Chương 2
Tác giả: Dr. Blair T. Spalding
1. Quyền Năng Sáng Tạo Và Tâm Thức Bồ Đề
Bận về, chúng tôi thấy có một số đông những người lạ tề tựu ở làng Asmah. Họ đến từ những vùng chung quanh. Một số các vị Chân Sư đã tựu họp lại để sắp sửa đi hành hương đến một vùng hẻo lánh cách đó gần bốn trăm cây số. Điều này làm chúng tôi ngạc nhiên, vì chúng tôi đã đi xuất hành một chuyến về hướng ấy và nhận thấy rằng cách đấy một trăm hai mươi cây số, con đường mòn đi ngay vào một bãi sa mạc hoang vu. Bãi sa mạc này thật ra là một vùng cao nguyên bao phủ bởi những đồn cát di động luôn luôn dưới những cơn gió lớn, và ở đó cỏ cây rất thưa thớt. Bên kia đồng cát, con đường mòn vượt lên những dãy núi nhỏ trong dãy Tuyết Sơn. Chiều hôm đó, chúng tôi được mời cùng đi trong chuyến hành hương, và sẽ lên đường vào ngày thứ hai kế đó. Chúng tôi được cho hay trước rằng không cần đem theo những đồ hành lý nặng vì chúng tôi sẽ còn trở về Asmah trước khi vượt qua dãy Tuyết Sơn.
Dật Sĩ và Nê Bưu dĩ nhiên là đã chuẩn bị tất cả mọi việc, và ngày thứ hai lúc trời còn chưa sáng, chúng tôi đã nhập bọn với ba trăm đoàn viên của nhóm người hành hương. Phần nhiều những người này bị đau vì những bệnh tật mà họ hy vọng sẽ được chữa khỏi trong chuyến đi này. Mọi việc đều trôi chảy êm đẹp cho đến ngày thứ bảy, trời thình lình nổi lên một cơn giông bão dữ dội nhất mà chúng tôi chưa từng thấy bao giờ. Trong ba ngày và ba đêm, những cơn mưa lũ rơi xuống không dứt, báo hiệu sắp đến mùa hè. Chúng tôi cắm trại ở một nơi cao ráo sạch sẽ, và cơn giông không gây cho chúng tôi một sự trở ngại nào. Chúng tôi lo ngại nhất là vấn đề tiếp liệu, vì chúng tôi biết rằng một sự trì hoãn kéo dài sẽ rất bất tiện cho tất cả mọi người.
Thật vậy, những người này chỉ đem theo một số lương thực tối thiểu, vừa đủ dùng cho chuyến hành hương, và không có phòng bị những trường hợp trì hoãn có thể xảy đến. Sự trì hoãn này lại càng nghiêm trọng gấp đôi, vì chúng tôi không thấy có giải pháp nào khác hơn là quay trở về Asmah để tiếp tế lương thực. Trong trường hợp này, chúng tôi phải vượt qua hai trăm cây số đường trường, mà phần lớn đi xuyên qua bãi sa mạc như đã nói ở trên.
Sáng ngày thứ năm, mặt trời chói rạng trên bầu trời quang đãng, và chúng tôi quyết định lên đường. Nhưng người ta cho hay cho hay là tốt hơn chúng tôi nên đợi cho đường khô ráo và mực nước sông giựt xuống thấp, để chuyến đi được dễ dàng hơn. Một người trong chúng tôi bày tỏ nỗi lo ngại chung của tất cả mọi người là lương thực sẽ cạn. Đức Tuệ Minh là vị đảm trách việc tiếp liệu, bèn nói với chúng tôi:
- Không cần phải lo ngại chi cả. Thượng Đế há chẳng săn sóc tất cả chúng sinh, lớn cũng như bé, và chúng ta há chẳng phải là chúng sinh của ngài hay sao? Các bạn hãy nhìn xem những hột giống lúa mì này. Tôi trồng nó xuống đất. Cử chỉ đó xác nhận rằng tôi cần dùng lúa mì, tôi đã tạo lúa mì trong trí tôi. Tôi đã làm đúng theo luật tự nhiên và lúa mì sẽ mọc đúng theo thời kỳ của nó. Phương pháp trồng lúa mì theo luật tự nhiên rất lâu dài và khó nhọc. Chúng ta cần phải chịu khó chờ đợi lâu lắc như vậy chăng?
