Hồi 10
Tác giả: Ưu Đàm Hoa
T rưa mười bẩy, Bàng đề đốc về đến, ông không quan tâm đến câu chuyện về Triển Phi Hoan mà nghiêm nghị hỏi Tư Đồ Sảng:
- Sảng nhi! Phải chăng ngươi đã từng cứu mạng một chàng trai tên Chu Tam quê ở Bắc Kinh?
Tư Đồ đảng gật đầu:
- Bẩm phải!
Bàng Đạo Trí lộ sắc mừng hớn hớ nói:
- Quả là đại phúc cho nhà ta! Chu Tam chính là Tam hoàng tử của Đại Minh đấy. Và không chừng sau này Chu Tải Hậu sẽ kế vị ngai vàng vì đang được thánh hoàng sủng ái nhất trong các vị hoàng tứ. Hôm ta sắp rời kinh sư, tam điện hạ đã cho gọi đến và hỏi thăm ngươi. Ngài đã nghe đồn về kết quả cuộc đả lôi đài chiêu phu của Hương nhi nên đoán trúng phóc Tư Mã Khôi là Tư Đồ Sảng.
Lão nói một hơi, chẳng thấy ai lộ vẻ ngạc nhiên nên cụt hứng hỏi:
- Việc Tam hoàng tứ hóa thân thành Chu Tam không làm mọi người bất ngờ sao?
Chiêu Hương cười khúc khích:
- Cửu phụ hố to rồi! Sảng nhi đã sớm biết lai lịch của Chu Tam, kể cho cả nhà nghe từ trước.
Bàng Đạo Trí ê mặt, uống liền mấy hớp trà rồi hắng giọng nói sang chuyện khác:
- Sảng nhi! Tam hoàng tử mời ngươi và Hương nhi đến Bắc Kinh cùng đón tết Nguyên Đán. Người còn bảo rằng muốn nhờ ngươi điều tra vụ trộm cướp quốc khố giữa tháng này. Nghe nói nghi phạm là một đạo chích tên Tây Môn Giới, mang danh hiệu Tích Dịch Quỷ. Sang xuân, nếu chưa tìm ra manh mối khác, triều đình sẽ hạ lệnh truy nã Tây Môn Giới trên cả nước và trao giải thưởng ngàn lượng vàng cho bất cứ ai tố giác hoặc bắt được lão ta.
Tư Đồ Sảng biến sắc, suy nghĩ rồi hỏi lại:
- Cửu phụ! Chẳng hay quốc khố đã bị mất những gì?
Bàng Đạo Trí vuốt râu như cố nhớ lại:
- Lão phu nghe Hình Bộ Thượng Thư Quản Huy Diên kể rằng tên trộm kia dã lấy đi một số châu báu trị giá đến ba chục vạn lượng vàng, hai pho tượng phật bằng ngọc đỏ, bốn bức cổ học và một thanh bảo kiếm.
Tư Đồ Sảng cẩn thận hỏi thêm:
- Bẩm cửu phụ! Ngoài các vật ấy ra, tên trộm có lấy kỳ trân dị dược như Thiên Niên Hà Thủ ô, Vạn Niên Tuyết Sâm Hoàn... hay không?
Bàng Đạo Trí phì cười:
- Thuốc quý thì lúc nào cũng ở cạnh long sàng chứ sao lại bỏ trong kho? Chẳng lẽ nửa đêm cần đến phải đi lục lọi quốc khố?
Tư Đồ Sảng thở phào và vui vẻ bảo:
- Mong cửu phụ mô tả cái cách mà tên đạo chích đã đột nhập quốc khố và vì sao triều đình lại nghi cho Tích Dịch Quỷ?
Bàng đề đốc hào hứng kể:
- “Quốc khố Bắc Kinh nằm ngay sau lưng cung Khôn Ninh, được xây dựng cực kỳ kiên cố, tường gạch dầy nửa sải tay và không hề có cửa sổ. Nóc kho báu có dạng tròn, đường kính độ năm trượng. Nghĩa là tường vây cũng được xây theo đường tròn.
Nóc quốc khố không lợp ngói mà là một vòm bán cầu bằng đồng lá dầy, mạ vàng, đặt trên đầu tường. Chóp nóc hơi nhọn để nước mưa không thể đọng.
Trên cạnh chung quanh nóc hình bán cầu ấy, người ta trổ những khung cửa nhỏ để thông sáng và thông gió. Các cửa này đều có cánh bằng pha lê bên trong và cánh bằng đồng bên ngoài, kèm thêm lưới sắt dầy.
Ngay sau khi mặt trời lặn, các ô cửa ấy đều được đóng chặt lại. Do đó, nóc quốc khố hoàn toàn trơn láng, không có chỗ nào cho móc sắt của bọn đạo chích bám vào cả.
Chính vì thế mà bá quan đều tán thành nhận định của tổng bộ đầu Bắc Kinh, rằng Tích Dịch Quỷ Tây Môn Giới là thủ phạm. Chỉ có công phu Bích Hổ Du Tường đặc dị mới có thể giúp tên trộm bò lên đến nóc quốc khố mà cạy cửa sổ, cắt song sắt rồi dùng dây trèo xuống.
Hơn nữa, một gã bộ đầu đã may mắn nhặt được con thằn lằn bằng đồng ở chân vách ngoài quốc khố, bụng khắc chữ Giới. Có lẽ Tây Môn Giới đã vô ý làm rơi”.
Tư Đồ Sảng gật gù, điềm tĩnh nói:
- Tam hoàng tử đã nhờ cậy, tiểu điệt chẳng dám khước từ, sáng mai sẽ thượng kinh.
Bàng đề đốc vô cùng hoan hỉ:
- Hiền điệt tế nhiệt tình như thế là rất phải đạo. Tam hoàng tử mà yêu mến ngươi thì lão phu cũng được thơm lây
Bàng lão hớn hở quay vào phòng riêng, mơ tường đến tiền Đồ Sảng lạn.
Ở đây chỉ có hai người biết Tây Môn Giới là nghĩa phụ của Tư Đồ Sảng. Nhưng vì thấy chàng không nói ra nên Liễu Mộ Hào và Mạc Chiêu Hương cũng ngậm miệng.
Tối đến, Chiêu Hương hạ giọng khẩn cầu:
- Mong tướng công cho thiếp cùng đi Bắc Kinh. Xa chàng thiếp sẽ thấp thỏm không yên!
Tư Đồ Sảng mỉm cười:
- Ta chỉ sợ nhà vua thấy nàng quá đẹp mà đoạt lấy làm thứ phi đấy thôi!
Chiêu Hương thẹn thùng nguýt dài rồi bàn:
- Thiếp sẽ mang mắt nạ, giả làm nam nhi.
Tư Đồ Sảng phì cười gật đầu:
- Cũng may đang là mùa đông nên nàng có thể suốt ngày mặc áo lông mà che kín thân hình rất đỗi đàn bà kia.
*
* *
Chiều ngày mười chín tháng chạp, bọn Tư Đồ Sảng đã có mặt ở Bắc Kinh, tìm đến phủ đệ của Tam hoàng tử.
Chu Tải Hậu đã được Gia Tĩnh hoàng đế phong làm Dụ Vương nên tư dinh của gã mang chiêu bài Vạn Vương Phủ.
Tòa phủ đệ này nằm trong hoàng thành song lại ngoài tử cấm thành. Khi nào được phong làm hoàng thái tử thì Chu Tải Hậu mới có quyền ở trong hoàng cung.
Nhờ có những giấy tờ đóng dấu ấn tín của thủy sư đề đốc Trực Cô, nên ba người qua được cửa Thừa Thiên Môn, vào trong hoàng thành. Họ đi thêm hơn dặm thì đến vương phủ, tọa lạc tại khu Đông Nam.
Tam hoàng tử vui vẻ tiếp đón ân nhân, xua tay miễn lễ khi họ định khấu kiến:
- Thôi khỏi! Bổn vương từng gọi Tư Đồ túc hạ đây là đại ca, giờ nhận đại lễ e không hợp. Mời tam vị an tọa.
Khách ngồi rồi, Chu Tải Hậu cười bảo:
- Mong Tư Đồ túc hạ chớ giận bổn vương đã không thật tình, giấu giếm lai lịch. Vả lại lúc ấy mà nói ra thì chỉ sợ túc hạ không tin.
Tư Đồ Sảng cười mát:
- Xin điện hạ chớ bận tâm! Thảo dân tính hay quên, chẳng để dạ việc cũ bao giờ.
Rồi chàng giới thiệu Liễu Mộ Hào và Mạc Chiêu Hương với gã.. Chu Tải Hậu cũng tò mò muốn chiêm ngưỡng dung nhan của Chiêu Hương nhưng không tiện mở lời bảo nàng lột mật nạ ra. Lúc này, Chiêu Hương đang mang dung mạo của Tư Mã Khôi. Còn Tư Đồ Sảng thì để lộ chân diện mục.
Tam hoàng tử hắng giọng đi vào đề:
- Tư Đồ túc hạ! Bổn vương hiện đang chấp chường Đại Lý Tự, phụ trách điều tra vụ mất trộm ở quốc khố. Sực nhớ đến lời thố lộ của túc hạ, về quan hệ với Tây Môn Giới, nên bổn vương cho gọi túc hạ đến đây. Nếu quả thực lệnh nghĩa phụ là hung thủ thì túc hạ hãy khuyên bảo lão ta âm thầm hoàn lại tài sản cho triều đình. Ta sẽ tìm cách ém nhem vụ này lại.
Tư Đồ Sảng khẳng khái đáp:
- Thảo dân có thể lấy tính mạng mình ra đảm bảo rằng gia nghĩa phụ không làm việc ấy. Ngân quỹ của triều đình dùng để nuôi quân sĩ giữ vững sơn hà, nên người tuyệt đối không đụng đến. Suốt đời, người chỉ trừng trị bọn cường hào, ác bá và bọn tham quan mà thôi. Thảo dân sẽ điều tra vụ này, nếu không tìm ra hung thủ sẽ bồi hoàn cho quốc khố số vàng ba chục vạn lượng.
Chu Tải Hậu cau mày:
- Vì sao túc hạ lại dám khẳng định Tây Môn Giới không phải là thủ phạm?
Tư Đồ Sảng nghiêm giọng:
- Bẩm điện hạ! Lý do thứ nhất là gia nghĩa phụ đang bận việc nếu không đã cùng thảo dân ngược Bắc Kinh tìm Chiêu Hương. Hai là, trong tiết lạnh giá thế này, lớp đồng lá của nóc quốc khố sẽ phủ một lớp bàng, rất trơn trượt, dẫu có công phu Bích Hổ Du Tường cũng chẳng thể nào trèo lên được.
Chu Tam gật đầu tán thành:
- Túc hạ bàn rất phải! Ta cũng từng đưa ra nhận xét như thế nhưng lão tổng bộ đầu Bắc Kinh Hoành Lập cứ dựa vào tang vật, là con thằn lằn bằng đồng, mà nghi cho Tích Dịch Quỷ.
Tư Đồ Sảng cười nhạt:
- Lẽ nào một kẻ đủ tài vào trộm quốc khố mà lại non nớt đến mức mang theo chiêu bài và làm rơi được? Hơn nữa, gia nghĩa phụ chưa bao giờ dùng vật ấy làm biểu tượng.
Huyết Báo ứng tiếng:
- Xin điện hạ cho thảo dân xem thử tang vật!
Chu Tải Hậu liền đứng lên, mở tủ lấy ra, đặt trên bàn. Con thằn lằn bằng đồng này được chế tác rất tinh xảo, sống động, trông như thật vậy.
Liễu Mộ Hào cầm lên ngắm nghía và nhận xét:
- Vật này được làm bằng cách đúc khuôn, sau đó mài dùa lại bằng tay. Người thợ ấy rất tài hoa, có tính tỷ mỹ, nắn nót từng chi tiết nhỏ. Từ đấy, có thể suy ra đây là tác phẩm của một thợ kim hoàn đã nhiều năm kinh nghiệm, nhưng tuổi chưa quá sáu mươi, mắt vẫn còn rất sáng.
Trong lúc y dừng lại để suy nghĩ thêm, Tư Đồ Sảng liền nói:
- Mong điện hạ cho mượn tang vật và cấp cho bọn thảo dân ba tấm lệnh bài thám tử Đại Lý Tự. Bọn thảo dân sẽ điều tra các lò đúc đồng, các tiệm kim hoàn, tất sẽ tìm ra kẻ đã đặt làm con vật này.
