đời này, còn bây giờ thì không sống trên trái đất này nữa. Vũ trụ chia thành ba tầng. Tầng thứ nhất dành cho người sống, tầng thứ hai dành cho vong hồn và tầng thứ ba dành cho những vì tinh tú. Trời trông nom mọi thứ, quỷ sứ và cầy cáo đi lại trên cả ba tầng này, chúng lạc lối, có thể phục vụ cho các ác hoặc cũng có thể phục vụ cho cái thiện. Ta ở đây là trái đất, có Bắc Kinh, có Cấm Thành là nơi mọi người quỳ lạy tnrớc hoàng đế. Ở dưới kia là Âm Phủ, người ta cũng tuân lời vua dưới đó, người ta gọi nơi ở đó là Địa Ngục. Cuối cùng, ở phía trên chúng ta là nơi ngự trị của nữ hoàng cai quản trời đất, quyền uy vô song.

- Nhưng bóng tối không làm vua đau khổ hay sao? Vua không sợ bóng tối à? Ông vua nước Âm Phủ làm gì cả ngày?

- Ông ta tra cứu một quyển sách dày ghi rõ ngày sinh và ngày chết của chúng ta. Vào ngày mệnh đã định, ông gọi quỷ sứ đến, cử chúng lên mặt đất. Chúng phải tìm ra người bị kết án, dù người này trốn ở bất kỳ chỗ nào chúng cũng tìm ra. Chúng lôi họ đi, kéo cổ xuống tận Địa ngục. Diêm Vương vua Âm Phủ sẽ phán xử họ. Kẻ nào vô tội sẽ được thả, đi lang thang khắp các phố tối om và buồn bã. Kẻ nào có tội sẽ bị trừng trị, nhục hình sẽ rửa sạch mọi tội lỗi. Đến ngày tái sinh, lũ quỷ sứ lại trói mọi người một lần nữa. Chúng lôi mọi người đến cửa Địa ngục, ở đó có cái bánh xe quay khổng lồ. Lũ quỷ dùng hết sức đẩy ta vào đấy. Ta ngã xuống, bánh xe khổng lồ sẽ cuốn ta vào những vòng quay vĩnh cửu. Chúng ta tỉnh dậy đầu thai vào một kiếp mới và trải qua một số phận khác như chó, mèo, đàn ông, đàn bà, giàu hay nghèo, vua hay ăn mày. Tất cả phụ thuộc vào nhân đức mà ta tích được ở kiếp trước.



Mắt giương to, miệng há hốc, quá đỗi bàng hoàng trước bí ẩn vừa biết, tôi đứng lặng người. Trước thái độ quá đỗi ngạc nhiên của tôi, già Lý âm thầm sung sướng và không bỏ qua cơ hội phô bày hiểu biết của mình:

“Tại sao chúng ta lại có những mối quan hệ đặc biệt với một số người nào đó thôi? Tại sao lại có những người làm cho ta vui sướng, còn những người khác lại làm ta đau khổ? Tại sao họ đến với chúng ta trong cuộc đời này để rồi vội vã lìa xa chúng ta, bỏ rơi chúng ta trong nỗi đau buồn vô vọng? Tại sao họ được sinh ra để trở thành cha mẹ ta, thành anh chị em của ta, hoặc làm con chó con mèo của ta, hay làm thân con kiến mà không may chúng ta xéo nát dưới đế giày? Tại sao chúng ta lại bị phản bội, lừa dối, lại được yêu và được người khác xả thân vì ta? Đấy chính là cái nút của nghiệp chướng! Qua những số kiếp không ngừng được tái sinh liên tiếp, các linh hồn đi tìm kiếm giải thoát những gánh nhân quả tiền kiếp”.



Má già Lý đỏ ửng, mắt long lanh. Suốt đời đã trải qua, già luôn luôn thành tâm cầu nguyện trời phật, luôn luôn hỏi ý kiến các ông thầy bà đồng, luôn luôn cầu khấn các oan hồn để được giải thoát khỏi vòng luân hồi.



Tôi bẽn lẽn hỏi già Lý không biết khi nào đó tôi có thể trở thành kiếp chim được không. Già chỉ mỉm cười mà không trả lời.

“Thành một con bướm hay một con chuồn chuồn cũng được!” Tôi kêu lên. Ý tưởng có đôi cánh bay lượn thoải mái trên bầu trời làm tôi sướng rơn.



Bất chợt niềm vui của tôi biến thành nỗi lo âu. Nếu tôi là bướm thì mẹ tôi sẽ ra sao? Tôi hỏi già Lý. Liệu mẹ tôi có trở thành bướm mẹ được không? Có thể như vậy được chăng? Có thể ở kiếp đó, mẹ tôi sẽ là một công chúa, một con chim hay là một cái cầy. Mẹ sẽ chẳng biết đến tôi và không yêu tôi. Rồi còn cha tôi nữa? Và anh tôi nữa? Và rồi ông bà tiên tổ của tôi, họ sẽ là ai? Tại sao lại phải sùng kính ông bà cha mẹ nếu mọi quen hệ chỉ là thoáng qua?

“Hãy cầu nguyện đi, con ạ, phải chấp nhận số phận đã được dành cho chúng ta”.



Nhưng tôi không nghe chuyện của già Lý nữa, Tôi quay lại nhìn cái chòi biểu diễn ca kịch, nơi đó mấy diễn viên đã hoá trang xong, một số khác thì đang biểu diễn rồi, còn một số người nữa ngồi bệt xuống đất đợi đến lượt ra sân khấu. Tôi cảm thấy một nỗi cô đơn mênh mông.



Tôi là ai?



Tôi trèo xuống khỏi ghế, để yên cho người ta mặc quần áo cho tôi, bỗng thấy anh tôi đang rình ngó tôi ở cửa sổ. Anh ấy muốn trốn đi nhưng bị tôi giữ lại.

“Xuân Di, anh nghe thấy hết cả rồi! Em sẽ là con bướm bay lượn!”

Anh nhăn mặt, biến mất sau gốc ây.



Tức giận vì thái độ thờ ơ như vậy, tôi thề sẽ bám theo anh ấy đến tận kiếp sau, khi đó tôi sẽ làm người tra tấn anh.



Sau đó, tôi về phòng mẹ ăn bữa sáng. Đó là thời ỳì xương ngón chân tôi đang dần gãy, đôi bàn chân băng bó của tôi bắt đầu thâm tím lại, chảy máu và mưng mủ. Nhưng vẫn cứ phải đi. Đau đớn buốt da buốt thịt làm tôi phát khóc.



Sáng nay, mẹ có vẻ lo lắng. Nhìn thấy tôi khập khiễng đi tới, mẹ thở dài, ôm tôi vào lòng.

“Con gái tội nghiệp của mẹ, mẹ nói với tôi. Khi người ta bó chân cho mẹ, bà ngoại con lấy đá lăn lên chân mẹ cho xương gãy nhanh hơn. Chúng ta không có lựa chọn nào khác. Không có đôi chân bó đẹp đẽ, mẹ không thể gả con cho một đám tử tế được”.



Người mẹ thơm mùi bạch xạ. Lời mẹ nói ngọt ngào là niềm an ủi hào phóng giảm nhẹ đau đớn cho tôi.

Khi chúng tôi ăn cơm sáng xong, mẹ cho dọn bàn đi. Đám gia nhân bày trước mặt mẹ mực, giấy, sổ ghi chép, bàn tính gay bằng gỗ rồi thông báo cho mẹ biết các quản gia, kế toán và quản lý đang đứng đợi để báo cáo công việc với mẹ.



Từ khi bị bó chân, để an ủi tôi, mẹ cho tôi ngồi cạnh khi xử lý các công việc gia đình. Ngồi trên ghế, tôi hí hoáy vẽ bằng bút lông. Tôi thích cái giây phút trang trọng của buổi sáng yên tĩnh tuyệt đối này. Mẹ thừa hưởng của ông cái khiếu điều hành công việc. Mẹ biết cách nắm các khoản chi tiêu. Mẹ tính toán, suy nghĩ, ra lệnh với cách nói vừa dịu dàng vừa chắc nịch. Mẹ nói những từ giản dị để làm cho gia nhân tuân lệnh. Kẻ mắc lỗi thì phải chịu tra hỏi rất tỉ mỉ và phải giải thích đến từng chuyện nhỏ nhặt. Kẻ nói dối thì tái mét mặt mày dưới cái nhìn tinh sâu của mẹ đọc được mọi điều họ suy nghĩ.



Sáng nay, sau khi người quản gia ra khỏi phòng, tôi định đòi mẹ thề sẽ vẫn cứ là mẹ trong kiếp tới, thì đúng lúc đó cha đến thăm. Thấy cha đi vào, tôi không nói gì nữa, tôi cúi lạy cha rồi lẻn sang phòng bên cạnh.



Ngay khi đó, tôi nghe tiếng cha càu nhàu. Cha kêu ca khí trời oi bức, ánh nắng loá cả mắt, gió thổi tung cả quần áo của cha, và chuyện gia nhân hỗn hào.

“Ông cần bớt hút thuốc đi, mẹ tôi trả lời, giọng điềm tĩnh. Hút thuốc làm sức khoẻ của ông yếu đi”.

Cha tôi phá lên cười giọng miễn cưỡng.

“Ngu muội, cha nói, ngu muội!”

“Thời gian gần đây, ông gầy đi nhiều, mẹ tôi thuyết phục thêm. Thiếp nghe nói ở Quảng Đông, từ vài năm nay, người ta đóng cửa các nhà hút và trưng thu tất cả thuốc phiện, đem đốt trước dân chúng. Ông thấy đấy, ai ai cũng biết tác hại của nó”.

Tôi nghe thấy cha lên giọng:

“Im đi, im đi, mụ đàn bà ngu xuấn, đừng có nhúng mũi vào chuyện của ta”.

Cha tôi dừng lời, hạ thấp giọng hòng kiềm chế cơn giận dử:

“Cuộc sống là dòng sông chảy chậm chạp, mọi thứ đều bị cuốn trôi, không có cái gì ở lại. Tất cả trốn chạy, tất cả đều bốc hơi và biến mất ở ngay nơi trần thế này, ta có thể là trời nếu cứ tuần theo dòng chảy của vũ trụ, không ràng buộc vào điều gì hết, không sợ cái chết. Thuốc phiện là cái nâng đỡ trí tuệ. Nó giúp ta vượt qua những giây phút phù du và giao cảm với cái vĩnh hằng”.

Mới đầu, mẹ tôi giữ im lặng, nhưng rồi mẹ nói:

“Theo thiển ý của thiếp, vĩnh hằng là điều đi ngang qua chúng ta qua việc ta thờ cúng tổ tiên và dạy con cái biết khiêm nhường, biết tôn kính và biết cống hiến”.

Tiếng một đồ bằng sứ vỡ tan.

Cha tôi la lên:

“Con cái ư? Giời đất ơi, ta có đứa con trai vô dụng, không phẩm cách. Tại sao bà lại không bao giờ hiểu vinh quang của gia đình ta thế là đã hết. Sẽ không có gì trường tồn, chả có cái gì là trường tồn nữa hết. Hôm nay, ta còn được một cái nhà kiên cố, ngày mai, nó sẽ thành đống đá đồ nát. Phi lý, phi lý..Cha đi khỏi. Tôi còn nghe nhiều lần nữa cha lặp đi lặp lại “phi lý, phi lý”.



Ngay từ hơi thuốc phiện đầu tiên, người hút lập tức chìm sâu xuống vực thẳm, nơi đó hơi nóng và bóng tối liệm họ lại. Tiếp theo, đột nhiên là sự nhẹ tênh, là cõi tịch mịch... cái vô tận. Linh hồn tách ra khỏi thân thể bay là là ở một độ cao mà hiện tại, quá khứ và tương lai đều lẫn lộn, hoà làm một. Nằm trên giường hút, cha tôi mơ mơ màng màng, chiêm ngưỡng cuộc đời như một bức tranh mà săm soi những vẻ đẹp phù phiếm nhất của nó. Cha tôi ngẫm nghĩ về vũ trụ trống rỗng của chúng ta.



Khi thuốc phiện hết tác dụng, sau chuyến du ngoạn lơ lửng trong xứ sở các thánh thần, cha tôi quay trở lại với thực tế. Cha mở mắt ra. Phòng hút được soi sáng yếu ớt tựa hồ chiếc mõm ngoác rộng của một con quái vật. Cha tôi đứng dậy, gọi người hầu đến nhưng không ai đến. Cha đi vài bước, đẩy cửa ra. Mặt trời trút xuống cha nỗi buồn dai dẳng của cuộc sống trần thế.



Ngay sau khi sinh cha tôi, ông tôi bỏ lâu đài ra đi và biến mất. Một số người kể lại rằng ông đi theo đạo thiên chúa, một số khác lại nói ông trở thành thủ lĩnh của hội Nghĩa Hoà Đoàn đi cắt đầu bọn Tây đương ngoại quỷ.