Tại sao không kêu gọi đến một định luật cao siêu và toàn vẹn hơn để làm cho lúa mì mọc lên mau lẹ? Người ta chỉ cần định thần một lát trong sự yên tĩnh, quan niệm rõ lúa mì trong tư tưởng, và đây là những hột lúa mì sẵn sàng để đem xay giã. Nếu các bạn nghi ngờ, các bạn hãy lượng lấy nó, trước mắt chúng ta có lúa mì đã đập xong, chúng ta chỉ cần đem xay ra bột và làm bánh mì.
Đức Tuệ Minh nói tiếp:
- Các bạn đã thấy và tin. Nhưng tại sao chúng ta không kêu gọi đến một định luật còn toàn vẹn hơn nữa và sản xuất một vật còn toàn vẹn hơn, nghĩa là đúng cái món ăn mà ta cần dùng, tức là bánh mì! Các bạn sẽ thấy rằng các định luật còn toàn vẹn hơn, tế nhị hơn ấy, sẽ giúp cho tôi làm đúng cái món ăn mà tôi cần: đó là bánh mì.
Trong khi chúng tôi ngồi nghe một cách thích thú, thì một ổ bánh mì mới xuất hiện trên tay đức Tuệ Minh, rồi nhiều ổ nữa mà ngài đặt lên bàn cho đến khi chúng tôi đếm tất cả bốn chục ổ. Đức Tuệ Minh nói:
- Các bạn thấy rằng có đủ bánh mì cho tất cả mọi người. Nếu ăn không đủ, thì sẽ có các ổ khác nữa cho đến khi chúng ta ăn còn dư thừa.
Tất cả chúng tôi đều ăn bánh mì đó và cảm thấy rất ngon. Đức Tuệ Minh lại nói tiếp:
- Khi đức Jesus hỏi thánh Philip ở thành Galilée: "Chúng ta sẽ mua bánh mì ở đâu?" Thì đó là để thử thách vị môn đồ. Đức Jesus biết rõ rằng bánh mì mà đám quần chúng đang cần dùng không phải mua ở ngoài chợ hay ở các thị trường thương mại. Ngày mượn dịp đó để chỉ các môn đồ thấy rằng người ta có thể tạo ra bánh mì bằng sức mạnh của Tinh Thần. Người đời thường thường có quan niệm vật chất như Philip! Vị môn đồ này cũng tính như mọi người: "Ta có bấy nhiêu bánh mì, bấy nhiêu lương thực hay bấy nhiêu tiền bạc..."
***
Đức Jesus biết rằng khi người ta sống ở tâm thức Bồ Đề hay sống với tâm thức Chân Ngã, thì người ta không còn bị thiếu thốn hay gò bó gì trong sự giới hạn nào cả. Ngài nhìn về Thượng Đế là Nguồn Gốc của đấng Sáng Tạo ra muôn loài và tạ ơn ngài đã luôn luôn đặt trong tầm tay của loài người và chất liệu cần thiết để thỏa mãn tất cả các nhu cầu của họ. Ngài bèn bẻ bánh mì và bảo các môn đồ hãy phân phát cho tất cả mọi người. Khi tất cả mọi người đều ăn đã no, thì hãy còn thừa tới mười hai rổ bánh. Đức Jesus dạy rằng trong Tiên Thiên Khí có chứa đựng chất liệu để làm đủ mọi vật, và người ta có thể tìm ra lương thực của mình từ trong đó. Chúng ta rút cái chất liệu ấy ra để tạo lên mọi thứ cần dùng.
