Tái bút-1969
Tác giả: THOMAS S. KUHN
Bây giờ đã gần bảy năm kể từ khi cuốn sách này được xuất bản lần đầu.1 Giữa chừng cả phản ứng của các nhà phê bình lẫn công việc thêm của riêng tôi đã làm tăng sự hiểu biết của tôi về một số vấn đề nó nêu ra. Về những cái cơ bản quan điểm của tôi hầu như không thay đổi, nhưng bây giờ tôi nhận ra các khía cạnh của trình bày ban đầu của nó gây ra các khó khăn vu vơ và những sự hiểu lầm. Vì một số trong các hiểu lầm đó là của riêng tôi, việc loại bỏ chúng cho phép tôi nhận lí lẽ cuối cùng sẽ tạo cơ sở cho một phiên bản mới của cuốn sách.2 Trong lúc đó, tôi chào đón cơ hội để phác hoạ những xét lại cần thiết, để bình luận một số phê bình lặp lại, và để gợi ý các hướng theo đó tư duy của riêng tôi hiện giờ đang phát triển.3
Nhiều khó khăn chủ yếu của văn bản gốc của tôi tụm lại quanh khái niệm về khung mẫu, và thảo luận của tôi bắt đầu với chúng.4 Trong các tiểu mục ngay sau, tôi gợi ý sự đáng ao ước về việc làm cho khái niệm đó thoát khỏi quan niệm về cộng đồng khoa học, chỉ ra việc này có thể được làm ra sao, và thảo luận một số hệ quả quan trọng của sự chia tách giải tích đó. Tiếp đến tôi xem xét cái gì xảy ra khi các khung mẫu được tìm bằng khảo sát ứng xử của các thành viên của một cộng đồng khoa học được xác định trước. Thủ tục đó nhanh chóng tiết lộ rằng trong phần lớn cuốn sách từ ‘khung mẫu’ được dùng theo hai nghĩa khác nhau. Một mặt, nó có nghĩa là toàn bộ hình trạng của các lòng tin, giá trị, kĩ thuật, và v.v. được các thành viên của một cộng đồng cho trước chia sẻ. Mặt khác, nó biểu thị một loại yếu tố trong hình trạng đó, các lời giải-câu đố mà, được dùng như các mô hình hay các mẫu, có thể thay các quy tắc tường minh như cơ sở cho lời giải của các câu đố còn lại của khoa học thông thường. Nghĩa thứ nhất của từ, gọi nó là nghĩa xã hội học, là chủ đề của Tiểu Mục 2, dưới đây; Tiểu mục 3 dành cho các khung mẫu như các thành tựu quá khứ mẫu mực.
Về mặt triết học, chí ít, nghĩa thứ hai này của ‘khung mẫu’ là sâu sắc hơn trong hai nghĩa, và các yêu sách tôi đã đưa ra nhân danh nó là các nguồn chính cho những tranh cãi và hiểu lầm mà cuốn sách đã gây ra, đặc biệt cho lời buộc tội rằng tôi đã biến khoa học thành một việc làm táo bạo chủ quan và phi duy lí. Các vấn đề này được xem xét ở các Tiểu Mục 4 và 5. Tiểu mục đầu lí lẽ rằng các từ như ‘chủ quan’ và ‘trực giác’ không thể được dùng một cách thích hợp cho các thành phần của tri thức mà tôi đã mô tả như được gắn ngầm vào các mẫu dùng chung. Tuy tri thức như vậy không phải là chủ đề, mà không có thay đổi căn bản, cho lời diễn giải dưới dạng các qui tắc và tiêu chuẩn, nó tuy nhiên có tính hệ thống, được thời gian thử thách, và theo nghĩa nào đó có thể sửa được. Tiểu mục 5 áp dụng lí lẽ đó cho vấn đề lựa chọn giữa hai lí thuyết không tương thích, đề xuất trong kết luận ngắn gọn rằng những người theo các quan điểm không thể so sánh với nhau, được coi như các thành viên của các cộng đồng ngôn ngữ khác nhau và các vấn đề truyền thông của họ phải được phân tích như các vấn đề về dịch thuật. Ba vấn đề còn lại được thảo luận trong các Tiểu Mục kết thúc, 6 và 7. Tiểu mục đầu xem xét lời buộc tội rằng quan điểm về khoa học được trình bày trong cuốn sách này là hoàn toàn mang tính tương đối. Tiểu mục thứ hai bắt đầu với thẩm vấn liệu lí lẽ của tôi thực sự bị lẫn lộn, như được nói, giữa các phương thức mô tả và chuẩn tắc; nó kết thúc với các nhận xét ngắn về một chủ đề xứng đáng một tiểu luận riêng biệt: mức độ mà các luận đề chính của cuốn sách có thể được dùng một cách hợp pháp cho các lĩnh vực khác khoa học.
1. Các Khung mẫu và Cấu trúc Cộng đồng
Thuật ngữ ‘khung mẫu’ bước vào các trang trước lúc đầu, và cách vào của nó là lòng vòng một cách cố hữu. Một khung mẫu là cái mà các thành viên của một cộng đồng khoa học chia sẻ, và, ngược lại, một cộng đồng khoa học bao gồm những người chia sẻ một khung mẫu. Không phải mọi tính lòng vòng đều là xấu (tôi sẽ bảo vệ một lí lẽ về cấu trúc tương tự muộn hơn trong tái bút này), nhưng sự lòng vòng này là một nguồn của những khó khăn thực sự. Các cộng đồng khoa học có thể và phải được cô lập mà không có viện dẫn trước đến các khung mẫu; cái sau có thể được khám phá ra sau đó bằng khảo sát tỉ mỉ ứng xử của các thành viên của một cộng đồng. Nếu giả như cuốn sách này được viết lại, nó vì thế sẽ bắt đầu với một thảo luận về cấu trúc cộng đồng khoa học, một đề tài gần đây đã trở thành một chủ đề quan trọng của nghiên cứu xã hội học và các sử gia về khoa học cũng bắt đầu coi việc đó một cách nghiêm túc. Các kết quả sơ bộ, nhiều kết quả vẫn chưa được công bố, gợi ý rằng các kĩ thuật kinh nghiệm cần cho khảo sát nó là không-tầm thường, nhưng có sẵn một số và số khác chắc chắn phải được phát triển.5 Hầu hết các nhà khoa học hành nghề đáp ứng ngay đối với các câu hỏi về các thành viên cộng đồng của họ, coi là dĩ nhiên rằng trách nhiệm về các chuyên ngành khác nhau hiện thời được phân bổ giữa các nhóm của các thành viên chí ít được xác định một cách đại thể. Vì thế tôi sẽ giả sử là có thể tìm thấy các phương tiện có hệ thống hơn cho sự nhận diện chúng. Thay cho trình bày các kết quả nghiên cứu sơ bộ, hãy để tôi trình bày rõ một cách ngắn gọn quan niệm trực giác về cộng đồng làm cơ sở nhiều ở các chương trước của cuốn sách này. Nó là quan niệm bây giờ được các nhà khoa học, xã hội học, và một số sử gia khoa học chia sẻ rộng rãi.
Một cộng đồng khoa học bao gồm, trên quan điểm này, những người thực hành một chuyên ngành khoa học. Ở mức độ không thể sánh kịp trong hầu hết các lĩnh vực khác, họ đã trải qua sự giáo dục và nhập nghề giống nhau; trong quá trình họ đã hấp thu cùng văn học kĩ thuật và rút ra nhiều bài học như nhau từ đó. Thường thường các ranh giới của văn học chuẩn đó biểu thị các giới hạn của một chủ đề khoa học, và mỗi cộng đồng thường có một chủ đề riêng. Có các trường phái trong khoa học, trong các cộng đồng, tức là, chúng tiếp cận cùng chủ đề từ các quan điểm không tương thích nhau. Nhưng ở đó chúng là hiếm hơn ở các lĩnh vực khác nhiều; chúng luôn trong cạnh tranh; và sự cạnh tranh của chúng nhanh chóng chấm dứt. Kết quả là, các thành viên của một cộng đồng khoa học nhìn chính mình và được những người khác nhìn như những người chịu trách nhiệm duy nhất về theo đuổi một tập các mục tiêu chung, kể cả đào tạo những người kế vị họ. Bên trong các nhóm như vậy sự liên lạc [truyền thông] là tương đối đầy đủ và đánh giá chuyên môn là tương đối đồng thuận. Mặt khác, bởi vì sự chú ý của các cộng đồng khoa học khác nhau tập trung vào các chủ đề khác nhau, sự liên lạc chuyên môn giữa các ranh giới nhóm đôi khi khó khăn, thường gây ra hiểu nhầm, và có thể, nếu theo đuổi, gây ra sự bất đồng đáng kể và trước kia không bị nghi ngờ.
Các cộng đồng theo nghĩa này, tất nhiên, tồn tại ở nhiều mức. Bao trùm nhất là cộng đồng của tất cả các nhà khoa học tự nhiên. Ở mức chỉ thấp hơn một chút các nhóm chuyên môn khoa học chính là các cộng đồng: các nhà vật lí học, hoá học, thiên văn học, động vật học, và tương tự. Đối với các phân nhóm chính này, tư cách thành viên cộng đồng đã được xác lập rồi trừ ven rìa. Đối tượng có độ cao nhất, thành viên trong các hiệp hội chuyên ngành, và việc đọc các tạp chí thường là nhiều hơn đủ. Các kĩ thuật tương tự sẽ cũng tách các nhóm con chính ra: các nhà hoá học hữu cơ, và giữa họ có lẽ các nhà hoá học protein, các nhà vật lí chất rắn và năng lượng cao, các nhà thiên văn học vô tuyến, và v.v. Chỉ ở mức thấp hơn tiếp theo các vấn đề kinh nghiệm mới nổi lên. Lấy một thí dụ đương thời, làm sao có thể cô lập nhóm thể thực khuẩn trước sự xuất hiện công khai của nó? Cho mục đích này người ta phải có nguồn lực cho tham dự các hội nghị chuyên môn, cho phân phát các bản thảo hay bản in thử trước khi xuất bản, và trên hết cho mạng lưới liên lạc chính thức và phi chính thức kể cả các mạng được phát hiện ra trong thư từ và các liên kết giữa các trích dẫn.6 Tôi cho rằng công việc có thể và sẽ được làm, chí ít cho quang cảnh đương thời và phần gần đây nhất của lịch sử. Điển hình nó có thể mang lại các cộng đồng có lẽ có một trăm thành viên, đôi khi ít hơn đáng kể. Thường cá nhân các nhà khoa học, đặc biệt người có tài nhất, sẽ thuộc về nhiều nhóm như vậy đồng thời hay kế tiếp nhau.
Các cộng đồng loại này là các đơn vị mà cuốn sách này đã giới thiệu như những người tạo ra và hợp thức hoá tri thức khoa học. Các khung mẫu là cái gì đó được thành viên của các nhóm như vậy chia sẻ. Không có dẫn chiếu đến bản chất của các yếu tố dùng chung này, nhiều khía cạnh của khoa học được mô tả ở các trang trước hầu như không thể hiểu được. Nhưng các khía cạnh khác có thể, tuy chúng không được trình bày một cách độc lập ở văn bản gốc của tôi. Vì thế, trước khi trực tiếp quay sang các khung mẫu, đáng nhắc tới một loạt các vấn đề đòi hỏi sự dẫn chiếu đến riêng cấu trúc cộng đồng.
Có lẽ nổi bật nhất trong các vấn đề này là cái trước đây tôi gọi là quá độ từ giai đoạn trước-khung mẫu sang sau-khung mẫu trong sự phát triển của một lĩnh vực khoa học. Quá độ đó được phác hoạ ở trên trong Mục II. Trước khi nó xảy ra, một số trường phái cạnh tranh vì sự thống trị một lĩnh vực cho trước. Sau đấy, theo sau thành tựu khoa học đáng kể nào đó, số các trường phái giảm mạnh, thường xuống còn một, và một phương thức thực hành khoa học hữu hiệu hơn bắt đầu. Phương thức sau nói chung là bí truyền và hướng về giải câu đố, chỉ có thể như công việc của nhóm khi các thành viên của nó coi cơ sở của lĩnh vực của họ là dĩ nhiên.
Bản chất của chuyển đổi đó đến trưởng thành đáng thảo luận đầy đủ hơn nó đã nhận được trong cuốn sách này, đặc biệt từ những người quan tâm đến sự phát triển của các khoa học xã hội đương thời. Cho mục đích đó có thể hữu ích để chỉ ra rằng quá độ không cần (bây giờ tôi nghĩ không được) kết hợp với sự kiếm được đầu tiên một khung mẫu. Các thành viên của tất cả các cộng đồng khoa học, kể cả các trường phái của giai đoạn “trướckhung mẫu”, chia sẻ các loại yếu tố mà tôi đã gắn nhãn chung là ‘một khung mẫu’. Cái thay đổi với quá độ đến trưởng thành không phải là sự hiện diện của một khung mẫu mà đúng hơn là bản tính của nó. Chỉ sau sự thay đổi thì nghiên cứu giải-câu đố thông thường mới có thể. Nhiều thuộc tính của một khoa học đã phát triển mà ở trên tôi đã kết hợp với việc kiếm được một khung mẫu vì thế bây giờ tôi muốn thảo luận như các hệ quả của việc kiếm được loại khung mẫu nhận diện được các câu đố thách thức, cung cấp manh mối cho việc giải chúng, và đảm bảo rằng người hành nghề thực sự thông minh sẽ thành công. Chỉ những người lấy hết can đảm từ việc quan sát rằng lĩnh vực (hay trường phái) của riêng họ có các khung mẫu chắc là cảm thấy rằng sự thay đổi hi sinh cái gì đó quan trọng.