Chu Tải Hậu rất thông tuệ, hiểu ngay đây là lương sách. Gã vỗ đùi nói:
- Hay lắm! Nếu Tích Dịch Quỷ không phải là thủ phạm thì chắc chắn tang vật này phải được làm ở Bắc Kinh. Kẻ đặt làm chính là đầu mối để tìm ra tên đạo chích.
Và gã mau mắn đưa ra ba tấm thẻ bài bằng bạc, nhỏ hơn lòng bàn tay, có lỗ xỏ dây tơ xanh để đeo vào cổ. Một mặt có năm chữ đúc nổi: “Minh triều Đại Lý Tự” nằm giữa hoa văn rồng mây. Mặt kia là hàng chữ “Nhất đẳng thám tử”.
Chu Tải Hậu còn viết thêm ba tờ giấy chứng nhận thân phận sai nha đóng trên son đỏ chót. Tất nhiên, tấm của Chiêu Hương mang tên Tư Mã Khôi
Gã trao cho ba người và ân cần dặn dò:
- Đại Lý Tự là cơ quan hình pháp tối cao của Đại Minh. Với ngân bài này chư vị có thể tra xét bất cứ nơi nào, kể cả tư dinh các đại thần. Tuy nhiên, đối với bá quan, bổn vương mong chư vị hành sự theo phong cách lễ độ, đúng mực và kiên quyết. Nếu họ có thái độ bất hợp tác thì cứ bảo rằng chính bổn vương đã đích thân ra lệnh.
Bọn Tư Đồ Sảng cảm tạ rồi cáo khoái. Họ rời hoàng thành, ra khu ngoại thành, trọ trong Hà Bắc đại lữ điếm.
Gọi là ngoại thành có nghĩa là ngoài hoàng thành chứ không phải ngoại ô. Và chính nơi đây mới là khu vực sầm uất, phồn thịnh nhất Bắc Kinh. Trong hoàng thành chỉ có dinh thự của các đại thần và hoàng thân quốc thích. Còn ngoại thành thì đầy dẫy hiệu buôn, lâu quán, đường phố nhộn nhịp ngựa xe, người ngựa.
Dĩ nhiên, cơ sở Hắc Hiệp Hội ở Bắc Kinh có số đệ tử rất đông đảo, khoảng độ hai trăm.
Tây Môn Giới là một kỳ nhân nên đã nẩy sinh một ý tưởng kỳ dị là gầy dựng nên Hắc Hiệp Hội.
Ông không tiêu diệt cái ác mà nuôi dưỡng nó, lèo lái nó vào khuôn khổ. Số lượng hội viên Hắc Hiệp Hội mỗi địa phương hầu như không thay đổi hoặc tăng lên rất chậm.
Chính hoàn cảnh nghèo khó, thiếu thốn đã biến một lương dân thành trộm cắp. Do vậy, khi có ai đó vì hoàn cảnh mà sa sút lương tâm, Hắc Hiệp Hội lập tức giúp đỡ họ bằng cách tìm cho một công việc làm hay cấp cho một số vốn để mưu sinh.
Để phục vụ cho mục đích ấy, Tây Môn Giới đã dùng số tài sản trộm cắp mà thành lập những cơ sở kinh doanh như quán trọ, tửu điếm, xưởng thủ công, hiệu buôn si, tiền trang.. lợi tức thu được tiếp tục mở rộng không ngừng.
Cách làm ăn hay ho này, mấy trăm năm sau, được hậu thế gọi nôm na là “rửa tiền”.
Nhưng Tây Môn Giới có thủ đoạn phi thường gì để giữ vững lòng trung thành của bọn trộm cắp. Ông có hai cách, một là cho họ được nhận phần thỏa đáng với công lao. Hai là trừng trị thẳng tay những kẻ phản bội.
Lực lượng chấp pháp của Hắc Hiệp Hội chỉ có đúng bẩy người, gọi là Thất Tinh Hình Sứ. Trừ Tây Môn Giới ra không ai biết được lai lịch cũng như mặt thật của bẩy sát thủ này.
Khi Thất Tinh Hình Sứ ra tay thì quỷ không hay, thần không biết, nạn nhân sẽ chết bởi một mũi châm tuyệt độc tắt thở trong nửa khấc.
Con người luôn sợ hãi những cái vô hình, những điều thần bí, nhờ vậy mà quy củ Hắc Hiệp Hội được giừ vững, bí mật tồn tại suốt mấy chục năm ròng.
Khi một tên trộm bị bắt, dẫu có bị tra tấn bằng cực hình gã cũng không bao giờ mở miệng nhắc đến Hắc Hiệp hội. Và thế là ít lâu sau gã được thả ra bởi quan sở tại đã nhận một số vàng hối lộ. Nếu chẳng may gặp phải một vị quan thanh liêm thì gã cứ yên tâm, chịu án tù vì vợ con ở nhà đã có người lo chu đáo.
Trong nội quy của Hắc Hiệp Hội có hai điều quan trọng là không được lấy của dân nghèo hoặc người giầu có mà nhân hậu, không được chạm đến kho lẫm của triều đình, kể cả các sở đúc tiền.
Do đó, khi nghe Tư Đồ Sảng hỏi, phân hội chủ Bắc Kinh tái mặt biện bạch:
- Bẩm tuần sứ! Lão phu xin lấy cái mạng già này ra bảo đảm rằng không đệ tử nào của bổn hội có liên quan đến vụ trộm quốc khố.
Ông ta tuổi đã bẩy mươi, tên gọi là Hà Minh Quang, trước kia thành danh Đại Nhĩ Thử ở vùng Hồ Bắc, vì có đôi vành tai vểnh rất lớn.
Tư Đồ Sảng nghiêm giọng:
- Bổn sứ tin lời túc hạ. Nhưng đây là việc hệ trọng liên quan đến tồn vong của bổn hội nên túc hạ hãy huy động huynh đệ đến tất cả những xưởng đúc đồng trong thành Bắc Kinh. Chư vị hãy đặt họ đức một con thằn lằn bằng đồng, kích thước như thật, yêu cầu lấy trong ngày, giá cả không thành vấn đề. Khi nào xong hãy mang đến Hà Bắc đại lữ điếm cho bổn sứ, kèm theo địa chỉ của xưởng ấy.
Đại Nhỉ Thử cung kính nhận lệnh, hứa sẽ thi hành ngay.
Quả nhiên, Liễu Mộ Hào đã đoán đúng. Khi muốn đúc một vật gì đó, người ta phải tạo mẫu bằng gỗ mềm, sau đó, in mẫu ấy sâu xuống cát để làm khuôn, rồi róc đồng nóng chảy vào. Và cái xưởng đồng kia vẫn còn giừ lại mẫu bằng gỗ, giờ sẽ lấy ra sử dụng lại nếu có người đặt hàng.
Xế chiều, Hà lão mang đến cho Tư Đồ Sảng cái chàng cần, cùng địa chỉ của xưởng đúc Kế Thiện của lão Quách Tam ở phía Tây đài Thần Mông.
Bọn Tư Đồ Sảng mừng rỡ đi ngay đến nơi ấy. Họ đều rinh đao cho giống công sai.
Thấy ngân bài Đại Lý Tự và ba gương mặt lạnh lẽo, lão chủ lò đúc sợ khiếp vía, mau miệng khai rằng hồi đầu tháng có một hán tử trung niên đến đặt đúc hẹn lấy vào ngày mùng tám. Gã này xưng lâ họ Tiền, để lò đúc ghi vào giấy hẹn.
Tư Đồ Sảng cau mày và hỏi thêm:
- Lão trượng là bậc cao niên giầu kinh nghiệm, liệu có thể từ phong thái, cung cách của họ Tiền mà đoán ra y làm nghề gì không?
Quách Tam đắc ý bảo:
- Quan gia hỏi đúng chỗ rồi đấy! Lão phu chỉ thoáng nhìn cũng biết gã ta là thị vệ hay bộ đầu gì đấy! Hạng người này thường có ánh mắt xoi mói, lạnh lẽo, giọng nói nhát rừng, hách dịch và thiếu lễ độ.
Tư Đồ Sảng hài lòng dặn lão:
- Tốt lắm! Cảm tạ lão trượng đã giúp đỡ cho Đại Lý Tự. Nhưng việc bọn ta đến đây điều tra thì mong lão trượng giữ kín cho.
Quách Tam dạ rối rít, hứa sẽ bảo mật.
Khi ra ngoài rồi, Chiêu Hương hào hứng bảo:
- Cơ trí của tướng công ngày càng sâu sắc. Nhưng sao chàng lại đoán ra họ Tiền là sai nha?
Tư Đồ Sảng tư lự đáp:
- Người ngoài quyết không thể vào được quốc khố cho nên hung thủ nhất định phải là người trong cung. Ngoài người quản lý quốc khố là lão Thái Phủ Thiếu Khanh Tang Sơn Phú, ta còn nghi ngờ cả Hoàng Lập, tổng bộ đầu của bộ hình. Chính lão ta khăng đổ diệt trách nhiệm cho Tích Dịch Quỷ. Từ những nghi vấn ấy, ta mới phỏng đoán họ Tiền là bộ đầu, thủ hạ của Hoàng Lập.
Liễu Mộ Hào lên tiếng:
- Sảng đệ bàn rất phải! Và theo ý ta thì có lẽ số tài vật kia vẫn chưa ra khỏi hoàng thành. Sau khi phát hiện vụ trộm, các cửa thành đểu được canh gác nghiêng mật, tra xét không chừa một ai. Hung thủ chỉ có thể mang ra từng ít một, hoặc giấu kín ở nơi nào đó trong hoàng thành, chờ sự việc nguôi ngoài đi mới tẩu tán.
Ngay sáng hôm sau, Tư Đồ Sảng một mình đến vương phủ kể lại việc tìm ra nơi sản xuất tang vật. Chu Tải Hậu trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Giờ thì ta đã có thể khẳng định kẻ mang tài sản quốc gia ra khỏi kho chính là lão Thái Phủ Thiếu Khanh Tang Sơn Phú. Và lão ta đã cấu kết với anh vợ là quan Hiệu úy tổng bộ đầu hình bộ Hoàng Lập. Bổn vương chỉ không hiểu vì sao họ dám làm chuyện tày trời này?
Tư Đồ Sảng điếm tĩnh đáp:
- “Vạn cổ tử vi nan”. Nếu họ bị ai đó uy hiếp tính mệnh thì không thể không làm. Thảo dân đoán kẻ đứng sau vụ này là một nhân vật võ lâm, có oán thù với gia nghĩa phụ. Xin điện hạ cho khám xét tư dinh của Tang Sơn Phú và Hoàng Lập tất sẽ tìm ra tài vật. Các cửa thành đểu bị phong tỏa, họ chưa thể mang ra ngoài được.
Tam hoàng tử gật đầu:
- Túc hạ có lý! Trước đây ta bị hiện trường giả đánh lừa nên cho rằng hung thủ là người ngoài, không tiến hành lục soát nhà của hai lão ấy. Ta thật hồ đồ!
Tư Đồ Sảng bàn thêm:
- Xin điện hạ cho vây cả hai nơi một lúc để đề phòng sơ xuất. Nhưng theo thiển ý của thảo dân thì Tang Sơn Phú không dám gửi số của cải ấy mà đã chuyển cho Hoàng Lập.
Chu Tải Hậu khen phải, ra lệnh cho tả hữu đi điều động hai ngàn quân cấm vệ.
Tam hoàng tử và Tư Đồ Sảng dẫn cánh quân thứ nhất đến vây tư dinh của quan Hiệu úy Hoàng Lập. Lão một mực kêu oan, cho phép lục soát thoải mái.
Đã hợp đồng từ trước nên Huyết Báo và Mạc Chiêu Hương cũng có mặt nơi này. Họ cùng ngồi với Tư Đồ Sảng và Tam hoàng tử trong phòng khách lớn nhà họ Hoàng, chờ kết quả.
Chỉ còn vài ngày nữa là đến năm mới nên khách sảnh được trang hoàng lộng lẫy, tường quét vôi lại như mới, những vật bằng đồng được chùi sáng loáng. Và trên bức tường cuối sảnh có treo cặp liễu mừng xuân rất lớn:
“Thiên tăng tuế nguyệt nhân tăng thọ
Xuân mãn càn khôn phúc mãn đường”.
Hai câu đối ấy cũng được viết bằng lối thư pháp cuồng thảo, khiến Chiêu Hương nhớ lại giai thoại về gã dốt Triển Phi Hoan, kẻ đã từng bó tay trước kiểu chữ phóng túng này.
Nàng tủm tỉm cười, thì thầm với Tư Đồ Sảng:
- Tướng công! Nếu có Triển đại ca ở đây, không hiểu y sẽ đọc đôi liễu kia như thế nào nhỉ!
