Chương 1
Tác giả: Vincent Watelet
Thưa độc giả đáng kính, đây là câu chuyện chiếc bình thiêng có tên là Graal trong đó đã chứa những giọt máu quý giá của Đấng Cứu Thế vào ngày Chúa tử nạn trên cây thánh giá để cứu vãn những nỗi khổ của loài người.
Một thiên thần đã đọc cho Joséphé viết nên câu chuyện này. Đến lượt tôi, tôi lại kể các bạn nghe để các bạn biết sự thật về những hiệp sĩ và những con người thần thánh qua các cuộc phiêu lưu kỳ lạ đầy nguy hiểm của mình đã làm thế nào để cuối cùng chinh phục được chiếc bình Graal.
Vào thời kỳ Chúa tử nạn trên cây thánh giá, ở Jérusalem có một người tốt bụng và chính trực tên là Joséphé d’ Arimathie, ông đã đi theo Chúa trên tất cả các chặng đường đau khổ của Người.
Nghe nói chính Joséphé đã hứng những giọt máu chảy ra từ những vết thương của Chúa vào trong chiếc bình Graal, chiếc bình thiêng này được giữ và lưu truyền trong gia đình Joséphé từ đời cha sang đời con trong thời gian rất dài.
Rồi một hôm, chiếc bình Graal, sau khi đã chu du qua nhiều đại dương, được mang tới nước Anh do một người cháu họ lâu đời của Joséphé, mà người ta chỉ biết dưới tên gọi "Vua Câu Cá".
Vị vua này không trị vì như các vị vua khác trên trái đất mà cho xây tại một nơi bí mật một lâu đài rộng mênh mông xứng đáng lưu giữ chiếc bình thiêng, sau đó giam mình trong lâu đài để cầu nguyện.
ít lâu sau một vị vua mới lên ngai vàng vương quốc Anh, tức là vua Arthur.
Mười năm đầu dưới thời vua Arthur trị vì là những năm thịnh vượng chưa từng thấy của vương quốc. Nhà vua vừa mạnh mẽ hiệu quả lại vừa khôn ngoan, triều đình của ngài là triều đình cực kỳ hùng cường. Phải nói rằng theo lời khuyên của thuật sĩ Merlin, vua Arthur đã chiêu dụ được các hiệp sĩ chọn lựa nhất, có tới ba trăm bảy mươi hiệp sĩ quây quần quanh ngài.
Các hiệp sĩ này thường lui tới triều đình để tiệc tùng và kể lại các cuộc phiêu lưu kỳ thú nhất của mình trong những ngày tung hoành ngang.dọc khắp vương quốc. Họ ngồi quanh một chiếc bàn vô cùng lớn, một chiếc bàn tròn để vị thế ai cũng như ai, tránh sự cãi cọ tranh giành nhau chỗ ngồi.
Đây lại thêm một ý nghĩ khôn khéo của Mer-lin.
Chính vì lý do đó mà các hiệp sĩ có vinh dự ngồi ở đây được mệnh danh là "Hiệp sĩ của Chiếc Bàn Tròn".
Nhà vua thì đức độ và công minh, các hiệp sĩ của ngài thì vua ra sao quần thần thế ấy, vương quốc ngày càng có uy thế. Nhưng đến năm thứ mười của triều đại bỗng xảy ra một sự kiện khủng khiếp.
Một hôm, nhà vua tỉnh dậy thấy mình buồn vô hạn. Tất cả những đức tính làm cho Ngài nổi tiếng biến mất hết. Ngài không muốn thiết triều, bỏ bễ mọi công việc của vương quốc, suốt ngày lang thang trong các hành lang của cung điện như một tâm hồn đau khổ.
Các bác sĩ, các thuật sĩ sáng suốt nhất đều ra mắt triều đình mong chữa khỏi chứng u uất cho quân vương mình. Nhưng không kết quả:
chứng sầu muộn của nhà vua vẫn hoàn toàn bí ẩn.
Vua thế nào triều đình thế ấy. Việc thiện hiếm có dịp thực hiện do đó các hiệp sĩ Bàn Tròn dần dần bỏ triều đình phân tán đi mọi nơi mong tìm những cuộc phiêu lưu kỳ diệu mà cũng ngày càng trở nên hiếm hoi chứ không nhiều như trước. Chỉ còn lại hai mươi nhăm hiệp sĩ trung thành với triều đình mà thôi.