Vấn đề thứ hai, quan trọng hơn chí ít cho các sử gia, liên quan đến việc cuốn sách này đồng nhất một-đối-một các cộng đồng khoa học với các chủ đề khoa học. Tức là, tôi đã hành động lặp đi lặp lại cứ như thể, thí dụ, ‘quang học vật lí’, ‘điện học’, và ‘nhiệt’ phải đặt tên các cộng đồng khoa học bởi vì chúng có gọi tên các chủ đề nghiên cứu. Lựa chọn khả dĩ duy nhất mà văn bản của tôi dường như cho phép là tất cả các chủ đề này đều thuộc về cộng đồng vật lí học. Những sự đồng nhất thuộc loại này, tuy vậy, sẽ thường không cưỡng lại được sự khảo sát, như các đồng nghiệp của tôi về lịch sử đã chỉ ra nhiều lần. Thí dụ, đã không có cộng đồng vật lí học nào trước giữa thế kỉ mười chín, và sau đó nó được hình thành bởi sự hợp nhất các phần của hai cộng đồng tách biệt trước đây, toán học và triết học tự nhiên (Physique expérimentale). Cái ngày nay là chủ đề cho một cộng đồng rộng đơn nhất đã được phân tán khác nhau giữa các cộng đồng đa dạng trong quá khứ. Các chủ đề hẹp hơn, thí dụ nhiệt và lí thuyết về vật chất, đã tồn tại trong các thời kì dài mà không trở thành lãnh địa đặc biệt của bất cứ cộng đồng khoa học đơn nhất nào.
Cả khoa học thông thường và các cuộc cách mạng, tuy vậy, là các hoạt động dựa vào cộng đồng. Để khám phá ra và phân tích chúng, đầu tiên ta phải làm sáng tỏ cấu trúc đang thay đổi của cộng đồng các khoa học theo thời gian. Một khung mẫu chi phối, lúc đầu, không phải một chủ đề mà đúng hơn một nhóm những người hành nghề. Bất cứ điều tra nào về nghiên cứu do khung mẫu hướng dẫn hay khung mẫu-phá huỷ phải bắt đầu bằng định vị nhóm hay các nhóm chịu trách nhiệm.
Khi phân tích sự phát triển khoa học được tiếp cận theo cách này, nhiều khó khăn đã là tiêu điểm cho sự chú ý phê phán chắc sẽ biến mất. Một số nhà bình luận, thí dụ, đã dùng lí thuyết vật chất để gợi ý rằng tôi đã cường điệu quá đáng sự nhất trí của các nhà khoa học về lòng trung thành của họ với một khung mẫu. Cho đến tương đối gần đây, họ chỉ ra, các lí thuyết đó đã là đề tài cho sự bất đồng và tranh cãi liên tục. Tôi đồng ý với mô tả nhưng nghĩ nó không phải là phản thí dụ. Các lí thuyết vật chất, chí ít đến khoảng 1920, đã không là lãnh địa hay chủ đề đặc biệt cho bất cứ cộng đồng khoa học nào. Thay vào đó, chúng đã là các công cụ cho một số lớn các nhóm chuyên gia. Các thành viên của các nhóm khác nhau đôi khi chọn các công cụ khác nhau và phê phán sự lựa chọn của những người khác. Thậm chí quan trọng hơn, một lí thuyết vật chất không phải là loại đề tài mà các thành viên của thậm chí một cộng đồng đơn nhất phải nhất thiết đồng ý. Nhu cầu cho sự đồng ý phụ thuộc vào cái cộng đồng làm. Hoá học trong nửa đầu thế kỉ mười chín cung cấp một trường hợp như thế. Tuy nhiều trong các các công cụ cơ bản của cộng đồng- tỉ lệ không đổi, tỉ lệ bội số, và trọng lượng hoá hợp- đã trở thành đặc tính chung như kết quả của lí thuyết nguyên tử của Dalton, đối với các nhà hoá học, sau khi sự kiện đã xảy ra, đã hoàn toàn có thể đặt cơ sở cho công việc của họ lên các công cụ này và không đồng ý, đôi khi kịch liệt, về sự tồn tại của các nguyên tử.
Một số khó khăn và hiểu lầm khác, tôi tin, sẽ được giải quyết theo cùng cách. Một phần vì các thí dụ tôi đã chọn và một phần bởi vì sự lập lờ của tôi về bản tính và kích thước của các cộng đồng liên quan, vài bạn đọc của cuốn sách này đã kết luận rằng mối quan tâm của tôi chủ yếu hay chỉ riêng đến các cuộc cách mạng lớn như các cuộc cách mạng gắn với Copernicus, Newton, Darwin, hay Einstein. Một phác hoạ rõ hơn cấu trúc cộng đồng, tuy vậy, phải giúp tăng cường ấn tượng hơi khác mà tôi đã thử tạo ra. Đối với tôi một cuộc cách mạng là một loại thay đổi đặc biệt kéo theo loại tái cấu trúc nào đó của các cam kết nhóm. Song nó không cần là một thay đổi lớn, cũng chẳng cần có vẻ là cách mạng đối với những người ở ngoài một cộng đồng đơn nhất, gồm có lẽ ít hơn hai mươi lăm người. Chính vì loại thay đổi này, ít người nhận ra hay thảo luận trong văn học triết học khoa học, xảy ra rất thường xuyên ở quy mô nhỏ hơn này đến mức sự thay đổi cách mạng, ngược với luỹ tích, rất cần được hiểu.
Một sự thay đổi cuối cùng, liên hệ mật thiết với cái trước, có thể giúp tạo thuận lợi cho sự hiểu biết đó. Một số nhà phê bình đã nghi ngờ liệu khủng hoảng, nhận thức chung rằng có cái gì đó sai, lúc nào cũng đi trước các cuộc cách mạng như tôi đã ngụ ý trong văn bản gốc của tôi. Chẳng gì quan trọng đối với lí lẽ của tôi phụ thuộc, tuy vậy, vào việc khủng hoảng phải là một điều kiện tiên quyết cho các cuộc cách mạng; chúng cần chỉ như khúc dạo đầu thông thường, tức là, cung cấp một cơ chế tự-sửa đảm bảo rằng tính cứng nhắc của khoa học thông thường sẽ không mãi mãi không bị thách thức. Các cuộc cách mạng cũng có thể được gây ra theo những cách khác, tuy tôi nghĩ chúng là hiếm. Ngoài ra, bây giờ tôi muốn chỉ ra rằng sự thiếu một thảo luận thoả đáng về cấu trúc cộng đồng đã gây khó hiểu ở trên: các cuộc khủng hoảng không nhất thiết bị gây ra bởi công việc của cộng đồng trải nghiệm chúng và đôi khi trải qua cách mạng như một kết quả. Các công cụ mới như kính hiển vi điện tử hay các định luật mới như định luật Maxell có thể phát triển trong một chuyên ngành và sự tiêu hoá chúng gây ra khủng hoảng ở ngành khác.
2. Các Khung mẫu như Hình trạng của các Cam kết Nhóm
Bây giờ quay sang các khung mẫu và hỏi có lẽ chúng có thể là cái gì. Văn bản gốc của tôi không để lại vấn đề mơ hồ hay quan trọng nào. Một bạn đọc có cảm tình, chia sẻ niềm tin chắc của tôi rằng ‘khung mẫu’ nói rõ các yếu tố triết học trung tâm của cuốn sách, đã chuẩn bị một chỉ mục một phần giải tích và kết luận là thuật ngữ được dùng theo chí ít hai mươi hai cách khác nhau.7 Hầu hết những sự khác biệt đó, bây giờ tôi nghĩ, là do sự không nhất quán về văn phong (thí dụ, các Định luật Newton đôi khi là một khung mẫu, đôi khi là các phần của một khung mẫu, và đôi khi mang tính khung mẫu), và chúng có thể được loại bỏ tương đối dễ dàng. Song, với việc hoàn thành công việc biên tập đó, sẽ còn hai cách dùng rất khác nhau của thuật ngữ, và chúng đòi hỏi sự tách biệt. Cách dùng bao trùm hơn là chủ đề của tiểu mục này; cách dùng khác sẽ được xem xét ở tiểu mục tiếp.
Sau khi đã cô lập một cộng đồng cá biệt của các chuyên gia bằng kĩ thuật như vừa được thảo luận, có thể hữu ích để hỏi: Các thành viên của nó chia sẻ cái gì, cái giải thích sự tương đối đầy đủ của sự liên lạc chuyên nghiệp của họ và sự tương đối nhất trí của các đánh giá chuyên nghiệp của họ? Đối với câu hỏi đó văn bản gốc của tôi cho phép câu trả lời, một khung mẫu hay một tập các khung mẫu. Song đối với cách dùng này, không giống cách dùng sẽ được thảo luận dưới đây, thuật ngữ là không thoả đáng. Bản thân các nhà khoa học sẽ nói rằng họ chia sẻ một lí thuyết hay một tập các lí thuyết, và tôi sẽ vui mừng nếu thuật ngữ cuối cùng có thể đoạt lại cách dùng này. Như được dùng trong triết học khoa học hiện nay, tuy vậy, ‘lí thuyết’ có nghĩa là một cấu trúc có bản tính và phạm vi giới hạn hơn cái cần ở đây nhiều. Cho đến khi thuật ngữ có thể thoát khỏi các hệ luỵ hiện thời của nó, việc chấp nhận một thuật ngữ khác sẽ tránh được nhầm lẫn. Vì các mục đích hiện tại tôi đề xuất ‘ma trận môn – disciplinary matrix’: ‘môn’ vì nó nhắc đến sở hữu chung của những người thực hành một môn học cá biệt; ‘matrix’ bởi vì nó bao gồm các yếu tố được sắp xếp thuộc các loại khác nhau, mỗi cái đòi hỏi sự định rõ thêm. Tất cả hay hầu hết các đối tượng của cam kết nhóm mà văn bản gốc của tôi tôn làm các khung mẫu, phần của các khung mẫu, hay thuộc khung mẫu là các phần tử của matrix môn, và với tư cách ấy chúng tạo thành một tổng thể và hoạt động cùng nhau. Tuy vậy, chúng không còn phải được thảo luận cứ như là chúng tất cả đều là mảnh rời. Ở đây tôi sẽ không thử một danh mục toàn diện, nhưng việc lưu ý các loại thành phần chính của matrix môn sẽ cả làm rõ bản chất của cách tiếp cận hiện tại của tôi lẫn đồng thời chuẩn bị cho điểm tiếp theo của tôi.
Một loại thành phần quan trọng tôi sẽ gắn cho cái nhãn ‘các khái quát hoá biểu tượng’, nghĩ đến các biểu thức, được triển khai mà không bị các thành viên của nhóm đặt thành vấn đề hay bất đồng, các biểu thức có thể được trình bày ở dạng logic như (x)(y)(z)Φ(x,y,z). Chúng là các thành phần hình thức hay dễ dàng có thể hình thức hoá của matrix môn. Đôi khi chúng được thấy ở dạng biểu tượng: f = ma hay I = V/R. Những thành phần khác, thường được phát biểu bằng lời: “các nguyên tố kết hợp theo tỉ lệ trọng lượng không đổi”, hay “tác động bằng phản tác động”. Nếu giả như không có sự chấp nhận các biểu thức như thế này, thì không có các điểm mà các thành viên nhóm có thể gắn các kĩ thuật hùng mạnh về thao tác logic và toán học trong công việc giải câu đố của họ. Tuy thí dụ về phân loại gợi ý rằng khoa học thông thường có thể tiến hành với ít biểu thức như vậy, khả năng của một khoa học có vẻ tăng lên khá đại thể với số các khái quát hoá biểu tượng mà các nhà thực hành nó có để dùng.
Các khái quát hoá này nhìn như các qui luật tự nhiên, song chức năng của chúng cho các thành viên nhóm thường không chỉ có thế. Đôi khi vậy: chẳng hạn Định luật Joule-Lenz, H = RI2. Khi qui luật đó được khám phá ra, các thành viên cộng đồng đã biết H, I và R nghĩa là gì, các khái quát hoá này đơn giản nói cho họ cái gì đó mà trước đây họ chưa biết về ứng xử của nhiệt, dòng điện và trở kháng. Nhưng thường xuyên hơn, như thảo luận trước đây ở cuốn sách cho thấy, những khái quát hoá biểu tượng đồng thời phục vụ một chức năng thứ hai, cái thường được các nhà triết học khoa học tách biệt rõ rệt trong các phân tích. Như f = ma hay I = V/R, chúng hoạt động một phần như các định luật nhưng một phần cũng như các định nghĩa của một số kí hiệu chúng triển khai. Vả lại, sự cân bằng giữa tác dụng lập pháp và định nghĩa không thể tách ra của chúng, thay đổi theo thời gian. Trong ngữ cảnh khác các điểm này sẽ trả lại phân tích chi tiết, vì bản chất của cam kết với một qui luật là rất khác với bản chất của cam kết với một định nghĩa. Các qui luật thường có thể sửa được từng phần, còn các định nghĩa, do là các tautology [phép lặp thừa] là không thể. Thí dụ, phần của cái mà sự chấp nhận Định luật Ohm đòi hỏi là một định nghĩa lại về cả ‘dòng điện’ lẫn ‘trở kháng’; nếu nghĩa của các từ này tiếp tục là nghĩa mà chúng có trước kia, thì Định luật Ohm không thể đúng; đó là lí do vì sao nó bị phản đối căng thẳng đến vậy còn Định luật Joule-Lenz lại không bị.8 Có lẽ tình hình đó là điển hình. Hiện nay tôi nghi rằng mọi cuộc cách mạng kéo theo, giữa các thứ khác, sự từ bỏ các khái quát hoá mà hiệu lực của chúng trước kia đã một phần là của các tautology. Có phải Einstein đã chứng tỏ rằng tính đồng thời là tương đối hay ông đã làm thay đổi bản thân khái niệm về tính đồng thời? Có phải những người nghe nghịch lí trong lối nói ‘tính tương đối của tính đồng thời’ đơn giản là sai?