Cũng bằng cách đó Elisée làm cho người quả phụ thành Jéruasalem có dầu để ăn thừa thãi không bao giờ hết. Ngài không hỏi đến kẻ có thừa dầu ăn trong nhà, vì như thế số dầu chỉ có giới hạn. Ngài tiếp xúc với cõi Thiên Nhiên, và số dầu tạo ra không có giới hạn nào khác hơn là dung lượng của những bình chứa. Nếu người ta có đủ số lu, bình, vại để chứa, thì có lẽ đến bây giờ, dầu ấy vẫn chảy chưa hết!
Đức Tuệ Minh nói tiếp:
- Đây không phải là một cuộc thôi miên. Không có người nào trong các bạn đã có cảm giác rằng mình bị thôi miên. Nhưng các bạn đã tự mình thôi miên lấy mình từ lúc đầu bằng cách tin tưởng rằng người ta không thể nào thực hiện công việc toàn vẹn của Thượng Đế, hay tạo nên những đồ vật mà mình mong ước. Sự nhu cầu phải chăng cũng là ý muốn sáng tạo? Thay vì vươn mình lên để sáng tạo theo như ý muốn của Thượng Đế, người ta tự thu mình trong một cái vòng chật hẹp và nói "Tôi không thể". Do sự tự kỷ ám thị đó, rốt cuộc người ta tin rằng mình là một thực thể cách biệt với Thượng Đế. Họ đã đi lệch ra ngoài con đường toàn vẹn, họ đã bỏ lỡ mất cái mục đích sáng tạo. Họ không để cho Thượng Đế tự biểu lộ xuyên qua họ như Ngài muốn.
Đức Jesus, bậc đại giáo chủ, há chẳng nói rằng:
"Những việc gì mà ta đã làm, các ngươi sẽ cũng làm được, và các ngươi còn sẽ làm được những việc lớn lao hơn nữa."
Con người trong cương vị chân thật của họ, là con của Thượng Đế, sứ mạng của đức Jesus trên thế gian phải chi là để chứng tỏ rằng trong cương vị đó, con người cũng có thể sáng tạo một cách hoàn hảo và tốt đẹp như Thượng Đế? Khi đức Jesus ra lệnh cho người mù mà hãy đứng dậy rửa mắt y trong nước ao Siloè, phải chăng là để cho đám quân chúng thấy rằng ngài được Chúa Trời gửi xuống thế gian để sáng tạo cũng như Chúa Trời vậy? Đức Jesus muốn rằng mỗi người trong chúng ta cũng làm y như vậy bằng cánh thực hiện Chân Ngã nơi mình và nơi kẻ khác.
Tôi có thể tiến thêm một bước xa hơn nữa. Cái ổ bánh mì mà tôi nhận được và cầm trên tay đã tiêu hủy dường như bị lửa đốt cháy. Tại sao? Tôi đã lạm dụng cái định luật huyền bí mà nó đã giúp Philip tôi thể hiện ý muốn. Tôi đã đốt cháy món đồ vật mà tôi vừa sáng tạo nên. Làm như vậy, tôi đã lạm dụng cái định luật toàn vẹn đó, định luật cũng đúng đắn như những luật của âm nhạc chẳng hạn. Nếu tôi cứ tiếp tục lạm dụng hoài, thì không những luật ấy sẽ đốt cháy những vật tôi đã tạo nên, mà còn đốt cháy thiêu luôn cả người sáng tạo, là chính tôi nữa.
