Tập 3. Chương 16
Tác giả: Zalin Grant
Kế hoạch của John Paul Vann để đưa lén Châu ra khỏi Việt Nam hòng giúp ông này thoát khỏi móng vuốt của Thiệu đã bị vỡ lở vào tháng Hai 1970. Vì Châu cứ do dự không biết nên đi hay không, nên cảnh sát của Thiệu và nhân viên của CIA đã có thời gian để tìm được chỗ ẩn náu của Châu và báo cáo cho sứ quán biết rằng Vann đang giấu Châu ở Cần Thơ. Đại sứ Ellsworth Bunker rất tức giận. Ông đòi Vann phải đến gặp ông ngay.
Bunker vẫn nói theo giọng bình tĩnh thường ngày, ông cho Vann biết rằng Vann sẽ bị cách chức và đưa về nước nếu ông cứ tiếp tục dính líu vào việc của Châu. Bunker giữ lập trường cho rằng việc này là công việc của chính phủ Sài Gòn, và hoàn toàn là công việc giữa người Việt Nam với nhau. Bunker nói rằng ông biết Vann có những bạn bè rất có thế lực trong giới báo chí và việc cách chức Vann sẽ gây ra một số vấn đề, nhưng ông sẵn sàng đương đầu với những khó khăn đó.
George Jacobson thuật lại rằng: “Vann đã đến văn phòng của tôi sau khi gặp Bunker và nói “Lạy Chúa! Thật là kinh khủng!” Jacobson là người làm việc cho Bunker và là bạn của Vann. “Đây là lần duy nhất tôi thấy Vann run. Mặt ông ta cứ tái đi và toát mồ hôi”.
Tuy nhiên, bất chấp lời cảnh cáo của Bunker, Vann vẫn không bỏ rơi Châu và xúc tiến kế hoạch đưa Châu khỏi Việt Nam Nhưng Châu đã được báo cho biết sự đe doạ của Bunker và từ đó ông đã có quyết định. Ông không thể chịu trách nhiệm làm hỏng công việc và cả sự nghiệp của Vann. Châu nói với Vann rằng ông muốn trở lại Sài Gòn.
Châu không chịu tin rằng sứ quán Mỹ và CIA lại có thể để cho Thiệu bỏ tù ông. Ông đã làm việc với người Mỹ lâu như vậy, nên ông không nghĩ rằng người Mỹ có thể bỏ rơi ông, đặc biệt từ khi họ biết rõ sự thật về việc ông tiếp xúc với người anh cộng sản của ông, ông cho rằng đó chẳng qua chỉ là một sai lầm mà thôi.
Trên đường về Sài Gòn, Châu tìm cách liên lạc với Jean Sauvageot, nay đã rời trung tâm huấn luyện Vũng Tàu về Sài Gòn làm đại diện của William Colby bên cạnh thủ tướng Nam Việt Nam. Trong những ngày cuối cùng của chính quyền Johnson, Colby được đề bạt lên phụ trách chương trình bình định thay cho Robert Komer đi làm Đại sứ Mỹ ở Thổ Nhĩ Kỳ. Châu yêu cầu Sauvageot giúp đỡ bằng cách giải toả sự hiểu lầm chung quanh việc ông tiếp xúc với anh ông.
Lời cầu cứu của Châu làm cho Sauvageot rất đau lòng, ông đồng ý gặp Châu tại bữa ăn sáng ở nhà hàng Continental. Châu không những là đang làm việc cho Colby, là một người ông khâm phục mà còn được Colby đối xử rất tử tế, đến nỗi Colby còn mới ông tới ở chung biệt thự của mình nữa. Sauvageot thường làm thông dịch cho Colby trong những chuyến công tác xa thành phố. Sauvageot đoán rằng Colby không muốn ông gặp Châu, nhưng ở Sài Gòn này, nếu có một người nào đó có thể giúp Châu, ngoài Đại sứ Bunker, thì người đó chính là Colby chứ không ai khác.
Sauvageot kể lại rằng: “Tôi đã nói với Colby là tôi quan tâm tới Châu như thế nào. Colby đáp lại rằng đó là một điều bất hạnh, nhưng người Mỹ chúng ta còn có chính phủ Sài Gòn phải tính đến và chúng ta phải cẩn trọng. Tuy Colby không nói thẳng ra nhưng tôi chắc là ông tin tôi hiểu ông muốn nói gì và tự tôi sẽ tách khỏi Châu. Nhưng đối với Châu, tôi có một nghĩa vụ đạo lý phải thực hiện”.
Colby cho rằng chương trình bình định sắp giành được thắng lợi. Ông cho bằng việc ngốc nghếch lật đổ Diệm đã làm cho Mỹ lãng phí mất nhiều năm. Bây giờ thì rõ ràng người ta không thể làm điều gì nếu không có thế ổn định của chính phủ Sài Gòn. Bây giờ thì sự ổn định đã được thiết lập, Việt Cộng đã bị thiệt hại nặng trong trận tấn công Tết, và tính chất cuộc chiến tranh đã thay đổi thành một cuộc chiến tranh qui ước giữa quân chính qui Bắc Việt với quân Mỹ và quân Mỹ đánh đấm rất tốt. Kỳ này thì Mỹ có thể thắng, ông nghĩ vậy. Colby cũng biết rằng có thể là Châu đã đóng góp vào chương trình bình định nhiều hơn bất cứ người Việt Nam nào khác. Nhưng nếu xét theo điều ưu tiên cần thiết để thắng cuộc chiến tranh thì nên giúp Châu hay không nên làm gì có thể làm suy yếu thế ổn định chính trị của chế độ Thiệu?
Đôi khi Châu gọi điện thoại cho Sauvageot ngay tại biệt thự của Colby, nhưng họ sử dụng mật danh là Billy và nói với nhau bằng tiếng Việt trung khi Colby đang ở phòng bên cạnh. Sauvageot nói với Colby rằng Châu đã làm một số việc có ích cho Hoa Kỳ. Ông nhắc Colby rằng vào thời kỳ đó, sứ quán Mỹ và CIA lấy làm vui mừng vì Châu đã cung cấp cho họ những tin tức về anh ông mà không chia sẻ tin tức đó với chính phủ Sài Gòn. Sauvageot nói rằng tất cả người Mỹ có nghĩa vụ phải tác động tới Thiệu, không để cho Châu bị bắt hay bị bạc đãi.