Là đứa trẻ ốm yếu, cha tôi được nuôi dưỡng lớn lên giữa đám phụ nữ. Cha mơ ước trở thành một viên tướng. Nhưng ông tôi, người mà cha tôi tôn kính, lại chẳng quay về để đón cha bước vào đời. Đứa trẻ bị ốm vì tuyệt vọng Người ta đặt đứa trẻ là cha tôi lên giường, bọc nhiều lóp chăn lụa. Quanh năm lúc nào phòng của cha cũng được làm nóng; rất nhiều thầy thuốc được mời đến kê cho cha tôi cơ man nào là đơn thuốc. Dù đã uống biết bao sâm nhung, đã ăn yến sào và các loại cao địa bồ, nhưng cha vẫn cứ yếu đi. Cha ho, cha nôn, cha đau đầu dữ dội; cha trở nên ủ rũ, cha đối xử tồi tệ với gia nhân. Vinh quang, chiến trận, du ngoạn, kinh kỳ, tất cả đều bốc bay đằng sau những tấm rèm thêu. Khi trời đẹp và ấm áp, đôi khi cha được đưa ra khỏi gian phòng tối. Người ta cứ bê nguyên cả giường với cha ra ngoài vườn. Chăn trùm kín đến tận cằm, cha nhìn trời. Chim bay qua trên đầu. Đó là thời niên thiếu của cha, trôi đi như cánh chim bay qua cửa.



Ngày hôm đó, khi ra khởi phòng hút, cha nhớ ngay đến thằng con trai nối dõi tông đường căm ghét học hành và không chịu thờ phụng tổ tiên. Cha bỗng điên tiết lên, đâm bổ về phía chòi đặt tên là chòi Hương Xưa như thể có ma quỷ dẫn lối.



Vào thời kỳ đó, tôi cũng được học kèm với anh tôi. Lớp gồm có bốn người, con nhải riêng của tôi, người hầu của anh, Xuân Di và tôi. Chiều chiều, chúng tôi lại tụ họp trong chòi Hương Xưa hình tứ giác, do một cụ tổ xây nhưng không ai còn nhớ rõ đó là cụ nào. Để giúp đầu óc tập trung vào việc học hành, tường nhà hoàn toàn trần trụi, bàn ghế giản dị và là đồ cũ. Những cây trắc bách diệp cành lá đan vào nhau rủ bóng mát xuống ru chúng tôi.



Anh tôi ghét cay ghét đắng chuyện phải ngồi yên một chỗ, vì vậy anh vô cùng căm ghét việc học hành. Giọng nói run run của thầy dạy ru anh buồn ngủ. Trong phòng, đôi khi có con ruồi bay qua làm cho anh mơ mộng. Đằng sau cửa sổ, cha giật mình thấy anh tôi xé sách dựng trên bàn, vê thành cục nhỏ, lấy nước bọt thấm ướt lên rồi ném vào gáy tên người hầu.



Cha tôi đẩy cửa bước vào, tất cả mọi người đều đứng dậy chào. Cha ra hiệu cho tất cả chúng tôi ngồi xuống, trừ anh tôi, cha bắt phải quỳ. Cả hai gườm gườm nhìn nhau.

“Hãy đọc to bài “Tổ tiên quang vinh”, cha ra lệnh cho Xuân Di:

- Ôi, tổ tiên quang vinh!

Hành trang tổ tiên mãi mãi trường tồn!

Hãy ban phúc lành vỏ giới hạn

Cho tất cả chúng con nơi trần gian!

Xin rót đầy rượu trong cốc;

Xin cho con được thực hiên ỷ nguyện của mình,

Và đây là, đây là...



Mặt Xuân Di đỏ bừng. Anh cố nhớ những câu thơ nhưng không sao nhớ nổi, chúng biến đi đằng nào mất. Mồ hôi chảy ròng ròng trên gò má. Anh lấy mu bàn tay bẩn quệt ngang mặt, để lại mấy vệt đen. Anh tôi vẫn tiếp tục quỳ, đầu cúi gằm, lưng cong, mắt cắm xuống đất.



Bỗng nhiên, tôi nhìn thấy nụ cười nhạo trên mép anh.

Tinh thần tôi rối loạn, tôi nhìn về phía cha tôi cầu khẩn. Tôi thấy cha tôi cũng vậy, cha cười mỉa mai.



Cha gọi người mang roi đến.



Tôi chăm chú nhìn vào quyển sách. Vô ích. Tôi cố gắng đọc từng chữ. Bên tai tôi chỉ còn nghe thấy tiếng roi vun vút và sự im lặng bướng bỉnh của anh tôi. Tôi co rúm người lại, tự dưng lại đếm những tiếng roi quật xuống dù cố gắng kiềm chế không làm như vậy, tôi cầu nguyện tất cả các vị thần linh sao cho cuộc tra tấn rút ngắn lại



Tiếng roi ngừng lại, tiếng cha tôi cất lên: “Xuân Ninh, chắc là con đọc được bài “Tổ tiên vinh quang” cho ta nghe”.

Tôi định giả vờ không thuộc để làm đồng loã với anh tôi đang lăn lộn dưới đất. Nhưng tôi lại không đủ dũng cảm để nói dối. Tôi đọc toàn bộ bài thơ từ đầu đến cuối không vướng lỗi nào.



Ngay tối hôm đó, anh chặn đường tôi dưới giàn đậu tía. Anh đi theo tôi rất lâu trong bóng tối, rình lúc tôi chỉ có một mình. Anh nhìn tôi chằm chằm thật lâu như người đàn ông đang chiêm ngưỡng bóng của chính mình, ảnh phản chiếu chính mình, con đỉa của mình. Đột nhiên, anh ấy tóm lấy cánh tay tôi và chửi rủa tôi, gọi tôi là đồ phản trắc, đồ hèn, đồ con gái ngu xuẩn. Anh nói sẽ trả thù. Anh nói sau khi cha mẹ chết, anh sẽ có toàn quyền đối với tôi và sẽ làm tôi đau khổ. Anh giậm chân, nhổ nước bọt, giơ nắm đấm. Một cách vô ý thức, anh hành động hệt như cha. Anh cao hơn tôi đúng một cái đầu Tôi thấy vừa sợ hãi, vừa thương hại. Đêm tĩnh mịch, tôi cố gắng đếm những chùm đậu tía treo lơ lửng trong bóng tối. Những lời sỉ nhục làm tôi tổn thương. Nhẽ ra tôi đã hét lên, gào lên, cào vào mặt anh rồi bỏ chạy và mách cha, nhưng người ta vẫn dạy tôi phải kính trọng và không bao giờ được tự vệ. Tôi còn quá trẻ con nên chẳng thể biết được rằng chửi tôi thì tôi có quyền chửi lại. Tôi không thể hiểu được tôi có quyền chống đối, còn Xuân Di đã lạm dụng quyền làm anh mà chà đạp lên tôi.



Những cảnh như vậy tiếp tục tái diễn nhiều lần, bởi vì anh tôi càng ngày càng sa sút phẩm cách, trong khi tôi thì càng ngày càng trưởng thành hơn. Đôi khi tôi cảm thấy có lỗi vì hơn anh. Cha bỏ hẳn việc giáo dục con trai, có chút ít dịu dàng, tình cảm cha dành hết cho tôi. Cha đòi tôi đọc một bài thơ, nhắm mắt lại thưởng thức nụ cười trên khoé miệng. Sau đó, cha thường cho tôi một câu nói dịu dàng, một cái vuốt ve âu yếm hoặc một món quà. Càng ngày cha càng suy ngẫm lâu hơn trong phòng hút. Cha không còn đến lớp học để kiểm tra sự chuyên cần của Xuân Di nữa. Tuỳ theo cảm hứng của cha mà cha bắt con trai mình phải chịu hình phạt nặng đến mức nào để rồi sau đó, các hình phạt đó lại được trút sang tôi vì thù hận. Nghe tôi rên rỉ, nức nở, anh ấy nhẹ người đi. Tôi không tố cáo anh ấy, đấy là điều bí mật của tôi. Sự bạo tàn của cha làm tôi sợ, còn sự bạo tàn của anh tôi chỉ làm tôi mếch lòng mà thôi. Xuân Di và tôi là người thân thích, dù cho anh ấy có khinh bỉ và xa cách tôi. Còn cha là người dưng trong vũ trụ của chúng tôi. Chúng tôi là những người chia sẻ cuộc sống với nhau từ trước khi nó bắt đầu.



Cha nghe nói rằng tiếng đàn thập lục có thể thuần hoá thú dữ, làm cho tính người mềm mại, biến kẻ vô đạo thành sùng tín và có đạo đức, nên cha cho mời thầy dạy đàn giỏi nhất tỉnh Tứ Xuyên về, hy vọng lôi Xuân Di trở lại con đường đúng. Lão thầy già này không chấp nhận học sinh thuộc giới ô uế, nhưng tôi cứ xin mẹ can thiệp giúp. Nhạc cụ mà chúng tôi tìm cách tuần phục đáp lại chúng tôi bằng những tiếng kêu khó chịu. Mới đầu anh tôi say mê chiếc đàn thập lục cổ do cha mua cho, nhưng rồi rất nhanh nản chí. Anh thiếu năng khiếu cảm nhận nhịp điệu và anh cũng kém bền chí, nhất là những buồi học nhạc lại cướp mất đi của anh thời gian vô công rồi nghề và đem lại thêm cho anh những lời quở mắng mới. Tôi thì gần với văn thơ hơn là với âm nhạc, nên tôi phải hết sức cần mẫn chế ngự cây đàn, bởi vì Xuân Di có mặt bên cạnh và tôi cần phải vượt anh ấy. Tôi tiến bộ rất nhanh, làm cho thầy dạy phải ngạc nhiên vì trí nhớ và bàn tay khéo léo.



Chẳng bao lâu sau, tôi có thể chơi nhiều điệu không mắc lỗi nào, trong khi đó, cây đàn của anh tôi cứ bập bùng sai điệu, sai âm và vô hồn.



Tôi không thấy vui thích gì hết trong việc học đàn, ngoại trừ được cảm thấy nổi bật. Tôi không thể tiếp thu được loại âm nhạc này. Dù vậy, tôi thích nghe thầy chơi sau nhiều lần cha tôi nài nỉ khi gia đình tôi ăn tối xong trong không khí thuận hoà. Thầy ngẩng đầu để kiểm tra xem có đúng là trăng đã soi tỏ ban đêm không và ngoài vườn đã tắm trong một không khí tinh khiết chưa. Thầy đòi chậu nước trong để rửa tay. Rượu sưởi ấm tâm hồn thầy, giải phóng thầy ra khỏi sự trang trọng cứng nhắc. Thầy ngồi dưới cây thông to mà tnrớc đó tên hầu của thầy đã đặt sẵn một cái bàn với chiếc đàn thập lục đời Đường. Thầy bật ngón tay vào dây đàn. Âm thanh yếu ớt nhưng rõ, như một tiếng thì thầm vào tai. Những nốt nhạc tuôn ra như dòng suối chảy quanh những cây to, vuốt ve những mỏm đá rồi biến thành thác nước. Gió đi ngang khu vườn làm run rẩy những bông hoa. Âm điệu của cây đàn lướt trên những khối đá, làm dịu đi vẻ hỗn độn của chúng. Anh tôi ngủ, miệng há hốc. Cơn buồn ngủ ngay lập tức xâm chiếm lấy anh khi âm nhạc vừa nổi lên. Còn cha thì mắt nhắm lại, tĩnh tâm suy tưởng. Tiếng đàn mở rộng một cánh cửa vô hình, tôi bắt đầu phân biệt được những âm thanh nhỏ nhất của đêm: tiếng rin rít của một con côn trùng, tiếng rì rào của lá, tiếng vỗ cánh. Cái mênh mang bủa vây lấy tôi: cỏ trên thảo nguyên gọn sóng, một con ngựa cất tiếng hí, những làn sóng vỗ ì oạp, những chú cá đuổi nhau dưới nước. Dần dần, những âm thanh này biến mất như thế một đám sương mù bốc hơi. Chỉ còn lại tiếng đàn vang lên rồi yếu dần, tâm trí người theo dõi nó dần dần tụt xuống một vực thắm yên lặng. Tiếng nhạc bây giờ không thể nhận ra được nữa, nó giống như bóng ma dẫn dắt chúng tôi về nơi Âm Phủ. Bỗng nhiên, nó hoá thành một con sếu trắng, giương cánh ra lao thẳng vào nền trời tối đen, rồi trở thành một chấm nhỏ mà mắt thường không nhận ra được nữa.



Năm mười hai tuổi, anh tôi nhảy lên một chú ngựa trắng hùng dũng, lưng anh đeo bao tên da khảm những hình bằng vàng. Trong bộ quần áo kỵ sĩ, đôi vai rộng của anh như đội cả bầu trời. Đầu anh để trần, chạm vào mầy. Cánh tay phải anh quấn băng dày làm chỗ cho một con chim ưng mặt bị che kín bám chặt vào. Bằng một cử động đầy hung hăng, anh cho ngựa xông tới cái cồng bên đã được lão coi ngựa mở sẵn. Anh lao vút đi như tên bắn thẳng vào cái thế giới cấm kỵ đối với tôi. Anh trở về nhà khi màn đêm buông xuống, đúng giờ cha thường giam mình trong phòng hút để chỉ trở ra vào sáng hôm sau. Anh tôi đi theo con đường có mái che, vừa đi vừa gây ồn ào ầm ĩ. Mọi người nhận ra ngay tiếng bước chân kênh kiệu của anh. Quần áo anh rách tơi tả, dính đầy lá và bùn khô. Người anh bốc ra mùi nằng nặng của khói lẫn mồ hôi. Nhưng đôi mắt anh tràn đầy kiêu hãnh của con người đã chiêm ngưỡng một xứ sở thần bí.