Mới đây, các bạn đã thấy một cục nước đá tượng hình trong ly nước mà không có nguyên nhân rõ rệt. Tuy vậy, vẫn có một nguyên nhân, và đó cũng là cái nguyên nhân đã tạo nên ổ bánh mì. Tôi có thể sử dụng cái định luật huyền bí đó khi mà tôi dùng ổ bánh mì hay khối nước đá để làm việc lợi ích cho nhân loại, hay là tôi hành động với tình thương, phù hợp với luật ấy, hoặc là khi mà tôi biểu lộ sự hành động của tôi theo ý muốn của Thượng Đế. Làm ra ổ bánh mì, nước đá hay một vật mà mình mong ước, là điều tốt. Mỗi người nên đi mau đến nơi chỗ mà người ta có thể làm những vật ấy. Các bạn có thấy là các bạn nên sử dụng cái định luật cao cả nhất, tức là luật tuyệt đối của Thượng Đế chăng? Các bạn sẽ tạo nên những gì mà các bạn cần dùng và thực hiện được những gì mà các bạn đã quan niệm sẵn trong trí như là cái lý tưởng cao đẹp nhất của mình. Các bạn sẽ được đẹp lòng Thượng Đế bằng cách tự biểu lộ và toàn vẹn hơn, với điều kiện là phải biết, cũng như đức Jesus, rằng mình là những người con hoàn hảo của Thượng Đế.
2. Thuật Đi Trên Mặt Nước
Sau tám ngày dừng chân một chỗ, một buổi sáng chúng tôi dỡ trại và tiếp tục lộ trình. Vào lúc xế trưa ngày thứ ba, chúng tôi đến bờ một con sông lớn chừng sáu hay bảy trăm thước bề rộng, nước chảy tràn bờ với một tốc lực rất mau chóng. Chúng tôi được biết rằng người ta có thể đi qua một chiếc cầu ở phía thượng lưu giòng nước để vượt qua sông, nhưng phải đi vòng quanh mất bốn ngày trên những con đường mòn rất cheo leo hiểm trở. Chúng tôi nghĩ rằng nếu phải chờ nước giựt xuống, thì tốt hơn nên đợi vài ngày ở tại chỗ. Như đã được đức Tuệ Minh chứng tỏ cho thấy, chúng tôi không cần phải lo ngại về vấn đề tiếp tế. Thật vậy, từ ngày chúng tôi bị cạn lương thực cho đến ngày trở về căn cứ điểm ở Asmah, tức là trong sáu mươi bốn ngày, tất cả đoàn gồm trên ba trăm người hành hương đều được tiếp tế đầy đủ với những đồ vật thực xuất xứ từ "Cõi vô hình."
Cho đến khi đó, không một ai trong nhóm chúng tôi đã hiểu ý nghĩa thật sự của những sự việc đã xảy ra. Chúng tôi không thể hiểu rằng tất cả đã được thực hiện do bởi một định luật huyền bí mà mỗi người đều có thể sử dụng.
Sáng ngày hôm sau, lúc ăn điểm tâm, có năm người lạ ở trong trại chúng tôi. Họ được giới thiệu với chúng tôi như là thuộc về một nhóm người cắm trại ở bờ bên kia sông và vừa về đến nơi từ một làng mà chúng tôi định sẽ đến viếng. Chúng tôi không để ý gì đến chi tiết này, vì lẽ tự nhiên chúng tôi nghĩ rằng chắc là họ đã tìm thấy một chiếc đò để vượt qua sông. Khi đó một người trong bọn chúng tôi muốn nói:
****
- Nếu những người này có đò qua sông, thì tại sao chúng ta không mượn dùng tạm để qua sông như họ vậy?
Chúng tôi tưởng là có lối thoát cho vấn đề khó khăn này, nhưng người ta nói cho chúng tôi biết rằng không có đò vì chỗ này ít có hành khách qua sông nên không ai nghĩ đến việc đưa đò.
Sau bữa ăn điểm tâm, tất cả chúng tôi đều tựu họp trên bờ sông. Chúng tôi nhận thấy rằng đức Tuệ Minh, Dật Sĩ, Nê Bưu và bốn người trong nhóm chúng tôi đang nói chuyện với năm người khách lạ. Dật Sĩ bước đến gần chúng tôi và nói rằng tất cả bọn họ đều muốn qua sông cùng với năm người khách lạ để ở lại chơi giây lát trong trại ở bên kia sông. Họ còn nhiều thời giờ vì họ đã quyết định ở lại đến ngày hôm sau để đợi cho mực nước sông hạ xuống thấp. Lẽ tự nhiên, sự tò mò của chúng tôi bị kích thích. Chúng tôi cho rằng thật là một việc táo bạo mà muốn lội qua sông giữa giòng nước cuốn mau như vậy chỉ vì mục đích thăm viếng xã giao một trại láng giềng! Chúng tôi không nghĩ rằng chuyến đi qua sông lại có thể thực hiện một cách khác hẳn.