Người vợ dịu dàng của vua Arthur, hoàng hậu Guinevière, dĩ nhiên là người đầu tiên bị tình trạng này tác động. Nhưng cũng như mọi người, bà chịu không biết làm thế nào...
Một hôm, vua lại đi lang thang trong cung điện. Thấy hoàng hậu ngồi bên cửa sổ đầm đìa nước mắt, Ngài thở dài tiến lại gần bà.
- Hoàng hậu, Trẫm biết vì sao hoàng hậu buồn. Khổ thay, chính là vì Trẫm đó mà.
- Thưa Đức Vua, ngài nói đúng! Em đã biết một thời, cũng vào một ngày như ngày hôm nay, biết bao nhiêu hiệp sĩ chen chúc ở nơi đây, đông đến nỗi không đếm được. Thế mà ngày nay thật tủi, chẳng còn lại mấy người! Nói thực ra, em sợ rằng Thượng Đế đã quên mất Đức Vua rồi.
- Trẫm biết nói gì với nàng bây giờ, người vợ dịu hiền của Trẫm... Trẫm có cảm giác tất cả nghị lực của mình đều đã tiêu tan. Trẫm biết,.chính vì vậy mà Trẫm mất đi các hiệp sĩ, mất đi lòng thương mến của bạn bè. ôi, nếu như Trẫm biết được căn nguyên bệnh tật hiểm nghèo này!
Bỗng hoàng hậu Guinevière nảy ra một ý nghĩ:
- Thưa Đức Vua, hay là ngài tới ngôi nhà thờ nhỏ Saint-Augustin trong Khu Rừng Trắng?
Nghe nói người ta đến được đó chỉ nhờ may mắn run rủi bước chân. Nơi ấy rất nguy hiểm nhưng cũng đầy những điều kỳ diệu. Người ta còn nói cần gì được nấy miễn là chân thành. Biết đâu ngài sẽ tìm được ở đó lời giải cho những vấn đề của mình.
ý nghĩ này khiến nhà vua lấy lại được chút nghị lực. Đôi mắt ngài lấp lánh một thứ ánh sáng mà lâu nay không ai nhìn thấy:
- Quả vậy, Trẫm phải đi tìm ngôi nhà thờ nhỏ ấy mới được! Khó khăn mấy cũng không nguy hiểm bằng cứ ngồi đây với nỗi nguy hiểm rình rập Trẫm để Trẫm chết đi còn bị nguyền rủa và bị mọi người xa lánh.
Nhà vua vội tới căn phòng nơi tụ tập các bộ hạ thân cận của mình sai đem vũ khí tới ngay và thắng cho Ngài con ngựa tốt nhất.
Kẻ hầu người hạ quá sung sướng thấy chủ mình lại có đôi chút nghị lực, vội vàng vâng lời và chỉ một lát sau vua Arthur đã rời lâu đài lên đường đi tới Rừng Trắng.
Ngài cưỡi ngựa suốt đêm và một phần của ngày hôm sau nên thấy thấm mệt khi tới một khu rừng thưa xinh xắn, lối vào được ngăn bởi một hàng rào.
Nhà vua sắp sửa bước vào thì nhìn thấy dưới bóng một cây to có một cô gái tay dắt dây cương buộc con la.
- Cô gái, - Ngài nói, - cầu Trời mang lại cho cô niềm vui và hạnh phúc! Cô làm ơn cho biết có ai ở trong khu rừng thưa này không?
- Thưa ngài, đó là nơi ở của một tu sĩ và bên cạnh có một nhà thờ nhỏ.
- Có phải nhà thờ vị thánh đáng kính Augustin không? - Nhà vua hỏi.
- Đúng như vậy, xin khẳng định với ngài là như vậy nhưng cũng xin báo trước với ngài khu rừng thưa này đầy nguy hiểm, chưa hiệp sĩ nào an toàn qua được hàng rào trước mặt ngài.
- Thưa cô, - vua Arthur trả lời, - điều đó đối với tôi chẳng quan trọng gì bởi vì tôi sắp.bước qua bây giờ đây. Trời mà muốn thì chẳng mấy chốc cô sẽ lại gặp tôi.
Nhà vua thúc con ngựa nhảy phắt qua hàng rào và tiến về phía ngôi nhà thờ nhỏ, nơi có tiếng hát cất lên. Ngài xuống ngựa định bước vào nhưng một sức mạnh kỳ lạ giữ chân ngài lại.