Tư Đồ Sảng bật cười, đưa mắt ngắm nhìn những nét chữ uyển chuyển, nối nhau bay bổng. Đúng lúc ấy, gã chỉ huy đội cấm quân vào báo rằng đã xem xét rất kỹ mà không hề tìm thấy tài sản quốc khố.
Tư Đồ Sảng có thính lực rất tốt, thoáng nghe được tiếng thở phào của lão họ Hoàng. Nghĩa là nãy giờ lão thấp thỏm sợ hãi, lo việc bị bại lộ, vì quả thực tang vật được giấu ở đây.
Chàng âm thầm quan sát Hoàng Lập và chợt phát hiện có lần lão liếc nhanh về phía đôi liễn. Một ý niệm bừng sáng trong đầu Tư Đồ Sảng nên khi Chu Tải Hậu vừa ra lệnh rút quân thì chàng nói:
- Khoan đã!
Rồi chàng rảo bước đến, tung mình lên gỡ vế đối bên tả, mang xuống đất. Chỉ cần nhìn nét mặt tái xanh của họ Hoàng là Tư Đồ Sảng hiểu ngay mình đã phán đoán không sai.
Bốn bức cổ họa bị mất cắp đều bằng lụa, không thể chôn xuống đất vì dù cho có bọc vải sơn thì nét mực vẽ cũng bị hơi ẩm làm nhòe đi. Giờ đang là tiết đông, tuyết phủ đầy mặt đất, chẳng nơi nào khô ráo nổi.
Tư Đồ Sảng mau chóng tìm thấy hai bức họa được khâu úp phía sau mảnh liễn. Lão tổng bộ đầu chưa kịp có phản ứng gì thì đã bị Huyết Báo kê đao vẹo cổ
Chu Tải Hậu giận dữ nạt:
- Lão cẩu tặc kia! Giờ thì ngươi đã chịu nhận tội chưa?
*
* *
Thượng tuần tháng hai năm Gia Tĩnh thứ ba mươi bốn, bọn Tư Đồ Sảng về đến Thúy Phong Cốc ở phủ Lạc Dương nhưng không có Mạc Chiêu Hương theo cùng.
Cậu nàng, thủy sư đề đốc Bàng Đạo Trí, đón xuân quá nhiệt tình nên đầu năm mới đã liệt giường vì bệnh xuất huyết dạ dày. Do vậy, Mạc Chiêu Hương phải ở lại chăm sóc cửu phụ, chờ lão bình phục mới đi Lạc Dương được.
Tư Đồ Sảng đi trước, dẫn dường cho Huyết.Báo vượt qua trận kỳ môn trước cửa cốc. Trận pháp này Táo Già Cát và Lăng Phi Hồng đã dựng nên trước khi chàng đi Bắc Kinh.
Tuy tin tưởng rằng không ai biết mối quan hệ của mình với Thúy Phong Cốc chủ Tư Không Chất nhưng Bùi lão vẫn thận trọng lập trận để bảo vệ nơi ẩn náu.
Khung cảnh điêu tàn bên trong sơn cốc đã khiến hai người phải kinh hoàng. Tất cả nhà cửa đều đã bị chôn vùi dưới những tảng đá khổng lồ và đất cát
Tư Đồ Sảng run rẩy ngước lên nhìn thì phát hiện sườn núi phía Bắc bị sạt lở một mảng rất lớn. Trước đây, nơi ấy cây cối mọc xanh rì, giờ trơ đất đá loang lổ và nham nhở.
Tư Đồ Sảng gào lên như điên loạn, phi thân trên những tảng đá, kêu tên người thân. Và chàng bươi móc lớp đất đá dầy đến mấy trượng một cách tuyệt vọng.
Liễu Mộ Hào trầm tĩnh hơn, trấn an chàng:
- Sảng đệ phải cố bình tâm lại vì chưa chắc những người trong cốc đã thiệt mạng. Khi núi lở thường phát ra những âm thanh rất lớn, họ đều có khinh công cao cường, lẽ nào không thoát ra kịp?
Tư Đồ Sâng nghẹn ngào nói:
- Núi chỉ lở bởi những cơn mưa dữ dội của mùa ha, mùa thu, còn vào mùa đông thì tuyệt đối chẳng xảy ra. Tiểu đệ đoán rằng có kẻ gài hỏa dược, đánh sập sườn núi để hại những người trong cốc.
Huyết Báo nghe cũng có lý song vẫn cãi để làm cho Tư Đồ Sảng phân tâm, không quá bi lụy nữa:
- Ta e rằng chẳng phải thế! Bọn tà ma không thể biết Táo Gia Cát và hai ả họ Lăng ẩn náu nơi này. Vả lại, Hạo Thiên Cung cần bắt sống họ để thu hồi tài sản chứ giết đi thì có lợi gì?
Tư Đồ Sảng xuôi tai, lau nước mắt bảo:
- Liễu sư huynh nói cũng phải! Chúng ta cứ vào thành Lạc Dương tìm gia nghĩa phụ sẽ rõ. Ông rất ít khi có mặt ở sơn cốc nên nhiều khả năng thoát khỏi tai họa.
Lúc này, hai người đang đứng ở giữa sơn cốc. Chợt Tư Đồ Sảng nghe từ hướng vách núi phía bắc phát ra tiếng rít thê lương rất quen tai của con chồn hương mà chàng đã mua và thả ở cánh rừng bên kia sông Chương Hà.
Tư Đồ Sảng phản ứng rất nhanh, lướt thẳng về hướng ấy một cách vô ý thức. Huyết Báo không hiểu tại sao nhưng cũng vội bám theo. Đến nơi, Tư Đồ Sảng phát hiện một hốc đá không lớn lắm và chỉ sâu độ hơn trượng, đứng ngoài có thể nhìn rõ bên trong. Chàng chưa kịp ngạc nhiên vì chẳng có con chồn nào thì hai tiếng nổ long trời đã vang lên và đất đá lưng chừng hai sườn núi Đông Tây đã ập xuống, phát ra những tiếng động kinh hồn, tựa thiên binh vạn mã đang trẩy quân qua đây.
Huyết Báo cũng đã đến sau lưng Tư Đồ Sảng, lập tức xô chàng vào hốc đá ấy và lao theo.
Hằng ngàn, hàng vạn tảng đá lớn nhỏ rơi xuống như thác lũ, tảng sau va vào tảng trước, bắn văng khắp diện tích sơn cốc. Nghĩa là, nếu còn đứng ở chỗ cũ thì hai người hoàn toàn không có cơ may sống sót.
Nhưng miệng hang khá hẹp nên chỉ có những mảnh đá vụn lọt qua được, và chúng không đủ sức đả thương bọn Tư Đồ Sảng. Thực ra chỉ có mình Huyết Báo đưa lưng ra chịu trận. Gã đã dùng thân xác mình che chở cho Tư Đồ Sảng.
Hơn nửa khắc sau vụ lở núi mới chấm đứt, cát bụi lắng dần xuống. Lúc này cửa hang đã bị lấp gần hết bởi một tảng đá lớn.
Hai nạn nhân vừa định chui qua khe hở phía trên để ra ngoài thì nghe vang vọng một giọng cười ngạo nghễ.
Huyết Báo sợ Tư Đồ Sảng loạn động liền nắm chặt tay giữ lại và nói:
- Sảng đệ có ra cũng vô ích! Đối phương ở trên sườn núi cơ mà! Cứ để chúng tin rằng bọn ta đã chết, không săn đuổi nữa.
Tư Đồ Sảng gật đầu, người run lẩy bẩy, lệ chảy dài trên gương mặt lem luốc. Chàng nghẹn ngào bảo:
- Thế là đã rõ! Họ đã chết cả rối!
Ý chàng nhắc đến sáu người thân trong sơn cốc này. Và có thể là bẫy nếu Tây Môn Giới cũng hiện diện đúng lúc ẩy.
Bỗng Huyết Báo vỗ trán nói:
- Lạ thực! Giọng cười này ta nghe rất quen song không nhớ nổi là của ai.
Tư Đồ Sảng bừng tỉnh, cau mày nhăn trán, cố hồi ức lại song chỉ hoài công. Chàng bực bội nói:
- Tiểu đệ cũng có cảm giác như sư huynh nhưng giờ đang rối trí không tài nào nghĩ ra được. Chúng ta đi thôi!
Khi chui hẳn ra ngoài, hai người bất giác rùng mình trước cảnh tượng sơn cốc. Họ thức ngộ rằng mình đã thoát chết trong gang tấc.
Huyết Báo sực nhớ ra, hỏi Tư Đồ Sảng:
- Này Sảng đệ! Tại sao ngươi biết hỏa dược sắp nổ mà chạy đến lốc đá ấy.
Tư Đồ Sảng bâng khuâng kể lại việc nghe được tiếng chồn kêu. Liễu Mộ Hào nhăn mặt:
- Ta đứng kế bên ngươi sao chẳng nghe thấy gì hết?
Huyết Báo vốn không tin chuyện quỷ thần, hồ ly, đã từng cười cợt câu chuyện thả chồn của Tư Đồ Sảng. Vì vậy, hôm nay chàng không muốn nhiều lời tranh cãi. Vả lại, trong lúc hoang mang, đau khổ, chàng cũng không dám tin chắc vào thính giác của mình.
Hai người rời Thúy Phong Cốc, may thay gặp ngựa thả ở bìa trận đã khôn ngoan chạy ngược ra ngoài, đang luẩn quẩn trong trận pháp.
Trời đã chiều, họ ghé vào giòng suối gần đấy mà tắm gội, cả hai đểu bẩn như ma lem. Nước suối rất lạnh vì do tuyết trên đỉnh núi tan ra và chảy xuống. Cái lạnh đã giúp hai người tỉnh táo lại. Mặc y phục sạch vào xong, Huyết Báo trầm ngâm bảo:
- Sảng đệ! Ta cho rằng việc Thúy Phong Cốc bị bại lộ là do bọn đệ tử Hắc Hiệp Hội. Bọn chúng thường đến đây liên hệ với Tây Môn lão gia.
Tư Đồ Sảng lắc đầu:
- Bẩy gã ấy chính là Thất Tinh Hình Sứ, được huấn luyện rất tốt và tuyệt đối trung thành.
Huyết Báo hỏi lại:
- Vậy tại sao không ai chờ chúng ta ở đây để báo cáo những gì đã xảy ra! Điều này có nghĩa là lực lượng Hắc Hiệp Hội ở Lạc Dương đã bị tiêu diệt, hoặc ty nạn đi nơi khác rồi. Và có thể là do Tây Môn lão gia đã thọ hại nên Hắc Hiệp Hội không còn ai lãnh đạo nữa.
Gã bực bội trách móc:
- Tây Môn lão gia quả là kẻ độc tài, không lập chức phó hội chủ để đề phòng bất trắc.
Tư Đồ Sảng vội biện minh cho nghĩa phụ:
- Liễu huynh lầm rồi! Thực ra Hắc Hiệp Hội có một phó soái. Người này nắm toàn bộ tài chính và việc kinh doanh của hội ở Hà Nam. Lão ta chính là Hí Nhân Cư Sĩ Cổ Quý Sinh.
Huyết Báo nghe xong trợn mắt thét lên:
- Đúng rồi! Giọng cười lúc nãy chính là của lão ta. Trong đại hội võ lâm ta đã nghe lão cười chế giễu Triển Phi Hoan. Tư Đồ Sảng cũng đã tỉnh ngộ run giọng xác nhận:
- Không thể sai được! Té ra là lão cẩu tặc ấy đã hãm hại gia nghĩa phụ để đoạt lấy cơ nghiệp Hắc Hiệp Hội. Lão giết luôn những người thân cận với Tây Môn nghĩa phụ để không còn ai điều tra hoặc báo thù!
*
* *
Do đã xác định được hung thủ nên bọn Tư Đồ Sảng cải trang rồi mới vào thành Lạc Dương. Sử dụng hai trong ba chiếc mặt nạ mà Tây Môn Giới đã tặng Tư Đồ Sảng. Những diện mạo giả này Tích Dịch Quỷ chưa dừng qua bao giờ nên không sợ lộ. Mộ Hào trở thành một hán tử trung niên mặt rỗ. Còn Tư Đồ Sảng mang dung mạo của Tư Mã Khôi song bỏ bớt bộ râu mép đi.
Hai con ngựa của họ có mầu lông hung đỏ rất bình thường và không có đặc điểm gì cần phải che giấu.