Cái mênh mông vô cùng của cao nguyên ám ảnh anh, sự thô kệch của dân chúng trên thảo nguyên thôi miên anh. Anh đi săn với lũ gia nhân và với cả bọn trẻ con người Mông cổ và người Tây Tạng. Anh quý bọn trẻ đó hơn trẻ con của người chăn cừu Trung Quốc vì chúng có nụ cười hoang dại, giọng hát sắc ngọt và cái nhìn không thế chế ngự được. Chúng dạy anh đi săn con chim ưng, leo trèo và đánh giáp lá cà tay không.



Bức tường nhà là những đường biên giới có từ lâu. Vượt qua đó trở về, tính cách anh thay đôi. Niềm vui rơi mất. Tim anh chỉ còn lại sự thù hận, tính kiêu căng và xua đi sự vô tư. Anh vừa khiếp đảm đồng thời lại say mê tính bạo tàn của cha. Anh bắt chước cha lối đối xử thô bạo với tôi. Ghen tị trong anh đã đạt tới mức cực điềm. Anh cảm thấy bị truất bỏ, bị kết án, cảm thấy chỉ là cái bóng trước ánh sáng toả ra từ tôi. Anh sợ trở thành một hành tinh chết.



Tôi học thuộc mọi sách quy tắc, đọc hàng trăm bài thơ. Tôi thông tường tất cả cây cối, những câu chuyện được minh hoạ trên trần nhà, các quái vật chạm khắc được dựng trên mái hay trên tường. Nhưng mùa xuân



Rồi mùa thu cứ thay phiên nhau đến rồi đi mà chẳng ai biết cách giải thích cho tôi về những điều ấy.



Các mùa đi qua rồi quay trở lại, hoa tàn rồi lại nở, mà tôi vẫn chưa gặp được một trí tuệ, một bóng ma hay một người bạn gái nào. Vào lần sinh nhật thứ mười sáu, tôi lăn ra ốm.



Chỉ là những cơn nghẹt thở nhưng tôi không thể ngủ được, ăn không ngon miệng. Tôi trở nên bẳn tính. Nhiều thầy thuốc đã đến bên đầu giường thăm và chữa bệnh cho tôi nhưng chẳng toa thuốc nào hiệu nghiệm. Khi đó là mùa đông, một mùa đông dài và im ắng. Ngày trôi qua, tôi ngồi dưới cửa sổ, ôm chiếc lồng ấp lớn với đôi găng tay lông chồn Tuyết rơi. Trên những tờ giấy bản che ô cừa kính, những bông tuyết to vẽ nên những chiếc bóng.



Mùa xuân đến muộn. Vài cây dại xanh trồi lên trên tuyết. Đất ấm ướt, đen như mực. Rồi một hôm, mặt trời bỗng toả sáng rực rỡ, làm cho cây cối xanh mơn mởn. Ngày hôm sau, sau nhiều lần nài nỉ, mẹ cho phép tôi đi ra ngoài. Tôi lang thang trong vườn, nhiều lần phải dừng lại đế thở. Không khí nhẹ nhàng, ấm áp. Nhưng khắp nơi vẫn chưa nở hoa; vẫn không có tiếng ong vo ve cũng chẳng có tiếng sếu kêu.



Buồn bã, tôi ngước mắt nhìn trời. Những dải mây trôi nổi. Bỗng nhiên, có tiếng kêu than van theo sau là những tiếng rì rào. Một đàn sếu trắng bay ngang bầu trời. Chúng bay qua đầu tôi, oai nghiêm, nhẹ nhàng. Tôi dõi mắt theo chúng, có cảm giác cũng đang bay lên, nhưng bức tường lại cắt đứt mất chân trời của tôi, thả tôi trả lại mặt đất. Tức giận, tôi ra lệnh cho người hầu kiệu tôi lên vai, giúp tôi trèo lên cây trắc bách diệp có đến hàng trăm năm tuổi. Một cành to đâm ngang, sà lên bờ tường như một cái cầu. Tôi ra lệnh cho cô hầu ngậm miệng lại vì cô ta sợ hãi rên ri. Tôi trèo lên tường, quấn váy lại và ngồi lên tường theo kiểu cưỡi ngựa.



Tôi ngước mắt nhìn.



Lần đầu tiên tôi nhìn thấy xứ sở của mình. Khoảng vài trăm bước chân phía dưới, trên thảo nguyên bao la, bò, cừu và ngựa Tây Tạng đi lại như từng đàn mây bị gió xua đi. Bên phải và bên trái, những dải núi bò như những con rắn, trên đỉnh là những đám tuyết vĩnh cửu. Phía chân trời có một hồ lớn, phản quang cả trời và đất. Đàn sếu bay về phía hồ nước ấy: vô số những con chim khác họp lại như những đàn ong, xoay tròn xung quanh như những chấm đen.



Tôi ước muốn được tung mình trên không, được bay lên trời.

Từ lúc ấy cho đến tối, con người tôi là sự phấn khích tột độ. Tôi cười, ăn ngon miệng vô cùng và chuyện trò rôm rả. Tôi đe doạ bắt cô hầu thề giữ kín bí mật của tôi. Buổi tối trên giường, trước mắt tôi lại hiện ra những phong cảnh kỳ lạ rồi tôi ngủ thiếp đi với niềm hạnh phúc của một người đã có trong tay cả một đế chế.

Năm mười bốn tuồi, thỉnh thoảng Xuân Di cũng có chút tình cảm với em gái song sinh. Anh cố gắng nói chuyện với tôi, giải thích cho tôi những thứ vũ khí mà anh sử dụng, nhưng anh không kiên nhẫn, thường xuyên nổi giận rồi bỏ đi. Anh mang về cho tôi những ôm hoa dại, xanh hơn cả màn đêm và trắng hơn cả bình minh. Anh nhiệt thành đến độ khi bắt gặp vẻ dè dặt của tôi khiến anh thất vọng. Anh tức mình vứt cả bó hoa qua bờ tường. Tôi khóc. Anh ân hận, lại ra đi và mang về cho tôi một quả trứng hay một chiếc lông đẹp.



Một lần trở về nhà người anh ướt sũng, anh tìm tôi khắp nơi, tay bưng cho tôi một cái bát đầy nước trong vắt. Một cái cây kỳ lạ trôi nổi bập bềnh trong đó, lá xanh của nó giống những chiếc lông chim. Có một con cá trong suốt đang bơi. Anh tôi mang về cho tôi một cư dân của cái hồ xa xôi kia mà tôi vẫn chiêm ngưỡng từ trên bờ tường!



Anh và tôi hoà giải với nhau mà không nói lời dàn hoà chính thức. Chúng tôi nghĩ rằng vũ trụ của chúng tôi được chia làm đôi. Một bên có mẹ và chúng tôi, còn bên kia có cha và các nàng thiếp.

Cha có ba nàng thiếp, chúng tôi đều gọi là “Má”. Họ là giống người chẳng như ai, tựa như con thú bé nhỏ có răng sắc nhọn trú ẩn trong hang sâu. Họ là nỗi sợ hãi, cái quyến rũ, sự tàn ác. Họ làm chúng tôi choáng váng, kinh hãi vì thứ ngôn ngữ tục tằn của họ. Cung cách của họ bạo tàn hơn mẹ nhưng tinh tế hơn người hầu. Khuôn mặt họ hằn lên sự dỗi hòn, đố kị và bạc nhược.



Trẻ con trên thảo nguyên trưởng thành sớm. Mùa xuân, khi hoàng hôn tô hồng đỉnh núi, trai trẻ trần trùng trục dưới làn da dê, thong thả đuổi từng đàn súc vật về chuồng. Những cô gái mang quần áo được gió hong khô vào nhà, chuẩn bị nấu nướng. Khi đi ngang qua trước cửa lều có cô gái ở, các chàng trai cất tiếng hát. Giọng hát khàn, đầy khát khao làm trời phải đỏ mặt. Thỉnh thoảng nổi lên tiếng hát của một cô gái ước mơ trở thành đàn bà. Giai điệu, dường như khởi sinh từ khung cảnh, diễn tá niềm vui một cách đau đớn.



Vào những lúc đó, Xuân Di đi theo bạn, răng nghiến chặt, máu nóng rần rần trong huyết quản.



Nàng thiếp đầu tiên là một cô bán hàng chợ phiên. Cha tôi chọn nàng vì những ngón tay khéo léo của nàng chơi đàn tì bà như ngón tay của nữ thần; người thiếp thứ hai xuất thân từ một gia đình quý tộc bị phá sản; người thứ ba, đẹp nhất, người thiếp cuối cùng được phát hiện ra trong dịp chợ phiên ở miếu thờ, lúc đó nàng trong bộ áo dài xám, đầu cạo trọc, đang đi ăn xin.



Vào tuổi hai mươi, nàng mê hoặc cả nhà bằng gương mặt sáng ngời, thái độ vui vẻ và làm mủi lòng mọi người bằng những câu chuyện về tuổi thơ côi cút. Nhưng Xuân Di và tôi sợ đôi mắt một mí của nàng kéo dài đến tận thái dương, lòng đen dài giống như hai con lươn đen. Khi Xuân Di cao bằng nàng, người phụ nữ trước đây không thèm để ý đến anh, bây giờ bắt đầu trêu ghẹo anh. Anh trốn chạy, nhưng sự chạy trốn của anh lại càng kích thích nàng bám đuổi anh không ngừng Tôi rất phẫn nộ nhưng không biết làm gì cả. Tôi im lặng chịu đựng.



Anh tôi lẩn tránh nàng. Anh xấu hổ vì những biến đổi của mình Một hôm, giọng của anh chợt khàn đặc một cách khó hiểu. Anh nói như ngỗng kêu. Tháng nào anh cũng đo lên tường rồi đánh dấu chiều cao. Lớn lên làm anh lo lắng và bối rối.



Một hôm, anh soi gương và không nhận ra mình nữa. Những nét phúng phính trẻ con biến mất, trên cằm bắt đầu có dấu vết lún phún như râu. Đôi má xương xẩu, đôi mắt với bộ mi đen dài làm anh lo lắng.



Cũng tối hôm ấy, anh mơ thấy một người phụ nữ trần truồng. Cảm thấy tội lỗi, anh trốn sau lùm cây. Nhưng người thiếu phụ đang đi lại gần anh hoá ra lại là một con ngựa. Anh đứng lên muốn tóm lấy dây cương, sợ hãi phát hiện ra con ngựa đó có cái đầu của nàng thiếp ba. Con nhân mã cười với anh, giơ cái cổ cọ cọ vào người anh, anh kêu lên và tỉnh dậy.



Tôi trở nên ít nói hơn và chúi mũi vào đọc nhiều hơn. Tôi chơi đàn thập lục để thoát hiện tại. Tôi học được trong thơ các biểu tượng của thiên nhiên, bởi vậy thiên nhiên mất đi vẻ ngây thơ đối với tôi. Mặt trăng tượng trưng cho nỗi cô đơn, nỗi cô đơn không thể hiểu được; những bông hoa tàn tượng trưng cho thời gian đang trôi đi; thiên tai diễn tả sự tàn nhẫn của thế giới sinh ra đế trùng phạt cái đẹp. Tôi bị ám ảnh bởi số phận bạc bẽo dành cho phụ nữ có học: công chúa Vương Chiêu Quân bị hoàng đế cống nạp cho thủ lĩnh rợ Hồ, buộc phải rời bỏ Trung Hoa; không muốn bị quân thù làm ô uế, nàng công chúa đẹp như ngọc đã nhảy lầu tự vẫn; nữ thi sĩ Chu Tố Trinh lấy phải một thương nhân đối xử với nàng vô cùng tàn tệ, cả cuộc đời nàng chìm đắm trong nước mắt; nữ thi sĩ Lý Thanh Triệu may mắn cưới được người tốt, nhưng chiến tranh tàn phá tất cả, nàng phải chịu lưu đày và chết trong buồn thảm và nghèo khổ.



Da tôi xanh xao, đôi bàn chân biến dạng vì bị bó và nén lại trong đôi tất thêu. Ngực tròn dần làm tôi đau đớn. Tôi có kinh nguyệt. Lần đầu tiên là những vết đen nhạt. Lần thứ hai, máu đỏ tươi chảy ra, bấy giờ tôi mới thấu hiểu tiếng rên rỉ của những cô hầu gái khi đến “kì”. Mỗi tháng một lần, năm ngày chóng mặt, đau đầu, đau bụng, từng đợt nóng tiếp theo từng cơn lạnh buộc tôi phải nằm cả ngày.



Xuân Di tò mò vì căn bệnh này đến rình rập tôi, viện cớ tặng cho tôi chim và chuồn chuồn. Tôi nôn nóng đuổi anh ấy đi. Chuồn chuồn bay đi, lượn tròn trong phòng. Chim bị ném qua cửa sổ, tung mình vào bầu trời và biến mất. Buồn rầu, tôi khóc nức nở.

Bà nhũ mẫu già của tôi chết trong giấc ngủ. Người ta đồn rằng ở khoé miệng của bà có một nụ cười kỳ lạ. Một bà khác đến chải tóc cho tôi. Bà này phục vụ trong phòng của mẹ, cho tôi hay rằng người ta đã quyết định gả chồng cho tôi.



Cha tôi sẽ đem đổi tôi lấy quyền lực, tiền và vinh dự, như tất cả những người cha khác!