Tiếp theo hãy xét một loại thành phần thứ hai của matrix môn, mà đã được nói nhiều ở văn bản gốc của tôi dưới các đề mục như ‘các khung mẫu siêu hình học’ hay ‘các phần siêu hình của các khung mẫu’. Tôi nghĩ đến các cam kết chung đối với các niềm tin như: nhiệt là năng lượng động lực của các thành phần tạo thành các vật thể; tất cả các hiện tượng đều là do tương tác của các nguyên tử trung tính về mặt định tính trong chân không, hay, như lựa chọn khác, do vật chất và lực, hay do các trường. Viết lại cuốn sách bây giờ tôi sẽ mô tả các cam kết như vậy như các lòng tin vào các mô hình cá biệt, và tôi sẽ mở rộng phạm trù mô hình để bao gồm cả loại khá heuristic [tự phát hiện]: mạch điện có thể coi như một hệ thống thuỷ động lực học ở trạng thái dừng; các phân tử khí ứng xử như các viên bi a dẻo chuyển động ngẫu nhiên. Tuy sức mạnh của cam kết nhóm thay đổi, với các hệ quả không tầm thường, dọc theo dải phổ từ các mô hình heuristic đến bản thể học, tất cả các mô hình đều có các chức năng giống nhau. Giữa các thứ khác chúng cung cấp cho nhóm các phép tương tự hay ẩn dụ ưa thích hay chấp nhận được. Bằng làm thế chúng giúp xác định cái gì sẽ được chấp nhận như một giải thích và như một lời giải-câu đố; ngược lại, chúng giúp việc xác định bảng phân công các câu đố chưa được giải và việc đánh giá tầm quan trọng của mỗi cái. Tuy vậy, lưu ý rằng các thành viên của các cộng đồng khoa học có thể không phải chia sẻ ngay cả các mô hình heuristic, tuy họ thường làm vậy. Tôi đã chỉ ra rồi rằng tư cách thành viên trong cộng đồng của các nhà hoá học trong nửa đầu thế kỉ mười chín đã không đòi hỏi lòng tin vào các nguyên tử.
Loại yếu tố thứ ba trong matrix môn tôi sẽ mô tả ở đây như các giá trị. Thường chúng được chia sẻ rộng rãi giữa các cộng đồng khác nhau hơn các khái quát hoá biểu tượng hay các mô hình, và chúng làm nhiều để cung cấp một cảm giác về cộng đồng đối với toàn bộ các nhà khoa học tự nhiên. Tuy chúng hoạt động mọi lúc, tầm quan trọng đặc biệt của chúng nổi lên khi các thành viên của một cộng đồng cá biệt phải nhận ra khủng hoảng hay, muộn hơn, phải chọn giữa các cách không tương thích để thực hành môn học của họ. Có lẽ các giá trị có ảnh hưởng sâu sắc nhất liên quan đến các tiên đoán: chúng phải chính xác; các tiên đoán định lượng được ưa hơn định thính; dù biên sai số cho phép ra sao, nó phải thoả mãn một cách nhất quán trong lĩnh vực cho trước; và
v.v. Tuy vậy, cũng có các giá trị được dùng trong đánh giá toàn bộ các lí thuyết: chúng, trước hết và trên hết, phải cho phép trình bày câu đố và lời giải; nơi có thể chúng phải đơn giản, tự-nhất quán, và hợp lí, tương thích với các lí thuyết khác hiện được triển khai. (Bây giờ tôi nghĩ một điểm yếu của văn bản gốc của tôi là đã ít chú ý đến các giá trị như vậy như sự nhất quán bên trong và bên ngoài khi xem xét các nguồn khủng hoảng và các nhân tố trong sự lựa chọn lí thuyết). Cũng tồn tại các loại giá trị khác – thí dụ, khoa học phải (hay không cần) là có ích về mặt xã hộinhưng cái trước phải cho biết tôi nghĩ cái gì.
Một khía cạnh của các giá trị chung, tuy vậy, đòi hỏi sự đề cập cá biệt. Ở mức độ lớn hơn các loại thành phần khác của matrix môn, các giá trị có thể được chia sẻ bởi những người khác nhau về ứng dụng của họ. Các đánh giá về sự chính xác là tương đối ổn định, tuy không hoàn toàn, từ lúc này sang lúc khác và từ một thành viên sang thành viên khác trong một nhóm cá biệt. Nhưng đánh giá về tính đơn giản, nhất quán, hợp lí, và v.v thường thay đổi nhiều từ cá nhân này sang cá nhân khác. Cái đối với Einstein là một sự không nhất quán không thể chịu được trong lí thuyết lượng tử cũ, đối với Bohr và những người khác là một khó khăn có thể tự kết thúc bằng các phương tiện thông thường. Thậm chí quan trọng hơn, trong các tình huống nơi các giá trị được dùng, các giá trị khác nhau, coi riêng ra, sẽ thường đưa ra các lựa chọn khác nhau. Một lí thuyết có thể chính xác hơn nhưng ít nhất quán hay hợp lí hơn lí thuyết khác; lại nữa lí thuyết lượng tử cũ cho một thí dụ. Tóm lại, tuy các giá trị được các nhà khoa học chia sẻ rộng rãi và tuy cam kết đối với chúng là cả sâu lẫn cơ bản về khoa học, áp dụng các giá trị đôi khi bị ảnh hưởng đáng kể bởi cá tính riêng và lí lịch phân biệt các thành viên của nhóm.
Đối với nhiều bạn đọc của các chương trước, đặc trưng này về hoạt động của các giá trị chung có vẻ là một điểm yếu chủ yếu của lập trường của tôi. Bởi vì tôi khăng khăng rằng cái các nhà khoa học chia sẻ là không đủ để có sự nhất trí đều về các vấn đề như vậy như sự lựa chọn giữa các lí thuyết cạnh tranh hay sự phân biệt giữa dị thường bình thường và dị thường gây khủng hoảng, tôi đôi khi bị lên án vì ca ngợi tính chủ quan và thậm chí tính phi duy lí.9 Nhưng phản ứng đó bỏ qua hai đặc trưng biểu lộ bởi các đánh giá giá trị trong bất cứ lĩnh vực nào. Thứ nhất, các giá trị chung có thể là các yếu tố quyết định quan trọng của ứng xử nhóm cho dù các thành viên của nhóm không áp dụng chúng theo cùng cách. (Nếu giả như không phải thế, thì sẽ không có các vấn đề triết học đặc biệt về lí thuyết giá trị hay mĩ học). Các hoạ sĩ đã không vẽ giống nhau trong các thời kì khi miêu tả là một giá trị hàng đầu, nhưng hình mẫu phát triển của nghệ thuật tạo hình đã thay đổi mạnh mẽ khi giá trị đó được bỏ đi.10 Hãy tưởng tượng cái gì sẽ xảy ra trong các khoa học nếu tính nhất quán thôi là giá trị căn bản. Thứ hai, tính hay thay đổi cá nhân trong áp dụng các giá trị dùng chung có thể thoả mãn các chức năng thiết yếu cho khoa học. Các điểm tại đó các giá trị phải được dùng luôn cũng là các điểm nơi phải chịu rủi ro. Hầu hết các dị thường được giải quyết bằng các phương tiện thông thường; hầu hết các đề xuất cho các lí thuyết mới hoá ra là sai. Nếu giả như tất cả thành viên của một cộng đồng đáp ứng lại với mỗi dị thường như một nguồn khủng hoảng hay theo mỗi lí thuyết mới do một đồng nghiệp đưa ra, thì khoa học sẽ ngừng. Nếu, mặt khác, không ai phản ứng với các dị thường hay với các lí thuyết hoàn toàn mới theo những cách có rủi ro cao, thì sẽ có ít hay không có cách mạng nào cả. Trong các vấn đề như thế này việc viện đến các giá trị dùng chung hơn là đến các quy tắc chung chi phối sự lựa chọn cá nhân, có thể là cách của cộng đồng để chia rủi ro và đảm bảo thành công dài hạn của việc làm táo bạo của nó.
Bây giờ quay sang loại yếu tố thứ tư trong matrix môn, không phải chỉ là một loại khác mà là loại cuối cùng tôi thảo luận ở đây. Đối với nó từ ‘khung mẫu’ sẽ là hoàn toàn thích hợp, cả về mặt triết học lẫn tự truyện; đấy là thành phần của các cam kết chung của một nhóm nó dẫn tôi đầu tiên đến lựa chọn từ ấy. Bởi vì thuật ngữ đã có một cuộc sống của riêng nó, tuy vậy, ở đây tôi sẽ thay thế ‘các mẫu’. Qua nó, ban đầu, tôi muốn nói các lời giảivấn đề cụ thể mà các sinh viên bắt gặp từ khởi đầu của sự giáo dục khoa học của họ, bất luận trong các phòng thí nghiệm, trong các kì thi, hay ở cuối các chương của các sách giáo khoa khoa học. Tuy vậy, phải thêm vào các thí dụ mẫu dùng chung này chí ít một số lời giải-vấn đề kĩ thuật được thấy trong các tạp chí mà các nhà khoa học bắt gặp trong sự nghiệp nghiên cứu sau đại học của họ và bằng tấm gương chúng cũng cho họ thấy công việc của họ phải được tiến hành ra sao. Hơn các loại thành phần khác của matrix môn, những khác biệt giữa các tập của các mẫu cung cấp cho cộng đồng cấu trúc-tinh tế của khoa học. Tất cả các nhà vật lí, chẳng hạn, bắt đầu bằng học một số mẫu: các vấn đề như mặt phẳng nghiêng, con lắc hình nón, và các quỹ đạo Keplerian; các công cụ như vernier [thước chia thang phụ kèm thang chính], nhiệt lượng kế, và cầu Wheatstone [tên một loại mạch điện]. Khi việc đào tạo của họ tiến triển, tuy vậy, các khái quát hoá mà họ chia sẻ ngày càng được minh hoạ bằng các mẫu khác. Tuy cả các nhà vật lí chất rắn và vật lí lí thuyết trường đều chia sẻ phương trình Schrödinger, chỉ các ứng dụng sơ đẳng hơn của nó là chung cho cả hai nhóm.
3. Các Khung mẫu như các Mẫu Dùng Chung
Khung mẫu như mẫu dùng chung là yếu tố trung tâm của cái bây giờ tôi coi là khía cạnh mới nhất và ít được hiểu nhất của cuốn sách này. Các tấm gương, các mẫu vì thế sẽ đòi hỏi nhiều sự chú ý hơn các loại thành phần khác của matrix môn. Các nhà triết học khoa học thông thường đã không thảo luận các vấn đề [câu hỏi] mà các sinh viên bắt gặp trong các phòng thí nghiệm hay trong các sách giáo khoa khoa học, vì người ta nghĩ các vấn đề này chỉ để cung cấp sự tập luyện về áp dụng cái mà sinh viên đã biết rồi. Sinh viên không thể, người ta nói, giải các vấn đề chút nào trừ phi đầu tiên anh ta đã học lí thuyết và một số quy tắc để áp dụng nó. Tri thức khoa học được gắn trong lí thuyết và các quy tắc; các vấn đề, câu hỏi được cung cấp để có được năng khiếu trong việc áp dụng chúng. Tôi đã thử lí lẽ, tuy vậy, rằng sự định vị này của nội dung nhận thức về khoa học là sai. Sau khi sinh viên đã giải nhiều bài toán, anh ta có thể chỉ nhận được năng khiếu thêm bằng giải nhiều nhơn. Nhưng lúc đầu và một thời gian sau đó, làm các bài toán là học các thứ kèm theo về tự nhiên. Thiếu các mẫu như vậy, các định luật và lí thuyết mà anh ta đã học trước đây sẽ có ít nội dung kinh nghiệm.
Để biểu thị cái tôi nghĩ đến tôi quay lại các khái quát biểu tượng một cách ngắn gọn. Thí dụ được chia sẻ rộng rãi là Định luật Thứ hai của Newton về Chuyển động, nói chung được viết như f = ma. Nhà xã hội học, chẳng hạn, hay nhà ngôn ngữ người khám phá ra rằng biểu thức tương ứng được phát biểu và tiếp nhận một cách không mơ hồ bởi các thành viên của một cộng đồng cho trước không học được rất nhiều, mà không có nhiều khảo sát thêm, về hoặc biểu thức hay thuật ngữ có nghĩa là gì, về các nhà khoa học của cộng đồng gắn biểu thức cho tự nhiên ra sao. Thực vậy, sự thực rằng họ chấp nhận nó mà không nghi ngờ và dùng nó như một điểm tại đó để đưa ra các thao tác logic và toán học bản thân nó không hàm ý rằng họ có đồng ý chút nào về các vấn đề như ý nghĩa và ứng dụng. Tất nhiên họ có đồng ý ở mức độ đáng kể, hoặc sự thật sẽ mau chóng nổi lên từ thảo luận tiếp theo của họ. Nhưng người ta rất có thể hỏi ở điểm nào và bằng công cụ nào họ đã đi đến để làm vậy. Họ đã học thế nào, đối mặt với một tình thế thực nghiệm cho trước, để chọn ra các lực, các khối lượng, và các gia tốc liên quan?