Sau khi mướn phòng trọ và ăn uống xong, bọn Tư Đồ Sảng dạo một vòng qua các cơ sớ bí mật của Tây Môn Giới. Tất cả đều im lìm, không một ánh đèn, mặc dù lúc trước chỗ nào cũng có người túc trực.
Không hỏi thăm được, hai người đành chờ Tây Môn Giới đến tìm. Ông ta phải nhận ra những chiếc mặt nạ của mình.
Sau ba ngày lê la khắp các trà lâu, tửu quán trong thành, hai người thất vọng, cho rằng Tây Môn Giới chắc cũng chết trong Thúy Phong Cốc.
Tư Đồ Sảng quyết định xuôi Nam, đến Tín Dương tìm lão Hý Nhân Cư Sĩ mà hỏi tội.
Cảnh vật mùa xuân dọc đường thiên lý bội phần xinh đẹp nhưng Tư Đồ Sảng chẳng còn tâm trí đâu mà thưởng thức. Tim chàng luôn thổn thức tiếc thương những người thân, nhất là hai ái thê. Họ còn quá trẻ, xuất giá mà không kiệu hoa, không pháo cưới, vui bên chồng chưa bao lâu thì đã phải âm dương cách biệt.
Chiếu mười ba tháng hai, bọn Tư Đồ Sảng còn cách bờ Bắc sông Hoài hơn chục dặm. Giờ này đò ngang đã sắp ngưng hoạt động nên lữ khách và thương lái đều tìm chỗ qua đêm, chờ sáng mới sang sông. Chính vì vậy mà đường quan đạo cực kỳ vắng vẻ, chỉ có mình Tư Đồ Sảng và Huyết Báo dong ruổi. Họ không sợ ai cướp bóc nên cứ đi và sẽ nghỉ chân ở quán trọ gần bờ sông.
Lúc sắp phóng ngựa ngang qua ngôi Thập Lý Đình mé hữu quan đạo, Tư Đồ Sảng tinh mắt phát hiện một người mặc tăng bào vàng đang nằm sóng xoài trên bãi cỏ dưới thềm đình.
Chàng đưa tay ra hiệu với Huyết Báo rồi rẽ vào xem thử. Nạn nhân là một lão hòa thượng gầy gò, mắt nhỏ mũi thấp, trông không giống người Hán lắm.
Vị sư già ấy có nước rám nắng của một người quen phiêu bạt phong trần. Tấm áo cà sa mầu vàng đỏ giờ đây đã bạc, sờn rách nhiều chỗ.
Tư Đồ Sảng vội bồng lão hòa thượng tội nghiệp ấy vào trong đình rồi thăm mạch. Tuy thời gian bên nhau không nhiều song Lăng Phi Tuyết đã bắt chàng phải học một vài nét căn bản của y thuật. Và khi chàng đi xa đã nhét vào tay nải của chàng hàng tá chai lọ chứa linh lan, có thể chữa trị từ bệnh sổ mũi đến trọng thương.
Nhờ thế mà giờ đây Tư Đồ Sảng có thể xác định nạn nhân đang bị cảm sốt rất nặng do dầu dãi nắng mưa quá nhiều. Chàng liền hạ sốt cho người bệnh bằng khăn vải và nước mát trong túi da, đồng thời cho ông ta uống thuốc.Trong lúc Tư Đồ Sảng bận rộn chăm sóc lão hòa thượng thì Huyết Báo mở túi hành lý nhỏ bé đang nằm lăn lóc dưới đất ra xem. Tính gã rất cẩn thận, khi giúp ai hoặc giết ai thì đều thẩm tra kỹ lưỡng.
Trong túi vải vàng ố ấy chỉ có một bộ tăng bào thứ hai, và một tờ thông quan điệp do quan Đô Ty ở xứ Tây Tạng cấp.
Trong tờ điệp này nói rõ lão hòa thượng là trưởng lão của chùa Bố Đà La Tự, pháp danh Trát Thập thiền sư.
Trát Thập vào Trung Nguyên với nhiệm vụ là tìm kiếm và thu hồi lại bảo vật của Bố Đà La Tự, là cây rìu hai lưỡi bằng huyền thiết, tên gọi Giáng Ma Phủ.
Ngài Đô Ty Tây Tạng mong mỏi quan lại các địa phương giúp đỡ cho Trát Thập thiến sư.
Đọc xong, Huyết Báo chửi thêm:
- Đúng là họa vô đơn chí! Sảng đệ đang buồn vì cảnh nhà tan cửa nát lại còn gặp phải kẻ đi đòi nợ. Thực là xui tận mạng.
Lúc này, Trát Thập vẫn còn mê man song thần nhiệt đã hạ, kinh mạch điều hòa, không đáng lo nữa. Tư Đồ Sảng cho bệnh nhân gối đầu lên tay nải của chàng rồi quay sang hỏi Huyết Báo:
- Liễu huynh! Vị sư già này từ đâu đến vậy?
Liễu Mộ Hào thở dài, trao tấm thông quan điệp cho Tư Đồ Sảng xem, chờ chàng đọc xong, Huyết Báo mới nói:
- Nếu hiền điệp không muốn mất Giáng Ma Phủ thì cứ để mặc lão ta nằm đây rồi cùng ta lên đường.
Tư Đồ Sảng cười thảm:
- Tiểu đệ chẳng thể nhẫn tâm bỏ kẻ bị nạn mà đi được. Hơn nữa, cứ xem ngày ấn ký thông quan điệp này thì đủ biết Trát Thập thiền sư đã lặn lội suốt mấy năm qua, khổ nhọc đến mức kiệt sức và lâm bệnh. Có lẽ trời xanh muốn tiểu đệ hoàn lại Giáng Ma Phủ cho chủ cũ nên đã run rủi cho hai bên gặp nhau chốn này. Thôi thì tiểu đệ đành thuận duyên mà trao trả, chẳng dám cưỡng cầu. Kẻ có lỗi chính là cao tằng tổ họ Võ.
Huyết Báo cười nhạt:
- Ý ta thì khác! Nay ngươi đang cần vũ khí tốt để chiến đấu với kẻ thù, cứ tạm mượn vài năm, xong việc mang đi trả cũng được.
Tư Đồ Sảng nhìn gương mặt già nua, nhăn nheo của Trát Thập, lòng vô cùng bất nhẫn. Chàng nói với vẻ kiên quyết:
- Không được! Tiểu đệ quyết không để vị hoà thượng này phải bôn ba thêm nữa! Ông ta đã quá già yếu rồi! Còn vấn đề vũ khí thì tiểu đệ sẽ theo kích thước Giáng Ma Phủ mà đặt rèn một thanh khác.
Liễu Mộ Hào càu nhàu:
- Dẫu ngươi có treo giá ngàn vàng cũng không tím đâu ra loại thép quý như thế!
Tư Đồ Sảng liền trấn an gã:
- Liễu huynh quên rằng tiểu đệ còn có nghề đánh kiếm nữa sao?
Bỗng người bệnh phát ra tiếng rên và mở mắt. Ông gượng ngồi lên mỉm cười:
- Thiện tai! Thiện tai! Tiểu thí chủ quả là bậc đại nhân, đại dũng hiếm có trên đời. Lão nạp xin đại diện ba ngàn đệ tử Bố Đà La Tự cảm tạ công đức vô lượng của thí chủ.
Thì ra thiền sư đã hồi tỉnh, nghe được câu nói của Tư Đồ Sảng. Chàng ngượng ngùng kéo áo, quỳ xuống đảnh lễ và tháo bao da hươu đặt trước mặt ông ta. Chàng nghiêm nghị nói:
- Bẩm thiền sư! Đệ tử cũng xin thay mặt hương hồn cao tằng tổ Võ Hồng mà tạ lồi với quý tự.
Trát Thập hiền hòa bảo:
- Phải chăng thí chủ là Thần Phủ Lang Quân Tư Đồ Sảng! Lão nạp nghe đồn đại, đoán thí chủ là người đang giữ Giáng Ma Phủ nên lặn lội đi tìm mãi. À! Mong thí chủ cho lão nạp được diện kiến dung nhan.
Tư Đồ Sảng vô cùng khâm phục, không ngờ ông ta đang bệnh hoạn mà còn phát giác ra việc chàng mang mặt nạ. Chàng vội lột lớp da hóa trang, cố chịu đựng ánh mắt chăm chú của đối phương.
Lát sau, Trát Thập thiền sư gật gù nói:
- Ân đức hai họ Tư Đồ và họ Võ đều mỏng nên thí chủ sẽ gặp nhiều tai kiếp. Nhưng nếu thí chủ giữ vững huệ căn, tâm luôn hướng tới những điều thiện thì sẽ được hưởng quả phúc kiếp này và kiếp sau.
Tư Đồ Sảng buồn rầu đáp:
- Đệ tử mang nặng thù nhà, sát nghiệp nặng nề, e khó mà tích thiện được!
Trát Thập thiền sư lắc đầu:
- Thiện ác vốn do tâm mà có nên giết người không hẳn là ác và cứu người chưa chắc là thiện. Thí chủ chưa vượt ngoài tục lụy nên lắm nhân duyên, nghiệp quả, nhưng chỉ cần giữ được chút lòng từ bi hỉ xả là tốt lắm rồi.
Liều Mộ Hào nghe thuyết pháp mà đầu ốc rối tung, bực bội cướp lời thiền sư:
- Lão nói nhăng nói cuộị gì thế? Chẳng lẽ phải tha mạng kẻ đã giết phụ mẫu của mình?
Trát Thập thản nhiên đáp:
- Kẻ đã gieo nhân thì phải gặt quả có bị giết cũng đáng. Nhưng khi thí chủ hạ thủ thì cũng là lúc gieo nhân xấu cho chính mình. Sao thí chủ không tự hỏi đã giết bao nhiêu người và anh em, con cái những nạn nhân ấy sẽ đòi nợ ai? Cho nên, bậc Bồ Tát giáng ma chỉ diệt cái ác chứ không sát sinh. Thí chủ chỉ cần phế võ công và hủy đi cánh tay cầm đao kiếm là quá đủ rồi! Hình phạt ấy đối với người học võ có lẽ còn khổ hơn cái chết.
Huyết Báo cứng họng, không sao tìm ra lý lẽ để cãi lại. Quả đúng là gã đã giết khá nhiều người, kẻ thù ở khắp nơi.
Tư Đồ Sảng càng bội phần thấm thía khi nhớ đến việc mình có thể đã giết chết Lăng Khải Trạch, gây mối thù với Lăng Song Tường. Thực ra, gã chẳng phải là kẻ thù của chàng.
Tư Đồ Sảng toát mồ hôi, khấu đầu nói:
- Đệ tử đa tạ thiền sư đã soi sáng cái tâm u mê này! Đệ tử xin phát nguyện từ nay kiềm chế lòng hiếu sát.
Mẹ chàng, Võ Xuân Hoa là người mộ đạo Phật nên chàng cũng có thiên hướng ấy. Nay được Trát Thập thiền sư tận tâm chỉ điểm, chàng lĩnh hội được nhưng không nhiều vì lòng đang chất chứa hận thù.
Trát Thập hài lòng, tủm tỉm bảo:
- Thực ra, với pho Huyền Nguyên Kiếm Phát và khô Mộc phần Công, thí chủ thừa sức thể hiện lòng từ bi.
Tư Đồ Sảng kinh hãi:
- Sao thiền sư lại biết rõ võ công của đệ tử như thế?
Trát Thập mỉm cười hóm hĩnh:
- Giờ đã đến lúc chia tay. Lão nạp xin tặng thí chủ một vật. Vật ấy lão nạp treo trên ngọn cây du cạnh đình. Xin cáo biệt!
Tư Đồ Sảng băn khoăn nói:
- Thiền sư đang bệnh, đâu thể đăng trình một mình được! Xin người theo bọn đệ tử đến khách điếm nghỉ ngơi vài hôm, chờ bình phục rồi hãy đi.
Trát Thập lắc đầu, nhìn chàng bằng ánh mắt yêu thương, tay thì nhặt lấy túi vải và Giáng Ma Phủ. Và bất ngờ, thân hình ông bay vèo ra khỏi đình, lướt nhanh về hướng Bắc, lát sau, vọng lại lời kệ:
“Từ tâm danh đốc nhâm sinh phúc
Kiến tánh minh tâm oán bất tồn”.
Liễu Mộ Hào chán nản nói:
- Té ra là lão ấy giả bệnh để thử lòng Sảng đệ.
Tư Đồ Sảng bâng khuâng không đáp ra ngoài nhẩy lên cây du già nua. Chàng mau chóng tìm thấy một thanh trường kiếm, hình dáng giống loại kiếm thông thường, song trọng lượng thì gấp đôi.