Ngồi trên bờ tường, tôi quên đi nỗi buồn. Bây giờ tôi chỉ sống vì quang cảnh đó. Đôi mắt tôi đã quen với không gian mênh mông, biết theo dõi đại bàng bay lượn trên trời và các kị sĩ phi ngựa trên thảo nguyên. Tôi nghe tiếng gió thổi rì rào. Tôi mơ ước có đôi cánh tay thật dài để ôm ghì cả đất và trời vào ngực mình.



Có tin đồn rằng đế chế Mãn Châu đã sụp đổ. Cả nhà tôi nhốn nháo nhộn nhạo. Cha tôi thức khỏi tình trạng đờ đẫn vì thuốc phiện, nói sẽ chuẩn bị đi Bắc Kinh kiểm tra xem có phải thực bọn man di đã bị đánh đuổi không. Có khi chúng tôi sẽ chuyển chỗ ở. Tôi nôn nóng muốn biết kinh thành. Tin mới làm đình hoãn đám cưới của tôi. Rồi lại có tin đồn khác bay đến. Người ta nói rằng có một nền cộng hoà được thiết lập do một vị chủ tịch lãnh đạo, nhưng ngay sau đó đã bị sụp đổ. Một vị chỉ huy quân sự đã trèo lên ngôi vua, buộc mọi người lập mình làm hoàng đế. Còn có lời đồn rằng vị vua này chỉ trị vì được có một trăm ngày, rồi nền cộng hoà lại được tái thiết lập. Nhưng ngọn lửa thù địch nhen nhóm cháy loang ra khắp đất nước, bọn trùm ăn cướp tàn sát lẫn nhau tranh chiếc ghế chủ tịch. Rồi sau đó, tin tức lẫn lộn hết Tuy nhiên, có điều chắc chắn là: chiến tranh đã kết thúc, nhưng bây giờ không còn biết ai là người chiến thắng. Ở nhà, tất cả mọi người đều hết phấn khởi, rồi cuộc sống lại tiếp diễn như trước kia.

Sinh nhật lần thứ mười sáu của tôi được tổ chức rất rôm rả. Một nhóm ca kịch đến diễn trong ba ngày liền. Sau một cuộc trình diễn, tôi cho gọi những diễn viên đến.



Hình như thế giới bên ngoài đã thay đổi nhiều. Người ta ăn mặc khác đi! Phụ nữ mặc áo vét lụa cao cổ và quần dài thêu ở gấu. Váy áo Mãn Châu trở thành mốt. Cô nào điệu thì váy mặc bó sát người, đế trần cánh tay. Váy xẻ rất cao, nhìn thấy hết đùi. Ở thành phố, không ai bó chân nữa. Người ta nói đến trường công. Buổi tối nhiều khách sạn tổ chức dạ tiệc. Người ta chơi nhạc nước ngoài. Có những phụ nữ ăn mặc như phụ nữ da trắng: họ đeo vòng ngọc trai, mặc váy ngắn chỉ đến đầu gối thôi và

đính kim cương lấp lánh, cổ, lưng, cánh tay và gáy để trần, trát phấn, lượn đi lượn lại trên những đôi giày đế nhọn bằng sa tanh hay lụa. Những diễn viên này còn nói tới những con tàu chạy bằng hơi nước, đường sắt, những cỗ xe không cần ngựa kéo. Tôi nghe chuyện mà mắt mở thao láo ngạc nhiên. Tại sao chỗ chúng tôi ở, thời đại lại bất động đến thế?

“Thế các chị đã đến kinh đô rồi à?”, tôi tò mò hỏi.

Các cô gái lắc đầu.

Kinh thành xa lắm, xa lắm, tận phía bắc trong màn sương mù; muốn tới nơi phải vượt qua cà Dương Tử và Hoàng Hà.



Sau bữa sinh nhật, tôi nghĩ đến chuyện bỏ nhà đi trốn. Nhưng tôi không biết cách đi ngựa, cũng chẳng biết làm thế nào vượt qua các dãy núi đứng chắn tự do của tôi. Có khi tôi sẽ mua ai đó để dẫn đường. Tôi sẽ ăn cắp quần áo của Xuân Di để cải trang thành đàn ông. Tôi nhét đầy vải và bông vào đôi giày ống giống như ngày xưa Mộc Lan từng làm khi giả trai để xung trận. Tôi sẽ ra đi, giống người ông mà tôi chưa từng gặp. Tôi sẽ học cách cưỡi ngựa, bắn tên. Tôi sẽ đi xuyên đồng bằng, xuyên hoang mạc, vượt qua những mỏm núi nổi tiếng, thăm các ngôi miếu trên đỉnh núi cao, chiêm ngưỡng những thác nước uy nghi, những mỏm đá nhọn hoắt, những phế tích của thời xưa. Tôi sẽ đi lên kinh đô, ở đó tôi sẽ sống trong một khu phố cổ. Không màng tham vọng chính trị, tôi sẽ sống một cuộc sống của kẻ nho sĩ ngạo mạn. Thỉnh thoảng chắc là tôi sẽ đau khổ vì nỗi nhớ quê nhà. Khi đó tôi sẽ về miền Tây, nơi mặt trời lặn, vào đúng lúc cha lặng lẽ lui gót trở vào phòng hút còn Xuân Di phi ngựa từ thảo nguyên trở về. Tình yêu, nỗi buồn, niềm vui sẽ tràn ngập tim tôi.



Phải chăng cuộc sống là như vậy nhỉ?

Nàng thiếp ba ám ảnh anh trai tôi. Khi học xong, anh thoáng thấy nàng trong vườn. Váy nàng đẹp sánh ngang những bông hoa; quạt nàng phe phẩy trong tay giống cánh bướm lượn. Anh chạm trán với nàng ở lối đi lọp mái, chỗ đôi bên không thể tránh mặt nhau được. Nàng dựa lưng vào cột, bắt anh dừng lại Nàng nói với anh đôi điều nhận xét. Rằng anh thật bẩn! Quần áo xấu quá! Khuôn mặt anh rám nắng như mặt đứa chăn cừu! Nàng giắt hoa nhài vào búi tóc của anh. Mỗi khi nàng giơ tay cao để phe phẩy quạt, ống tay áo của nàng truột xuống để lộ khuỷu tay thanh mảnh và cả cánh tay trần. Xuân Di đỏ mặt, còn nàng thì giơ quạt che một nụ cười.



Xuân Di đến chào mẹ, anh giật mình vì thấy nàng ở đó, ngồi trên ghế. Nàng trò chuyện, uống trà, trang trọng và khiêm tốn. Chàng buộc phải kính cẩn cúi mình trước nàng và gọi nàng là “má”. Vào những ngày lễ hay yến tiệc thì không chịu đựng nổi, nàng nịnh nọt cha, chọc cho mẹ cười và nói những lời khen ngợi tôi. Khi đó không lần nào nàng thèm nhìn về phía Xuân Di.



Anh tôi tức giận và nghĩ cách trả thù. Bỏ chuột chết vào giường nàng là trò trẻ con Giả làm ma vào ban đêm thì thiếu độc đáo ai chẳng nghĩ ra. Một ý nghĩ kỳ lạ nảy ra trong đầu anh và ngay lập tức thành nỗi ám ảnh anh: rình xem nàng tắm.



Và anh sẽ xem nàng trần truồng trong chậu tắm mà không ai bắt gặp - Xấu hổ cho kẻ nào bị người khác nhìn thấy mình trần truồng, xấu hổ gấp đôi cho nàng thiếp ba vì nàng vẫn không thèm biết nỗi xấu hổ đó của mình. BỊ mất mát mà không biết mình bị mất mát có phải là nỗi nhục đáng buồn nhất đối với một người phụ nữ? Bấỵ giờ, nàng thiếp ba dưới mắt Xuân Di sẽ chỉ còn là người phụ nữ ô uế. Những khích động của nàng, những tiếng cười của nàng sẽ mất hết sức mạnh.



Dự định thật là táo gan và điên rồ. Nhưng anh tôi không bao giờ suy lý như một kẻ bình thường. Hình như chỉ những hành động chứa đựng nguy cơ lớn nhất mới họp lý đối với anh.



Dịp may đến vào một ngày dịu dàng. Trong bếp, người ta nấu nước nóng trong nồi lớn, Anh tôi nhìn thấy hết mọi việc, hỏi để làm gì, thì được người ta trả lời là để cho nàng thiếp ba. Vào giờ nghỉ trưa, hai cô hầu lực lưỡng khiêng chậu gỗ đầy nước tắm cho nàng thiếp ba. Chờ cho họ vừa đi khỏi, anh nhón chân lẻn ngay vào nhà. Mấy cô hầu đều đang ngủ trưa trong phòng riêng. Anh đi ngang qua ba buồng mà không gặp bóng ai.



Hơi nóng trở nên nặng nề. Không khí tràn đầy mùi hương trầm lẫn mùi hương xạ.



Anh đến trước cái cửa khép kín. Phía bên kia, có tiếng nước ì oạp. Anh thận trọng vén bức rèm bằng lụa thay cho cái cửa lên. Anh nghe thấy tiếng nàng ba ra lệnh cho con hầu gái kì lưng. Anh khoét một lỗ trên tờ giấy bản, dán mắt vào đó, đúng lúc nàng ba rên lên sung sướng. Tiếng thở dài nho nhỏ thỉnh thoảng nàng bật ra như cào vào da thịt Xuân Di. Anh đứng bất động, như một kẻ ngây dại, chết khát, chết sốt song lại không thể cử động được.

Bỗng nhiên, một tiếng sấm nổi lên. Anh chạy biến. Chỉ khi ra được bên ngoài, hít thở khí trời, anh mới hiểu rằng anh đã giật mình vì tiếng đồng hồ đổ chuông.



Anh lang thang rất lâu trong vườn. Mạch máu thình thịch hai bên thái dương, những khát khao chưa biết tới, không thể miêu tả được chất chồng trong anh. Nhưng bão tố còn chưa bắt đầu. Xuân Di ngỡ mình sắp phát điên.



Anh vô tình dừng lại trước cánh cửa bán nguyệt mở ra một sân đầy hoa nở. Anh nhận ra phòng của nàng thiếp thứ nhất, liền chạy vào đó hòng trốn tránh cơn điên cuồng của mình.



Nàng thiếp thứ nhất bằng tuổi mẹ chúng tôi. Xuân Di quý nàng nhiều chính vì điều này. Nàng kiên nhẫn, biết lắng nghe. Đôi khi, anh tâm sự với nàng cả những nỗi oán hận lẫn các điều anh hoang tưởng ra. Kể từ khi qua ngưỡng tuổi ba mươi, nàng bắt đầu béo lên, hay ca thán vì tức thở, và vì thế Xuân Di cảm thấy thương hại nàng.



Nàng mới ngủ dậy. Một lọn tóc tuột ra và buông xuống vai nàng. Xuân Di thấy khuôn mặt nàng đẹp hơn bình thường, rạng rỡ đầy nhân hậu và dịu dàng.



Nàng mời anh ngồi trong phòng khách, rồi mời trà. Nàng hỏi tại sao trông anh xanh xao đến thế. Anh không trả lời.



Nàng mỉm cười và không gặng hỏi thêm. Nàng bắt đầu tra vấn anh chuyện học hành, chuyện săn bắn rồi rủ anh chơi cờ. Trò chơi làm Xuân Di thư giãn. Anh quên chuyện vừa xảy ra, trờ nên huyên thuyên và vui vẻ. Vừa di chuyển các quân tốt, anh vừa kể cho nàng nghe cuộc đi săn chim ưng mới đây của mình.



Mấy con hầu rút lui. Cuộc cờ càng lúc càng căng thẳng, cả hai thôi không luyên thuyên nữa. Chỉ có tiếng khô khan của những con cờ di chuyển phá vỡ sự im lặng. Nàng nhất chống đầu lên trên lòng bàn tay, Xuân Di nhận thấy nàng đeo chiếc nhẫn mã não ở ngón giữa. Ngón tay nàng trắng trẻo trinh bạch. Da thịt nàng mỗi khi cử động lại làm cho những lúm nhỏ hiện lên. Cổ áo nhỏ bằng lụa bó sát cổ nàng, để lộ đôi bờ vai tròn trịa. Đột nhiên, đầu anh nóng lên, anh đặt tay lên ức ngực của nàng.



Nàng rùng mình, nắm lấy cổ tay anh và dịu dàng mắng anh.

Cả hai lại bắt đầu chơi ván mới. Nhưng Xuân Di đã bị quyến rũ rồi, chỉ còn nghĩ đến làn da thịt anh vừa lướt qua. Anh lặp lại hành động ban nãy, lần này kiên quyết hơn. Tay anh cảm nhận rõ bộ ngực ấm nóng qua lóp lụa mỏng.



Nàng đứng dậy bỏ đi nhưng anh ngăn lại. Nàng nói với anh rằng anh điên mất rồi và rằng người ta có thể bắt gặp họ. Anh run rẩy ghì chặt nàng trong cánh tay mình.



Mùi va ni toả ra từ người nàng thật dịu dàng. Anh say sưa ngửi. Da thịt nàng uốn cong dưới lớp áo quần là da thịt của hạnh phúc bình yên. Anh bám được vào cổ nàng một lúc lâu thì nàng yếu ớt thoát ra được.