Không lâu sau khi nói chuyện với Colby, Sauvageot nhận được một cú điện thoại của chi cục CIA mời ông tới văn phòng của họ tối hôm đó. Khi ông tới, ông gặp một sĩ quan CIA đi thẳng vào vấn đề: “Chúng tôi nghe nói ông cho rằng chúng ta có một số nghĩa vụ đối với Châu”. Sauvageot đáp: “Phải, tôi nghĩ vậy”, và ông nêu ra một số lý do của ông. Người sĩ quan gọi một sĩ quan CIA khác vào và trình bày hồ sơ về Châu.
Viên sĩ quan cầm hồ sơ nói: “Thưa thiếu tá, chúng ta không có bất cứ quan hệ nào với Châu”. Người của CIA nói với Sauvageot: “Chúng ta không có nghĩa vụ nào đối với Châu, mà từ trước tới nay cũng chưa bao giờ có. Ông đã được thông tin sai lạc. Ông phải tách khỏi Châu. Hãy quên ông ta đi. Ông hiểu không?”
Sauvageot đáp: “Vâng, tôi cho rằng mấy ông nói không đúng và tôi không đồng ý, nhưng tôi hiểu!” Nói xong ông bỏ về.
Sauvageot tiếp tục gặp Châu, nhưng kín đáo hơn và dặn Châu đừng gọi điện thoại tới nhà Colby nữa. Nhưng một hôm Châu gọi Sauvageot tại cơ quan phủ thủ tướng với một thái độ khẩn trương, yêu cầu Sauvageot cho gặp càng sớm càng tốt. Sauvageot gợi ý gặp ở một tiệm ăn. Để khỏi bị theo dõi, ông đi xe đạp qua cửa sau và theo đường hẻm nơi không có xe nào bám đuôi được.
Châu bắt đầu tin rằng ông ta đang thực sự bị nguy hiểm và hỏi Sauvageot có cách nào giúp được không, Sauvageot nói rằng ông chỉ có một cách giúp đỡ Châu: “Nếu anh đồng ý thì anh nằm trong xe hơi của tôi và tôi sẽ chở anh qua biên giới Campuchia. Một khi đã tới Campuchia thì anh tự lo liệu lấy”. Nhưng Châu đã quyết định từ chối đi Campuchia theo sự bố trí của Vann, nên ông cảm ơn Sauvageot và nói: “Không, tôi sẽ không đi như vậy đâu”.
Sauvageot nhớ lại: “Hôm đó tôi trở về cơ quan vào khoảng ba giờ chiều. Thư ký của tôi nói: “Ông Colby gọi điện thoại cho ông”. Tôi nhấc điện thoại lên và nghe Colby nói rất lạnh nhạt “Không bao giờ gặp con người đó nữa, không bao giờ. Hiểu chưa?”
“Vâng thưa ông”. Ông ta đặt máy xuống. Nhiều năm sau tôi cũng không hiểu làm sao họ biết tôi gặp Châu hôm ấy. CIA đã đặt máy nghe trộm trong điện thoại của tôi”.
Có lẽ trong tất cả Đại sứ Mỹ từng phục vụ ở Việt Nam, Ellsworth Bunker là người ít dính líu nhất tới việc bỏ rơi những người bạn của Hoa Kỳ như Châu chẳng hạn. Sau này khi mọi việc đã kết thúc, ngay những người ngưỡng mộ ông cũng thừa nhận trong thời gian đó, ông không được thoải mái cho lắm. Thực tế là có ai đó muốn cho thiên hạ quên việc này đi, bởi vì trong khối lượng đồ sộ những báo cáo của Bunker gửi cho Johnson sau này được đưa ra công khai, có một trang duy nhất bị mất, đó là trang Bunker nhận định về Châu. Vụ Trần Ngọc Châu và vụ Bunker khăng khăng ủng hộ Thiệu là sự thay đổi thái độ tiêu biểu của Bunker trong những năm ông ở Sài Gòn. Ông đến đây với ý định chấm dứt sự dính líu của Mỹ ở Việt Nam càng sớm càng tốt. Nhưng bây giờ thì ông, cũng như Colby, lại nghĩ rằng cuối cùng Hoa Kỳ có thể thắng trong cuộc chiến tranh này.
Những chỉ thị riêng của Johnson cho Bunker khi bổ nhiệm ông này làm Đại sứ năm 1967, Bunker đã nói lại sau khi Johnson qua đời quả là đáng ngạc nhiên và làm cho những người đã từng cộng tác với ông phải nghi ngờ. Bunker đã nói với vợ ông, bà Carol Laise, và bạn ông, ông Bruce Palmer, về những gì Johnson đã nói với ông, và người ta cũng ít có lý do để nghi ngờ những điều đó.
Bà Carol Laise Bunker nói rằng: “Sứ mạng của ông là làm sao cho người Mỹ có thể rút khỏi Việt Nam. Không có vấn đề gì chung quanh chuyện này cả. Nhưng đúng là vấn đề này chưa được hiểu rõ”.
Bruce Palmer và Bunker đã cùng phục vụ ở Cộng hoà Đô-mi-nic trong thời gian khủng hoảng 1965 và đã làm bạn với nhau mãi tới sau này khi hai người cùng phục vụ ở Việt Nam. Nhiều năm sau, tới tháng Sáu 1981, tướng Palmer ghi lại trong hồi ký, “Đại sứ Bunker đã nói với tôi rằng tháng giêng 1967, khi Tổng thống Johnson yêu cầu ông sang Việt Nam,Tổng thống nói rằng sứ mệnh của Bunker là làm sao phải chấm dứt chiến tranh cho quân đội Mỹ càng sớm càng tốt. Tổng thống hình như cũng không nói tỉ mỉ thế nào là một tình trạng ăn ninh có thể chấp nhận được ở Nam Việt Nam cho quân đội Mỹ rút về nước. Đó là một cuộc nói chuyện riêng chỉ có hai người có mặt”.
Không biết đó có phải là một chỉ dẫn cho thấy rằng ngay từ đầu năm 1967, Johnson đã từ bỏ một chiến thắng của Mỹ, hay đó là một biểu hiện khác trong thái độ lưỡng lự của Tổng thống, thật khó giải thích vì sao Ellsworth Bunker, lúc đó đã bảy mươi ba tuổi lại được chọn để tiếp tục công việc của Maxwell Taylor và Henry Cabot Lodge. Không có điểm nào trong sự nghiệp của Bunker chứng tỏ rằng ông có thể hoàn thành sứ mạng của một vị Thống đốc để lãnh đạo quân đội Mỹ giành chiến thắng trong một cuộc chiến tranh cả. Trái lại, toàn bộ sự nghiệp của ông đều chứng tỏ tài năng của ông là một nhà thương thuyết.