Xuống đến đất, Tư Đồ Sảng rút ra xem thử, thấy nước thép mờ mờ, chẳng có gì là tốt cả. Nhưng chàng rất vừa ý vì sức nặng của nó.
Liễu Mộ Hào bảo chàng:
- Sảng đệ đưa ta xem thử! Chắc nó chỉ đáng giá chừng năm lượng bạc.
Nhưng khi cầm kiếm nghe tay nặng trĩu, gã lại khen:
- Kích thước bình thường mà trọng lượng lại gấp đôi! Chứng tỏ chất thép chẳng tầm thường!
Gã thuận tay đâm vào thân cây du, mũi kiếm cắm sâu rất ngọt. Gã ngứa tay chém thử vào tảng đá dưới gốc du, đá vỡ mà lưỡi gươm không hề mẻ.
Liễu Mộ Hào gật gù bảo:
- Có lẽ nó cùng chất thép với Giáng Ma Phủ, Sảng đệ có thể yên tâm sử dụng rồi đấy.
Tư Đồ Sảng nhận lại bảo kiếm, quết dọc thân kiếm, với niềm say mê của một kiếm thủ. Và ánh mắt tinh tường của chàng phát hiện ba chữ nhỏ như kiến ở mũi gươm “Từ Tâm Kiếm”.
*
* *
Hai người qua sông rất sớm nên xế trưa đã có mặt trong thành Tín Dương. Sau khi gột rửa bụi đường, họ rời khách điếm đi đến Hoài âm đệ nhất tửu điếm. Cái tên này hàm ý tự xưng mình là quán rượu số một của cả một dải phía nam sông Hoài chứ chẳng phải chỉ riêng đất Tín Dương. Vị trí phía Nam giòng sông thuộc về âm.
Quả cũng xứng đáng đệ nhất vì tửu điếm cũng rất lớn và đẹp mắt, gồm hàng trăm cây cột tròn đen bóng, đỡ lấy những lớp ngói lưu ly xanh. Các nếp mái xếp chồng và gối mép lên nhau để có khoảng không cho gió và ánh sáng luồn vào đến tận giữa quán. Bởi thế mà từ xa, nhìn lại những mái nhà xanh xanh có góc uốn cong kia trông giống đám mây là đà giữa những ngọn cây cao vút.
Chung quanh tửu điếm là thảm cỏ xanh rờn, lác đác những bồn hoa và hòn non bộ kích thước nhỏ. Ngay cả trong những ngày hè nắng gắt thì nơi đây cũng vẫn mát mẻ nhờ tàn lá rậm rạp của những cây bách già nua.
Bách là loài cây thân thẳng, dáng vẻ đẹp cao đến mười trượng. Bách có khả năng thích nghi cao, trống ở đầu cũng được và sống rất lâu.
Tư Đồ Sảng cùng Huyết Báo được gã tiểu nhị đưa vào một bàn gần trung tâm. Từ vị trí này, hai người có thể nhìn bao quát và nghe ngóng được nhiều điều.
Ngày mai, vị tài thần, đai thiện nhân đất Tín Dương là Hí Nhân Cư Sĩ Cổ Quý Sinh, tổ chức tiệc mừng thượng thọ bẩy mươi mốt nên hào kiệt võ lâm ngồi đầy trong Hoài Nam tửu điếm.
Với tính hào phóng rộng rãi, Cổ Quý Sinh đã tạo dựng được một thanh dnah rất tốt cũng như mối ân tình với đông đảo khách giang hồ.
Các phái lớn trong võ lâm Trung Nguyên đều cử người mang lễ vật đến mừng thọ họ Cổ. Thậm chí, có vài vị chưởng môn, long đầu, còn đích thân đi dự.
Một trong những kẻ có thân phận cao cả ấy là Hắc Bì Cái Từ Lang Chính, bang chủ Cái Bang. Ông ta đang đối ẩm với Đàm Vân Tử, trưởng lão phái Hoa Sơn
Tình cờ, bàn của họ lại nằm kế bên bàn Tư Đồ Sảng và Liễu Mộ Hào. Hai lão nhân hạ giọng trò chuyện, không ngờ bị Tư Đồ Sảng nghe thấy hết.
Đàm Vân Tử mời Hắc Bì Cái cạn chung rồi hỏi:
- Này Từ thí chủ! Bần đạo lâu nay bế quan luyện công nên không rõ cục diện võ lâm hiện tại thế nào. Thí chủ là người thạo tin tức nhất thiên hạ xin hãy chỉ giáo đôi điều.
Hắc Bì Cái chậm rãi nhai kỹ miếng thịt dê, nuốt xong, chiêu một hớp rượu rồi mới thủng thẳng kể:
- Sau đại hội võ lâm ít lâu Táo Gia Cát có bí mật đến tổng đàn Cái Bang ở Lạc Dương bàn bạc với lão phu. Lúc ấy, lão phu mới biết việc Nam Giải Tiên Ông giả làm Giáp Vô Yên mà tranh ngôi Minh Chủ. Và chính vụ nổ lôi đài đã cứu vãn võ lâm thoát khỏi một âm mưu thâm độc. Bùi Thế Trực đã khẳng định Hải Hoa Bang là tay sai của quân Mông Cổ, được lệnh khống chế võ lâm Trung Nguyên, hủy hoại những tinh hoa làng võ, làm suy yếu sức kháng cự của mấy vạn hào kiệt. Quân Mông biết rằng bọn hiệp khách chúng ta tuy không thích bị gò bó bởi kỷ cương quâ ngũ, nhưng khi Sơn hà lâm nguy sẽ liều thân mà bảo vệ.
Lão nói một hơi khá dài nên khô cổ bưng chung uống cạn rồi khề khà nói tiếp:
- Đồng thời, Hải Hoa Bang sẽ là lực lượng nội ứng khi quân Mông phá được Ải Quan. Táo Gia Cát đã thiết tha yêu cầu Cái Bang giám sát chặt chẽ động tĩnh của Hải Hoa Bang để hội đồng võ lâm có đối sách kịp thời. Bùi Thế Trực tài cao đức trọng, cơ trí tuyệt luân, là chỗ dựa tốt nhất cho chính khí võ lâm. Nhưng hỡi ôi! Không hiểu tên khốn kiếp nào đó đã dùng hỏa dược đánh sập sườn Bắc núi Thúy Phong, chôn sống Bùi lão mất rồi.
Đàm Vân Tử cả kinh:
- Việc ấy xảy ra lúc nào!
Hắc Bì Cái buồn rầu đáp:
- Cuối giờ Tý ngày hai mươi tháng giêng lão phu đang định đi ngủ thì nghe một tiếng nổ ì ầm từ phía Tây nam Lạc Dương vọng lại. Sáng ra, bọn đệ tử bổn bang về báo rằng tiếng nổ ấy phát ra từ núi Thúy Phong. Bọn chúng chẳng rõ nguyên nhân vướng trận đồ nên không vào được bên trong sơn cốc. Lão phu vội đến đấy xem sự thể, nhờ được Táo Gia Cát dạy cách xuất nhập trận nên vào được bên trong sơn cốc để chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng. Lão phu còn trèo lên chỗ vách núi bị lở để xem xét thì phát hiện có dấu chân người và một ít bột thuốc nổ rơi vãi.
Đàm Vân Tử nghe xong thiểu não thở dài, tiếc thương cho một bậc kỳ tài luôn hết lòng vì chính nghĩa. Lão không biết rằng có một người ngồi gần đấy đang cố ngăn giòng lệ thảm.
Hắc Bì Cái tiếp lời:
- Phía đông là Hải Hoa Bang lăm le uy hiếp võ lâm, còn ở phía nam thì Kỳ Lân Bang cũng chẳng thiếu dã tâm. Đệ tử của lão phu ở Trường Sa báo về rằng Môn Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý đã hồi phục được bẩy phần, đang tiến hành xây dựng lại Khuất Gia Trang cho thật rộng rãi, kiên cố và chiêu mộ anh hào. Lão được sự hậu thuẫn của hai đại phú họ Giả, họ Khuất nên ngân quỹ dồi dào, đủ sức nuôi số bang chúng đông đến hơn ngàn.
Đàm Vân Tử ngắt lời họ từ:
- Thế còn thái độ của Hạo Thiên Cung ra sao?
Hắc Bì Cái nhíu đôi mày điểm bạc:
- Táo Gia Cát từng kể lão phu nghe rằng Lăng Song Tường đã liên minh với Tần Cốc Lý trước trận bế mạc đại hội võ lâm, vì chẳng còn tiền nuôi quân. Giờ đây Hạo Thiên Cung đang bành trướng ở đất Thiểm Tây và lan xuống cả Tứ Xuyên. Phải chăng Hạo Thiên Cung đã được họ Tần hậu thuẫn về tài chính?
Đàm Vân Tử bỗng vỗ trán hỏi:
- À! Bang chủ có biết hạ lạc của Thần Phủ Lang Quân hay không. Gã họ Lý ấy là đệ tử chân truyền của Ly Giang Tiên Ông, có thể góp phần đương cự tà ma.
Hắc Bì Cái mỉm cười:
- Sau tết, phân đà Cái Bang ở Bắc Kinh gửi báo cáo về, có nhắc đến việc Thần Phủ Lang Quân phá vụ án trộm quốc khố, được vua Gia Tĩnh gọi vào triều ban thưởng. Không chừng giờ đây gã đã làm quan lớn rồi.
Tư Đồ Sảng nghe mà chua chát trong lòng. Do áp lực của Tam hoàng tử và Bàng đề đốc mà chàng đã phần nhận tước Truy Dũng Bá. Minh đế đã giáng chỉ bắt chàng phải về triễư làm quan sau ba năm nữa.
Trong tay nải của chàng hiện đang có một bộ phẩm phục bá tước bằng gấm xanh, ngân khôi và kim bài. Nhưng chàng không tin mình sẽ mặc thứ y phục ấy vì không xứng, chàng chưa làm được gì cho xã tắc, cho lê thứ, mặt mũi nào mà xênh xang áo mão?
Hắc Bì Cái và Đàm Vân Tử đã no say nên rời tửu điếm, đi đến Cổ Gia Trang. Ở đây, Tư Đồ Sảng và Liễu Mộ Hào cùng nhau bàn bạc rất lâu, sau đó, tìm cách đến nhà của Hí Nhân Cư Sĩ để làm khách.
Hai người rời Hoài Nam đệ nhất tửu điếm, đi dạo phố và tìm mua lễ vật để ngày mai mừng thọ đối phương. Do không có thiệp mời nên lễ vật đắt tiền chính là cách tốt nhất để vào cổng.
Họ đã rảo qua Cồ Gia Trang mấy lượt phát hiện nó rất rộng lớn, nhà cửa, phòng ốc san sát. Khách phương xa lũ lượt kéo đến và chắc chắn là đêm nay bọn gia nhân sẽ làm việc suốt đêm để chuẩn bị cỗ bàn. Trong bối cảnh bất lợi như thế thì việc đột nhập Cổ Gia Trang, rồi mò mẫm tìm xem lão ta ngủ ở đâu quả là mạo hiểm và vô vọng. Cách tốt nhất là đường hoàng đến làm khách, sau lễ chúc thọ được quyền ở lại một đêm dễ hành động hơn. Tuy nhiên, kế hoạch này cũng có một điểm yếu là lai lịch. Do không có thiệp mời, Cổ Quý Sinh sẽ cho thủ hạ giám sát họ rất chặt chẽ.
Chính vì thế nên Tư Đồ Sảng vôc ùng mừng rỡ khi nhận ra gã Linh Tiếu Tử đang lang thang trên phố Thiên Sư.Cuối phố này có một đạo quán của Thiên Sư Giáo nên người ta đặt tên con phố như vậy. Linh Tiếu Tử đang khệ nệ bưng một thố sành có nắp rất to, chắc còn nóng nên có hơi nước tỏa ra. Gã thận trọng bước nhường bước vững vàng để nước trong thố không tràn ra. Tuý khổ sở như vậy mà miệng Linh Tiếu Tử vẫn cứ nở nụ cười, để lộ hai chiếc răng nanh tinh quái.
Bị hai kẻ đi ngược chiều chân lại, gã không cười nữa, bực bội hỏi:
- Nhị vị không thấy bần đạo đang làm gì sao? Xin tránh đường cho!
Huyết Báo bất ngờ thò tay mở nấp thố và hít hà:
- Mẹ kiếp! Cái món lẩu chó này thơm thực! Lão Tam Dương Chân Nhân này quả là kẻ sành ăn.