Sáng, tôi thức giấc với nỗi u buồn. Trong đêm tôi đã gặp ác mộng. Nhưng, cũng như các cơn ác mộng khác dạo này luôn luôn đầy ắp các giấc ngủ của tôi, tôi chẳng nhớ gì hết. Song đó là cơn ác mộng vô cùng khủng khiếp. Thậm chí ngay cả lúc ra khỏi buồng rồi đi dưới ánh nắng trời rực rỡ, tim tôi vẫn đập dồn vì sợ hãi. Thầy dạy bị ốm, tôi rảnh rỗi suốt cả ngày. Dù không muốn, nhưng con hầu của tôi vẫn phải đỡ tôi trèo lên cành trắc bách diệp. Ngồi như cưỡi ngựa trên tường, tôi mở quyển sách mang theo. Nhưng tôi không thể nào tập trung đọc được. Những bài thơ câm không biết nói cùng sự yên lặng đè nặng lên tôi.

Tôi bỏ sách ngắm nhìn khung cảnh.



Không còn mùa xuân để phủ hoa những triền núi. Núi vây quanh hồ, giống như đôi cánh tay trần đang cầm một chiếc giương.



Bài thơ của Đạt Lai Lạt Ma thứ sáu[1] mà cha tôi bắt dịch từ tiếng Tây Tạng thoảng qua trong tâm trí tôi:



Hỡi vị vua của cái chết và địa ngục

Người là thần giữ tấm gương soi các hành động

Hãy giải thoát ta khỏi kiếp sống này

Hãy ban phước cho ta trong kiếp sống sau



Ngay lập tức tôi giận mình vì đã nhớ đến những câu thơ chứa chất nặng điềm gở này. Tôi cầm sách lên nhưng tâm trí rối bời. Tôi trèo xuống khỏi bờ tường, rồi đi về nhà mẹ. Gia nhân bảo mới có thợ đến giao đồ thêu nên mẹ đã sang phòng cha để nhận hàng. Tôi không thích gặp cha tí nào. Nhưng tôi lại mong đây là lúc tôi có thể nhận được rèm che giường mới mà những đôi bàn tay khéo léo nhất trong tỉnh phải thêu chín trăm chín mươi chín con bướm. Tự nhiên tôi bỗng nôn nóng và vui vẻ. Một chiếc rèm che mới sẽ xua đi các ác mộng quái đản của tôi!



Đế tránh gặp cha, tôi vào phòng bằng cửa ngách dành cho người hầu. Trước tiền sảnh, gia nhân ngồi trên các bậc tam cấp ngủ gà gật, vậy là cha còn đang ngủ trưa. Qua lối cửa vào phòng khách nhỏ, tôi lẻn vào phòng thư hoạ. Để đi vòng qua buồng ngủ, đến được buồng mà mẹ tôi đang trải các thứ đồ thêu xuống chiếc giường lớn, tôi lẻn vào phòng đọc. Một cái giá sách chạm trổ cầu kỳ chất đầy sách, ngăn cách nơi ngồi đọc với các tủ sách. Cửa hình bán nguyệt dựng ở đó, che bằng rèm the. Tôi chuẩn bị nhấc rèm lên thì tiếng húng hắng ho làm tôi giật mình.



Chậm rãi, tôi nhấc mấy quyển sách trên giá xuống và nhìn thấy lưng cha tôi.

Ông đang viết.

Tôi nhẹ nhàng rút lui, đúng lúc đó nàng ba đến trong cơn thịnh nộ



“Thưa lão gia, nàng kêu lên, khuôn mặt biến dạng. Lão gia đã bị lừa dối! Nàng nhất, cái con chó cái to béo ấy đã bôi nhọ lão gia!”



Cha ngẩng đầu lên.

“Vừa nẫy, dừng lại trước cửa phòng bà ta, tôi đang định vào thăm bà, thì gió vén rèm cửa lên, rồi tôi nhìn thấy Xuân Di nằm gọn trong vòng tay của con điếm phụ nhơ nhuốc đó!”



Cha vứt mạnh chiếc bút lông xuống và đứng dậy. Nàng ba sợ quá, lùi lại một bước. Nhưng ngay lập tức, nàng bình tĩnh lại.

“A, thưa lão gia, hãy trừng phạt bà ta!” nàng rên rỉ. Những giọt nước mắt tuôn ra.

“Lúc tôi ở đó, tôi thấy Xuân Di có vẻ sợ hãi muốn bỏ đi, nhưng bà nhất đã giữ nó lại, hôn nó, thì thầm những lời tục tĩu... Thưa lão gia, phải ra roi bà ta thôi, phải treo cổ bà ta lên thôi..



Cái ghế cha tôi mới ngồi đã bị đổ ngã xuống, cắt đứt lời bà thiếp kể lể. Những tên hầu nghe tiếng ồn ào nên chạy cả lại. Cha tôi cho gọi nàng nhất, và mấy phút sau, người ta báo lại rằng bà đang phải nằm nghỉ trên giường vì bị ngạt thở.



Cha giật chiếc gươm của ông treo trên tường xuống, đẩy nàng ba đang giả vờ giữ cha lại. Cha tiến ra cửa đúng lúc mẹ đi vào, tay cầm chiếc khăn thêu. Cha đẩy mẹ, thét lên không cho ai cản được mình. Không hiểu chuyện gì xày ra, mẹ hỏi bọn người hầu, nhưng không ai biết trả lời mẹ thế nào. Khi cha bước qua bậc cửa, mẹ bèn chồm vào để giật lấy thanh kiếm từ tay cha. Cha tát mẹ một cái.

“Ngày hôm nay, cha vừa nói vừa cười như bị ma ám, ta sẽ cắt đứt sợi chỉ còn ràng buộc ta với cõi hồng trần này”.

Một cái nhếch mép làm mặt cha biến dạng, cha nói thêm:

“Không còn kẻ thừa kế, không còn những chuyện trụy lạc nữa. Lương tâm ta cũng được yên ổn khi lìa bỏ thế giới này”.



Mẹ tôi lại sáp lại gần cha. Mẹ ôm lấy đùi cha và kêu mọi người tước vũ khí của cha. Cha tôi doạ sẽ giết chết tất cả kẻ nào dám tiến lại gần. Cha dùng mũi kiếm đâm một tên hầu bị thương.

Tôi trở lại bằng chính con đường mà tôi đã đi vào, cố gắng chạy thật nhanh trên đôi chân băng bó. Tôi tạt qua phòng mình trước rồi chạy vội đến phòng anh tôi. Anh nằm dài trên giường, tay chắp sau gáy, nhìn đăm đắm cái trần rèm mà mơ mộng.



Thấy tôi đến, anh mỉm cười hỏi tại sao tôi lại khóc.

“Vì anh đấy, đứa con trai nhơ nhuốc. Cha muốn giết anh”.

- Ta còn làm gì nữa đây? Anh uể oải nói. Hôm nay thầy bị ốm, tất nhiên là ta không đi học.

- Cha biết hết, em cũng biết hết. Tôi vừa nói vừa cười độc ác, đừng thanh minh vô ích. Bây giờ cha đang cầm kiếm trong tay, còn mẹ thì cố giữ cha lại.



Khuôn mặt anh biến sắc. Anh đứng lên. Tên người hầu của anh hổn hển chạy đến van xin anh hãy trốn đi.

Anh tôi đâm hoảng. Sợ quá, anh hỏi tôi:

- Ta phải làm gì bây giờ, tiểu muội? Ta phải làm gì đây?

- Giơ cổ ra mà chịu những điều anh dám làm.



Tiếng ầm ĩ từ ngoài vườn vọng vào làm cả hai chúng tôi sợ co rúm người. Tôi ném cho anh một túi đựng tiền.

- Đây là đồ trang sức và vàng em được tặng. Đi đi, hãy đi khỏi ngôi nhà này.



Anh có vẻ phật ý, Rõ ràng, anh chưa bao giờ nghĩ đến việc rời xa gia đình. Tôi nỗi loạn trong lòng vì thấy anh thật đồ hèn, tôi tỏ rõ thái độ khinh bỉ của mình:

- Một người đàn ông phải biết từ bỏ gia đình của mình để tạo ra một con đường vào đời. Anh chờ đợi một tương lai gì dưới mái nhà tổ phụ? Thành kẻ nghiện hút như cha ư? Hãy cút khỏi đây. Cuộc sống thực sự là ở chỗ khác kia!



Tôi đưa tay lôi anh ấy ra khỏi giường.

Lo sợ, anh trai tôi hấp tấp lấy quần áo. Anh vơ hết tất cả vàng bạc, đồ trang sức của anh lẫn của tôi. Tôi giúp anh làm thành một cái tay nải đề đeo trên vai. Ở chuồng ngựa, người ta đã thắng yên cương ngựa cho anh. Chị hầu gái được tôi sai xuống bếp mang lên cho chúng tôi thức ăn và mấy bình nước đầy. Anh tôi nhảy lên yên ngựa còn tôi thì ra lệnh cho người hầu mở cổng. Anh nhìn xung quanh, vẫn còn ngần ngại chưa muốn cất bước.



Những tiếng kêu đột nhiên vang đến từ các phòng phía trong đánh thức anh khỏi trạng thái đờ đẫn.



Trên bậc cửa, con ngựa giậm chân nôn nóng. Xuân Di quay lại:

- Ta phải đi đâu? Anh hỏi tôi.

- Đi Bắc Kinh, lên kinh đô!

- Khi nào ta sẽ trở lại đây?

Nhưng chú ngựa đã cất vó lên con đường rộng uốn lượn dẫn xuống phía dưới.

Tôi bước đi mấy bước và cũng vượt qua bậc cửa.

Sự bao la hoang dã của thế giới bên ngoài làm tôi rùng mình.

“Vĩnh biệt”, tôi hét lên. Nước mắt trào ra làm mắt tôi mờ đi. “Huynh à, chúng ta sẽ tái ngộ!”



Tôi lấy mu bàn tay chùi nước mắt. Xuân Di còn ngoái lại một lần nữa, nhưng chỉ mấy giây sau, cả người và ngựa chỉ còn là một chấm đen hoà lẫn với bóng tối của thung lũng.



Tôi quay trở về phòng mình, vừa đi vừa khóc nức nở. Một nỗi hoảng sợ mới xuất hiện trong lòng tôi: liệu có đúng số phận của anh là phải rời bỏ ngôi nhà này để lang thang khắp nơi?



Nhẽ ra tôi có thể khuyên anh trốn tạm ở nhà bạn bè, đợi khi nào cơn tức giận của cha nguôi ngoai thì trở về.



Chỉ vì quyết định dứt khoát của tôi mà tôi vừa làm xáo trộn các lá bài số phận.

Đêm xuống, trăng lên.

Những dãy núi hùng vĩ trải dài, đứng sừng sững và cười khẩy.

Để chạy trốn nỗi hoảng sợ, Xuân Di cho ngựa phi nước đại.

Đôi khi, anh suy nghĩ thầm trong đầu:

Mình ở đây cách Bắc Kinh hàng ngàn dặm. Đi theo con đường về phía nam thì rộng rãi, xe cộ đi lại được và có nhiều cây xanh. Trên đường có thể gặp những thương đoàn, gặp thương nhân, gặp nghệ sĩ biểu diễn rong. Có thế gặp vô số những thị trấn, làng mạc trù phú, những kinh đô cư dân đông đúc. Đi thuyền đến Trùng Khánh, mình có thể xuôi dòng Lục Ngạn đến tận miền Tây nam đất nước, từ đó lại theo dòng sông đi ngược lên phía Bắc sau khi đắm mình trong khí hậu mát mẻ, sau khi lang thang chiêm ngưỡng các thị trấn to lớn nổi tiếng từ Thượng cổ vì phong cảnh hữu tình và đàn bà đẹp.



Còn con đường thứ hai thì ngắn hơn cả. Đi về hướng Đông bắc, mình sẽ gặp hành lang phía Tây của dòng Hoàng Hà. Theo con đường Tơ lụa, xuyên qua Vạn Lý Trường Thành rồi đến cố đô Tây An. Rồi sau khi vượt sông, mình sẽ phi nước đại nhằm đồng bằng Bắc Kinh mà tiến.



Rồi anh lại nghĩ, nhưng còn bọn gia nhân, chúng đã trông thấy anh ra đi. Ngay cả khi không ai định phản bội anh, nhưng bị tra tấn thì sẽ có nguy cơ một vài tên thú nhận, vậy là kẻ bạo chúa sẽ sai vài tên hầu trung thành tìm bắt rồi trói cổ anh lại giải về nhà.

Cần phải chọn một con đường mà không ai biết đến. Anh nhớ lại, vào một chuyến đi săn những người Mông cổ đã chỉ cho anh hướng chân trời phương Bắc. Ngày xưa vào một trận đại hạn, một số gia đình phải leo núi, xuyên qua sa mạc để đi đến thảo nguyên Mông cổ. Phía đó, có con đường lớn mà bọn rợ Mông đã đi theo để xâm lược Bắc Kinh.



Anh chợt dừng ngựa, ngẩng đầu nhìn lên trời. Bầu trời trải rộng trên đầu, giống như cái vòm lều trại bằng nhung. Những ngôi sao lấp lánh rồi biến mất. Trong bầu trời sao, anh nhận ra chòm sao Bắc Đẩu chỉ hướng Bắc, anh cho ngựa chạy theo hướng đó.