Trong thực tiễn, tuy khía cạnh này về tình hình hiếm khi hay chẳng bao giờ được chú ý, cái các sinh viên phải học là thậm chí còn phức tạp hơn thế. Không hoàn toàn là thao tác logic và toán học được áp dụng trực tiếp cho f = ma. Biểu thức đó qua khảo sát hoá ra là một phác hoạ-qui luật hay một sơ đồ-qui luật. Khi sinh viên hay nhà khoa học hành nghề di chuyển từ một tình hình vấn đề sang cái tiếp theo, khái quát hoá biểu tượng, mà các thao tác đó áp dụng, thay đổi. Đối với trường hợp rơi tự do, f = ma trở thành mg = m d2s/dt2; đối với con lắc đơn giản nó được biến đổi thành mg sinθ = -ml d2θ/dt2; đối với một cặp các bộ dao động điều hoà tương tác nó trở thành hai phương trình, phương trình thứ nhất có thể được viết m1 d2s1/dt2+k1s1 = k2(s2 – s1 + d); và đối với các tình huống phức tạp hơn, như con quay, nó lại có các dạng khác, mà nét giống nhau họ hàng với f = ma còn khó phát hiện ra hơn nữa. Thế mà, trong khi học để nhận diện các lực, các khối lượng, và các gia tốc trong các tình huống vật lí đa dạng chưa được gặp trước đây, sinh viên cũng phải học để nghĩ ra phiên bản thích hợp của f = ma qua đó để liên kết chúng, thường là một phiên bản mà trước đây anh ta chưa thấy cái tương đương thật nào. Anh ta học làm việc này thế nào?
Một hiện tượng quen thuộc với cả các sinh viên khoa học và các sử gia khoa học cho một manh mối. Các sinh viên thường nói lại rằng họ đã đọc hết cả một chương của sách giáo khoa của họ, đã hoàn toàn hiểu nó, nhưng dù sao vẫn gặp khó khăn giải một số vấn đề [bài tập] ở cuối chương. Thường, cũng vậy, các khó khăn đó được giải quyết theo cùng cách. Sinh viên phát hiện ra, với hoặc không có sự giúp đỡ của thầy giáo, một cách để nhận ra vấn đề của anh ta giống như một vấn đề mà anh ta đã gặp rồi. Sau khi nhìn thấy sự giống nhau, nắm được sự tương tự giữa hai hay nhiều vấn đề khác biệt, anh ta có thể liên kết các kí hiệu với nhau và gắn chúng cho tự nhiên theo các cách đã tỏ ra có kết quả trước đây. Phác hoạ-qui luật, chẳng hạn như f = ma, đã hoạt động như một công cụ, báo cho sinh viên biết nên tìm những sự tương tự nào, báo hiệu cái gestalt trong đó tình thế nên được thấy. Năng lực được tạo thành như thế để thấy đủ loại tình huống như giống nhau, như các đối tượng cho f = ma hay khái quát hoá biểu tượng nào đó, tôi nghĩ, là cái chính mà một sinh viên thu được bằng cách làm các bài toán mẫu, bất luận với bút chì và giấy hay trong một phòng thí nghiệm được thiết kế tốt. Sau khi anh ta đã hoàn thành một số lượng nào đấy, số đó thay đổi nhiều từ người này sang người kia, anh ta nhìn các tình huống đối mặt với mình như một nhà khoa học trong cùng gestalt như các thành viên khác của nhóm chuyên môn của anh ta. Đối với anh ta chúng không còn là cùng các tình huống anh ta đã bắt gặp khi bắt đầu học. Anh ta trong lúc ấy đã đồng hoá một cách nhìn được thời gian thử thách và được nhóm cho phép.
Vai trò của các mối quan hệ giống nhau thu được cũng thể hiện rõ ràng trong lịch sử khoa học. Các nhà khoa học giải câu đố bằng mô phỏng chúng theo các lời giải-câu đố trước, thường chỉ với sự cầu viện tối thiểu đến các khái quát hoá biểu tượng. Galileo đã thấy rằng một quả bóng lăn xuống một mặt nghiêng thu đúng đủ tốc độ để quay lại cùng độ cao theo chiều dọc trên một mặt nghiêng thứ hai có độ dốc bất kỳ, và ông đã học để nhìn tình huống thực nghiệm đó giống như con lắc với một điểm-khối lượng cho quả lắc. Huyghens sau đó đã giải quyết vấn đề về tâm dao động của một con lắc vật lí bằng tưởng tượng rằng vật thể trải rộng của con lắc vật lí bao gồm các con lắc-điểm Galilean, các liên kết giữa chúng có thể được giải phóng đồng thời ở bất cứ điểm nào trong sự đu đưa. Sau khi các liên kết được giải phóng, các con lắc điểm riêng lẻ sẽ đu đưa một cách tự do, nhưng trọng tâm tập thể của chúng khi mỗi con lắc điểm đạt đỉnh điểm của nó, giống trọng tâm của con lắc của Galileo, lên chỉ đến độ cao mà từ đó trọng tâm của con lắc trải rộng bắt đầu rơi. Cuối cùng, Daniel Bernoulli đã khám phá ra làm thế nào để khiến dòng nước từ một vòi phun giống con lắc của Huyghens. Xác định sự hạ xuống của trọng tâm của nước trong bể và vòi phun trong một khoảng thời gian vô cùng nhỏ. Tiếp theo hãy tưởng tượng rằng mỗi hạt nước sau đó chuyển động lên một cách riêng rẽ đến độ cao cực đại có thể đạt được với tốc độ thu được trong khoảng thời gian đó. Độ hạ xuống của trọng tâm của cá nhân các hạt nước khi đó phải bằng độ hạ xuống của trọng tâm của nước trong bể và vòi. Từ cách nhìn đó về vấn đề, suy ra ngay tốc độ phun mà người ta đã tìm kiếm từ lâu.11
Thí dụ đó phải bắt đầu làm rõ cái tôi muốn nói bằng học từ các vấn đề để nhìn các tình huống như giống lẫn nhau, như các đối tượng cho sự áp dụng cùng qui luật khoa học hay phác thảo-qui luật. Đồng thời nó phải cho thấy vì sao tôi nhắc đến sự hiểu biết về tự nhiên như kết quả thu nhận được trong khi học mối quan hệ tương tự và sau đó được biểu hiện trong cách nhìn các tình huống vật lí hơn là trong các quy tắc hay các qui luật. Ba vấn đề trong thí dụ, tất cả chúng đều là các mẫu cho các nhà cơ học thế kỉ mười tám, triển khai chỉ một qui luật tự nhiên. Được biết đến như nguyên lí vis viva, nó thường được phát biểu như: “Sự hạ xuống thực tế bằng sự đi lên tiềm năng”. Việc Bernoulli áp dụng qui luật phải ám chỉ nó đã có kết quả thế nào. Thế nhưng sự phát biểu bằng lời của qui luật, bản thân nó, là hầu như không có hiệu lực gì. Trình bày nó cho một sinh viên vật lí đương thời, người biết các từ và có thể làm tất cả các bài toán này nhưng bây giờ dùng các phương tiện khác. Rồi hãy tưởng tượng các từ, tuy tất cả đều biết, có thể được nói thế nào cho một người thậm chí không biết các bài toán. Đối với anh ta sự khái quát hoá có thể bắt đầu hoạt động chỉ khi anh ta đã học để nhận ra “các độ hạ xuống thực tế” và “các độ đi lên tiềm năng” như các thành phần của tự nhiên, và đó là đi học cái gì đó, trước qui luật, về các tình huống mà tự nhiên có và không trình bày. Loại hiểu biết đó không thu được chỉ bằng các phương tiện lời nói. Đúng hơn nó đến như cho người ta trước các từ cùng với các thí dụ mẫu về chúng được dùng thế nào; tự nhiên và các từ được học cùng nhau. Để mượn một lần nữa cách nói hữu ích của Michael Polanyi, kết quả nảy sinh ra từ quá trình này là ‘tri thức ngầm – tacit knowledge” nhận được bằng làm khoa học hơn là bằng kiếm được các quy tắc để làm khoa học.
4. Tri thức Ngầm và Trực giác
Sự ám chỉ đó đến tri thức ngầm và sự đồng lòng bác bỏ các quy tắc cô lập một vấn đề khác nữa đã gây bực bội cho nhiều nhà phê bình của tôi và có vẻ tạo cơ sở cho các lời buộc tội về tính chủ quan và tính phi duy lí. Một số bạn đọc đã cảm thấy rằng tôi thử làm cho khoa học dựa vào các trực giác cá nhân không thể phân tích được hơn là vào logic và qui luật. Nhưng sự diễn giải đó đi lạc đường trong hai khía cạnh cốt yếu. Thứ nhất, nếu tôi có nói chút nào về các trực giác, chúng không mang tính cá nhân. Đúng hơn chúng là những tài sản được thử thách và được dùng chung của các thành viên của một nhóm thành công, và người mới vào có được nó qua đào tạo như một phần của sự chuẩn bị của anh ta cho tư cách thành viên của nhóm. Thứ hai, chúng không phải về nguyên lí không thể phân tích được. Ngược lại, hiện nay tôi đang thử nghiệm một chương trình máy tính được thiết kế để khảo sát các tính chất của chúng ở mức sơ đẳng.
Về chương trình đó tôi sẽ không có gì để nói ở đây,12 song thậm chí việc nhắc đến nó phải nêu rõ vấn đề cốt yếu nhất của tôi. Khi tôi nói về tri thức được gắn trong các mẫu dùng chung, tôi không nhắc đến một phương thức hiểu biết ít có hệ thống hay ít có thể phân tích được hơn tri thức được gắn trong các quy tắc, các qui luật, hay các tiêu chuẩn nhận diện. Thay vào đó tôi nghĩ đến một cách hiểu biết, cách bị hiểu sai nếu được dựng lại dưới dạng các quy tắc đầu tiên được trừu tượng hoá từ các mẫu và sau đó hoạt động thay cho chúng. Hoặc, diễn đạt cùng điểm đó một cách khác đi, khi tôi nói về nhận được từ các mẫu năng lực để nhận ra một tình huống cho trước giống như tình huống nào đó và không giống các tình huống khác mà ta đã nhìn thấy trước đó, tôi không gợi ý một quá trình không có khả năng giải thích được hoàn toàn một cách tiềm năng dưới dạng cơ chế neuron-não. Thay vào đó tôi cho rằng sự giải thích đó, do bản chất của nó, sẽ không giải đáp cho câu hỏi, “Tương tự đối với cái gì?” Câu hỏi đó là một yêu cầu đối với một quy tắc, trong trường hợp này đối với các tiêu chuẩn theo đó các tình huống cá biệt được nhóm lại vào các tập giống nhau, và tôi lí lẽ rằng sự cám dỗ để tìm kiếm các tiêu chuẩn (hay chí ít một tập đầy đủ) phải bị kháng cự trong trường hợp này. Nó, tuy vậy, không là hệ thống mà là một loại hệ thống cá biệt mà tôi phản đối.
Để cho điểm đó nội dung, tôi phải lạc đề một chút. Cái tiếp theo có vẻ hiển nhiên đối với tôi bây giờ, nhưng sự cầu viện liên tục trong văn bản gốc của tôi đến các lối nói như “thế giới thay đổi” gợi ý rằng nó đã không luôn là vậy. Nếu hai người đứng ở cùng chỗ và nhìn chằm chằm vào cùng hướng, dưới ảnh hưởng của thuyết duy ngã, ta phải kết luận rằng họ nhận được các kích thích giống sát nhau. (Nếu cả hai cùng để mắt mình vào một chỗ, các kích thích sẽ y hệt nhau). Song người ta không nhìn thấy các kích thích; hiểu biết của chúng ta về chúng mang tính lí thuyết và trừu tượng cao. Thay vào đó họ có cảm giác, và ta không hề bị ép buộc để giả sử rằng các cảm giác của hai người nhìn của chúng ta là như nhau. (Những người hay hoài nghi có thể nhớ rằng không ở đâu nhận ra sự mù màu cho đến khi John Dalton mô tả nó năm 1794). Ngược lại, nhiều xử lí thần kinh xảy ra giữa việc nhận một kích thích và sự biết một cảm giác. Giữa vài thứ mà chúng ta biết về nó với sự chắc chắn là: các kích thích rất khác nhau có thể tạo ra cùng cảm giác; cùng kích thích có thể tạo ra các cảm giác khác nhau; và cuối cùng, đường từ kích thích đến cảm giác một phần bị điều kiện hoá bởi sự giáo dục. Các cá nhân lớn lên trong các xã hội khác nhau ứng xử trong một số dịp cứ như họ nhìn thấy các thứ khác nhau. Nếu giả như chúng ta không bị cám dỗ đi đồng nhất các kích thích với các cảm giác một-đốimột, chúng ta có thể nhận ra rằng họ thực sự làm thế.
Bây giờ lưu ý là hai nhóm, các thành viên của chúng có các cảm giác khác nhau một cách có hệ thống khi nhận được cùng các kích thích, theo nghĩa nào đó, có sống trong các thế giới khác nhau. Ta thừa nhận sự tồn tại của các kích thích để giải thích năng lực tri giác của chúng ta về thế giới, và ta thừa nhận tính không biến đổi của chúng để tránh cả thuyết duy ngã cá nhân lẫn xã hội. Tôi không có chút dè dặt nào về cả hai sự thừa nhận. Nhưng thế giới của chúng ta lúc đầu được cư trú không bởi các kích thích mà bởi các đối tượng của các cảm giác của chúng ta, và những cái này không nhất thiết là như nhau, từ cá nhân sang cá nhân hay từ nhóm sang nhóm. Tất nhiên, ở chừng mực các cá nhân thuộc về cùng nhóm và như thế có chung sự giáo dục, ngôn ngữ, kinh nghiệm, và văn hoá, chúng ta có lí do chính đáng để giả sử rằng các cảm giác của họ là như nhau. Khác đi thì làm sao chúng ta hiểu được tính đầy đủ của sự liên lạc của họ và tính cộng đồng của các đáp ứng cư xử của họ đối với môi trường của họ? Họ phải nhìn thấy các thứ, xử lí các kích thích, về cơ bản theo cùng cách. Song ở nơi sự phân biệt và chuyên môn hoá của các nhóm bắt đầu, ta không có chứng cớ tương tự cho tính không thay đổi của cảm giác. Chỉ có chủ nghĩa địa phương cục bộ, tôi nghi, khiến chúng ta đi giả sử rằng con đường từ các kích thích đến cảm giác là như nhau cho các thành viên của mọi nhóm.