Liễu Mộ Hào đã từng cùng Tư Đồ Sảng đến Long Hổ Sơn nên biết rõ tật lớn của đại hộ pháp Thiên Sư Giáo Tam Dương Chân Nhân. Có lẽ lần này lão ta đại diện Trương Thiên Sư đi chúc thọ Cổ Quý Sinh.
Lỉnh Tiếu Tử giật mình hỏi lại:
- Nhị vị thí chủ là ai mà biết sư thúc của bần đạo?
Tư Đồ Sảng nóng ruột bảo:
- Ta là Kỳ Hoa Tử đây! Ngươi mau đưa ta đến gặp đại sư huynh!
Linh Tiếu Tử rất quen với giọng nói của chàng, mừng rỡ toét miệngcười:
- Té ra là là tiểu sư thúc! Xin đi theo đệ tử. Đại sư thúc đang ở trong quán cuối phố này.
Do thố thịt chó mà ba người phải đi vào bằng cửa hông, không dám diễu qua điện Tam Thanh vì sợ mang tội bất kính.
Từ thời thượng cổ, chó đã là một trong những loại thịt ăn chính của người Trụng Hoa. Trong cúng tế, chó cũng có mặt chung với dê, bò, heo, gà. Nhưng các vị thần linh thường chỉ được thưởng thức món chó thui hoặc luộc, để nguyên con chứ không được nếm những món ăn khoái khẩu, nồng nàn gia vị, chế biến từ thịt chó. Bởi thế mà Linh Tiếu Tử không dám để mùi thơm quyến rũ của món lẩu chó xúc phạm đến khướu giác thanh tịnh của chư thần.
Tam Dương Chân Nhân đang ngồi với một đạo sĩ trung niên, nhâm nhi vài chung với món lạc rang, trong lúc chờ món chính. Thấy Linh Tiếu Tử vế đến lão mừng rỡ bảo:
- Mau đặt xuống bàn! Món này phải ăn nóng mới ngon!
Và lão chợt nhận ra sau lưng tên sư diệt còn hai người nữa liền mắng ngay:
- Chỉ có một thố thịt bé xíu thế này mà ngươi còn dẫn thêm người đến nữa làm gì? Chó thực!
Tư Đồ Sảng rất mến lão đạo sĩ già ham ăn uống nhưng trực tính này. Chàng cười bảo:
- Nếu đại sư huynh không cho ăn thì tiểu đệ xin phép cáo lui vậy!
Vừa nói, chàng vừa lột mặt nạ ra, Tam Dương Chân Nhân mừng rỡ nói:
- Ngũ sư đệ đấy ư! Ngươi mau ngồi xuống đây! Cả cái gã Huyết Miên kia nữa.
Liễu Mộ Hào cũng đã lộ mặt thật nên chân nhân nhận ra bạn cũ?
Linh Tiếu Tử cười khanh khách:
- Đại sư thúc lú lẫn quá rồi! Y là Huyết Báo chứ không phải Huyết Miên.
Tam Dương Chân Nhân cười hề hề:
- Bần đạo già cả nên trí nhớ kém cỏi quên cha nó mất danh hiệu của thí chủ. Nhưng báo hay miên cũng vậy thôi. Bỏ nhiều gia vị là ngon tất.
Gã đại si trug niên chấp tay bái kiến Tư Đồ Sảng:
- Đệ tử là Linh Hoa Tử, quán chủ đạo quán này, xin ra mắt ngũ sư thúc.
Linh Tiếu Tử mau miệng giải thích thêm:
- Ngũ sư thúc! Y là nhị sư huynh của đệ tử đấy!
Tư Đồ Sảng đáp lễ rồi gọi cả Linh Tiếu Tử cùng ngồi. Biết có ngũ sư thúc ở đây thì cuộc rượu sẽ rất dài nên Linh Hoa Tử ra sai bọn đạo sĩ trẻ đi mua thêm rượu thịt.
Tha hương ngộ cố tri, Tam Dương Chân Nhân uống với Tư Đồ Sảng và Huyết Báo liến ba bát lớn. Lão vừa ăn vừa nói:
- Giáo chủ sư huynh đang ngày đêm mong ngũ sư đệ, ra lệnh cho các đạo quán tìm bằng được ngươi về. May sao ngươi lại xuất hiện nơi này khiến bọn đệ tử đỡ khổ cực.
Tư Đồ Sảng chưa hỏi vì sao thì lão đã giải thích:
- Hồi đầu tháng hai đã xảy ra một cuộc va chạm giữa bổn giáo và Kỳ Lân Bang ở đất Lăng. Phe chúng ta chết tám người và bị thương khá nhiều.
Tư Đồ Sảng giật mình kinh hãi:
- Chúng lê Kỳ Lân Bang lại dám ngang nhiên lộng hành đến thế ư! Quan lại địa phương xử lý ra sao?
Tam Dương Chân Nhân cười khổ:
- Sự việc này rất phức tạp, ngay tri phủ Lư Lăng cũng bó tay, để mặc hai phe giải quyết với nhau. Số là, khu đồi phía Tây bắc thành Lư Lăng, cạnh sông Cảm Giang có một mỏ bảo ngọc rất lớn, sử dụng đến hơn hai ngàn nhân công. Và tất cả bọn họ đều là tín đồ trung thành của bổn giáo, thường xuyên đến lễ bái và đóng góp cho đạo quán Lư Lăng.
Nhưng mới đây, chủ nhân của mỏ đá quý ấy đã bán khu mỏ cho Giả Tài Thần đất Trường Sa, với giá mười vạn lượng vàng. Khổ thay, sau khi nhận mỏ, nhà họ Giả lại cho đóng cửa, sa thải toàn bộ công nhân. Người đại diện của Giả Gia Trang là Giả Bạch Hồ bảo rằng mỏ đã cạn kiệt, có tiếp tục khai thác nữa cũng chẳng lời được bao nhiêu. Hơn nữa Giả Tài Thần mua khu đồi ấy vì phong thủy tốt, sẽ trở thành nghĩa trang của giòng họ Giả.
Hai ngàn công nhân mỏ sợ vợ con chết đói nên nhất quyết không rời mỏ, yêu cầu họ Giả cho họ việc làm. Đệ tử bổn giáo ở đạo quán Lư Lăng cũng tham gia cuộc biểu tình, cố bảo vệ quyền được sống của giáo chúng.
Gã Giả Bạch Hỗ dẫn thêm hai trăm tên thủ hạ Kỳ Lân Bang, võ công rất lợi hại nên khi xô xát, phe chúng ta bị thiệt thòi sau đó, quan quân Lư Lăng đến can thiệp nhưng không bắt tội bọn Kỳ Lân Bang, dù chúng chỉ chết có hai mạng.
Giáo chủ sư huynh đã đích thân đến Lư Lăng khiếu nại với quan tri phủ. Nhưng có lẽ lão ta đã ăn đút lót của họ Giả nên phủi tay, bảo hai bên tìm cách giải quyết.
Giáo chủ sư huynh đã yêu cầu nhà họ Giả bán lại mỏ bảo thạch ấy cho bồn giáo thì Giả Bạch Hồ đòi hai chục vạn lượng vàng, gấp đôi cái giá gã đã mua. Bạch Hồ còn ngạo nghễ nói thẳng rằng Thiên Sư Giáo chỉ toàn một lũ thầy pháp bất tài, võ nghệ chẳng ra gì.
Giáo chủ sư huynh không nhịn được nữa liền thách đấu với Kỳ Lân Bang, ông còn đem chục vạn lượng vàng đánh cược với mỏ bảo thạch. Giả nhị công tử không biết ngũ sư đệ là người của Thiên Sư Giáo nên đã mau mắn nhận lời.
Kỳ hạn phó ước là ngày đầu tháng năm hoặc sớm hơn. Giáo chủ biết sư đệ sẽ phải về Long Hổ sơn để cùng đi núi Hành Sơn rước pháp thể sư thúc.
May mắn thay, ta lại gặp được sư đệ lúc này. Vì hiện bổn giáo đang phải trợ cấp cho hai ngàn công nhân mỏ thất nghiệp, ngân quỹ sắp cạn kiệt. Nghĩa là sau bữa tiệc mừng thượng thọ lão họ Cổ ngày mai, chúng ta sẽ gấp rút về Long Hổ Sơn để giáo chủ sớm gửi thư hẹn ngày tỷ đấu.
Nghe xong câu chuyện, Tư Đồ Sảng trầm ngâm bảo:
- Môn Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý chưa hồi phục hẳn nên không đáng ngại. Giả Bạch Hồ thì chẳng xứng là địch thủ của tiểu đệ. Nhưng Kỳ Lân Bang cũng còn một cao thủ khác là Thập Tự Thần Kiếm Phan Tử Mỹ. Lão này tuy mất lý trí nhưng võ công cũng còn nguyên vẹn. Có thể Kỳ Lân Bang sẽ cho lão ta xuất trận để đảm bảo phần thắng.
Tam Dương Chân Nhân áy náy noi:
- Chết thực! Giáo chủ sư huynh và bọn ta đâu biết việc Thập Tự Thần Kiếm còn sống. Nếu họ Phan đại diện Kỳ Lân Bang thì liệu sư đệ có thủ thắng nổi không?
Tư Đồ Sảng lắc đầu:
- Đại sư huynh chớ lo! Tiểu đệ còn mong sự việc xảy ra đúng như thế. Phan Tử Mỹ chính là kẻ đã cùng Tần Cốc Lý sát hại song thân của tiểu đệ.
Và chàng nghiến răng, chậm rãi nói tiếp:
- Còn Hí Nhân Cư Sĩ là người đã ám hại hai người vợ tội nghiệp của tiểu đệ cùng năm vị trưởng bối nữa.
Tam Dương Chân Nhân giật bắn mình, đánh rơi cả đũa, mắt trợn tròn lắp bắp bảo:
- Có việc ấy sao? Sư đệ mau kể rõ cho ta nghe thử?
Tư Đồ Sảng buồn rầu kể lại ngọn ngành, nước mắt chảy dài trên má. Tam Dương Chân Nhân đùng đùng nổi giận, nghiến răng kèn kẹt:
- Tổ bà cái lão họ Cổ! Ngày mai ta phải vạch mặt lão trước khách khứa và giúp sư đệ báo thù!
Linh Tiếu Tử bỗng xen vào:
- Đệ tử từng nói Cổ Quý Sinh là kẻ đạo đức giả mà chẳng ai chịu tin. Một người có lòng nhân không bao giờ đem kẻ khác ra chế giễu, rồi cười cợt trên sự khổ thẹn cùng cực của nạn nhân. Trẻ bị lừa không sao, có người già đầu rồi mà còn xem Cổ Quý Sinh là bạn tốt nữa, thật nực cười.
Tam Dương Chân Nhân đỏ mặt cười giả lả:
- Ta biết mình hồ đồ rồi, ngươi đừng xỏ xiên nữa có được không?
Thì ra lão rất thân với Hí Nhân Cư Sĩ nên đã xin Trương Thiên Sư cử mình đi chúc thọ. Giờ biết họ Cổ là kẻ mặt người lòng thú, chân nhân vô cùng hổ then.
Liễu Mộ Hào chữa thẹn cho họ bằng cách trình bầy kế hoạch trả thù của Tư Đồ Sảng. Gã và chàng sẽ giả làm đạo sĩ đi theo Tam Dương Chân Nhân vào Cổ Gia Trang, tùy cơ mà giết Cổ Quý Sinh.
*
* *
Giữa giờ thân chiều hôm ấy, đoàn đại biểu Thiên Sư Giáo tiến vào Cổ Gia Trang. Theo sau lão đạo sĩ già râu tóc bạc phơ là ba đệ tử, một tuổi đồi mươi, một tam thập và một xồn xồn tuổi hơn bốn chục.Có hai gã bưng hộp son dựng lễ vật một của giáo chủ Thiên Sư Giáo và một của Tam Dương Chân Nhân. Ông vốn là bằng hữu lâu năm của Cổ Quý Sinh.
Cổ Gia Trang được xây dựng theo lối tứ hợp viện kết hợp với vườn cảnh. Nghĩa là, ngoài cơ ngơi chính còn có nhiều tiểu xá, biệt viện xây quanh, nằmgiữa một vườn hoa mênh mông, đầy đủ suối khe, cầu đá, giả sơn, cây cao...phong cảnh cực kỳ diễm lệ.