Tại sao lại đi Bắc Kinh, anh không biết rõ. Nhưng tiếng tôi kêu còn vang bên tai anh, anh vâng theo lời tôi vì anh hèn yếu, vì anh lười biếng. Đối với một kẻ lạc đường, ít ra Bắc Kinh cũng là một phương hướng xác định.



Khi trăng đã lên đến đỉnh đầu. Xuân Di xuống ngựa. Anh ngồi trên mỏm đá, cuốn quanh người chiếc áo choàng hai lớp lông chồn, anh ngắm nhìn ngọn lửa. Được hơi nóng ngọn lửa sưởi ấm, anh thấy như người mình nát tan trong mệt mỏi. Cảnh tượng buổi chiều ngày hôm đó tái diễn trước mắt anh, anh tự hỏi không biết nàng nhất hiện giờ thế nào. Trước khi ngủ thiếp đi, anh còn nhớ lại được những đôi bàn tay khéo léo của những cô hầu gái, nước ấm trong chậu bạc để rửa mặt và chén trà nóng để súc miệng.



Không khí lạnh buổi sáng làm mũi Xuân Di lạnh cóng, anh tỉnh dậy.



Xuân Di duỗi thẳng đôi chân nặng nề. Có nên trở về nhà không nhỉ? Có lẽ qua một đêm, cha đã bớt giận, có thể sẽ thứ lỗi cho anh. Liệu cha có dám bóp cổ đứa con trai nối dõi duy nhất? “Ngày mai mình sẽ trở về nhà”, anh tự nhủ và nằm co ro, anh ngủ tiếp.

Anh lang thang hai ngày về hướng Bắc. Cứ mỗi khi muốn quay ngựa trở về nhà anh lại nghĩ đến những trận đòn từng hứng chịu, và điều đó làm anh rùng mình.



Đường đi bắt đầu chỉ toàn là đường núi, càng ngày càng hiểm trở. Bóng mây lướt sát trên khu rừng. Tuyết tan tạo thành vô số thác nước đổ xuống phía vực thẳm. Đến ngày thứ tư, cây cối biến mất, chỉ còn những đỉnh núi trần trụi dựng đứng, sắc như lưỡi cưa. Đỉnh núi cắt đứt sợi dây rốn nối con người với mặt đất, ném Xuân Di vào cái cô đơn của cao xanh; Tuyết trên kia, trên đỉnh núi, giống như những chú chim khổng lồ. Tiếng thú kêu hoà lẫn với tiếng nước róc rách, với tiếng gió vù vù. Sự tĩnh lặng lượn bay là là, rồi bất ngờ đâm thẳng vào chàng trai trẻ bừng thức giấc và ngồi ngay ngắn lại trên yên ngựa



Đôi khi, anh tắm dưới thác nước. Nước lạnh buốt quất vào lưng, vặn cổ anh và khiến đầu óc anh quay cuồng. Sau đó, anh trèo lên nằm dài trên phiến đá bằng phẳng. Hơi ấm của đất khô thấm vào hồn anh. Trên trời, một con chim đại bàng bay ngang qua, cánh giang rộng. Xuân Di thở dài. Chính anh đang thất lạc giữa đất với trời, giữa cái chết và cái sống.



Buổi tối, mặt trăng lấp ló giữa hai mỏm núi vẫy chào anh. Ngày qua ngày, trăng tròn dần dần. Xung quanh Xuân Di, bóng tối xây thành bức tường lửa. Lửa là dây nối duy nhất giữa anh và thế giới loài người. Tiếng lửa nổi lép bép thách thức cả núi non đang gầm gừ.



Đường đi bắt đầu dốc xuống, xoắn vặn vào nhau và hơi nóng tăng dần. Xuân Di tiến bước. Anh không còn đủ sức quay về nhà, mà sức lực tiếp bước tiến lên cũng bắt đầu thiếu. Từ lâu, anh không còn suy nghĩ gì nữa. Thỉnh thoảng anh mắng mỏ con ngựa, nó đáp lại anh cũng bằng giọng tương tự. Đói và khát trở thành hai cảm giác duy nhất của Xuân Di, anh tưởng chính mình cũng đã trở thành thú vật.



Những dãy núi đỉnh cao trần trụi, sườn núi chỉ toàn đá màu nâu thẫm. Đôi khi, những bụi cây, bụi cỏ leo được cả lên vách núi. Vũ trụ thê lương. Vài ngọn đồi hiếm hoi có cây cối phủ che dần dần biết mất, thay vào đó là vô số những gò đất tròn phủ bụi đỏ, đá xám và vài ngọn cỏ héo chuyển thành màu vàng. Thung lũng lượn lờ trong bóng tối trên một dải đất trắng xoá vì ngọn gió hung hăng dày xéo. Những cây cỏ cuối cùng biến mất. Những gò đất bẹt dí, rồi sau khi đi vòng qua đỉnh đồi cuối cùng, từ trên lưng ngựa Xuân Di thấy một đại dương cát.



Đó đây, những mỏm đá khổng lồ hình dáng vặn vẹo đứng sừng sững như thách thức với trời. Không một bóng chim, không một dấu vết của sự sống, chỉ có hơi thở của mặt trời xuyên qua những lớp cát và hư không.



Chàng thanh niên nhíu đôi lông mày và buông lời chửi thề. Sa mạc làm chàng mơ ước đến những thứ phải vượt qua để đến với những thứ ở phía bên kia: thảo nguyên, sông ngòi, những thành phố có hàng trăm nghìn người hối hả. Một ngày nào đó, chàng sẽ hoà vào đám đông đó, sẽ tưởng nhớ lại giây phút này được chàng chọn lựa để liều lĩnh vượt qua cái hư vô.



Suốt phần còn lại của ngày hôm đó, chàng ở lại trong núi. Chàng đã từng quan sát công việc chuẩn bị cho một chuyến đi xa của người Mông Cổ, nên chàng đổ đầy các chai nước, săn mấy con chim, đem nước lên rồi buộc dưới yên ngựa. Chàng lấy rất nhiều cỏ và cây địa y cho ngựa.



Ban đêm chàng đi theo hướng sao Bắc đẩu dẫn đường. Ban ngày, chàng quấn người trong chiếc áo choàng lông và ẩn mình dưới bóng các tảng đá.



Vào ngày thứ ba, tiếng chuông lục lạc đánh thức chàng, chàng nhìn thấy cách mình dăm bước chân có một bầy lạc đà gầy đi ngang qua.



Những người du mục xăm hình đầy mặt, quấn khăn nặng trịch đầy bụi trên đầu, chào chàng.



Vài người của bộ lạc này bập bẹ tiếng Mông cổ, thứ tiếng mà Xuân Di đã học được của những người bạn đi săn, Họ mời chàng uống trà. Phụ nữ đeo mạng kín, nhẹ nhàng kín đáo đi lại như những bóng ma. Họ chỉ cho chàng hướng đi về phía thảo nguyên phía trên cao, tặng chàng bình sữa đầy và đùi cừu khô. Tiếng lục lạc xa dần. Đám người đi rồng rắn giữa bóng đen của những tảng đá, rồi chỉ còn thấy đó như một vạch thẳng, rồi sau đó nó thành một chấm nhỏ lẫn vào khoảng trống không nằm giữa trời và đất.

Chàng từng nghe kể về những vương quốc bí ẩn nằm rải rác trên con đường tơ lụa bị chiến tranh và bão cát làm suy tàn.



Một hôm, cùng lúc bình minh thức giấc, một thành phố chết hiện ra trước mắt chàng. Chàng thấy rõ những đường phố nhỏ bị chôn vùi, những hàng hiên sụp đổ, những bờ tường bị phá huỷ, những mũi dáo bị chìm trong cát, từ đó nhô lên những bộ xương người. Chàng lại gần. Nhưng bỗng nhiên, cứ như thể có một tấm rèm vừa được hạ xuống, mọi hình ảnh biến mất trong hư vô giữa trời và đất.



Qua khỏi một ốc đảo thì hết cát, chỉ còn những viên sỏi xù xì với lác đác vài bụi cỏ. Những bông hoa rực rỡ nở rộ trên mặt đất cằn cỗi. Xuất hiện nhưng bị cỏ khô dưới cái nóng thiêu đốt, lại bị cát vò cho nhàu nhĩ. Rồi mặt đất dần dần xuất hiện những dải cây cỏ xanh tươi. Sau đó, mọi thứ lại biến đi như giấc mơ biến mất vào lúc thức dậy, sa mạc lại trả ra mênh mông.



Chàng cứ cưỡi ngựa mà đi.



Một bộ lạc Mông cổ tiếp chàng. Rồi bộ lạc thứ hai, bộ lạc thứ ba. Họ mời chàng uống rượu, uống trà sữa, ăn thịt cừu và pho mát ngọt. Buổi tối, họ đốt lửa, hát và nhảy múa để chào mừng một tâm hồn lang thang. Họ chơi thứ đàn ở chỗ lên dây có trang trí hình đầu ngựa và hát kể những tích anh hùng xưa. Những giọng nói khàn đặc, những tiếng hát lảnh lót làm Xuân Di rùng mình: kỷ niệm thời niên thiếu của chàng ùa về.



Chàng thèm khát được nghe thấy giọng người. Chàng đánh hơi mùi thơm của bếp núc và say xỉn như một người đàn ông thực sự.



Một cô gái Mông cổ yêu chàng. Rồi sau đó, ở nơi cách xa lều trại, chàng có những chuyện tình lưu đằng sau những ngọn đồi. Phụ nữ khen ngợi chàng. Họ nói trong mắt chàng có những tia chớp và trong bụng chàng có sấm dậy. Nhưng các cô không thể làm dịu được con bão đang quay cuồng dưới làn da của chàng và sức mạnh hoang dã đang sục sôi trong huyết quản chàng.



Phần lớn thời gian, chàng cưỡi ngựa đi mà không gặp ai. Đêm buông xuống, chàng cắm phập con dao găm vào đất làm điểm buộc ngựa. Chàng nằm thẳng trên đất, đắp áo khoác kín người. Chàng chiêm ngưỡng bầu trời với những vì tinh tú chậm chạp di chuyển.



Chàng thường dán mắt nhìn chăm chú các ngôi sao, vũ trụ sâu thẳm đưa đến cho chàng nhiều cảm hứng. Trong vòm trời, có cái gì đó tôi không biết, vô cùng bí ẩn làm chàng dựng tóc gáy. Chàng nín thở. Cái tĩnh lặng biết chạy sát mặt đất như chú cáo khôn khéo. Chàng đứng dậy, thở dốc. Đêm tối như mực thế này làm sao có thể tự bảo vệ mình trước các vị thần vô hình?



“Mi thì biết gì?”, một hôm, có một thầy pháp mà chàng bất ngờ gặp trên đường mắng chàng như vậy sau khi nghe lời chàng kể. Thầy pháp đó là ông già người Trung Hoa sống chung với những người Mông Cổ. Ông cụ mặc một chiếc áo dài bẩn thỉu, nhưng ánh mắt còn giữ vẻ dịu dàng và sáng láng của một nho gia. Dù rất tò mò, nhưng vì tôn trọng các nguyên tắc của người du mục nên Xuân Di không hỏi han gì về quá khứ của cụ. Hai người ngồi trò chuyện trước cửa lều bằng một ngôn ngữ Trung Hoa không phá phách.



“Thế giới của chúng ta giống như chiếc gương cổ, ông già lạ mặt nói. Mặt này trang trí những đường vân nổi, đó là cuộc sống; mặt kia nhẵn nhụi, đó là cái chết. Khi thần thánh chìa ra trước chúng ta mặt nhẵn nhụi, chúng ta hoảng hốt. Bởi vì ta chỉ thấy hình ảnh phản chiếu của chính ta mà thôi. Cuộc sống tâm linh là các chu kỳ luân hồi. Vì vậy mà trong một cuộc sinh tồn, chúng ta chết đi sống lại nhiều lần. Cậu đã từng bao giờ tận mắt nhìn thấy rắn lột xác chưa? Muốn lớn lên, ta phải chịu để cho thần thánh lột xác.

- Thế thì cháu phải làm gì? - Xuân Di gặng hởi vì không hiểu rõ hết ý nghĩa lời giải thích.



Cụ già Trung Quốc lẩm nhấm đọc mấy câu thần chú. Cụ đốt một nhúm lông chó sói trước tảng đá, rồi xem rất kỹ đống tàn. Giọng cụ thay đổi, các nếp nhăn nhuốm màu lửa đỏ co lại như đang ngạc nhiên.

Cụ phát ra những lời bí hiểm sau:

“Cuộc sống là vĩnh hằng mà chia cắt là phù du. Số phận là dòng sông mãnh liệt, hãy cứ thuận xuôi theo số phận, rồi con sẽ có cả đại dương”.



Cụ nhìn chăm chú chàng thanh niên bằng cái nhìn của người cha, giọng cụ thầm thì: “Ngọc quý nằm dưới đáy những đợt sóng tối tăm Nếu có khi nào con bị đắm chìm, con phải biết rằng chính nhờ đó con sẽ được



Không gì làm giảm được vẻ đẹp của ngôi nhà gia cổ như thành luỹ của chúng tôi. Bầu trời thì mênh mông và trong xanh; mặt trời uy nghi tiếp tục soi sáng vũ trụ của chúng tôi. Những chú ong vo ve, những thân cây nghiêng ngả đu đưa theo gió. Trong thế giới của chúng tôi, nỗi thất vọng đến bất chợt như một trận bão. Cuộc sống giống cây địa y dễ tổn thương ẩn náu dưới mưa sẽ vươn mình trỗi dậy mỗi khi nghe thấy tiếng gọi của mặt trời.