Bây giờ quay sang các mẫu và các quy tắc, cái tôi đã thử gợi ý, theo cách dù sơ bộ đến đâu, là thế này. Một trong những kĩ thuật cơ bản theo đó các thành viên của một nhóm, bất luận cả một nền văn hoá hay một cộng đồng nhỏ của các nhà chuyên môn bên trong nó, học để nhìn thấy cùng các thứ khi đối mặt với cùng các kích thích, là được cho thấy các ví dụ về các tình huống mà các bậc tiền bối của họ trong nhóm đã học được rồi để nhìn các loại tình huống khác như giống nhau và như khác nhau. Các tình huống giống nhau này có thể là các trình diễn giác quan liên tiếp của cùng một cá nhân – thí dụ người mẹ, người cuối cùng được nhận ra khi nhìn như bà vốn là và như khác với bố hay chị. Chúng có thể là các trình diễn về các thành viên của các họ tự nhiên, thí dụ một mặt của các thiên nga và mặt khác của các con ngỗng. Hoặc chúng có thể, đối với các thành viên của các nhóm chuyên biệt hơn, như thí dụ về tình huống Newtonian, tức là, các tình huống giống nhau dưới sự lệ thuộc vào một phiên bản của dạng biểu tượng f = ma và là những cái khác với các tình huống mà các phác hoạ-qui luật của quang học áp dụng chẳng hạn.
Thừa nhận lúc này rằng cái gì đó thuộc loại này có xảy ra. Chúng ta phải nói rằng cái đã nhận được từ các mẫu là các quy tắc và năng lực để dùng chúng? Mô tả đó là cám dỗ bởi vì việc chúng ta nhìn một tình huống như giống các tình huống chúng ta đã bắt gặp trước đó phải là kết quả của xử lí thần kinh, được chi phối hoàn toàn bởi các qui luật vật lí và hoá học. Theo nghĩa này, một khi chúng ta đã học để làm cái đó, việc nhận ra sự giống nhau phải hoàn toàn có hệ thống như việc đập của tim chúng ta. Nhưng chính sự tương tự đó gợi ý rằng sự nhận ra cũng có thể là không chủ ý, một quá trình trên đó chúng ta không có sự kiểm soát nào. Nếu thế, thì chúng ta có thể không hình dung nó một cách thoả đáng như cái gì đó mà chúng ta cai quản bằng áp dụng các quy tắc và các tiêu chuẩn. Nói về nó dưới dạng đó ngụ ý rằng chúng ta có tiếp cận đến các lựa chọn khả dĩ, rằng chúng ta có thể, thí dụ, đã không tuân theo một quy tắc, hay dùng sai một tiêu chuẩn, hay đã thử nghiệm cách khác nào đó về nhìn.13 Đó, tôi cho là, đúng các loại việc chúng ta không thể làm.
Hoặc, chính xác hơn, đó là các thứ chúng ta không thể làm cho đến sau khi chúng ta đã có một cảm giác, đã lĩnh hội được cái gì đó. Sau đó chúng ta thường tìm kiếm các tiêu chuẩn và đưa chúng vào dùng. Rồi chúng ta có thể tiến hành diễn giải, một quá trình cân nhắc theo đó chúng ta lựa chọn giữa các khả năng khả dĩ như chúng ta làm trong bản thân tri giác. Có lẽ, thí dụ, có cái gì đó kì cục về cái ta đã thấy (nhớ lại các con bài dị thường). Rẽ một góc phố chúng ta thấy mẹ bước vào một cửa hàng ở trung tâm thành phố vào lúc chúng ta nghĩ bà ở nhà. Suy ngẫm người chúng ta vừa nhìn thấy đột nhiên chúng ta kêu lên, “Đó không phải là mẹ, vì bà có tóc đỏ!” Bước vào cửa hàng chúng ta lại nhìn người phụ nữ và chẳng thể hiểu làm sao lại có thể coi bà ta là mẹ. Hay, có lẽ chúng ta thấy lông đuôi của một con chim nước ăn ở đáy một hồ nông. Nó là một con thiên nga hay một con ngỗng? Chúng ta suy ngẫm cái chúng ta đã nhìn thấy, so sánh trong óc lông đuôi với lông đuôi của các con thiên nga và ngỗng mà chúng ta đã thấy trước đó. Hay, có lẽ, do là nguyên-nhà khoa học, chúng ta đơn giản muốn biết đặc trưng chung nào đó (độ trắng của thiên nga chẳng hạn) của các thành viên của một họ tự nhiên chúng ta có thể dễ nhận ra. Lại thế, chúng ta suy ngẫm cái chúng ta đã nhận biết trước đây, tìm cái các thành viên của một họ cho trước cùng có chung.
Đấy đều là các quá trình cân nhắc, và trong chúng chúng ta có tìm và triển khai các tiêu chuẩn và quy tắc. Tức là, chúng ta thử diễn giải các cảm giác đã có sẵn rồi, thử phân tích cái được cho trước đối với chúng ta. Dù chúng ta làm điều đó ra sao, quá trình liên quan phải cuối cùng là quá trình thần kinh, và chúng vì thế được chi phối bởi cùng các qui luật vật lí-hoá học một mặt chi phối sự tri giác và mặt khác chi phối sự đập của trái tim chúng ta. Nhưng sự thực rằng hệ thống tuân theo cùng các qui luật ở cả ba trường hợp không cho lí do để giả sử rằng bộ máy thần kinh của chúng ta được lập trình để hoạt động theo cách như nhau trong diễn giải như trong tri giác hay trong cả hai như trong sự đập của tim chúng ta. Vì thế trong cuốn sách này cái tôi đã phản đối là sự cố gắng, là truyền thống kể từ Descartes nhưng không trước đó, để phân tích tri giác như một quá trình diễn giải, như một phiên bản vô thức của cái ta làm sau khi chúng ta đã tri giác.
Cái làm cho tính toàn vẹn của tri giác đáng nhấn mạnh, tất nhiên, là rất nhiều kinh nghiệm quá khứ được gắn vào bộ máy thần kinh cái biến đổi các kích thích thành các cảm giác. Một cơ chế tri giác được lập trình thích hợp có giá trị sống sót. Đi nói rằng các thành viên của các nhóm khác nhau có thể có các tri giác khác nhau khi đối mặt với cùng các kích thích không ngụ ý rằng họ có thể có bất cứ tri giác nào. Trong nhiều hoàn cảnh một nhóm không biết phân biệt chó sói với chó có thể không tồn tại. Một nhóm các nhà vật lí hạt nhân ngày nay cũng chẳng thể tồn tại như các nhà khoa học nếu không có khả năng nhận ra các vết của các hạt alpha và các electron. Chính bởi vì rất ít cách nhìn sẽ thích hợp đến mức những cách đã chịu được các thử thách về sử dụng nhóm là đáng truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đồng thời, chính bởi vì chúng được lựa chọn để thành công trải qua thời kì lịch sử mà chúng ta phải nói về kinh nghiệm và tri thức về tự nhiên được gắn vào con đường kích thích-đến-cảm giác.
Có lẽ ‘tri thức’ là từ sai, nhưng có các lí do để dùng nó. Cái được gắn vào quá trình thần kinh, quá trình biến đổi các kích thích thành cảm giác có các đặc trưng sau: nó được chuyển giao thông qua giáo dục; bằng thử, nó được thấy là có kết quả hơn các đối thủ cạnh tranh lịch sử của nó trong môi trường thịnh hành của một nhóm; và, cuối cùng, nó phải thay đổi cả qua giáo dục thêm và qua sự khám phá ra những sự không thích hợp với môi trường. Đó là các đặc trưng của tri thức, và chúng giải thích vì sao tôi dùng từ này. Nhưng nó là cách dùng kì lạ, vì thiếu một đặc trưng khác. Chúng ta không có tiếp cận trực tiếp đến cái chúng ta biết, không có các quy tắc hay khái quát hoá mà với chúng, ta có thể bày tỏ tri thức này. Các quy tắc có thể cung cấp sự tiếp cận đó sẽ nhắc đến các kích thích chứ không phải các cảm giác, và các kích thích chúng ta có thể biết chỉ thông qua lí thuyết tinh vi. Thiếu nó, tri thức được gắn trong đường đi kích thích-đến-cảm giác vẫn là ngầm ẩn.
Tuy rõ ràng là sơ bộ và không nhất thiết đúng về mọi chi tiết, cái vừa được nói về cảm giác được hiểu theo nghĩa đen. Chí ít nó là một giả thuyết về sự nhìn phải chịu khảo sát thực nghiệm tuy có lẽ không có kiểm tra trực tiếp. Song thảo luận như thế này về sự nhìn và cảm giác ở đây cũng cung cấp các chức năng ẩn dụ như nó làm trong thân bài của cuốn sách. Chúng ta không nhìn thấy các electron, mà đúng hơn thấy các vết hay khác đi các bong bóng hơi nước trong buồng mây. Chúng ta chẳng nhìn thấy các dòng điện chút nào, mà đúng hơn thấy kim của ampe kế hay của dụng cụ đo điện. Thế mà ở các trang trước, đặc biệt ở Mục X, tôi đã cư xử lặp đi lặp lại cứ như là ta có thấy các thực thể lí thuyết như các dòng điện, electron, các trường, cứ như chúng ta đã học để làm vậy từ khảo sát các mẫu tương tự, và cứ như trong cả các trường hợp này nữa sẽ là sai đi thay việc thảo luận về sự nhìn bằng việc thảo luận về các tiêu chuẩn và diễn giải. Phép ẩn dụ chuyển ‘sự nhìn’ đến các ngữ cảnh như thế này hầu như không là một cơ sở đủ cho các yêu sách như vậy. Về dài hạn sẽ phải loại bỏ nó để ủng hộ một phương thức đàm luận thật sự hơn.
Chương trình máy tính nói đến ở trên bắt đầu đề xuất những cách mà điều đó có thể được thực hiện, song do cả chỗ sẵn có lẫn mức độ hiểu biết hiện thời của tôi không cho phép tôi loại bỏ phép ẩn dụ ở đây.14 Thay vào đó tôi sẽ thử bảo vệ nó một cách ngắn gọn. Nhìn thấy các giọt nước nhỏ hay kim trên một thang chia độ là kinh nghiệm giác quan sơ đẳng cho người không quen với các buồng mây và các ampe kế. Nó như thế đòi hỏi sự suy ngẫm, phân tích, và diễn giải (hoặc khác đi sự can thiệp của uy quyền bên ngoài) trước khi có thể rút ra kết luận về các điện tử hay dòng điện. Song vị thế của người đã học về các công cụ này và có nhiều kinh nghiệm mẫu với chúng là rất khác, và có các sự khác biệt tương ứng về cách anh ta xử lí các kích thích đến với anh ta từ chúng. Về hơi trong hơi thở của anh ta vào chiều đông lạnh, cảm giác của anh ta có thể cũng như cảm giác của một người thường, nhưng nhìn một buồng mây anh ta thấy (theo nghĩa đen ở đây) không phải các giọt nước nhỏ mà là các vết của các electron, các hạt alpha, và v.v. Các vết này, nếu bạn muốn, là các tiêu chuẩn mà anh ta diễn giải như các chỉ số hiện diện của các hạt tương ứng, nhưng con đường đó cả ngắn hơn lẫn khác với con đường mà một người diễn giải các hạt nước nhỏ lần mò.
Hoặc xét nhà khoa học xem một ampe kế để xác định số nơi kim dừng lại. Cảm giác của anh ta có lẽ là như của người thường, đặc biệt nếu người sau đã đọc các loại đồng hồ đo khác trước đó. Nhưng anh ta đã thấy đồng hồ đo (lại theo nghĩa đen) trong ngữ cảnh của toàn bộ mạch điện, và biết cái gì đó về cấu trúc bên trong của nó. Đối với anh ta vị trí của kim là một tiêu chuẩn, nhưng chỉ của giá trị dòng điện. Để diễn giải nó anh ta cần xác định chỉ cần phải đọc đồng hồ đo trên thang nào. Mặt khác, đối với người thường, vị trí của kim không là một tiêu chuẩn của bất cứ thứ gì trừ bản thân nó. Để diễn giải nó, ông ta phải khảo sát toàn bộ sơ đồ đi dây, bên trong và bên ngoài, thử nghiệm với pin và nam châm, và v.v. Trong cách dùng ẩn dụ không ít hơn cách dùng thật của ‘sự nhìn’, diễn giải bắt đầu nơi tri giác kết thúc. Hai quá trình là không như nhau, và cái tri giác để lại cho diễn giải hoàn thành phụ thuộc rất mạnh vào bản chất và lượng kinh nghiệm và đào tạo trước.