Bunker đã vào ngành ngoại giao theo yêu cầu của bạn học của ông ở Yale là Dean Acheson, trong thời chính quyền Truman, sau một thời gian dài ông quản lý công việc kinh doanh của gia đình là công ty National Sugar Refining Company và đã làm Đại sứ ở Argentina, Italy và India. Tài ngoại giao của ông đã thấy rõ trong cách ông xử sự với Ed Lansdale, đây là một việc có thể coi là một thử thách cao nhất cho bất kỳ vị Đại sứ nào.
Ed Lansdale kể lại: “Lodge nói với tôi “Bunker không thích ông, tôi đã nói chuyện với ông ta rồi. Ông khôn ngoan thì về Hoa Kỳ với tôi tôi có thể bảo vệ ông”. Tôi không rõ là Lodge định bảo vệ tôi chống lại cái gì. Tôi Không quan tâm tới chuyện đó, tôi nói với ông ta: “Không, tôi không về Hoa Kỳ. Ở đây tôi còn nhiều việc phải làm. Tôi sẽ ở đây còn Bunker có muốn đá tôi ra ngoài thì cứ việc đá. Tôi ra sân bay cái hôm Bunker tới Việt Nam. Ông ta mời tôi lên xe cùng về nơi ở của ông. Ông ta nói chuyện với tôi theo cái kiểu ông cho rằng tôi rất có ích trong việc làm Hoa Kỳ hiểu được nguyện vọng của người Việt Nam”.
Lansdale còn ở lại Việt Nam vài tháng sau đó và được Bunker đối xử tử tế mặc dù không cho ông thêm quyền hành gì so với thời Cabot Lodge. Khi Lansdale quyết định rời Việt Nam về nước năm 1968; ông đã mang theo cảm tưởng cho rằng Ellsworth Bunker, cũng như Donalth Heath trong những năm 1950, chính là người Đại sứ tốt nhất đã phục vụ ở Việt Nam.
Bunker biết rằng đoàn báo chí Mỹ ở Sài Gòn có thể ảnh hưởng tới thành công hay thất bại của sứ mạng của ông, nên vào tháng Sáu 1967, hai tháng sau khi tới Sài Gòn, ông đã mời sáu trong số những nhà báo hàng đầu tới để nghe ông báo cáo tình hình riêng. Người đứng đầu văn phòng báo Time ở Sài Gòn tới dự thấy rằng những lời bình luận của Bunker hôm đó có tính chất bùng nổ đến nỗi ông phải gửi bài bình luận của mình qua đường HongKong chứ không dám đưa ra bưu điện Sài Gòn. Bunker nói với các nhà báo rằng ông thấy những cuộc bầu cử Tổng thống Nam Việt Nam, dự trù vào tháng Chín, là một bước trên quá trình dẫn tới những cuộc thương thuyết nhưng dặn họ đừng tiết lộ rằng nhận định đó là của một quan chức chính thức của chính phủ Mỹ đưa ra. Ông cho họ biết rằng ông đã mời Thiệu và Kỳ tới biệt thự của ông hôm thứ hai tuần trước để nói về việc họ đang chơi thủ đoạn tranh giành quyền bính với nhau. Ông nói rằng phần lớn nhận xét của ông nhằm vào Kỳ là người đang lợi dụng địa vị thủ tướng của mình hòng dành ghế tổng thống.
Buổi họp mặt của Bunker với các nhà báo là một sự bày tỏ lòng trung thực một cách tính toán để tranh thủ họ đứng về phía ông. Nhưng theo ông thấy, rõ ràng là chiến thuật này không có tác dụng. Làm cho các nhà báo tin tưởng ở ông là một việc không có kết quả. Những bài viết phản ánh tình hình bên ngoài Sài Gòn vẫn sặc mùi bi quan. Bế tắc vẫn là chữ được dùng nhiều nhất để mô tả tình hình.
Con ông là Samnel Bunker nói: “Cha tôi đâm ra sợ giới báo chí. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong cuộc đời sự nghiệp của ông mà những gì giới báo chí nói ra quan trọng và đáng sợ đến thế. Ông cho rằng giới báo chí hoạt động thiếu tinh thần trách nhiệm đầy đủ. Ông thường bày tỏ sự bực bội về việc này”.
Về bản chất, Bunker là một người làm việc theo nguyên tắc, thận trọng, cẩn mật. Sự thất vọng của ông đối với giới báo chí càng làm cho ông thêm e dè với họ. Điều đó đã trở nên rõ ràng sau khi báo chí mô tả rằng cuộc tấn công Tết 1968 là một thắng lợi của cộng sản, ông cho rằng nói như thế không đúng bởi vì trong cuộc tấn công này Việt Cộng đã bị tổn thất rất nặng. Ông chỉ tin tưởng ở một vài nhà báo như Keyes Beech và Robert Shaplen, còn với những người còn lại ông dành cho họ một cách đối xử lịch sự như người ta vẫn thường đối xử với nhau dưới triều vua Edward VII nước Anh, làm nản lòng cả những người sấn sổ nhất. Ông là một người quá khôn ngoan nên không bao giờ để lộ ra ngoài sự bất bình của ông đối với giới báo chí. Ông vẫn để ngỏ cửa với họ và thỉnh thoảng còn mời họ đến dự những bữa ăn tối không chính thức như ông vẫn thường mời từng nhóm nhỏ trong bọn họ. Các nhà báo đánh giá cao những thị hiếu của ông. Ông mời họ tới những bữa tiệc đêm phải nói rằng trong khắp thành phố không đâu bằng, và khi ông xuất hiện trong cái áo Trôpican nhẹ nhàng, thắt cà vạt đen với Smoking hoặc trong bộ đồng phục thẳng nếp với áo sơmi ngắn tay, thì phải công nhận là không ai ăn mặc thanh lịch hơn được nữa. Vào cuối một trong những buổi chiêu đãi không chính thức đó ông đi quanh đám nhà báo, tay khua leng keng cốc Whisky đá mà nói: “Thế nào, các chàng trai, tôi đã nói với các bạn một số việc. Nào bây giờ các bạn hãy cho tôi biết những gì tôi cần biết xem nào. Có điều gì xảy ra ở đất nước này mà tôi chưa được biết không nào? Nhiều nhà báo đã rút lui trong trạng thái vui vẻ, ngà ngà say, không nghĩ rằng Bunker đã cung cấp cho họ ít tin tức hơn là đã nhận được của họ. Thực ra, ông ta nói càng ngày càng ít, và trừ những điện tín và báo cáo chính thức, thực tế ông không hề viết gì về Việt Nam. Khi rời khỏi cuộc chiến này, ông có viết hồi ký nhưng không chịu công bố.