Cha mất.



Cha vào buồng của bà nhất. Không nói nửa lời, cha dùng kiếm đâm thẳng vào bụng bà. Bà hét lên, ngã xuống giường. Người bà co gập, vừa giữ chặt vết thương vừa kêu cứu, nhưng gia nhân trong nhà chết lặng vì sợ hãi, không ai dám lại gần. Bà quay mặt nhìn cha, cha quay mặt đi tâm trí rối bời vì thấy máu chảy.



Cha nhớ lại cuộc gặp gỡ lần đầu trong phòng trà ở tỉnh Thành Đô. Nàng mảnh dẻ, tươi cười, vừa hát vừa chơi đàn tì bà. Lúc đó, phòng trà rất huyên náo. Những câu chuyện thô lỗ lẫn lộn trong tiếng bát đũa lách cách và tiếng những người phục vụ ầm ĩ. Nàng lảnh lót hát, tiếng hát của nàng làm lòng cha say như điếu đổ, đôi mắt nàng đen và tròn như đôi mắt chim sơn ca.



Còn bây giờ, người phụ nữ to béo ấy đang tắm trong máu mình. Cha tôi cảm thấy ánh mắt nàng đè nặng lên ông. Trán đẫm mồ hôi, đôi môi nhếch mép biến dạng thành méo xệch, cha bất chợt ấn thêm một mũi kiếm nữa để kết thúc mọi kỷ niệm. Sau đó, cha lấy vạt áo lau sạch mũi kiếm, lảo đảo đi ra cửa. Nhưng cô gái chợ búa đó được luyện võ từ khi mới bốn tuổi đã đứng dậy, lao về phía cha, ôm ghì lấy cha và thọc sâu vào lưng cha con dao găm lúc nào nàng cũng cất dưới đệm.



Khi mẹ tập tễnh đến nơi với đôi chân bị bó chặt, thì cả cha lẫn bà nhất đã nằm sóng soài trên đất. Họ chết cùng một lúc.



Sau khi đưa tang, mẹ lăn ra ốm, không quên được cảnh hai cơ thể máu me bê bết đang co giật Bóng ma đó cứ ám ảnh những giấc mơ của mẹ. Bà nhất đã mặc lại bộ quần áo đi bán hàng hội chợ của mình, bà kéo lê cha tôi đang khóc lóc thảm thiết phía đằng sau Họ cãi nhau, nghiến răng kèn kẹt. Tiếng kêu thê thảm lẫn lộn với tiếng hét thù địch.



Mẹ tức giận, thẳng tay ném xác bà nhất qua bờ tường. Những con ma đói nuốt chửng xác chết. Từ đó, ngay cả tiếng chim kêu cũng làm mẹ đau khổ. Mẹ bật dậy đứng giữa giường ra lệnh cho gia nhân đánh đuổi con chim hỗn láo.



Khi thảm kịch xảy ra, tôi là người duy nhất nghĩ đến anh tôi. Tôi sai những kỵ sĩ giỏi nhất đi tìm anh. Những ngày chờ đợi dài dằng dặc đầy bất ổn. Tôi nhớ lại lời đe doạ của anh. Khi còn trẻ con, anh đã thề sẽ trả thù tôi khi cha mất và khi anh sẽ trở thành ông chủ.



Tôi bí mật chuẩn bị chạy trốn, vì đã đưa hết của riêng cho Xuân Di, nên tôi phải ăn trộm ít đồ trang sức của mẹ. Tôi cho may quần áo kỵ sĩ và học cách cưỡi ngựa.



Một hôm, tôi ra lệnh cho gia nhân mở cửa chính. Họ không dám trái lệnh. Những điều cấm đoán đã chết hết cùng cha tôi; những lề thói cũ thì còn đang mê sảng trên giường cùng với mẹ. Sự vắng mặt kéo dài của anh tôi đã tạo cho tôi quyền chỉ huy trong nhà.



Cánh cửa mở ra rên ken két ầm ĩ. Sự vĩ đại của thế giới chưa hề biết làm tôi đần người ra. Tôi thong thả xuống núi. Tôi chóng mặt, túm chặt dây cương.



Tôi loá mắt vì ánh sáng và màu sắc, choáng váng vì những âm thanh; tiếng vó ngựa gõ chát chúa, tiếng nước suối chảy ào ào, tiếng đá lăn lục cục, tiếng xào xạc của cành cây cọ vào mỏm đá. Thỉnh thoảng vách đá dựng đứng nhại lại tiếng tôi cười.



Tôi đi tới thảo nguyên, cỏ cao chạm cả vào chân tôi. Mùi ẩm ướt, mùi động vật vây bủa lấy tôi. Tôi xem xét xung quanh và hiểu rằng tôi từ trên trời rơi xuống và trên mặt đất, thế giới có những tỉ lệ khác Thung lũng mất đi vẻ bình an. Trái đất bị biến dạng bởi những dãy núi đá nhọn hoắt đâm toạc nền trời. Tôi không thấy hồ nước đâu nữa, chân trời bỗng méo mó. Cây cỏ lo lắng uốn lượn, đôi khi để lộ ra những đàn gia súc ẩn hiện trong những làn sóng xanh.



Tôi cứ mặc cho ngựa mang tôi đi. Nó đi nước kiệu. Bước chân nó đánh thức những con sếu phóng vút lên bầu trời. Đột nhiên, tôi không kịp phản ứng, nó bỗng phi nước đại, cả thế giới nghiêng ngả.



Tôi nằm vật ngửa trên cỏ. Qua những bông hoa màu tím, tôi nhìn thấy vòm trời và những đám mây bay qua. Trái đất không chuyển động, không nói điều gì, chỉ truyền cho tôi hơi ấm của nó.

Tôi nghĩ đến Xuân Di khi anh đi săn, anh thường xuyên nằm ngửa trên đất. Anh ngắm nhìn bầu trời, quan sát những con bọ dừa trèo trên lá và chiêm ngưỡng những chú bướm bay qua. Anh không nghĩ đến điều gì cả, chỉ thấm thấu tất cả sức mạnh của đất.



Từ ngày hôm đó, mỗi khi ra khỏi nhà, tôi lại trở thành Xuân Di, nhìn những chú chim chạy trốn, tôi lấy lòng bàn tay mình ve vuốt mặt đất. Anh tôi đã ra đi, nhưng tâm hồn của anh vẫn còn đây trong thung lũng, làm cho tôi quen dần với những điều bí ẩn của thảo nguyên.



Một hôm, tôi gặp viên quản gia Ông ta đến chào mẹ tôi nhưng tội nghiệp quá, mẹ tôi không còn nhận ra ông ấy nữa.

“Hãy mang cho tôi các ghi chép của tháng trước, ngày mai tôi đợi ông trong phòng ăn”, tôi nói với ông ta.



Ngạc nhiên, ông ta chỉ gật đầu mà không nói thêm lời nào.



Đã đến lúc phải quản lý ngôi nhà này. Không có người chủ, gia nhân bắt đầu lộng hành, ăn cắp, còn hai người thiếp thì cãi nhau và ca thán với tất cả mọi người.



Ngày hôm sau, tôi gặp già Lý trong phòng ăn vào đúng giờ mà mẹ tôi vẫn có thói quen tiếp. Bọn gia nhân đã chuẩn bị sẵn cho tôi bút lông, mực, giấy, bàn tính đặt trên bàn. Già Lý bước vào vẻ khúm núm, do dự nhưng hai con mắt thì nhìn tôi săm soi. Già chủ động mang đến trình tôi những khối lượng thu chi tổng quát. Qua đó, tôi biết được cả đại gia đình này sống nhờ rừng và gia súc. Thuộc sở hữu của chúng tôi có cả các thương đoàn qua lại giữa Trung Quốc và có cả các nước Đông Nam, rồi những đồn điền chè, những mảnh đất trồng xen kẽ lúa và lúa mì và hai cửa hàng lụa, là của hồi môn của mẹ tôi.



Chồng giấy tờ khác ghi chép mọi khoản chi tiêu. Tôi không ngờ được rằng hàng ngày gia đình tôi ngốn cả núi tiền như lửa ngốn rơm. Một hành động, một ý muốn, một hạt phấn nhỏ đều làm cho tiền vàng biến mất.



Khi còn bé, tôi thường đến ăn sáng với mẹ, cách làm việc của mẹ còn in đậm trong tâm trí tôi. Tôi bắt chước uy lực của mẹ, nhưng cương quyết hơn. Ngay từ ngày hôm đó, đám gia nhân đã sợ tôi, xì xào về tính cứng rắn của tôi.



Tôi tàn nhẫn nhưng không tàn bạo. Sự điên khùng thừa hưởng của cha được điều chỉnh lại bằng tính dịu dàng thừa hưởng của mẹ. Tôi trừng phạt bọn người hầu lợi dụng tình hình hỗn độn trong nhà để ăn cắp và ra lệnh thả cả hai người thiếp. Tôi cho người mang vàng đến phòng họ.



Cả hai đến phòng tôi khóc lóc. Nàng ba muốn bòn rút thêm tiền còn nàng hai muốn được ở lại. Cả hai kể với tôi nỗi cô đơn và bất hạnh của họ vì sinh ra trong hoàn cảnh trớ trêu. Họ nói không biết ai là cha mẹ, không có gia đình Tôi không trả lời. Tiếng họ than vãn giống như con sóng lừng tìm cách kéo tuột tôi xuống vực thẳm bệnh hoạn mà họ đã ngụp lặn dưới đó.



Lần đầu tiên kế từ khi cha chết, tôi nghĩ về con người này. Qua những đôi mắt đỏ mọng vì khóc lóc của hai nàng thiếp, tôi nhận ra người đàn ông trong cha chứ không phải là cha.



Cha đã ruồng bỏ mẹ tôi để đi theo những người phụ nữ mang trong mình bạo lực và những đau khổ về tâm lý. Cha yêu và say mê vẻ yếu đuối của họ. Họ là sự dối trá của cha, và là tự do của cha Họ là tấm gương soi hình ảnh cha và là niềm an ủi của cha.

Không có lý do gì cả, nóng giận bốc lên trong người tôi. Kể từ khi trở thành chủ nhân của gia đình, hiện tượng này thường xảy ra với tôi.

“Cha tôi cho hai má trang sức đầy người, tôi lại còn cho thêm tiền để hai má có thể đi đến bất kỳ chỗ nào cũng được, dù cho đến tận cùng thế giới, có đủ vốn mà mở nghiệp buôn bán. Đi đi, hai bà đi đi, không tranh cãi gì nữa”.



Bà ba nhào vào người tôi, kêu tên cha, cầu xin sự khoan hồng của mẹ tôi và nguyền rủa bà nhất đã chết. Tôi đứng lên, dùng cánh tay gạt bà ta ra.

“Đừng có chạm vào tôi. Biến khỏi đây, nếu không tôi sẽ cho người lôi đi”.



Bà ta nhổ nước bọt vào người tôi, lăn lộn dưới đất rồi đập đầu xuống nền nhà



Đột nhiên tôi tỏ ra thờ ơ với người phụ nữ này. Thật là nhẹ người! Khi trẻ con, tôi rất sợ bà ta. Đến tuổi niên thiếu, tôi bị thôi miên vì những điệu cười và cái liếc mắt của bà. Bây giờ, bà ta không còn là chính mình nữa, mà là một vật được quá khứ tạo ra, còn tôi quay lưng lại quá khứ ấy.



Tới một dãy núi rợp bóng cây thì hết thảo nguyên. Phía bên kia, làng xóm được đồng ruộng bao xung quanh, chùa chiền ấn nấp trong sương mù, Con đường bụi bặm dẫn Xuân Di đến ngôi làng đầu tiên, Những mái nhà tranh thấp tè tựa lưng và một bức thành cổ, dân làng lấy đất ở chính bức tường đó làm tường cho nhà mình. Những cây tiêu huyền vẫy vẫy những tán lá tàn úa vì mùa hè. Các cụ già quần áo rách rưới ngồi chồm hỗm trước cửa, ngủ gà ngủ gật dưới ánh mặt trời. Xung quanh họ, gà đang cục ta cục tác. Ở ngõ ra đầu làng, những người nông dân đầu trọc lốc với bím tóc đuôi sam bé xíu sau lưng đang rẫy cỏ trên đồng. Họ giương mắt nhìn Xuân Di đi qua với thái độ canh chừng.



Làng thứ hai nằm trong lòng sông cạn của sông Hoàng Hà. Một đám trẻ trần truồng, đen sạm vì nắng vây quanh Xuân Di. Bọn chúng gầm gừ ra sức làm cho Xuân Di ngã ngựa.