5. Các mẫu, Tính không so sánh được, và các cuộc Cách mạng
Cái vừa được nói cung cấp một cơ sở để làm rõ một khía cạnh nữa của cuốn sách: các nhận xét của tôi về tính không thể so sánh và các hệ quả của nó cho các nhà khoa học tranh cãi sự lựa chọn giữa các lí thuyết kế tiếp.15 Trong các Mục X và XII tôi đã lí lẽ rằng các bên của các tranh cãi như vậy chắc hẳn nhìn một cách khác nhau số nào đó của các tình huống thực nghiệm hay quan sát mà cả hai đều trông cậy vào. Tuy nhiên, vì từ vựng theo đó họ thảo luận các tình huống như vậy bao gồm chủ yếu các thuật ngữ như nhau, họ phải gắn một số các từ đó cho tự nhiên một cách khác nhau, và sự truyền thông [liên lạc] của họ chắc hẳn chỉ là một phần. Kết quả là, tính ưu việt của một lí thuyết đối với lí thuyết khác là cái gì đó không thể được chứng minh trong tranh cãi. Thay vào đó, tôi đã nhấn mạnh, mỗi bên phải thử, bằng thuyết phục, cải biến bên kia. Chỉ các nhà triết học đã hiểu sai ý định của các phần này của lí lẽ của tôi. Một số họ, tuy vậy, đã nói rằng tôi tin điều sau:16 Những người đề xuất các lí thuyết không thể so sánh không thể liên lạc với nhau chút nào; kết quả là, trong một tranh cãi về chọn-lí thuyết, không thể có viện dẫn đến các lí do chính đáng; thay vào đó lí thuyết phải được chọn vì các lí do cuối cùng mang tính cá nhân và chủ quan; một loại tổng giác huyền bí nào đó chịu trách nhiệm về quyết định thực sự đạt được. Hơn bất cứ phần khác nào của cuốn sách, các đoạn trong đó những sự hiểu sai này dựa vào đã chịu trách nhiệm về các lời buộc tội về tính phi duy lí.
Đầu tiên hãy xem xét các nhận xét của tôi về chứng minh. Điểm mà tôi đã thử đưa ra là điểm đơn giản, quen thuộc từ lâu trong triết học khoa học. Các tranh luận về chọn-lí thuyết không thể sắp đặt vào một dạng hoàn toàn giống với chứng minh logic hay toán học. Trong chứng minh sau, các tiền đề và các quy tắc suy diễn được quy định ngay từ đầu. Nếu có sự bất đồng về các kết luận, các bên tranh luận có thể truy lại các bước của mình từng bước một, kiểm tra mỗi bước với quy định trước. Khi kết thúc quá trình đó một bên hay bên kia phải thừa nhận rằng mình đã phạm một sai lầm, vi phạm quy tắc đã được chấp nhận trước. Sau sự thú nhận đó anh ta không có gì để trông cậy, và chứng minh của đối thủ của anh ta sau đó là thuyết phục. Chỉ nếu hai bên phát hiện ra rằng thay vào đó họ khác nhau về ý nghĩa hay về việc dùng các qui tắc đã được quy định, rằng sự thống nhất trước của họ không cung cấp đủ cơ sở cho chứng minh, thì tranh luận mới tiếp tục ở dạng nó chắc hẳn có trong các cuộc cách mạng khoa học. Tranh luận đó là về các tiền đề, và sự trông cậy của nó là đối với sự thuyết phục như một khúc dạo đầu cho khả năng chứng minh.
Không gì về luận đề tương đối đơn giản đó ngụ ý hoặc rằng không có các lí do chính đáng để được thuyết phục hay rằng các lí do đó không có tính quyết định cuối cùng cho nhóm. Nó thậm chí cũng không ngụ ý rằng các lí do để chọn là khác với các lí do thường được các nhà triết học khoa học liệt kê ra: tính chính xác, tính đơn giản, tính có kết quả, và những cái giống thế. Cái nó phải gợi ý, tuy vậy, là các lí do như vậy hoạt động như các giá trị và như thế chúng có thể được những người nhất trí tôn trọng chúng dùng theo cách khác nhau, một cách cá nhân hay tập thể. Nếu hai người không đồng ý, chẳng hạn, về tính hiệu quả tương đối của các lí thuyết của họ, hoặc nếu họ đồng ý về điều đó song bất đồng về tầm quan trọng tương đối của tính hiệu quả và, thí dụ, về quy mô trong đạt đến một lựa chọn, chẳng ai có thể bị kết tội phạm một sai lầm. Cũng chẳng ai là phi khoa học cả. Không có thuật giải trung lập nào cho lựa chọn lí thuyết, không có thủ tục có hệ thống nào, dùng một cách thích hợp, phải dẫn mỗi cá nhân trong nhóm đến cùng quyết định. Theo nghĩa này chính cộng đồng của các nhà chuyên môn hơn là cá nhân các thành viên của nó đưa ra quyết định thật sự. Để hiểu vì sao khoa học phát triển như nó phát triển, ta không cần phải làm sáng tỏ chi tiết tiểu sử và tính cách cái dẫn mỗi cá nhân đến một lựa chọn cá biệt, tuy chủ đề đó cực kì quyến rũ. Cái ta phải hiểu, tuy vậy, là cách theo đó một tập cá biệt của các giá trị chung tương tác với các kinh nghiệm cá biệt được cộng đồng các nhà chuyên môn chia sẻ để đảm bảo rằng hầu hết thành viên của nhóm cuối cùng sẽ tìm thấy một tập các lí lẽ hơn là tập khác có tính quyết định.
Quá trình đó là sự thuyết phục, song nó đưa ra một vấn đề sâu hơn. Hai người quan sát cùng tình huống một cách khác nhau tuy nhiên dùng cùng từ vựng khi thảo luận nó phải dùng các từ một cách khác nhau. Tức là, họ nói từ cái tôi đã gọi là các quan điểm không so sánh được. Làm sao họ có thể thậm chí hi vọng nói chuyện với nhau ít hơn nhiều để có sức thuyết phục. Ngay cả một câu trả lời sơ bộ cho câu hỏi đó đòi hỏi sự định rõ thêm về bản chất khó khăn, Tôi cho rằng, chí ít một phần, nó có dạng sau.
Thực hành khoa học thông thường phụ thuộc vào năng lực, nhận được từ các mẫu, để nhóm các đối tượng và các tình huống vào các tập giống nhau có tính nguyên thuỷ theo nghĩa sự nhóm lại được tiến hành mà không có một câu trả lời cho câu hỏi, “Giống với cái gì?” Một khía cạnh chính của bất cứ cách mạng nào, khi đó, là một số quan hệ giống nhau thay đổi. Các đối tượng được nhóm vào cùng tập trước đây được nhóm vào các tập khác sau đó và ngược lại. Hãy nghĩ về mặt trời, mặt trăng, sao Hoả, và trái đất trước và sau Copernicus; về rơi tự do, con lắc, và chuyển động hành tinh trước và sau Galileo; hay về các muối, các hợp kim, và sulphur-sắt sắp xếp trộn lẫn trước và sau Dalton. Vì hầu hết các đối tượng bên trong thậm chí các tập đã thay đổi tiếp tục được nhóm lại với nhau, tên của các tập thường được duy trì. Tuy nhiên, sự chuyển một tập con thường là phần của một sự thay đổi quyết định trong mạng lưới của các tương tác giữa chúng. Chuyển các kim loại từ tập các hợp chất sang tập của các nguyên tố đóng một vai trò căn bản trong sự nổi lên của một lí thuyết mới về sự cháy, về tính axít, và về sự kết hợp vật lí và hoá học. Nhanh và không ồn ào những thay đổi đó đã lan ra toàn bộ hoá học. Không ngạc nhiên, vì thế, khi những sự phân bổ lại như thế xảy ra, hai người mà sự thuyết trình của họ trước đây được tiến hành với sự hiểu biết hình như hoàn toàn có thể đột nhiên thấy mình đáp lại cùng kích thích với những mô tả và khái quát hoá không tương thích. Các khó khăn đó sẽ không được cảm thấy ở tất cả các lĩnh vực của thậm chí thuyết trình khoa học của họ, nhưng chúng sẽ xảy ra và sau đó sẽ tụm lại dày đặc nhất xung quanh các hiện tượng mà trên đó sự lựa chọn lí thuyết phụ thuộc chủ yếu vào.
Các vấn đề như vậy, tuy đầu tiên chúng trở thành rõ rệt trong truyền thông, không chỉ mang tính ngôn ngữ, và chúng không thể được giải quyết đơn giản bằng quy định các định nghĩa của các thuật ngữ gây rắc rối. Bởi vì các từ mà xung quanh đó các khó khăn tụ lại đã được học một phần từ ứng dụng trực tiếp cho các mẫu, những người tham gia trong một sự sụp đổ truyền thông không thể nói, “tôi dùng từ ‘nguyên tố’ (hay ‘hỗn hợp’, hay ‘hành tinh’, hay ‘chuyển động không bị ràng buộc’) theo các cách xác định bởi các tiêu chuẩn sau”. Tức là, họ không thể viện đến một ngôn ngữ trung lập mà cả hai dùng theo cùng cách và thích hợp cho sự phát biểu của cả hai lí thuyết của họ hay thậm chí của các hệ quả thực nghiệm của cả hai lí thuyết đó. Một phần của sự khác biệt là có trước việc dùng ngôn ngữ trong đó nó tuy nhiên được phản ánh.
Những người trải nghiệm những sự sụp đổ truyền thông như vậy, tuy vậy, phải có sự cầu viện nào đó. Các kích thích ảnh hưởng đến họ là như nhau. Bộ máy thần kinh chung của họ cũng thế, cho dù được lập trình khác nhau đến đâu. Hơn nữa, trừ trong một lĩnh vực nhỏ, nếu hoàn toàn quan trọng, về kinh nghiệm thậm chí sự lập trình thần kinh của họ phải là rất gần như nhau, vì họ có chung lịch sử, trừ quá khứ gần nhất. Kết quả là, cả thế giới hàng ngày của họ lẫn hầu hết thế giới khoa học và ngôn ngữ của họ là chung. Căn cứ vào ngần ấy cái chung, họ phải có khả năng để tìm ra rất nhiều về họ khác nhau ra sao. Các kĩ thuật cần đến, tuy vậy, là không dễ hiểu, hay thoải mái, hay là phần của kho vũ khí thông thường của nhà khoa học. Các nhà khoa học hiếm khi thừa nhận chúng cho đúng cái chúng là, và họ hiếm khi dùng chúng lâu hơn cần thiết để gây ra sự cải biến hay thuyết phục bản thân họ rằng nó sẽ không đạt được.
Diễn đạt ngắn gọn, cái mà những người tham gia trong một sự sụp đổ truyền thông có thể làm là đi nhận ra nhau như các thành viên của các cộng đồng ngôn ngữ khác nhau và sau đó trở thành những người phiên dịch.17 Coi những khác biệt giữa các thuyết trình trong nội bộ và giữa các nhóm của riêng họ như một chủ đề nghiên cứu, đầu tiên họ có thể thử phát hiện ra các từ hay các cụm từ, được dùng không có vấn đề gì bên trong mỗi cộng đồng, tuy nhiên là các tụ điểm rắc rối cho các thảo luận giữa các nhóm. (Các cụm từ không gây ra khó khăn nào như vậy có thể được dịch một cách đồng âm). Sau khi đã cô lập các lĩnh vực như vậy về khó khăn trong truyền thông khoa học, tiếp theo họ có thể phải dùng đến các từ vựng dùng chung thường ngày của họ trong một nỗ lực thêm để làm sáng tỏ các rắc rối. Tức là, mỗi người có thể thử khám phá ra người khác nhìn thấy và nói cái gì khi được trình diễn với một kích thích mà đáp ứng bằng lời của riêng anh ta sẽ là khác. Nếu họ có thể kìm đủ không giải thích ứng xử dị thường như hậu quả của sự sai lầm hay điên rồ đơn thuần, với thời gian họ có thể trở thành các nhà tiên đoán rất tốt về ứng xử của nhau. Mỗi người sẽ học để phiên dịch lí thuyết của người khác và các hậu quả của nó sang ngôn ngữ của chính mình và đồng thời mô tả thế giới mà lí thuyết đó áp dụng bằng ngôn ngữ của riêng mình. Đó là cái nhà sử học khoa học thường xuyên làm (hay phải làm) khi đối phó với các lí thuyết khoa học lỗi thời.
Vì sự dịch, nếu theo đuổi, cho phép những người tham gia trong một sụp đổ truyền thông để trải nghiệm lây cùng người khác cái gì đó về giá trị và thiếu sót của quan điểm của nhau, nó là một công cụ hiệu nghiệm cho cả sự thuyết phục lẫn cải biến. Nhưng thậm chí sự thuyết phục không nhất thiết thành công, và, nếu thành công, không cần sự cải biến phải đi kèm hay đi theo. Hai kinh nghiệm là không như nhau, một sự phân biệt quan trọng mà tôi nhận ra hoàn toàn chỉ mới đây.
Đi thuyết phục ai đó, tôi hiểu, là khiến anh ta tin rằng quan điểm của mình ưu việt hơn và vì thế phải thay thế quan điểm riêng của anh ta. Ngần ấy đôi khi đạt được mà không cần phải nhờ cậy đến bất cứ cái gì giống sự phiên dịch. Thiếu nó nhiều diễn giải và trình bày vấn đề được các thành viên của một nhóm khoa học tán thành sẽ là không rõ ràng cho nhóm khác. Nhưng mỗi cộng đồng ngôn ngữ từ đầu có thể thường tạo ra vài kết quả nghiên cứu cụ thể mà, tuy có thể mô tả bằng các câu được cả hai nhóm hiểu theo cùng cách, thế nhưng không thể được giải thích bởi cộng đồng khác bằng các thuật ngữ riêng của nó. Nếu quan điểm mới tồn tại được một thời gian và tiếp tục có kết quả, các kết quả nghiên cứu có thể diễn đạt bằng lời theo cách này chắc sẽ tăng về số lượng. Đối với một số người riêng các kết quả như vậy sẽ có tính quyết định. Họ có thể nói: tôi không biết những người đề xuất quan điểm mới thành công thế nào, song tôi phải học; bất luận họ làm gì, nó rõ ràng đúng. Phản ứng đó đến đặc biệt dễ từ những người vừa mới vào nghề, vì họ vẫn chưa thu được từ vựng và các cam kết đặc biệt của cả hai nhóm.