Vua Arthur hổ thẹn hiểu rằng nếu như mình muốn biết ai đang hát trong nhà thờ này thì chỉ có cách nhìn qua cửa sổ như một tên kẻ cắp.
Nhà vua đành làm vậy.
Dưới ánh sáng mờ của mấy ngọn nến, vị thầy tu ở ẩn đang hành lễ. Quỳ trước bàn thờ là một người đàn bà và đứa con, cả hai đẹp không gì trên thế giới này sánh nổi. Người mẹ mặc chiếc áo đơn giản màu xanh. Đứa trẻ khoác chiếc áo măng-tô tím, trên đầu đội một vòng miện bằng thứ vàng nguyên chất tinh khiết nhất.
Bỗng nhiên một luồng ánh sáng chói lọi rực chiếu trong nhà thờ làm nhà vua nhắm mắt lại.
Mở mắt ra ngài thấy vị tu sĩ quỳ trước mặt đứa trẻ, hai bàn tay và hai bàn chân đứa trẻ nhỏ máu, chiếc vòng miện bằng vàng biến thành một chiếc vòng gai.
Nhà vua hiểu ngay trước mặt mình là Đức Chúa Giê-su. Ngài vội quỳ sụp xuống áp mặt xuống đất.
Vài giây sau, cũng có thể là vài tiếng đồng hồ sau, nhà vua cảm thấy một bàn tay đặt lên vai mình. Bên cạnh ngài là vị tu sĩ ở ẩn...
- Thưa ngài, bây giờ ngài có thể vào trong nhà thờ được, lúc nãy ngài chưa đủ tư cách dự lễ thánh ấy. Sự hổ thẹn của ngài đã cứu ngài.
- Thưa tu sĩ đáng kính, - nhà vua nói, - sở dĩ tôi đến đây là vì muốn tu tỉnh, muốn được khuyên bảo và được giúp đỡ. Tôi nghe nói chẳng ai đến đây cầu nguyện mà không được giúp đỡ cả. Xin tu sĩ hãy cho tôi biết vì đâu tôi mắc căn bệnh hiểm nghèo này!
- ôi Đức Vua! - Vị tu sĩ nói sau một lát im lặng. - Sở dĩ những năm trị vì đầu tiên của ngài vinh quang rực rỡ là vì vua Câu Cá đến vương quốc ngài với chiếc bình thiêng Graal. Nay xảy ra một bất hạnh lớn. Một hôm, một hiệp sĩ của ngài trú chân trong lâu đài vua Câu Cá đã nhìn thấy chiếc bình Graal hiện ra cùng với mũi thương nhỏ máu..Tu sĩ im lặng thêm một lát rồi nói tiếp:
- Hiệp sĩ này tên là Perceval. Chính bản thân chàng ta cũng không biết mình là cháu đích thực của vua Câu Cá. Nhìn thấy bình Graal cùng mũi thương, chàng sững sờ cả người, không đưa ra một câu hỏi nào để biết bình Graal là cái gì và người ta sử dụng nó để làm gì. Ngay lập tức chiếc bình Graal cùng với mũi thương biến mất.
Vì lỗi của hiệp sĩ đó mà ngài bị chứng u sầu.
Các vương quốc của ngài đánh lẫn nhau, các hiệp sĩ của ngài chẳng còn cuộc phiêu lưu nào nữa cũng đâm ra chém giết lẫn nhau. Chính vì thế đưa đến bệnh tật của ngài.
Nhà vua ngẫm nghĩ về những lời nói trên và cuối cùng đặt câu hỏi mà ngài thiết tha nhất:
- Vậy thế bao giờ vương quốc tôi lấy lại được những thứ đã mất? Bản thân tôi làm được gì?
- Thưa ngài, - vị tu sĩ trả lời. - Việc đầu tiên là ngài hãy trở về lâu đài. Lòng ăn năn của ngài cũng đã làm được nhiều rồi. Sau đó ngài phải tìm ra một hiệp sĩ xứng đáng vào tòa lâu đài của vua Câu Cá và chiếm lại chiếc bình Graal. Xin tạm biệt Đức Vua.
- Tạm biệt tu sĩ, - vua Arthur nói, vẫn chìm lắng trong những suy nghĩ của mình.