Bunker chỉ có một người tâm phúc, đó là vợ ông, bà Carol Laise, một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, nhỏ hơn ông gần hai mươi lăm tuổi. Bà Laise đã tiến thân trong hàng ngũ ngoại giao cho đến lúc bà nhận thức được rằng tiến thân trong ngành ngoại giao là một điều không thuận lợi đối với một người đàn bà. Bà gặp ông Bunker ở New Delhi và khi bà vợ trước của ông này chết thì họ lấy nhau, chỉ đúng một tháng trước khi Lyndon Johnson dự định đưa Bunker qua Sài Gòn làm Đại sứ. Bà Laise làm Đại sứ của Hoa Kỳ ở Vương quốc Népal.
Tổng thống Johnson đã cấp cho Bunker một máy bay riêng để ông có thể tới Katmandu, thủ đô của Népal, trong thời gian ông phục vụ ở Việt Nam, hoặc để cho bà qua Sài Gòn thăm ông. Trong những buổi nghỉ cuối tuần của ông ở Népal, bà Carol Laise đã tồ chức những buổi đi chơi ngoài trời tại một thung lũng, không có một biên pháp an ninh nào, nơi họ có thể nhìn thấy đỉnh núi Everest. Có lẽ đó là chỗ duy nhất trên thế giới mà họ có thể tìm thấy sự riêng tư. Ở đó hoặc ở trang trại Vermont mà Bunker rất yêu thích, bên ngoài Brattleboro. Mặc dầu ông đến từ New York, nhưng ông lại thích nói mình đến từ Vermont. “Tôi nghĩ rằng ông thực sự thích thú khi báo chí mô tả ông là nhột người cao lớn, lầm lì xứ Vermont”, Samuel Bunker nói. Ông có những khiếu hài hước rất là trần tục khiến cho những người quen biết ông thấy có sự trái ngược kỳ lạ và thích thú đối với những cách ứng xử theo lối cổ của ông.
“Thế mạnh của Bunker là ông có thể kiểm soát và áp đặt ý muốn của ông cho những loại người khác nhau như Colby, Shackley và Creighton Abrams - theo tôi nghĩ là chỉ nhờ sự đối xử phong nhã của ông” Frank Snepp nói.
Còn William Colby thì cho rằng “Bunker dứt khoát là vị Đại sứ số một trong các Đại sứ. Ông là một người rõ ràng, đơn giản, mạnh mẽ và cả quyết, đồng thời lại tế nhị nữa”.
Cả Bunker lẫn Colby đều ưa thích con người thứ ba trong bộ ba của họ - Creighton Abrams, con người đến thay thế Westmoreland vào năm 1968. Có người cho rằng ông quá tốt, xứng đáng để được giao cho chỉ đạo một cuộc chiến tranh tốt hơn. Một phần tiếng tăm của ông, ông giành được bằng cách lợi dụng sai lầm của những người tiền nhiệm. Phần khác, do phong cách của ông lại thích hợp với cuộc chiến tranh chẳng lấy gì làm anh hùng này hơn là phong cách của Westmoreland. Dáng người bè bè, chắc nịch, tóc rối gù lưng tôm, Abrams có thể nói đùa một cách thoải mái những chuyện lố bịch trong lĩnh vực quân sự cũng như của chính bản thân mình, trong khi rít xì-gà và nốc rượu trong khi dàn máy stéréo của ông phát ra những bản nhạc của Beethoven hoặc Mozart, rút trong bộ sưu tập nhạc cổ điển phong phú của ông. Westmoreland đã rất tích cực tranh thủ các nhà báo, lúc nào cũng sẵn sàng tiếp đón và chiều theo ý muốn của họ, trong khi Abrams rất bực bội khi phải che giấu sự khinh miệt của ông đối với họ. Ấy vậy mà chính Abrams lại là người được báo chí đối xử tốt hơn. Nhưng ông nổi tiếng không nhờ may mắn hay phong cách. Abrams có thừa một thứ mà Westmoreland thiếu: trực giác.
Thay vì hỏi các tư lệnh chiến trường xem họ đã đếm được bao nhiêu xác chết, Abrams lại hỏi họ là Việt Cộng đã tìm cách thu thuế trong khu vực hoạt động của họ như thế nào, hoặc họ đã thành công tới mức nào trong việc phát hiện những thành viên trong cái chính phủ bí mật của Việt Cộng. Ông không theo chiến lược tìm và diệt của Westmoreland mà nhấn mạnh chiến lược đặt hàng rào bao vây, theo đó quân đội của ông bao vây một khu vực rồi để cho cảnh sát Việt Nam tiến vào thôn ấp lùng Việt Cộng. Đồng thời ông lại sử dụng máy bay ném bom hạng nặng B-52 đánh vào những nơi tình nghi có quân đội của định, đây là một chiến dịch mà các nhà báo không thể quan sát, do đó không thể chỉ trích được.
Colby thích Abrams bởi vì cuối cùng ông đã tìm ra một ông tướng cho rằng cuộc chiến này không thể thắng bằng cách đếm xác trong khi bộ máy của Việt Cộng vẫn còn hoạt động. Còn Bunker thích ông vì ông đã tận tâm giúp cho Nam Việt Nam tăng cường lực lượng quân sự của họ, đó là điều kiện tiên quyết để thực hiên chỉ thị của Johnson về việc rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt. Năm 1969, Nhà Trên đã thay thầy đổi chủ nhưng Richard Nixon nói rõ ông chủ trương đi theo con đường thương lượng mà Johnson đã nêu ra năm 1968 khi ông tuyên bố không ra tranh cử Tổng thống một nhiệm kỳ nữa. Mặc dầu chính sách 'Việt Nam hoá” chiến tranh là của Nixon chứ không phải của Abrams đề ra nhưng Bunker cũng như hầu hết mọi người đều nghĩ rằng Abrams làm việc với giới quân sự Nam Việt Nam tốt hơn nhiều so với Westmoreland là người hay tỏ ra khó tính trước sự bất lực và lộn xộn của quân lực Nam Việt nam trong những tháng đầu ông nhậm chức tư lệnh.
Với Abrams làm tư lệnh chiến trường và Colby phụ trách bình định, Bunker có thể tập trung năng lực vào sự củng cố chính quyền Sài Gòn do Nguyễn Văn Thiệu đứng đầu theo kết quả cuộc bầu cử năm 1967. Không nghi ngờ gì rằng Bunker là người luôn luôn thực hiện một cách tin tưởng mọi chỉ thị của Bộ Ngoại Giao và của Nhà Trắng. Ông không phải là Cabot Lodge để tự mình đề ra chính sách. Những người chỉ trích Bunker cho rằng nếu ông có khuyết điểm nào đó thì đó là việc ông đã gắn bản thân ông quá chặt chẽ vào sự thành bại của người đứng đầu chính phủ Sài Gòn. Có người còn cho rằng, đối với Bunker, Thiệu chính là cây cầu trên sông Kwai vậy.