Các lí lẽ có thể phát biểu bằng từ vựng mà cả hai nhóm dùng theo cùng cách, tuy vậy, là thường không quyết định, không chí ít cho đến một giai đoạn rất muộn trong tiến triển của các quan điểm đối lập. Giữa những người đã được kết nạp vào nghề rồi, ít người sẽ được thuyết phục mà không nhờ đến các so sánh mở rộng hơn do việc dịch cho phép. Tuy cái giá thường là các câu rất dài và phức tạp (hãy nghĩ về tranh cãi Proust-Berthollet được tiến hành mà không nhờ đến thuật ngữ ‘nguyên tố’), nhiều kết quả nghiên cứu thêm có thể được dịch từ ngôn ngữ của một cộng đồng sang của cộng đồng khác. Vả lại, khi việc dịch tiếp diễn một số thành viên của mỗi cộng đồng cũng có thể hiểu lây làm sao một phát biểu trước kia khó hiểu lại có thể có vẻ là một giải thích cho các thành viên của nhóm đối lập. Sự sẵn có các kĩ thuật như thế này, tất nhiên, không đảm bảo cho sự thuyết phục. Đối với đa số người, phiên dịch là một quá trình đe doạ, và nó hoàn toàn xa lạ với khoa học thông thường. Các phản-lí lẽ, trong mọi trường hợp, là luôn sẵn có, và không quy tắc nào quy định phải đạt cân đối ra sao. Tuy nhiên, khi lí lẽ chồng lên lí lẽ và khi thách thức này sau thách thức kia được thoả mãn, cuối cùng chỉ có sự ương ngạnh mù quáng mới giải thích cho sự kháng cự tiếp tục.
Trong trường hợp đó, một khía cạnh thứ hai của việc dịch, quen biết từ lâu đối với cả các sử gia lẫn các nhà ngôn ngữ, trở nên cực kì quan trọng. Đi dịch một lí thuyết hay thế giới quan sang ngôn ngữ của mình không phải là biến nó thành của riêng mình. Vì người đó phải hoà nhập với người bản xứ, khám phá ra cái người ta nghĩ và làm trong, không đơn giản dịch từ, một ngôn ngữ trước đây là xa lạ. Sự chuyển đổi đó, tuy vậy, không phải là một sự chuyển đổi mà một cá nhân có thể làm hay kiềm chế không làm bằng sự cân nhắc và lựa chọn, cho dù các lí do của anh ta có chính đáng đến đâu để làm vậy. Thay vào đó, tại điểm nào đó trong quá trình học dịch, anh ta thấy rằng sự chuyển đổi đã xảy ra, rằng anh ta đã lẻn vào ngôn ngữ mới mà không có một quyết định đã được đưa ra. Hay khác đi, giống nhiều người đầu tiên bắt gặp, chẳng hạn, thuyết tương đối hay cơ học lượng tử ở tuổi trung niên, anh ta thấy bản thân mình hoàn toàn được thuyết phục về quan điểm mới nhưng tuy nhiên không có khả năng nội tại hoá nó và quen thuộc trong thế giới mà nó giúp thành hình. Về mặt trí tuệ một người như vậy đã đưa ra lựa chọn của mình, nhưng sự cải biến cần thiết nếu muốn có kết quả lại né tránh anh ta. Tuy vậy anh ta có thể dùng lí thuyết mới nhưng anh ta sẽ làm vậy như một người nước ngoài trong một môi trường xa lạ, một lựa chọn khả dĩ có sẵn cho anh ta chỉ bởi vì đã có những người bản xứ rồi. Công việc của anh ta được kí sinh trên của họ, bởi vì anh ta thiếu hình trạng của các giới tinh thần mà các thành viên tương lai của cộng đồng sẽ thu được qua giáo dục.
Kinh nghiệm cải biến mà tôi đã ví như một sự chuyển gestalt đột ngột, vì thế, vẫn còn ở tâm của quá trình cách mạng. Các lí do chính đáng cho sự lựa chọn tạo động cơ cho sự cải biến và một môi trường trong đó nó có khả năng xảy ra hơn. Ngoài ra, việc dịch có thể cung cấp các điểm vào cho việc lập trình neuron mà, dù có khó hiểu đến thế nào ở thời điểm này, phải làm cơ sở cho sự cải biến. Song cả các lí do chính đáng lẫn việc dịch không tạo thành sự cải biến, và chính quá trình đó là cái chúng ta phải giải thích nhằm hiểu một loại căn bản về sự thay đổi khoa học.
6. Các cuộc Cách mạng và Thuyết Tương đối
Một hệ quả của lập trường vừa được phác hoạ đã đặc biệt gây bực mình cho một số các nhà phê bình của tôi.18 Họ thấy quan điểm của tôi mang tính tương đối, đặc biệt như nó được trình bày ở mục cuối của cuốn sách này. Các nhận xét của tôi về việc dịch nêu bật các lí do cho thay đổi. Những người đề xuất các lí thuyết khác là giống các thành viên của các cộng đồng ngôn ngữ-văn hoá khác. Thừa nhận sự tương tự gợi ý rằng theo nghĩa nào đó cả hai nhóm có thể đều đúng. Áp dụng cho văn hoá và sự phát triển của nó, lập trường đó có tính tương đối.
Nhưng áp dụng cho khoa học nó có thể không vậy, và trong bất cứ trường hợp nào nó còn xa thuyết tương đối đơn thuần về khía cạnh mà các nhà phê bình đã không thấy. Coi như một nhóm hay trong các nhóm, những người thực hành một khoa học đã phát triển, tôi đã lí lẽ, về cơ bản là những người giải câu đố. Tuy các giá trị mà họ triển khai tại các thời kì chọn-lí thuyết bắt nguồn từ các khía cạnh khác nữa của công việc của họ, khả năng được biểu lộ để nêu lên và giải các câu đố do tự nhiên đưa ra, trong trường hợp xung đột giá trị, là tiêu chuẩn chi phối cho hầu hết các thành viên của một nhóm khoa học. Giống bất cứ giá trị nào khác, năng lực giải-câu đố tỏ ra lập lờ trong áp dụng. Hai người chia sẻ nó tuy nhiên có thể có các đánh giá khác nhau mà họ rút ra từ việc dùng nó. Nhưng ứng xử của một cộng đồng làm cho nó hơn hẳn sẽ là rất khác với ứng xử của một cộng đồng không làm được thế. Trong các khoa học, tôi tin, giá trị cao được ban cho năng lực giải-câu đố có các hệ quả sau.
Hãy tưởng tượng một cây tiến hoá đại diện cho sự phát triển của các chuyên ngành khoa học hiện đại từ các gốc chung của chúng, thí dụ, từ triết học tự nhiên và nghề thủ công. Một đường vạch đến cây đó, không bao giờ quay ngược lại, từ thân đến đỉnh của một nhánh nào đó sẽ lần vết sự kế tiếp của các lí thuyết liên quan bởi dòng dõi. Xét bất cứ hai lí thuyết như vậy, chọn từ điểm không quá gần gốc, phải là dễ để phác hoạ một danh mục các tiêu chuẩn cho phép một nhà quan sát không bị ràng buộc phân biệt lí thuyết sớm hơn khỏi lí thuyết gần đây hơn hết lần này đến lần khác. Giữa [các tiêu chuẩn] hữu ích nhất có: độ chính xác của tiên đoán, đặc biệt của tiên đoán định lượng; sự cân đối giữa các chủ đề bí truyền và hàng ngày; và số các vấn đề khác nhau được giải. Ít hữu ích hơn cho mục đích này, tuy cũng là các nhân tố quyết định quan trọng của đời sống khoa học, là các giá trị như tính đơn giản, phạm vi, và tính tương thích với các chuyên ngành khác. Các danh mục đó vẫn chưa là các danh mục cần đến, song tôi không có nghi ngờ nào rằng chúng có thể được hoàn tất. Nếu chúng có thể, thì sự phát triển khoa học là một quá trình theo một hướng duy nhất và không thể đảo ngược như sự phát triển sinh học. Các lí thuyết khoa học muộn hơn là tốt hơn các lí thuyết sớm hơn để giải các câu đố trong các môi trường thường khá khác với môi trường chúng được dùng. Đó không phải là một lập trường của người theo thuyết tương đối, và nó bày tỏ ý nghĩa trong đó tôi là một tín đồ tin chắc vào tiến bộ khoa học.
So với quan niệm về tiến bộ thịnh hành nhất giữa cả các nhà triết học khoa học lẫn dân thường, tuy vậy, lập trường này thiếu một yếu tố căn bản. Một lí thuyết khoa học thường được cảm thấy là tốt hơn các lí thuyết tiền bối của nó không chỉ theo nghĩa nó là một công cụ tốt hơn cho khám phá ra và giải các câu đố mà cả bởi vì bằng cách nào đó nó là một trình bày tốt hơn của cái tự nhiên thực sự giống như. Người ta thường nghe là các lí thuyết kế tiếp nhau luôn luôn tiến triển gần hơn, hay xấp xỉ ngày càng gần hơn, đến chân lí. Hình như các khái quát hoá giống thế nhắc không đến các lời giải câu đố và các tiên đoán cụ thể suy ra từ một lí thuyết mà đúng hơn đến bản thể học của nó, tức là, đến sự phù hợp giữa các thực thể mà chúng được lí thuyết đưa đến cư trú trong tự nhiên và những cái “thực sự có ở đó”.
Có lẽ có cách khác nào đó để cứu quan niệm về ‘chân lí’ cho việc áp dụng đối với tất cả các lí thuyết, song cách này sẽ không làm được. Tôi nghĩ, không có cách độc lập với lí thuyết để dựng lại những lối nói như ‘thực sự có ở đó’; quan niệm về một sự phù hợp giữa bản thể học của lí thuyết và bản đối chiếu ‘thực’ của nó trong tự nhiên bây giờ đối với tôi có vẻ hão huyền về nguyên lí. Ngoài ra, với tư cách một sử gia, tôi bị ấn tượng với sự đáng ngờ của quan điểm này. Thí dụ, tôi không nghi ngờ rằng cơ học Newton cải thiện cơ học Aristotle và cơ học Einstein cải thiện cơ học Newton như các công cụ cho giải câu đố. Nhưng tôi không thể thấy hướng nhất quán nào của sự phát triển bản thể học trong sự kế tiếp của chúng. Ngược lại, trong một số, tuy không hề trong tất cả, khía cạnh quan trọng, thuyết tương đối rộng của Einstein gần với cơ học Aristotle hơn cả hai lí thuyết này so với cơ học Newton. Tuy sự cám dỗ để mô tả lập trường đó như có tính tương đối là có thể hiểu được, sự mô tả đối với tôi có vẻ sai. Ngược lại, nếu lập trường là tương đối, tôi không thể thấy rằng nhà theo thuyết tương đối mất bất cứ gì cần đến để giải thích bản chất và sự phát triển của các khoa học.
7. Bản chất của Khoa học
Tôi kết thúc với một thảo luận ngắn về hai phản ứng luôn tái diễn đối với văn bản gốc của tôi, cái thứ nhất có tính phê phán, cái thứ hai ủng hộ, và tôi nghĩ chẳng cái nào hoàn toàn đúng. Tuy cả hai không quan hệ đến cái được nói cho đến đây cũng không quan hệ với nhau, cả hai đủ phổ biến để đòi hỏi chí ít đáp ứng nào đó.
Một vài bạn đọc văn bản gốc của tôi đã để ý rằng tôi thường chuyển lui chuyển tới giữa các phương thức mô tả và chuẩn tắc, một sự chuyển tiếp đặc biệt nổi bật trong các đoạn thi thoảng mở đầu với, “Nhưng đó không phải là cái các nhà khoa học làm”, và khép lại bằng cho rằng các nhà khoa học không nên làm vậy. Một số nhà phê bình cho rằng tôi lẫn lộn mô tả với quy định, vi phạm định lí triết học được tôn trọng lâu đời: ‘Là’ không thể bao hàm ý ‘nên’.19
Định lí đó, trên thực tiễn, trở thành một câu nói sáo, và không còn được tôn trọng ở khắp nơi. Một số nhà triết học đương thời đã khám phá ra các ngữ cảnh quan trọng trong đó chuẩn tắc và diễn tả được trộn lẫn không thể gỡ ra được.20 ‘Là’ và ‘nên’ chẳng luôn tách rời như chúng đã có vẻ chút nào. Nhưng không cần cầu viện đến những tinh tế của triết học ngôn ngữ đương thời để làm sáng tỏ cái có vẻ đã bị lầm về khía cạnh này của lập trường của tôi. Các trang trước trình bày một quan điểm hay lí thuyết về bản chất của khoa học, và giống các triết học khác về khoa học, lí thuyết này có các hệ quả đối với cách theo đó các nhà khoa học phải cư xử nếu việc làm táo bạo của họ muốn thành công. Tuy nó không cần là đúng, không hơn bất cứ lí thuyết khác nào, nó cung cấp một cơ sở chính đáng cho các ‘nên’ và các ‘phải’. Ngược lại, một tập các lí do để coi lí thuyết một cách nghiêm túc là các nhà khoa học, mà các phương pháp của họ được phát triển và lựa chọn cho sự thành công của họ, thực ra có cư xử như lí thuyết bảo họ phải làm. Các khái quát hoá diễn tả của tôi là bằng chứng cho lí thuyết, chính xác bởi vì chúng cũng có thể được dẫn ra từ nó, trong khi theo các quan điểm khác về bản chất của khoa học chúng tạo thành ứng xử dị thường.