Đến ngôi làng thứ ba thì ông mặt trời đã rơi xuống đến tận đường chân trời rồi. Người lao động từ ngoài đồng trở về. Dưới những đám mây đỏ thẫm, mấy hàng cây trầm mặc suy ngẫm về sự phù du và cái vĩnh hằng. Một đôi vợ chồng trẻ mời Xuân Di ngủ trong nhà mà không nhận tiền trọ. Tờ mờ sáng hôm sau, những tiếng cựa quậy kín đáo báo hiệu ngày mới. Tiếng gió thổi lên những tờ giấy bản dán ở cửa sổ. Giữa những tiếng động gần như không thể nghe thấy được, Xuân Di nhận ra tiếng cừu be be, tiếng gà cục cục vì vừa được mở cửa chuồng. Dần dần, chàng nghe rõ tiếng lanh canh của chiếc gầu múc nước va vào thành giếng, tiếng lào xào của rơm rạ mà người ta đang dọn, tiếng lửa thì thầm tí tách trong lò nấu. Mùi của bếp núc lan toà khắp phòng, bình minh đang nhuộm trắng khung cửa sổ.



Ngôi làng thứ tư toàn là tu sĩ. Những ngôi đền đổ nát phủ đầy những bức vẽ mờ và nhuốm màu đen xỉn vì khói. Dưới vòm các lối đi lợp mái tối tăm, tượng bồ tát mặt nhăn nhó, hùng hồ thổi kèn hay chơi đàn tì bà, lấy chân xéo lên những kẻ bị kết tội. Không khí bẩn thỉu. Xuân Di nhặt lấy mấy thẻ hương dưới chân một tượng Phật phủ lá vàng thay cho quần áo. Chàng phủ phục xuống cái gối màu vàng mà những tín đồ nhiệt tâm đã làm cho thủng lỗ chỗ. Chàng chắp tay, nhắm mắt lại. Tiếng lâm râm cầu nguyện vọng lại đến đinh tai chọc nát sự yên tĩnh. Đó là tiếng các tu sĩ tụng một bài kinh theo yêu cầu của Xuân Di. Phải mất một lúc lâu chàng mới tưởng tượng lại được ngôi nhà của cha chàng. Ngôi nhà hít thở, vẫy gọi, cố gắng nhắc nhở chàng nhớ đến nó. Nhưng chàng không lắng nghe tiếng nó nữa. Chàng là cái trái cây bị vứt bỏ của cái cây tổ phụ đó.



Khi ra khỏi ngôi làng thứ mười lăm. Xuân Di vào quán trọ mà chàng vừa ăn mì nấu thịt cừu, chàng bắt gặp những người đẩy đò dọc sông Hoàng Hà. Ống quần dài của họ rộng, màu đen, thắt lại quanh hông bằng thắt lưng vải bông màu xanh. Họ chỉ mặc một áo trấn thủ trắng che bộ ngực trần; mạch máu hằn lên chạy ngoằn ngoèo trên cánh tay họ làm thành những hình xăm khiếp đảm. Họ không nói lời nào với nhau, chỉ uống rượu gạo và cũng gọi mì nấu thịt cừu rồi ăn rất ngon miệng. Khi đến bờ sông, Xuân Di mới hiểu ra rằng lời nói của họ đã bị sự mênh mông của con sông đầy bùn nuốt chửng.



Con thuyền rời bến, khách đi thuyền được chiêm ngưỡng một khung cảnh ngút ngát bờ bãi. Bãi cát sỏi trải rộng, những cây sậy run rẩy trong gió. Phía xa, những cánh đồng ngô quàng tay ôm lấy những cánh đồng lúa mì.



Ở phía chân trời, núi bị đè dẹt xuống. Ít phút sau chỉ còn thấy những dòng nước, bọt nước và xoáy nước. Bầu trời có màu lờ mờ, từng đám mây với những đàn ngỗng trời bay qua. Dòng sông giống như khuôn mặt cụ già hằn sâu những vết nhăn. Lần đầu tiên đi thuyền, Xuân Di bị nôn. Như là chế giễu chàng, từ cổ họng người đẩy đò phát ra tiếng cười khẩy khàn khàn, anh ta bắt đầu hát.



Qua cửa Trường Thành Đế vào đồng bằng phía nam, Xuân Di phải đi qua những thành phố, làng mạc, ở đó, chàng thay quần áo, tóc tai theo kiểu của triều đại đã biến mất của mình. Chàng cũng sửa lại cách phát âm lạ lẫm và đơn giản hoá lối nói cầu kỳ của mình.



Mùa thu trèo lên núi, ghé thăm các tu viện, rồi lại đi xuống đồng bằng nơi nông dân bắt đầu thu hoạch lúa mì. Cuối cùng, chàng cũng đặt chân đến Bắc Kinh, thành phố có những lỗ châu mai, những cổng thành rộng mở.



Giao thông tấp nập đến mức Xuân Di phải xuống ngựa. Chàng đi bộ về phía trung tâm kinh thành. Người Mãn Châu có bím tóc đuôi sam dài nỗi bật giữa những người cộng hoà tóc cắt ngang vai. Những cửa hàng vải, những hiệu thuốc, cửa hàng tạp hoá, phòng trà, nhà tiêu khiển nằm kế tiếp nhau. Từng tốp các bà già ngồi bệt xuống đất bán rau quả, phe phẩy quạt tre để đuổi ruồi.

Đường phố phủ đầy bụi bặm và toả ra mùi ngái ngái của sự nghèo khồ. Những khuôn mặt vàng vọt kín bưng và trơ lỳ, Nhưng cũng phảng phất chút ngạo mạn. Đàn ông mặc áo dài bẩn thỉu, quần nhăn nhúm, phụ nữ mặc áo khoét tay bên ngoài áo cánh. Tại ngã tư, có nhóm người đi chợ phiên biểu diễn xiếc nhào lộn và một con khỉ xin tiền.



Đột nhiên, đường phố mở rộng ra. Mấy cỗ máy kếch xù đen thui, khủng khiếp vừa chạy vừa kêu inh ỏi. Xuân Di thoáng nhìn thấy qua những cửa kính kéo lưng chùng, những khuôn mặt phụ nữ trát phấn hoặc những người đàn ông giương bộ râu cằm nhọn

Dưới bức tường cao, trong bóng mát của hàng trắc bách diệp, cuộc sống có vẻ thanh bình hơn nhưng cũng có vẻ buồn tẻ hơn. Một vài người đi dạo, tay đung đưa những chiếc lồng chim. Phu xe kéo tay bó gối ngồi dọc theo vỉa hè đợi khách. Họ ngáp, tán gẫu hoặc tìm bắt rận trong áo cánh rách. Xuân Di đánh bạo hỏi họ đường dẫn tới Cấm Thành. Một người trong số họ săm soi nhìn chàng từ đầu đến chân rồi uể oải chỉ ngón tay về hướng đông. Bằng giọng Bắc Kinh đặc sệt chỉ nói lúng búng trong miệng, kéo dài giọng ở các phụ âm và âm mũi thì tỏ ra vẻ lịch sự mang màu sắc châm chọc tinh tế, anh này nói: “Xin cứ thẳng đường, thưa tiên sinh”.



Rồi xuất hiện chiếc cổng khổng lồ bên trên là một cái chùa. Hàng trăm con chim én liệng xung quanh mái chùa đánh mái đở kêu than. Bên đường, đàn lạc đà buộc liền với nhau nằm im trong bụi bặm, đàn la chở những bịch nước thong thả nhai cở. Một người mù dựa lưng vào tường coi tử vi cho một người đàn ông trong thương đoàn. Tay dắt ông già ăn mày, một cô gái nhỏ hát giọng lảnh lót.



Những cánh cửa mở lối vào một đường hầm không sâu lắm, rồi con đường hầm ấy lại dẫn đến một khu đất rộng. Ở đó, người ta bán cháo nóng còn bắc trên lò, bán thịt xiên nướng, bán đồ cổ, bán quần áo chất thành đống, bán hoa cúc trong chậu hoặc xâu thành vòng. Người ta kêu la, gọi nhau í ới, mặc cả, giọng miền Bắc lẫn với giọng miền Nam, nhưng tất cả đều bắt chước theo cách nói thanh lịch của Bắc Kinh. Giữa ồn ào hỗn loạn đó, Xuân Di thấy một cái cổng thứ hai, còn uy nghi hơn cổng thứ nhất.

Cái cổng này được thành rộng bảo vệ, trên đỉnh có nhà chòi bề thế, phía trước có chữ “Thiên An Môn”.



Xuân Di vượt qua cầu đá trắng lan can có chạm khắc. Chàng ngạc nhiên vì thấy những cánh cửa lởm chởm đầy những chiếc đinh đồng lại mở toang. Chàng lọt vào cái sân rộng mênh mông. Trước mặt chàng là Cổng Ngọ Môn do tốp lính trong đồng phục màu vàng đứng gác. Có những tiếng động khô khan. Một tốp lính đi ra. Họ đi mất hút vào một trong hai chiếc cửa bên ngách.

Sau đó, im lặng phăng phắc. Những con chim én bay lượn, la lối om sòm. Tiếng rao của người bán hoa quả rong vượt qua bức thành bay đến tận tai Xuân Di.



Tháp và những nhà chòi đều bị tróc vảy sơn, những ống máng biến mất dưới mái cong hất lên. Cỏ dại mọc lên từ những kẽ nứt nơi vỉa hè. Xuân Di mệt rũ người, khom lưng dắt ngựa đi ra qua lối cửa bên để tìm quán trọ. Ngày mai, có thể là ngày mai, chàng sẽ biết chàng là cái gì ở chốn đô thành tổ phụ.



Mẹ chết, thế là cuối cùng mẹ cũng được giải thoát khỏi trạng thái điên khùng. Tôi khóc nhưng sâu thẳm trong nỗi buồn của tôi cũng có niềm hạnh phúc: Mẹ gần với tôi hơn. Mẹ đi vào trong thế giới thầm kín của tôi, trong hơi thở của tôi. Mẹ đã bay cao lên tới cõi vô hình.



Nhưng cảm giác ấy dần dần mất đi. Tôi bắt đầu nghi ngờ và đau khổ vì việc mẹ bỏ rơi mình. Tôi tự hỏi không biết có ma không, không biết chết đi thì linh hồn còn có trái tim không, không biết có thần thánh giám sát con người hay không Đôi khi con người tôi tràn ngập cảm giác trống rỗng và vô định. Tôi vội vàng thay quần áo, phóng một mạch xuống núi, phi nước đại đến tận cái hồ nơi có mặt nước trong suốt, tấm gương khổng lồ của tâm hồn tôi đang lấp lánh sáng. Tôi khóc nức nở.



Một đêm, mẹ hiện về với tôi, mặc chiếc váy màu tím mà khi còn là đứa bé con tôi thích đến mê mẩn. Mẹ nói với tôi rất lâu về số phận của tôi và của anh trai tôi, về tương lai của ngôi nhà này, về con cháu của chúng tôi.



Khi tỉnh dậy, những lời nói của mẹ mà tôi tin chắc là đã khắc sâu vào trong trí nhớ đã biến đâu hết, đã bay tỏa đi như những đàn chim



Nhưng núi non, thảo nguyên và hồ nước vẫn đó, chung thuỷ và bất biến. Tôi học đi săn và nuôi con chim ưng của anh trai tôi. Nước da của tôi do phơi nhiều dưới ánh mặt trời đã sạm lại, tay tôi đầy những vết chai vì bật dây cung.



Tôi đến ngồi trên bờ tường, đối diện với vô cùng. Tôi nhắm mắt lại và tập trung, tìm suy nghĩ của anh trai tôi trong số hằng hà sa số các lời nhắn nhủ gió đang mang tới. Những tiếng kêu, những tiếng khóc, những tiếng cười, những tiếng thì thầm yêu đương, tiếng rì rào của dòng sông, hàng triệu hàng tỉ tâm linh thắp sáng rồi lụi tắt như những ngôi sao trên đại dương cuộc sống. Nhưng anh trai tôi vẫn câm lặng. Tan ra trong đất, anh đã sống một cuộc sống mới.



Tôi đeo ở thắt lưng vải lụa của mình chìa khoá của tất cả các cửa và rương hòm. Nó va đập vào nhau lách cách mỗi khi tôi bước đi. Tôi quản lý chặt chẽ tài sản, đế bảo vệ hình ảnh rạng rỡ của gia đình này, để đình hoãn sự suy đổ của nó. Tôi là kẻ chiến binh cuối cùng bảo vệ điện thờ cho tổ tiên đã mất.



Xung quanh tôi là gió, tuyết, sự im lặng và tiếng gầm gào của thảo nguyên.



Hiếm khi tin tức từ Bắc Kinh lọt đến tận vùng núi non này; những cuộc chiến tranh sắp nổ ra; nhân dân phản đối chính phủ; cảnh sát tàn sát sinh viên; rồi sau đó là chờ đợi, bất định.



Tôi cưới một người đàn ông mà tôi chọn lựa. Tôi có mang. Cuộc sống nảy mầm trong tôi. Nó quay cuồng, rồi tĩnh lặng. Tôi mang trong da thịt tôi một hồ nước, một biển khơi. Tôi trở thành một vòm trời.



Một đêm, cái sinh linh bé nhỏ đó giật mình thức dậy. Nó vặn người, vươn dậy. Buổi sáng hôm sau, tôi sinh một bé trai. Người ta mang nó cho tôi xem. Nhăn nheo, đầy máu, nó khóc.






Chú thích:

[1] Đạt Lai Lạt Ma thứ sáu (1683 - 1706). Tsangyang Tsomo Gyatso, “Đại dương của điệu hát du dương”
Bốn kiếp thùy liễu
Giới thiệu
Kiếp thứ nhất
Kiếp thứ nhì
Kiếp thứ ba
Kiếp thứ tư