Theo lời bà Carol Laise, vợ ông, Bunker cho rằng Thiệu là một người có năng lực và đang trưởng thành trong công tác. Bunker cho rằng dưới sức ép của tình hình như vậy, rõ ràng là Thiệu đã làm được nhiều điều đáng kể. Khi tôi nói tới sức ép của tình hình, tôi muốn nói rằng Thiệu phải đối phó cùng một lúc vó hai công chúng, công chúng trong nước ông và công chúng trong nước Mỹ. Bunker nghĩ rằng Thiệu là người đa nghi, nhưng trong đa nghi cũng có sự cẩn thận có thể thông cảm được.
Cuộc bầu cử Tống thống Nam Việt Nam diễn ra bốn tháng sau khi Bunker tới Sài Gòn. Bunker. có quan niệm riêng của mình về thái độ ngoại giao cần phải có trong những trường hợp như thế này. Ông cho rằng đây là một cuộc bầu cử hợp hiến và ông không hề gây sức ép bắt ai phải làm gì. Thay vào đó, ông lại có thói quen tham khảo ý kiến với Thiệu như thể ông đang đối xử với người đứng đầu chính phủ nước Anh trong chiến tranh vậy. Ông là người đã đi qua đoạn đường nửa dặm từ toà Đại sứ tới dinh Tổng thống nhiều lần trong một tuần.
George Jacobson, người đã nhiều khi tháp tùng Bunker đi gặp Thiệu có kể lại rằng “Bunker ghi ý kiến của mình trên những mẩu giấy cứng khổ 3 x 5 cm trước khi đi gặp Thiệu. Ông cố nhớ những gì đã ghi trước khi chúng tôi tới dinh Độc Lập. Thiệu là một người rất lịch sự. Anh không bao giờ thấy một người nào như Thiệu ngồi sau bàn làm việc của mình cả. Sau khi bắt tay, chúng tôi ngồi quanh bàn uống cà-phê, nơi trà đã dọn sẵn. Bất kể nói về vấn đề gì, Bunker vẫn giữ giọng nói lịch sự ôn tồn thường ngày. Ông đề cập đến vấn đề một cách nhẹ nhàng, nhưng không bao giờ nhạt nhẽo cả. Câu chuyện giữa ông và Thiệu bao giờ cũng diễn ra như đôi bạn cố tri vậy”.
Dáng điệu nho nhã ôn hoà của Bunker rất hấp dẫn đối với trí tưởng tượng Đông phương, trái hẳn với thái độ thẳng thừng kiểu nhà binh của Maxwell Taylor, hay thái độ ngang ngược của Cabot Lodge. “Ông ta ngồi thẳng, và bình tĩnh nghe người đối thoại, không bao giờ có vẻ nóng ruột cả”, một nhà báo Việt Nam đã mô tả ông như vậy. Người Việt Nam tặng cho ông cái tên “ông già tủ lạnh”. Con người bẩm sinh không có thớ làm Thống đốc thuộc địa, được dư luận công chúng Việt Nam coi là vị Đại sứ quyền lực nhất trong tất cả các Đại sứ của Hoa Kỳ. Cách Bunker nhận thức được sức mạnh và cách ông ủng hộ mạnh mẽ Thiệu đã ngăn chặn mọi cuộc đảo chính ở Sài Gòn.
Trong khi Thiệu nhanh chóng trưởng thành dưới sự che chở của Bunker thì, trong chỗ riêng tư, ông Bunker nói một cách tự hào với các ký giả rằng Thiệu đã trở thành một “chính khách tinh khôn”. Sự thăng tiến của Thiệu đã diễn ra không ồn ào bởi vì chỉ có Bunker và Westmoreland cho rằng Thiệu chính là sự lựa chọn của Mỹ. Những người khác, từ Lodge tới Lansdale và Ellsberg, đều ủng hộ Kỳ.
“Bunker không muốn John Vann hay bất cứ ai khác trong cộng đổng ngoại giao của Mỹ tại đây tiếp xúc gần gũi quá với Châu trong thời gian ông này gặp rắc rối với Thiệu”, George Jacobson nói. “Châu được coi là một nhà quân sự và một nhà cai trị có tài trên lĩnh vực dân sự. Bunker không có vấn đề hiềm khích gì đặc biệt với Châu. Nhưng ông quan tâm đặc biệt tới việc nâng đỡ Thiệu - không được gây rắc rối cho Thiệu. Bunker quan tâm tới việc Thiệu thực hiện những điều ông yêu cầu và ông cho điều đó quan trọng hơn là một cuộc xung đột giữa chính phủ với Châu. Vấn đề đơn giản vậy thôi”.
Ai tới gặp Thiệu lần đầu tiên đều thấy ngạc nhiên. Người ta cứ nghĩ rằng một người đã tiến thân gian khổ, qua bao nhiêu đụng chạm như vậy mới lên tới tuyệt đỉnh quyền lực ở Sài Gòn chắc phải là một viên tướng mặc áo giáp chống đạn bên dưới bộ quân phục, súng lục kè kè thắt lưng. Nhưng lại được đón tiếp bởi một người không gây ấn tượng gì, một con người chắc nịch, ăn mặc kiểu xưa, không đeo huân chương, lịch sự mời khách uống trà, nói một cách duyên dáng tiếng Anh khá trôi chảy, thỉnh thoảng mới vấp một đôi chữ. Nhưng nếu vì vậy mà cho rằng Thiệu là một chính khách dễ mến thì cũng không phải. Ông là người hút liên tục loại thuốc lá Kool trong khỉ nói chuyện. Ông là con người cô đơn. Mặc dầu đầu óc hoạt bát, biết tổ chức, ông vẫn không phải là một người trí thức, ông đọc báo và tạp chí, thỉnh thoảng một cuốn sách. Ông đã phấn đấu kịch liệt, nhưng thăng tiến tương đối chậm. Ông hay giải trí bằng thuyền ở bãi biển Vũng Tàu nơi ông có một ngôi nhà nghỉ mát, mặc dầu ông không phải là một người câu cá giỏi.