Tính lòng vòng của lí lẽ đó, tôi nghĩ, là không xấu. Các hệ quả của quan điểm được thảo luận không bị dùng hết bởi các quan sát mà nó dựa vào lúc khởi đầu. Ngay cả trước khi cuốn sách này được xuất bản lần đầu, tôi đã thấy các phần của lí thuyết nó trình bày một công cụ hữu ích cho khảo sát ứng xử và sự phát triển khoa học. So sánh tái bút này với các trang của bản gốc có thể gợi ý rằng nó đã tiếp tục đóng vai trò đó. Không quan điểm lòng vòng đơn thuần nào có thể cho sự hướng dẫn như vậy.
Đối với một phản ứng cuối cùng với cuốn sách này, câu trả lời của tôi phải là loại khác. Một số những người đã thích thú với nó đã làm rất ít bởi vì nó làm sáng tỏ khoa học hơn bởi vì họ đọc các luận đề chính của nó như có thể áp dụng được cho nhiều lĩnh vực khác nữa. Tôi hiểu cái họ muốn nói và sẽ không muốn làm nản lòng các nỗ lực của họ để mở rộng lập trường, nhưng phản ứng của họ tuy nhiên đã làm tôi bối rối. Trong chừng mực mà cuốn sách mô tả sự phát triển khoa học như một sự kế tiếp của các giai đoạn do truyền thống ràng buộc bị ngắt quãng bởi các dịp không-luỹ tích, các luận đề của nó rõ ràng có khả năng ứng dụng rộng. Nhưng chúng phải thế, vì chúng được vay mượn từ các lĩnh vực khác. Các nhà lịch sử về văn học, về âm nhạc, về nghệ thuật, về diễn tiến chính trị, và về nhiều hoạt động khác của con người từ lâu đã mô tả các chủ đề của họ theo cùng cách. Định kì hoá dưới dạng các ngắt quãng cách mạng về phong cách, thị hiếu, và cơ cấu thể chế đã là giữa các công cụ tiêu chuẩn của họ. Nếu giả như tôi có độc đáo đối với các khái niệm như thế này, nó chủ yếu là sự áp dụng chúng cho các khoa học, các lĩnh vực mà nhiều người đã nghĩ là phát triển theo một cách khác. Có thể tin được là quan niệm về một khung mẫu như một thành tựu cụ thể, một mẫu, là một đóng góp thứ hai. Tôi nghi, thí dụ, rằng một số trong các khó khăn khét tiếng xung quanh quan niệm về phong cách trong nghệ thuật có thể biến mất nếu các bức tranh có thể được xem như được mô phỏng lẫn nhau hơn là được tạo ra phù hợp với các tiêu chuẩn trừu tượng nào đó về phong cách.21
Tuy vậy, cuốn sách này cũng có ý định nêu rõ một loại vấn đề khác nữa, loại đã ít có thể thấy được rõ ràng đối với nhiều bạn đọc. Tuy sự phát triển khoa học có thể giống sự phát triển ở các lĩnh vực khác gần hơn mức thường được tưởng là, nó cũng khác một cách nổi bật. Thí dụ, đi nói các khoa học, chí ít sau một điểm nào đó trong sự phát triển của chúng, tiến bộ theo cách mà các lĩnh vực khác không, không thể hoàn toàn sai, cho dù bản thân sự tiến bộ có thể là gì. Một trong các mục tiêu của cuốn sách là khảo sát các khác biệt như vậy và bắt đầu giải thích chúng.
Thí dụ, xét sự nhấn mạnh lặp đi lặp lại, ở trên, về sự thiếu vắng hay, bây giờ tôi phải nói, về sự khan hiếm các trường phái cạnh tranh trong các khoa học đã phát triển. Hoặc hãy nhớ các nhận xét của tôi về mức độ mà các thành viên của một cộng đồng khoa học cho trước cung cấp khán-thích-độc-giả duy nhất và các quan toà duy nhất của công trình của cộng đồng đó. Hay lại nghĩ về bản chất đặc biệt của giáo dục khoa học, về giải câu đố như một mục tiêu, và về hệ thống giá trị mà nhóm khoa học triển khai ở các giai đoạn khủng hoảng và quyết định. Cuốn sách cô lập các đặc tính khác thuộc cùng loại, chẳng cái nào nhất thiết độc nhất cho khoa học trừ trong sự liên kết đặt hoạt động sang một bên.
Về tất cả các đặc điểm này của khoa học có rất nhiều thứ nữa còn phải được học. Sau khi mở đầu tái bút này bằng nhấn mạnh nhu cầu để nghiên cứu cấu trúc cộng đồng khoa học, tôi sẽ kết thúc bằng nhấn mạnh như cầu về nghiên cứu tương tự, và trên hết, chủ nghĩa so sánh của các cộng đồng tương ứng trong các lĩnh vực khác. Người ta bầu và được bầu thế nào cho tư cách thành viên trong một cộng đồng cá biệt, khoa học hay không khoa học? Quá trình là thế nào và các giai đoạn xã hội hoá là thế nào đối với nhóm? Cái gì là cái nhóm coi một cách tập thể như các mục tiêu của nó; sự lệch nào, cá nhân hay tập thể, nó sẽ khoan dung; và nó kiểm soát sự lầm lạc thế nào là không thể cho phép? Một sự hiểu biết đầy đủ hơn về khoa học cũng sẽ phụ thuộc vào các câu trả lời cho các loại câu hỏi khác nữa, nhưng không có lĩnh vực nào trong đó rất cần đến nhiều công việc hơn. Tri thức khoa học, giống ngôn ngữ, về bản chất là tài sản chung của một nhóm hay khác đi chẳng là gì cả. Để hiểu nó chúng ta sẽ cần biết các đặc trưng đặc biệt của các nhóm tạo ra nó và dùng nó.
-------------
1 Tái bút này lần đầu tiên được chuẩn bị do gợi ý của Dr. Shigeru Nakayama ở Đại học Tokyo, một thời là sinh viên của tôi và là một người bạn từ lâu, để bao gồm vào bản dịch tiếng Nhật của ông về cuốn sách này. Tôi biết ơn ông vì ý tưởng, vì sự kiên nhẫn của ông để chờ đợi kết quả của nó, và vì sự cho phép đưa kết quả vào cả lần tái bản bằng tiếng Anh.
2 Cho lần xuất bản này tôi không thử việc viết lại một cách có hệ thống, giới hạn những thay đổi ở vài lỗi in ấn cộng với hai đoạn chứa các lỗi có thể cô lập được. Một trong hai đoạn này là mô tả về vai trò của Principia của Newton trong sự phát triển của cơ học thế kỉ mười tám ở các trang 30-33. Đoạn thứ hai liên quan đến phản ứng đối với các khủng hoảng ở trang 84.
3 Các biểu thị khác được thấy ở hai tiểu luận mới đây của tôi: “Reflection on My Critics,” trong Imre Lakatos and Alan Musgave (eds.), Critism and the Growth of Knowledge (Cambridge, 1970); “Second Thoughts on Paradigms,” trong Federic Suppe (ed.) The Structure of Scientific Theories (Urbana, Ill., 1970 hay 1971), cả hai đang trong quá trình in, dưới đây tôi sẽ nhắc đến tiểu luận đầu như “Reflections” và tập sách trong đó nó xuất hiện như Growth of Knowledge; tiểu luận thứ hai sẽ được nhắc đến như “Second Thoughts”.
4 Về phê phán có sức thuyết phục đặc biệt đối với trình bày ban đầu của tôi về khung mẫu, xem Margaret Masterman, “The Nature of a Paradigm,” trong Growth of Knowledge; và Dudley Shapere, “The Structure of Scientific Revolutions,” Philosophical Review, LXXIII (1964), 383-94.
5 W. O. Hagstrom, The Scientific Community (New York, 1965), ch. iv và v;
D. J. Price and D. de B. Beaver, “Collaboration in an Invisible College,” American Psychologist, XXI (1966), 1011-18; Diana Crane, “Social Structure in a Group of Scientists: A Test of the ‘Invisible College’ Hypothesis,” American Sociological Review, XXXIV (1969), 335-52; N. C. Mullins, Social Networks among Biological Scientists, (Ph. D. diss., Harvard University, 1966) và “The Micro-Structure of an Invisible College: The Phage Group” (bài báo trình bày tại gặp mặt hàng năm của Hội Xã hội học Mĩ, Ameriacan Sociological Association, Boston, 1968). 176
6 Eugene Garfield, The Use of Citation Data in Writing the History of Science (Philadelphia: Institute of Scientific Information, 1964); M. M. Kessler,
“Comparison of Results of Bibliographic Coupling and Analytic Subject Indexing,” American Documentation, XVI (1965), 223-33; D. J. Price, “Networks of Scientific Papers,” Science, CIL (1965), 510-15.
7 Masterman, op. cit.
8 Về các phần đáng kể của tình tiết này xem: T. M. Brown, “The Electric Current in Early Nineteenth Century French Physics,” Historical Studies in the Physical Sciences, I (1969), 61-103, và Morton Schagrin, “Resistance to Ohm’s Law,” American Journal of Physics, XXI (1963), 536-47.
9 Xem đặc biệt: Dudley Shapere, “Meaning and Scientific Change,” trong Mind and Cosmos: Essays in Contemporary Science and Philosophy, The University of Pittsburgh Series in the Philosophy of Science, III (Pittsburgh, 1966), 41-85; Israel Scheffler, Science and Subjectivity (New York, 1967); và các tiểu luận của Karl Popper và Imre Lakatos trong Growth of Knowledge.
10 Xem thảo luận ở đầu Mục XIII, ở trên. 11 Về thí dụ này, xem: René Dugas, A History of Mechanics, trans. J. R. Maddox (Neuchatel, 1955), pp. 135-36, 186-93, và Daniel Bernoulli, Hydrodynamica, sive de viribus et motibus fluidorum, commentarii opus academicum (Strasbourg, 1738), Sec. iii. Về mức độ mà cơ học đã tiến bộ ở nửa đầu thế kỉ mười tám bằng cách mô phỏng một cách giải vấn đề trên cách giải khác, xem Clifford Truesdell, “Reactions of Late Baroque Mechanics to Success, Conjecture, Error, and Failure in Newton’s Pinincipia,” Texas Quartely, X (1967), 238-58.
12 Thông tin nào đó về chủ đề này có thể thấy trong “Second Thoughts”. 13 Điểm này có thể chẳng bao giờ cần đến nếu giả như mọi luật đều giống các qui luật Newton và mọi quy tắc giống Mười Điều răn. Trong trường hợp đó lối nói ‘vi phạm một luật’ sẽ vô nghĩa, và một sự từ chối các quy tắc sẽ không có vẻ ngụ ý một quá trình không bị chi phối bởi luật. Đáng tiếc, các luật giao thông và các sản phẩm tương tự của luật pháp có thể bị vi phạm, điều dễ gây lầm lẫn. 195
14 Đối với các bạn đọc của “Second Thoughts” các nhận xét bí ẩn sau đây có thể là chủ đạo. Khả năng nhận ra ngay lập tức các thành viên của các họ tự nhiên phụ thuộc vào sự tồn tại, sau xử lí thần kinh, của một không gian tri giác rỗng giữa các họ cần phải phân biệt. Nếu, thí dụ, giả như có một [dải] liên tục được thấy của chim nước từ ngỗng đến thiên nga, chúng ta buộc phải đưa ra một tiêu chuẩn cụ thể để phân biệt chúng. Có thể đưa ra một điểm tương tự cho các thực thể không quan sát được. Nếu một lí thuyết vật lí thừa nhận sự tồn tại của không gì khác như dòng điện, thì một số nhỏ các tiêu chuẩn, số có thể thay đổi đáng kể từ trường hợp này sang trường hợp khác, sẽ là đủ để nhận diện các dòng điện tuy không có tập nào của các quy tắc quy định các điều kiện cần và đủ cho sự nhận diện. Cho trước một tập các điều kiện cần và đủ cho nhận diện một thực thể lí thuyết, thực thể đó có thể được loại bỏ khỏi bản thể học của một lí thuyết bằng sự thay thế. Tuy nhiên, khi thiếu các quy tắc như vậy không thể loại trừ được các thực thể này; khi đó lí thuyết đòi hỏi sự tồn tại của chúng. 15 Các điểm tiếp theo được thảo luận chi tiết hơn ở các Mục v và vi của “Reflections”.
16 Xem các công trình được trích ở chú thích 9, ở trên, và cả tiểu luận của Stephen Toulmin trong Growth of Knowledge. 199
17 Nguồn đã là cổ điển rồi cho hầu hết các khía cạnh của việc dịch là W. V. O. Quine, Word and Object (Cambridge, Mass., and New Ork, 1960), ch. i và ii. Nhưng Quine có vẻ đi giả sử rằng hai người nhận cùng kích thích phải có cùng cảm giác và vì thế có ít để nói về mức độ mà một phiên dịch phải có khả năng mô tả thế giới mà ngôn ngữ được dịch áp dụng. Về điểm sau xem, E. A. Nida, “Linguistics and Ethnology in Translation Problems,” trong Del Hymes (ed.), Language and Culture in Society (New York, 1964), pp. 90-97.
18 Spapere, “Structure of Scientific Revolutions,” và Popper trong Growth of Knowledge.
19 Về một trong nhiều thí dụ, xem tiểu luận của P. K Feyerabend trong Growth of Knowledge.
20 Stanley Cavell, Must We Mean What We Say? (New York, 1969), ch. i.
21 Về điểm này cũng như một thảo luận mở rộng hơn về cái gì là đặc biệt xung quanh các khoa học, xem T. S. Kuhn, “Comment [on the Relations of Science and Art],” Coparative Studies in Philosophy and History, XI (1969), 403-12.