Nhà họ Cổ giầu sang đã mấy đời, nức tiếng một vùng phía nam sông Hoài. Tây Môn Giới từng kể cho Tư Đồ Sảng nghe rằng mười mấy năm trước ông hành sự ở Tính Dương, do điều nghiến mục tiêu không kỹ nên bị một con lang khuyển tây dương cắn rách đùi loại chó này ít sủa, lặng lẽ tấn công như dã thú trong rừng vậy. Sau đó, ông bị bọn gia nhân nhà ấy và quân binh Tín Dương truy đuổi gắt gao, liền nhẩy vào vườn nhà họ Cổ. Cổ Quý Sinh phát hiện ra, che giấu và băng bó cho Tây Môn Giới.Vì cảm cái ơn ấy nên Tích Dịch Quỷ đã vái Cổ Quý Sinh làm nghĩa huynh và giao cho lão nắm giữ ngân quỹ Hắc Hiệp Hội ở Hà Nam.
Nhắc lại, lão tổng quản Cổ Gia Trang Hồng Thanh Vy tươi cười đón chào Tam Dương Chân Nhân:
- Đã gần hai năm đạo trưởng không ghé chơi khiến Cổ trang chủ nhớ nhung, cứ nhắc đến mãi.
Tam Dương Chân Nhân cười nhạt:
- Y nhớ bần đạo sao không biết tìm đến Long Hổ Sơn mà thăm viếng? Bần đạo phải tu hành, lo toan sự vụ của bổn giáo, còn Cổ Quý Sinh thì rảnh rang, có làm cái quái gì đâu?
Và ông chợt đổi giọng khôi hài, hỏi nhỏ:
- Này hồi thí chủ! Phải chăng Quý Sinh mới nạp thiếp nên cho sửa sang trang viện, trông khác hẳn lúc trước?
Hông Thanh Vy ngượng ngùng cãi:
- Bẩm không có việc ấy! Cổ lão gia là người đức độ, tuổi lại cao, nạp thiếp làm gì?
Tam Dương Chân Nhân cười ha hả dẫn ba đệ tử đi vào trong, Linh Tiếu Tử bước dấn lên nhắc nhở:
- Đại sư thúc mà để lộ sự chán ghét là hỏng việc đấy!
Chân nhân nheo mắt đáp:
- Tiểu quỷ chớ lo. Sống thực thà thì khó chứ học nghề gian xảo thì dễ dàng biết mấy.
Cũng cùng lối kiến trúc như cơ ngơi của Trương Thiên Sư nhưng quy mô, kích thước quần thể tứ hợp viện ở đây lớn hơn nhiều. Chiều sâu của bên ngoài hình chữ nhật đã là chín trượng.
Cửa thùy hoa dẫn vào sân vuông bên trong cũng rộng gấp rưỡi, ngoài bốn trụ đá lửng còn có một cặp kỳ lân trấn giữ.
Bốn dãy nhà nằm cạnh sân vuông có mái kép nên không gian bên trong rộng rãi, bố trí lược nhiều phòng ốc.
Giờ đây, toàn bộ những bức vách ngăn phòng của dãy Đông Sương đã bị dỡ bỏ để có thể bày được trăm bàn tiệc phủ vải hồng.
Nhưng còn quá sớm nên chưa có ma nào hiện diện ở đấy, mà ngồi cả trong phòng lớn thuộc dãy hướng Bắc. Họ là những người thân thiết nhất, hoặc khách phương xa không muốn trọ bên ngoài. Tổng số chỉ độ mười người, trong đó có Hắc Bì Cái và Đàm Vân Tử.
Hí Vân Cư Sĩ Cổ Quý Sinh mừng rỡ bước ra tận cửa đón khách. Lão cười ha hả nói:
- Lão phu biết thế nào đạo trường cũng giá lâm! Nãy giờ cứ cùng các vị đây nhắc nhở mãi.
Nét mặt họ Cổ biểu lộ một niềm vui chân thành vì quả thực là lão rất mến lão đạo sĩ thực thà, ngây thơ như trẻ con này. Khi kết giao với Tam Dương Chân Nhân, một kẻ tài trí và gian xảo như Cổ Quý Sinh rất yên tâm, không sợ bị cạnh tranh. Tào Tháo giết Dương Tu vì Họ Dương dại dột cố chứng tỏ mình quá thông minh.
Tam Dương Chần Nhân đã biết rõ tâm địa của Cố Quý Sinh nên không còn bị lầm trước thứ tình cảm kiểu Tào Mạnh Đức ấy. Ông thản nhiên đóng kịch, giả lả nói cười thân thiết.
Cổ Quý Sinh đưa Tam Dương Chân Nhân vào trong, giới thiệu với những vị khách đang ngồi uống trà, hầu hết đều là người quen biết.
Đàm đạo được một lát, chân nhân nằng nặc bắt Cổ Quý Sinh phái dắt mình đi tham quan những công trình xây mới của Cổ Gia Trang. Mười người kia cũng có ý ấy nên họ Cổ chẳng thể chối từ, đưa cả đoàn đi dạo. Ba gã đạo sĩ trẻ Thiên Sư Giáo cũng lặng lẽ theo đuôi.
Dưới ánh nắng xuân ấm áp, cảnh vật Cổ Gia Trang vô cùng diễm lệ khiến mọi người tấm tắc khen ngợi Cổ trang chủ là bậc nhã sĩ phong lưu, có đầu óc thẩm mỹ tinh tế.
Tam Dương Chân Nhân khéo léo dò hỏi nơi cư trú của chủ nhà. Họ Cố không hề đề phòng, chỉ vào một tòa tiểu xá trong vườn cảnh, cạnh tòa giả sơn khổng lồ.
Cuối vườn hoa mênh mông ấy là khu từ đường họ Cổ, vây kín bởi bức tường cao hơn đầu người.
Tam Dương Chân Nhân đã từng đến Cổ Gia Trang nhiều lần nên biết công trình này mới được xây. Lão nhất định vào xem cho được.
Cổ Quý Sinh bấm bụng móc chìa khóa trong thắt lưng ra mở cổng, dẫn khách vào.
Linh Tiếu Tử kề tai Tư Đồ Sảng thì thầm:
- Sư thúc! Khu từ đường này phải có bí mật gì đó nên Cổ Quý Sinh mới đích thân giữ chìa khóa. Thường thì việc quét dọn, nhang khói là của bọn gia nhân, tỳ nữ.
Tư Đồ Sảng gật đầu tán thành, chú tâm quan sát thật kỹ lưỡng.
Chính Linh Tiếu Tử đã đưa ra giả thiết rằng Tây Môn Giới có thể vẫn còn sống. Một người cơ trí và thận trọng như Tích Dịch Quỷ không bao giờ tiết lộ hết toàn bộ bí mật của mình. Do đó, nếu muốn trở thành hội chủ Hắc Hiệp Hội thì Cổ Quý Sinh phải bắt sống TâyMôn Giới, để khai thác những phương thức điều hành. liên lạc. Hơn nữa, một nửa cơ nghiệp của Hắc Hiệp Hội nằm ở Hà Bắc, do Tích Dịch Quỷ đích thân coi sóc.
Cao kiến của Linh Tiếu Tứ đã mang lại cho Tư Đồ Sảng niềm hi vọng mới. Và mục tiêu chính của chàng khi vào Cổ Gia Trang là tìm nơi giam cầm nghĩa phụ, cứu ông thoát cảnh lao lung. Còn việc trừng trị Cổ Quý Sinh sẽ để dịp khác.
Trong suốt cuộc dạo chơi nãy giờ, Tư Đồ Sảng không hề nhận ra công trình nào đủ kín đáo vâ kiên cố để giam giữ tù nhân. Các tòa tiểu viện, tiểu xá, tiểu lâu ở đây đều chỉ mang tác dụng trang trí cho vườn cảnh, sử dụng những vật liệu nhẹ như gỗ, tre trúc để tăng tính thiên nhiên. Hơn nữa, những công trình ấy đều trổ nhiều cửa sổ để khách đến ở có thể thuận tiện thưởng lãm cánh đẹp chung quanh.
Do đó, chính căn nhà từ đường và hai ngôi mộ lớn phía sau mới là kiến trúc duy nhất được xây bằng gạch đá.
Hai ngôi mộ ấy là của phụ mẫu Cổ Quý Sinh.
Sau khi khách đã ngoạn cảnh mãn nhãn, Cổ trang chủ đưa họ quay lại phòng khách. Riêng Tam Dương Chân Nhân và ba đệ tử thì được hướng dẫn đến chỗ nghỉ ngơi.
Tối đến, trong lúc Tam Dương Chân Nhân lên phòng khách tán gẫu với Cổ Quý Sinh và những bậc lão thành khác, bọn Tư Đồ Sảng cùng nhau bàn bạc.
Huyết Báo nói:
- Ta đã quan sát bọn gia đinh, nhận ra chúng đều có thân hình rắn chắc cước bộ mau lẹ, mắt sắc như dao, chứng tỏ bản lãnh không tầm thường. Do vậy, chúng ta nên khởi sự sớm, trong lúc còn người tấp nập.
Linh Tiếu Tử nhoẻn miệng cười rồi bàn:
- Liễu thí chủ nói rất phải! Vườn cảnh phía sau cây cối um tùm, chúng ta khó mà bị lộ được.
Huyết Báo trợn mắt:
- Ngươi đi theo bọn tay làm gì cho vướng chân?
Linh Tiếu Tử van nài Tư Đồ Sảng:
- Đệ tử tuy võ nghệ kém cỏi song khinh công có đôi phần thành tựu, mong sư thúc cho phép tháp tùng. Bỏ lỡ chuyến mạo hiểm này đệ tử sẽ nuối tiếc suốt đời
Ánh mắt gã đầy vẻ thiết tha, háo hức khiến Tư Đồ Sảng không nỡ chối từ Cuộc đời của một đạo sĩ thực là buồn tẻ nên gã trẻ tuổi này khát khao cảm giác phiêu lưu. Chàng mỉm cười gật đầu:
- Ngươi cứ đi và nhớ bám sát bọn ta!
Linh Tiếu Tử hoan hỉ vái dài:
- Cảm tạ sư thúc!
Ba người thay áo ngoài mầu sậm, rắc loạt nước tỵ khuyển lên khắp người rồi rời tiểu viện. Lúc chiều, họ đã thấy hàng chục con chó ngao quanh quẩn đó đây. Có lẽ ban đêm lũ chó ấy sẽ được dồn về phía sau để bảo vệ trọng địa là khu từ đường.
Mới là đầu canh một nên trăng mười ba chưa lên khỏi tàn cây cao vút, cảnh vật nhập nhòe, chỗ tối chỗ sáng, rất thuận lợi cho khách dạ hành.
Hoa viên là một phần không thể thiếu trong kiến trúc trang viện. Kẻ càng giầu thì vườn hoa càng lớn và cầu kỳ. Thậm chí, có những tay đại phú còn xây dựng vườn cảnh của mình theo kiểu lâm viên, tức vườn rừng.
Kiến trúc lâm viên xuất hiện từ thời xa xưa, cốt để phục vụ cho vua chúa. Thời tây chu đã có những khu rừng nhân tạo rộng đến bảy ngàn mẫu tây đến đời Tần Hán, loại hình vườn rừng ngày càng phát triển với những khu rừng cấm, chu vi sáu trăm dặm tàu, trồng nhiều loại cây có hoa, nuôi nhiều thú rừng, có vô số cung điện, lâu các, để vua dạo phơi săn bắn.
Các hoàng đế đời sau còn cho đào hồ, đắp núi trong hoa viên để tạo cảnh thiên nhiên.
Kiến trúc lâm viên phát triển nhất vào thời Đường. Phía Bắc Kinh đô là một khu rừng cấm rất lớn, đông và tây cũng có lâm viên nhưng nhỏ hơn. Và ngay trong cung Đại Minh, vua Đường cho đào hồ Thái Dịch, giữa hỗ có núi Bồng Lai, quanh hồ là hành lang dài, hình thành một khu lâm viên rộng lớn.
Những kiến trúc phong cảnh nổi tiếng nhất Trung Hoa là: Thắng Vương Các ở Giang Tây, Hoàng Hạc Lâu ở Hồ Bắc, Nhạc Dương Lâu ở Hồ Nam, vườn Cấn Nhạc của vua Tống Huy Tây ở Khai Phong.
Sau này, không chỉ vua chúa mà bọn nhà giầu cũng học đòi xây dựng vườn rừng. Cổ Quý Sinh cũng thế nhưng do đất hẹp nên quy mô nhỏ, chỉ xứng gọi là vườn cảnh.
Giờ đây, bọn Tư Đồ Sảng ung dung luồn lách qua những bụi hoa, những hòn non bộ những tiểu đình, thủy tạ... để tiến về khu từ đường.