Thiệu thăng quan tiến chức chậm chạp, không có gì đặc biệt, chẳng qua là nhờ tánh cẩn thận mà sống sót sau những cuộc tranh chấp nội bộ, ông không phải là một lãnh tụ có sức thu hút quần chúng. Tuy vậy, tới đầu năm 1970 ông đã tiến gần tới chỗ tin tưởng hoàn toàn ở khả năng của mình để lãnh đạo Nam Việt Nam và nói chuyện với Hoa Kỳ. Lòng tin đó có được là nhờ lâu nay Đại sứ Bunker đã dày công nuôi dưỡng cho cái tôi của ông phát triển. Còn một lý do quan trọng hơn và ít người biết hơn làm cho ông tự tin như vậy là vì ông cho rằng Nixon còn nợ ông một món. Nói đơn giản, Thiệu tin rằng chính ông đã làm cho Nixon trở thành tổng thống Hoa Kỳ.
Thiệu không phải người duy nhất cho rằng mình có vai trò quan trọng trong cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ năm 1968. William Connell, trưởng ban tham mưu của Hubert Humphrey cũng cho rằng việc Thiệu tẩy chay cuộc hoà đàm Paris trong ba ngày cuối cùng của cuộc tranh cử có thể có tác dụng quyết định tới kết quả cuộc bầu cử. Nhà báo chính luận Theodore White, người sưu tầm tài liệu về cuộc vận động tranh cử 68 cho loạt sách Bầu ra Tổng thống của ông cũng nghĩ như vậy.
“Johnson ngừng ném bom vài ngày trước bầu cử đã củng cố mạnh mẽ tư tưởng cho rằng chúng ta có khả năng rút ra khỏi Việt Nam”, William. Connell nói. “Việc đó đã tác động tới cuộc vận động. Số người ủng hộ Humphrey đã tăng lên cùng với Nixon. Nhưng tới phút cuối cùng, sự rút lui của Thiệu khỏi cuộc hoà đàm đã chấm dứt tất cả. Tôi đang trên máy bay khi Humphrey được tin Thiệu không chịu gửi một phái đoàn tới Paris. Humphrey ít khi nổi giận, ông ta là một người vui tính nhưng hôm đó ông ta đã nổi điên thực sự. Ông nói “Khi xuống máy bay tôi sẽ tố cáo Thiệu và tôi sẽ tố cáo Nixon. Tôi sẽ nói toạc móng heo hết mọi chuyện ra”. Nhưng những người trong ban tham mưu của ông đã can: “Chẳng ma nào tin ông đâu. Người ta chỉ cho rằng ông đã bày ra mọi chuyện bởi vì ông đang trong cảnh tuyệt vọng đó thôi. Chuyện đó thật khó tin. Không ai lại tin rằng Nixon lại móc ngoặc với Thiệu để cắt đứt cuộc thương lượng cả”. Humphrey nói “Đúng vậy, tôi sẽ không tố cáo nữa, nhưng nếu được bầu thì chúng ta sẽ quan tâm tới mấy thằng khốn nạn đó”. Ông ta biết rằng hành động đó của Thiệu có thể làm ông ta thất cử”.
Chắc chắn là Thiệu muốn làm như vậy. Ông ta đã trở thành kẻ thù không đội trời chung của Humphrey một năm trước đó, tháng Mười Một 1967, khi Phó Tổng thống Humphrey có mặt ở Sài Gòn với tư cách là người đại diện cho Washington trong buổi lễ đăng quang của Thiệu và Kỳ, làm Tổng thống và Phó Tổng thống của Nam Việt Nam. Trên chiếc máy bay Không lực II đưa Humphrey tới Sài Gòn, một trong mấy người ủng hộ Lansdale đã báo cáo cho Humphrey về nạn tham nhũng lan tràn ở Nam Việt nam, và một số nhà báo theo phe ông nói thêm rằng, những báo cáo chính thức nói rằng chiến tranh đang thắng là không đúng sự thật, và rằng chính sách của Mỹ đang thất bại. Humphrey đang ở trong tâm trạng muốn nói thẳng mọi việc với Thiệu và Kỳ khi ông tới Sài Gòn. Đi cùng với Bunker và một người trong ban tham mưu của ông tới dinh tổng thống, Humphrey đã nói lỗ mãng với Thiệu rằng Thiệu cần phải có nhiều thay đổi có ý nghĩa nếu muốn được Mỹ tiếp tục viện trợ. Humphrey: “Thiệu nghe mà tay cầm điếu thuốc khói đang bay. Bỗng ông ta đưa tay búng tàn thuốc như muốn cho tôi hiểu rằng ông ta cũng búng những lời nói của tôi đi như vậy”.
“Rồi Thiệu nói “Không, các ông sẽ còn ở đây một thời gian nữa. Chúng tôi hiểu ông định nói gì nhưng chúng tôi cho rằng sự ủng hộ của quý ông sẽ còn tiếp tục, và có,thể, còn tăng thêm trong năm, sáu năm nữa”. Ông ta định nói tiếp nhưng tôi đã chặn lại: “Có thể là tôi nói không được rõ ý” rồi tôi nói lại với ông ta một cách chi tiết hơn và mạnh mẽ hơn những điều tôi đã nói trước đó, và kết luận: “Những gì chúng ta đang gây ra cho xã hội Việt Nam không có lợi gì cho các ông cũng như cho chúng tôi cả”.
Trên đường về Humphrey hỏi Bunker có phải ông đã nói một cách “thô bạo về ngoại giao” không. Bản thân Bunker thì không bao giờ nói như vậy với Thiệu, bao giờ cũng theo kiểu ngoại giao, đáp: “Tôi nghĩ rằng đó là những điều họ cần được nghe. Tốt thôi”. Nếu có mặt Lansdale ở đấy ông sẽ nói với Humphrey rằng nói như vậy chẳng có gì là tốt cả. Humphrey đã nói lên những cảm nghĩ của Lansdale nhưng lại theo cái kiểu gây thù oán với Thiệu và Kỳ. Lansdale vẫn nói với họ về nạn tham nhũng, về sự cần thiết phải thay đổi nhưng không bao giờ ông ta lên lớp họ và không bao giờ lại nói là “có thể tôi nói không rõ ý”. Và thật sự là mỉa mai, Humphrey đã trở thành môn đệ của Lansdale về thực chất của vấn đề Việt Nam nhưng ông lại không học được phong cách của Lansdale trong cách đối xử với người Việt Nam, rất có thể là ông đã thủ tiêu mọi cơ may của mình để làm Tổng thống Hoa Kỳ.