Ngài bước nhanh về phía con ngựa và quay về nhà không chậm trễ. Nhưng mới đi được một đoạn ngắn ngài gặp ngay một kỵ sĩ cưỡi con ngựa đen phi tới chỗ ngài.
- Hiệp sĩ, chàng là ai vậy? - Vua Arthur hỏi, tay nắm chắc mũi thương.
- Tôi là người chỉ một lòng căm ghét ông.
- Chàng hiệp sĩ xa lạ trả lời.
Và chẳng nói gì thêm hắn ta lao vào nhà vua. Vua cũng nhào tới. Cú sốc mạnh đến nỗi chiếc khiên của nhà vua bị đâm vào vang to lên.
- Một trong hai chúng ta phải chết. - Hiệp sĩ đen vừa kêu vừa lao lên lần nữa.
Lần này mũi thương của nhà vua đâm trúng ngực hiệp sĩ đen khiến hắn ta lăn xuống chân ngựa. Vua yêu cầu đầu hàng nhưng hiệp sĩ đen không chịu. Bằng một nhát gươm, Arthur xẻ đôi lồng ngực hắn rồi chặt đứt đầu hắn.
Thấy hắn đã chết hẳn, nhà vua chuẩn bị rời khu rừng thưa, vừa lúc xuất hiện sau ngài cả một đội quân sẵn sàng đưa ngài đến chỗ chết. Ngài sững lại không biết làm gì thì bỗng trước mặt ngài xuất hiện cô gái lúc nãy ngài gặp ở trước khu rừng thưa..- Lạy Trời, thưa ngài, xin ngài đừng rời bãi chiến trường trước khi mang cho tôi cái đầu ngài vừa chặt của chàng hiệp sĩ!
Vua Arthur quay lại nhận thấy các kỵ sĩ đằng sau đang lao tới giết mình:
- Được thôi, thưa người đẹp, nhưng cô muốn tôi chết chắc khi đòi hỏi tôi một điều như vậy?
- Không đâu, ngài cứ đem lại cho tôi thứ mà tôi yêu cầu rồi tôi sẽ cho ngài biết tại sao tôi đòi hỏi ngài điều lạ lùng ấy!
Vua không hỏi thêm gì nữa, thúc ngựa tới chỗ thây hiệp sĩ đen. Nhưng trước mặt ngài đã có một hiệp sĩ tay cầm cây thương đầu có cắm thủ ấp của hiệp sĩ đen mà vua đã vì lý do...
- Xin cho lại tôi chiếc đầu ấy! - Arthur thốt ra. - Nó thuộc về tôi, tôi là người đã giết con người mang chiếc đầu ấy trong một cuộc chiến đấu công bằng.
- Vâng, dĩ nhiên tôi sẽ trao lại cho ông nếu ông cho tôi biết tên người đã giết hiệp sĩ đen.
- Tôi là Arthur, vua nước Anh. Đó, tôi đã nói ra tên tôi, giờ thì cho tôi xin chiếc đầu ấy.
Người kia không phản đối gì nữa. Arthur trở lại chỗ cô gái, đầu mũi thương của mình cắm chiếc đầu hiệp sĩ đen.
- Nào bây giờ thì cô cho biết tại sao cô muốn có chiếc đầu này.
Cô gái đưa hai tay lên ôm đầu:
- Thưa ngài, nhờ chiếc đầu bị chặt này mà tôi lấy lại được lâu đài của tôi vốn bị người ta chiếm mất. Nó cũng cho phép tôi nhận ra người hiệp sĩ sẽ trả lại tài sản cho tôi: chàng ta tên là Perceval.
- Perceval! Chưa hết một ngày mà tôi đã nghe cái tên đó hai lần. Tôi cảm thấy có một số điều phải chờ thời gian mới giải thích được.
Tuy nhiên nhà vua vội trở về để mặc sức suy nghĩ về những lời nhà tu sĩ ở ẩn kia đã nói. Ngài cảm thấy như có một dòng máu mới đang chảy trong huyết quản. Chắc hẳn cuộc phiêu lưu kỳ diệu nhất sắp sửa bắt đầu, người phải chiêu tập ngay các hiệp sĩ của mình lại.
- Thôi xin tạm biệt cô! Vậy là cô đã tìm được thứ cô muốn. Và cả tôi nữa, thực vậy, có lẽ tôi cũng như cô.
Và giật dây cương, quay ngựa, vua Arthur phóng thật nhanh về lâu đài mình..