Họ di chuyển khá nhanh, khôngsợ gây ra tiếng động vì khu nhà bếp ở phía Tây Cổ Gia Trang cực kỳ náo nhiệt. Tiếng dao thớt, tiếng heo bò, gà vịt kêu, tiếng người cười nói, tất cả cùng vang lên một lượt, ồn ào và vui vẻ.
Bọn tráng đinh mang đao cũng có đi tuần song chỉ lấy lệ vì cho rằng ông chủ tốt bụng của mình không có kẻ thù. Bao năm nay, chẳng một tên trộm nào dám mò vào nhà họ Cổ.
Ngay cả lũ chó ngao cũng chưa có mãi ở khu cấm địa, chắc đang chầu chực nơi nhà bếp, chờ những miếng thịt rơi vãi.
Bọn Tư Đồ Sảng mừng rỡ vượt tường vào trong. Cổng chính khóa chặt song cửa nhà từ đường lại chỉ khép hờ. Điều này chứng tỏ bên trong không có gì ngoài bài vị tổ tiên nhà họ Cổ.
Tuy nhiên, ba người cũng cẩn thận bật hỏa tập xem xét nền gạch để tìm cửa ngầm, bằng cách số từng viên gạch. Sau hai khắc hoài công, họ ngồi lại bàn bạc.
Huyết Báo nói:
- Vậy là chỉ còn hai ngôi mộ phía sau nhưng chỉ sợ chúng ta không tìm ra nút khởi động cơ quan mở cửa. Lúc chiều ta đã quan sát rất kỹ song chẳng thấy chỗ nào khả nghi cả.
Tư Đồ Sảng chợt nhớ tới lần hết của ở Hạo Thiên Cung, phân vân bảo:
- Có thể mấu chốt nằm ở những chiếc đầu rồng, phượng trang trí hai ngôi mộ. Chúng ta phải thử mới biết được.
Ba người luồn ra phía sau từ đường, tìm đền hai ngôi mộ lớn. Chúng được xây theo kiểu dáng thông thường của người Hán. Mặt trước mộ mang hình dáng của phần trên một chiếc ngai có tay. Nhưng lưng ngai là một cung tròn và tay ngai thì choãi rộng, thấp dần vươn ra trên mặt sân, tận cùng bằng một chiếc đầu rồng, hoặc phượng bằng đá. Rồng của nam, phượng của nữ.
Tấm bia đá của mỗi ngôi mộ cao gần bằng đầu người và rộng độ nửa sải tay, đầy những chữ được đục lõmột xuống. Trên mộ chí, người ta thường dùng lối chữ khải thư rõ ràng và chân phương.
Tư Đồ Sảng và Huyết Báo lay thử cặp đầu rồng trên mộ của Cổ lão trang chủ. Còn Linh Tiếu Tử vặn vẹo chiếc lư hương bằng đá ở chân bia.
Vận may đã thuộc về gã đạo sĩ trẻ hay cười. Viên gạch vuông dưới bia phát ra tiếng động nho nhỏ, báo hiệu rằng khóa cửa ngầm đã mở.
Tư Đồ Sảng bước đến vỗ vai gã và khen:
- Sư diệt giỏi lắm!
Linh Tiếu Tử toét miệng cười, lòng vô cùng sung sướng vì đã lập công. Tư Đồ Sảng xô thử bia đá, tăng dần sức lực lên và cửa vào hé mở.
Chàng bảo Huyết Báo và Linh Tiếu Tứ nhẩy lên nấp trên mái ngói nhà từ đường rồi đi vào trong mộ. Chàng bật hỏa tập lên phát hiện một cần gạt bằng đồng ở gần cửa, biết đấy là bộ phận mở khóa, yên tâm đóng chặt cánh cửa đá nặng nề lại.
Tư Đồ Sảng thẳng người đi xuống những bậc thang gạch, vì phần nóc phía sau bia mộ khá cao. Hết mười ba bậc thang, chàng gặp một cánh cửa gỗ dầy, nhưng nó không có khóa, chỉ mang tác dụng cách âm.
Tư Đồ Sảng thận trọng đẩy cánh cửa thật êm ái, cố không gây tiếng động. Ánh nến bên trong soi rõ cảnh vật của gian mật thất rộng rãi. Nó sâu độ hơn hai trượng và ngang khoảng bốn trượng, được ngăn thành hai phần không đều bằng một hàng song sắt kiên cố. Phần nhỏ ở mé tay hữu Tư Đồ Sảng và đằng sau hàng chấn song khi có một người đang cặm cụi làm việc dưới ánh nến.
Ông ta ngồi sau một chiếc bàn dài, trên đặt đầy những chiếc đầu người bằng gỗ.
Tư Đồ Sảng cố ngăn tiếng reo hân hoan, ló đầu qua khung cửa quan sát phần không gian còn lại ở trước mặt. Chàng nhận ra chiếc giường nhỏ và bộ bàn bát tiên nhưng không có người ở trên ấy.
Tư Đồ Sảng yên lòng lướt nhanh đến trước song sắt, nghẹn ngào gọi:
- Can gia! Hài nhi đến cứu người đây!
Tây Môn Giới giật mình nhìn lại, nhận ra đứa con nuôi yêu dấu. Lão buông rơi cây bút vẽ, lật đật bước đến, thò tay qua song ôm lấy đầu Tư Đồ Sảng, mừng đến ứa nước mắt. Lão run rẩy hỏi:
- Sảng nhi! Làm sao con có thể vào được chốn này?
Tư Đồ Sảng liền kể nhanh sự cố bi thảm ở Thúy Phong Cốc, cùng những lý do đã khiến chàng nghi ngờ Hí Nhân Cư Sĩ Cổ Quý Sinh.
Tây Môn Giới đau lòng khôn xiết, nghiến răng kèn kẹt:
- Lão họ Cổ quả đốn mạt! Lão đã hứa với ta là sẽ không động đến Thúy Phong Cốc và ngươi. Chính vì vậy mà lão phu mới cắn răng chịu đựng cảnh giam cầm và thực hiện những yêu cầu của lão.
Tư Đồ Sảng hiểu ngay rằng nghĩa phụ mình bị Cổ Quý Sinh bắt sống trước khi cho nổ tung Thúy Phong Cốc. Chàng buồn rầu hỏi:
- Bẩm nghĩa phụ! Chẳng hay sự việc đã xảy ra như thế nào?
Tây Môn Giới kể lại với giọng đầy oán hận:
- Tối mười tám tháng giêng, lão phu đang tính toán sổ sách trong một trang viện nhỏ ở Lạc Dương thì Cổ lão quỷ đến tìm. Lão ta có đem theo hai thủ hạ, tay xách rượu ngon thịt béo. Cuộc nhậu được bày ra, Quý Sinh cho gọi cả bẩy gã Thất Tinh Hình Sứ vào chung. Lát sau, lão phu và bẩy gã thân tín đều ngã lăn. Lúc lão phu tỉnh lại, Quý Sinh thẳng thắn thố lộ dã tâm. Không những lão muốn đoạt cơ nghiệp Hắc Hiệp Hội mà còn âm mưu khuynh đảo cả võ lâm nữa. Lão yêu cầu ta giao lại danh sách lực lượng đệ tử, cũng như hệ thống kinh doanh ở Hà Bắc. Đồng thời, ta còn phải giúp lão chế tác mặt giả của chưởng môn, trưởng lão các phái lớn trong võ lâm. Sau này, lão sẽ cho người của mình ám sát họ rồi hóa thân vào mà nắm lấy quyền bính. Lão phu không chịu khuất phục thì Quý Sinh bảo rằng đã gài sẵn thuốc nổ trên sườn núi Thúy phong. Cổ lão tặc rất giỏi nghề hỏa dược và chính lão là người đã cho nổ lôi đài hồi tháng chín. Lão phu vì tính mạng của ngươi và những người trong cốc mà đành phải quy phục.
Nói đến đây lão đau lòng đến nổi bật khóc. Tư Đồ Sảng cau mày hỏi lại:
- Can gia! Bản lãnh Cổ Quý Sinh lợi hại đến mức nào mà dám nuôi mộng bá chủ?
Tây Môn Giới cười thảm:
- Tám năm trước, lão phu trộm được một pho tượng thần cổ bằng đồng đen, có tám cánh tay, liền đem tặng cho Cổ lão tặc. Không ngờ trong pho tượng ấy lại giấu quyển độc kinh của Bát Tý Độc Vương Hàn Cổ Mộc, một ác ma thời nhà Tống. Tương truyền, Hàn lão quái có thể dùng chân khí đưa chất độc ra xa hơn trượng, giết người một cách âm thầm và mau lẹ. Thời ấy chưa một cao thủ nào giao đấu với Hàn Cổ Mộc mà toàn mạng cả. Cổ Quý Sinh khoe với ta rằng giờ đây lão đã có bản lãnh tương đương với Bát Tý ĐộcVương ngày trước. Chính tài nghệ ấy đã khiến họ Cổ nẩy sinh tham vọng điên cuồng.
Tư Đồ Sảng nghiến răng nói:
- Nếu thế thì hài nhi sẽ giết lão ngay trong đêm nay để trừ đại họa cho võ lâm. Giờ hài nhi sẽ cứu can gia ra trước đã.
Tây Môn Giới cười nhạt:
- Khoan đã! Đêm nào Cổ Quý Sinh cũng xuống đây để vẽ hình những đại nhân vật mà lão muốn cho thay thế. Sảng nhi cứ nhẫn nại chờ ắt sẽ có cơ hội ra tay.
Và ông lộ vẻ đắc ý:
- Lão phu đã chế tác sẵn một tấm mặt nạ mang dung mạo của Cổ Quý Sinh, để sử dụng khi có dịp đào thoát. Sáng mai, người được chúc thọ sẽ là lão phu.
Tư Đồ Sảng mỉm cười trước ý nghĩ tuyệt diệu ấy. Chàng vui vẻ nói:
- Để hài nhi ra gọi hai người ở ngoài vào đã!
Nói xong, chàng đi ngay, kéo mở cửa mộ, vẫy Huyết Báo và Linh Tiếu Tử xuống. Nãy giờ họ nhấp nhỏm không yên vì chẳng biết vì sao Tư Đồ Sảng lại lâu đến thế?
Hai người ấy xuống đến mật thất, cung kính thi lễ với Tây Môn Giới và lắng nghe kế hoạch tiêu diệt Cổ Quý Sinh.
Giá nến được thổi tắt, chỉ để lại một dĩa đèn dầu leo lét. Trong cảnh tối tăm này, dẫu Đại La Thiên Tiên cũng không tránh nổi một đòn ám tập của Tư Đồ Sảng.
Đầu canh ba, khi nghe tiếng cơ quan ở cửa mộ khởi động, ba người vội vào vị trí. Tư Đồ Sâng đứng nép mình ngay bức vách cạnh khung cửa gỗ, phía có bản lề. Khi Cổ Quý Sánh bước vào thì cánh cửa sẽ che khuất chàng. Phần Huyết Báo và Linh Tiếu Tử thì ẩn sau chiếc giường, phòng khi Cổ lão quỷ thoát chết dưới tay Tư Đồ Sảng.
Tiếng chân người im bặt và cánh cửa gỗ mở toang. Cổ Quý Sinh vô tư tiến vào, miệng thì cằn nhằn:
- Tây Môn hiền đệ! Sao ngươi lại ngủ sớm thế, không cố gắng hoàn tất những chiếc mặt nạ ấy cho ta.
Chợt nghe sau lưng có tiếng kẽo kẹt cát cánh cửa gỗ, lão giật mình quay lại, vừa kịp nhận ra một bóng người cao lớn thì ngực đã nhói đau khủng khiếp. Lão mơ hồ nghe được tiếng cười ngạo nghễ của Tây Môn Giới.
*
* *
Trưa hôm sau, lễ thượng thọ của Hí Nhân Cư Sĩ diễn ra rất suôn sẻ. Chẳng ai để ý đến việc Cổ Quý Sinh thấp hơn hôm qua hai lóng tay, và giọng nói cũng khang khác.
Ngoài hai việc vặt ấy ra thì Tây Môn Giới không gặp khó khăn gì khi đóng gỉả Cổ Quý Sinh. Lão quen biết họ quá nhiều năm, lại có trí nhớ phi thường nên biết tên từng nhân, nô tỳ trong trang. Cổ Quý Sinh lại chẳng có vợ con, anh em ruột. Thế là gia tài cự vạn của Hí Nhân Cư Sĩ đổi chủ.
Sau lễ thượng thọ, Tam Dương Chân Nhân cấp tốc đưa bọn Tư Đồ Sảng xuôi để về Long Hổ Sơn trên đất Giang Tây.