Khi một người của Nixon là bà Anna Chennault, một người Mỹ gốc Hoa, vợ goá của tướng Claire Chennault, Tư lệnh của đơn vị Cọp Bay trong Thế Chiến II, thúc ép Thiệu đừng để dính vào những cuộc thương lượng hoà bình của Johnson thì Thiệu chịu ngay. Bà Anna Chennault có quan hệ chặt chẽ với John Mitchell, người chỉ đạo cuộc vận động bầu cử của Nixon. Thiệu giải thích rằng “Một thắng cử của Humphrey có nghĩa là sẽ có một chính phủ liên hiệp ở Sài Gòn trong vòng sáu tháng. Với Nixon, ít ra chúng ta còn có cơ hội”.
Thiệu đã thấy được sự lật lọng của Nixon không lâu sau cuộc bầu cử khi vị tổng thống mới thúc ép ông tới bàn thương lượng. Thiệu không thích thú gì trước sự thay đổi thái độ của Nixon nhưng ông cho rằng đã có sự xác nhận ngầm rằng ông đã lập công với những người Cộng hoà bằng cách từ chối hợp tác với những người Dân chủ trước ngày bầu cử. Phải, Thiệu cho rằng ông đã làm cho Nixon trở thành tổng thống và Nixon còn nợ ông món nợ đó.
Đầu năm 1969, vững tin rằng mình có sự hậu thuẫn của Nixon và Bunker, Thiệu bắt đầu tấn công vào một trong hai lực lượng đối lập lớn nhất của ông. Ông không hề tỏ ra do dự trong việc vô hiệu hoá những cá nhân nào chống đối ông nhưng lần này ông tấn công vào cả một tầng lớp, đó là tầng lớp trí thức Sài Gòn. Hành động này giống y như Diệm và, trên thực tế, từ khi ngồi vào ghế Tổng thống, Thiệu đã làm hệt như nhà độc tài trước ông. Chính Thiệu đã chỉ huy cuộc tấn công vào dinh Tổng thống trong cuộc đảo chính năm 1963 và nhờ đó mà được đề bạt lên cấp tướng nhưng bây giờ ông lại thấy rằng Diệm đã làm được nhiều việc hơn ông nghĩ và bây giờ chính ông đang phải đối phó với những kẻ thù trước đây của Diệm, đó là những người trí thức không ngừng chỉ trích các chính phủ cầm quyền ở Nam Việt Nam từ khi chế độ này thành lập tới nay. Hình như Thiệu ngày càng tỏ ra sùng bái Diệm. Lúc nào ông cũng nói với những người khách đến thăm rằng căn phòng trang trí sang trọng của ông hiện nay chính là phòng ngủ của Diệm trước đây và cứ nằng nặc đòi sử dụng chiếc xe Mercedes cũ của Diệm mỗi lần đi công vụ trong một thời gian rất lâu sau khi ông đã có chiếc xe mới.
Tầng lớp trí thức bao gồm tất cả những ai đã học qua đại học, phần lớn là học ở Pháp, về sau có nhiều người học ở Mỹ. Với tư cách là một giai tầng xã hội, những người trí thức là những người quốc gia nồng nhiệt, ngạo mạn với người Mỹ, sống không tưởng và phản đối chiến tranh. Họ bác bỏ chủ nghĩa cộng sản nhưng họ lại chấp nhận người cộng sản. Họ coi khinh giới quân sự mà bản thân họ và con cái họ không bao giờ phục vụ; và họ thường ngồi quanh bàn cà-phê mà lớn tiếng phê bình chính phủ Thiệu là đàn áp tự do cá nhân, đẩy tuổi trẻ của đất nước vào chỗ tiêu vong. Mặc dầu những điều họ nói phần lớn là đúng nhưng họ không phải là những người được ưa thích và tín nhiệm.
Thiệu bắt đầu tấn công vào trường hợp ông Nguyên Văn Lâu, một người đã du học tại Anh quốc, làm chủ nhiệm tờ Saigon Daily News. Nhân viên của Thiệu đã phát hiện ra rằng ông Lâu nhiều thanh thế này đang tiếp xúc với một người bạn thời thơ ấu nay là một sĩ quan tình báo của Cộng sản - đó chính là ông Hiền, anh của Châu. Khi được hỏi vì sao ông không báo cáo với chính quyền mối quan hệ với ông hiền, Lâu trả lời: “Tôi là người trí thức, tôi không thể tố giác một người bạn với nhà cầm quyền được”. Sau khi Hiền bị cảnh sát bắt, Thiệu cho bắt Lâu với hai mươi sáu trí thức khác, thuộc những giới khác nhau, kể cả bác sĩ và dược sĩ.
Trong việc phỉ báng giới trí thức, Thiệu dùng lời lẽ chẳng khác gì Diệm ngày trước. Ông ta đã phát biểu tại một lớp huấn luyện cán bộ ấp tại Vũng Tàu rằng: “Các bạn còn yêu nước hơn cả cái đám trí thức mỗi ngày ăn toàn cơm tây và uống bốn ly whisky. Bọn chúng là những người có học nhưng đều làm nô lệ cho cộng sản”.
Bài diễn văn của Thiệu được toà Đại sứ của ông Bunker đánh giá rất cao, là một trong những bài diễn văn hay nhất của Thiệu. Khi Thiệu tiếp tục cho kiểm duyệt và đóng cửa một số tờ báo ở Sài Gòn thì bắt đầu những lời thì thầm rằng đã có sự bất bình của nhiều người Mỹ, bất bình vì Thiệu đối xử với trí thức như trước đây họ đã từng bất bình trong việc đàn áp giới Phật giáo vậy. Phấn khởi trước thắng lợi của việc đàn áp trí thức, Thiệu quyết định tấn công tới lực lượng đối lập thứ hai. Đó là sản phẩm của Lansdale, Quốc hội Nam Việt Nam, và cùng với nó, Trần Ngọc Châu.
Năm 1949, khi Châu quyết định rời bỏ hàng ngũ Việt Minh thì Thiệu đang trên đường đi học trường võ bị Saint Cyr của Pháp. Thiệu đã được Pháp chú ý một năm trước đó khi họ tìm những người tình nguyện theo học các trường sĩ quan mới của họ, trường này bắt đầu nhận học sinh Việt Nam. Thiệu đã tốt nghiệp làm trung uý và được chọn để sau này theo học trường Saint Cyr. Một trong những người bạn cùng lớp với Thiệu, cũng được chọn đi học bên Pháp, là Đặng Văn Quang, một người hoàn toàn khác với Thiệu. Quang là một người vô tư lự, liến thoắng, lúc nào cũng đùa giỡn, cười cợt.
Trên tàu sang Pháp, Quang đưa Thiệu xem hình một cô em bà con xa, Nguyễn Thị Hải Anh, một cô gái xinh đẹp mười chín tuổi, theo đạo Thiên chúa và con của một lương y giàu có tại tỉnh Mỹ Tho. Thiệu sống cô đơn và nhớ nhà, yêu cầu Quang cho địa chỉ người đẹp và thế là bắt đầu thư đi thư lại kéo dài tới tám tháng, tức là suốt thời gian học ở Saint Cyr. Khi Thiệu trở về Sài Gòn thì họ gặp nhau và bắt đầu một cuộc tìm hiểu để cuối cùng đi tới hôn nhân 18 tháng Sáu 1951.
Trên đường binh nghiệp Thiệu và Quang mỗi người một ngả nhưng họ vẫn giữ liên lạc với nhau. Thiệu là một người không dễ gì kết bạn với ai. Ông sống dè dặt, cô độc. Nhưng Quang là một trường hợp đặc biệt. Họ đã cùng qua những khoá huấn luyện cơ bản với nhau, cùng nhau đi Pháp học và quan trọng hơn cả là giờ đây họ có quan hệ họ hàng thông qua vợ Thiệu. Thiệu và Quang cùng lên cấp tướng. Thiệu được người Mỹ coi là có khả năng và lương thiện - dĩ nhiên là ở Việt Nam, chữ “lương thiện” chỉ được hiểu một cách tương đối thôi. Nhưng đối với Quang thì thậm chí cách hiểu tương đối cũng không thể áp dụng được nữa. Ông ta nổi tiếng là viên tướng tham nhũng nhất trong nước.
Quang bắt đầu làm tiền từ lúc nào thì không biết, nhưng việc làm tiền của ông ta đã tăng mạnh khi người Mỹ không còn sức nào chịu nổi cái chuyện tham nhũng rành rành của Quang và yêu cầu phải đưa ông ta ra khỏi địa vị tư lệnh quân sự vùng đồng bằng sông Cửu Long. Thiệu đồng ý cách chức Quang nhưng lại bổ nhiệm Quang làm cố vấn trưởng dinh Tổng thống. Ông không thể bỏ rơi bạn bè khi hoạn nạn. Từ đấy, mỗi lần người Mỹ muốn nói chuyện với Thiệu về tệ nạn tham nhũng thì họ phải hẹn trước với Quang và Quang thường dự những buổi họp đó.
Ông Mark Huss, quan chức của cơ quan AID nói rằng “Thiệu không tham nhũng như các sĩ quan khác, nhưng cũng khá tham nhũng. Tôi nghĩ là tới gần cuối cuộc chiến thì vợ chồng Thiệu, đặc biệt là vợ ông, thấy tình hình quá nguy hiểm nếu không tìm cách chuyển một số tài sản ra nước ngoài. Nếu anh có một người sẵn sàng làm mọi chuyện bẩn thỉu như Quang thì anh khỏi bận lòng về mọi chi tiết, cuộc đời anh thêm dễ chịu và thoải mái quá rồi cần gì. Đó là nền tảng mối quan hệ của họ”.
Thay vì đem việc làm của Quang đặt thành vấn đề với Thiệu thì người Mỹ lại định lợi dụng anh ta. Frank Snepp nói rằng: “Anh không mua chuộc nó làm gì bởi vì anh biết là không thể kiểm soát được nó. Nhưng hiện nay anh ta đang là người mở đường cho chúng ta, cung cấp cho chúng ta mọi ngõ ngách theo yêu cầu. Quang đáp ứng yêu cầu của chúng ta, điều đó có nghĩa là chúng ta không thể tìm được nguồn tin nào quan trọng hơn về nạn tham nhũng trong chính phủ. Vậy thì cuối cùng ai kiểm soát ai?”
Dù quan hệ của Quang với CIA như thế nào, William Colby cũng sẵn sàng lợi dụng ông ta, tuy bản thân ông cũng không ưa gì Quang: “Quang là một thằng chó đẻ”, Colby nói. “Nó chẳng làm được việc gì. Tôi cứ nghĩ nó làm thằng hề trong cung đình thì phải hơn. Lúc nào cũng phất pha phất phơ đùa giỡn”.
Colby thường tự hào là có khá năng đánh giá tình hình một cách thực tế và đạt được mục tiêu đề ra trong mọi trở ngại. Theo ông thấy “Đúng là có nạn tham nhũng ở đây nhưng anh không có khả năng làm gì được cả. Chỉ có thể ngăn không cho nó lan quá rộng mà thôi. Và chắc chắn là anh có thể ngăn không cho người của anh dính vào đó. Mọi việc trên đời đều phải có ưu tiên - ưu tiên trong đầu tôi là làng xã. Vấn đề số một trên thế giới hiện nay là phải thắng cuộc chiến tranh này, rồi sau đó sẽ giải quyết nạn tham nhũng. Tôi không thấy có gì trái ngược trong việc làm này cả”.
Nếu Mỹ đã có thái độ hai mặt như vậy đối với tham nhũng thì Thiệu và đồng sự của ông ngại gì mà không hối lộ để lũng đoạn quyền bính của Quốc Hội. Quốc hội là một thứ sản phẩm người Mỹ ép ông phải nhận ngay giữa lúc cuộc chiến đang tiếp diễn. Mặc dầu Thiệu và CIA rất mong muốn nhưng Thiệu vẫn chưa lập ra một đảng thân chính phủ mạnh mẽ. Còn phái đối lập cũng chưa bao giờ thống nhất được với nhau. Quốc hội chỉ là nơi thể hiện những âm mưu và thủ đoạn chính trị thông thường mà thôi. Cách Thiệu giải quyết vấn đề là mời các Nghị sĩ vào dinh tổng thống dể dự một buổi chiêu đãi rồi hướng dẫn họ đi hàng một sang phòng bên cạnh tại đó họ được trao cho những phong bì gồm toàn “Vi-ta-min của Đức Thánh Trần”, sở dĩ người ta gọi như vậy vì hình ảnh người anh hùng cứu nước trước đây là Trần Hung Đạo được in trên tờ giấy bạc của Sài Gòn, người trao tiền cho các dân biểu là một dược sĩ giàu có người của Thiệu.
Bằng cách mua chuộc Quốc Hội như vậy, Thiệu gần như đã đặt nó dưới quyền kiểm soát của mình. Nhưng chỉ gần như thôi, chưa phải hoàn toàn. Còn một số nhà lập pháp độc lập và trung thực, sẵn sàng đối lập với Thiệu trên những nguyên tắc dân chủ. Người đứng đầu của họ là Trần Ngọc Châu. Thiệu biết rằng nếu ông ta đập tan được Châu thì Quốc Hội sẽ hoàn toàn thuộc về ông ta.