Khi Dật Sĩ đã trở lại nhóm bạn của y, mười hai người trong nhóm có mặc áo quần đầy đủ, liền đi ngay xuống sông, và bước chân lên trên mặt nước (tôi không nói xuống nước). Tôi không bao giờ quên những cảm giác của tôi khi tôi thấy mười hai người ấy nối tiếp nhau đi hàng một từ đất liền xuống sông và đi trên mặt nước một cách tự nhiên! Tôi nín hơi thở, vì tôi lo ngại rằng họ sẽ chìm đắm và bị giòng nước cuốn trôi đi mất. Về sau tôi được biết rằng tất cả các bạn tôi cũng đều cảm nghĩ giống như tôi lúc ấy. Nhưng khi đó, mỗi người trong chúng tôi đều lặng người nín thở cho đến khi tất cả mười hai người kia đã đi qua khỏi giữa sông, vì chúng tôi ngạc nhiên xiết bao mà thấy họ đi bình yên trên mặt nước, không hề sợ sệt, vì nước không ngập quá gót giầy của họ. Khi họ đã qua sông và lên đến bờ bên kia, tôi có cảm giác như trút được một gánh nặng nghìn cân. Tôi tin rằng các bạn khác của tôi cũng có những cảm giác như vậy, cứ xét về nụ cười thoải mái của họ khi tất cả mười hai người kia đều đã qua sông. Đó hẳn là một kinh nghiệm chưa từng có đối với chúng tôi.
Bảy người trong nhóm của chúng tôi đã vượt qua sông trở lại để dùng bữa ăn trưa. Tuy rằng bận về của họ ra đi lần đầu tiên, mỗi người chúng tôi đều thở dài nhẹ nhõm khi tất cả đều đã bước lên chân bờ. Không có người nào trong nhóm chúng tôi đã rời khỏi bờ sông ngày hôm đó. Chúng tôi không bình phẩm gì về sự việc nói trên vì chúng tôi đã quá đắm chìm trong những cơn suy tư trầm lặng.
Đến xế trưa, vì thấy mực nước sông không giựt xuống nên chúng tôi đành phải đi thêm đường rừng. Chúng tôi thức dậy sớm vào sáng ngày hôm sau và chuẩn bị lên đường. Trước khi chúng tôi ra đi, năm mươi hai người trong trại chúng tôi lẳng lặng tiến về phía bờ sông và đi trên mặt nước để vượt qua sông như mười hai người ngày hôm trước. Người ta nói cho chúng tôi biết rằng chúng tôi có thể cùng đi qua sông với họ, nhưng không một ngày nào trong nhóm chúng tôi có đủ đức tin để làm thử. Dật Sĩ va Nê Bưu đòi đi vòng lớn theo đường rừng cùng chúng tôi. Chúng tôi cố gắng thuyết phục họ đừng làm vậy, viện lẽ rằng chúng tôi có thể tìm đường đi, để tránh cho hai vị khỏi tốn công nhọc sức. Hai vị không nghe, nhất định cùng đi cùng với chúng tôi, và nói rằng điều ấy không có gì là khó nhọc đối với họ cả.
Trong bốn ngày đi bộ vòng quanh đường núi cheo leo để theo kịp những người đã qua sông bằng cách đi trên mặt nước, chúng tôi không có đề tài nói chuyện hay suy ngẫm nào khác hơn là những diễn biến ly kỳ mà chúng tôi đã chứng kiến trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà chúng tôi đã trải qua cùng với những nhân vật lạ lùng này. Qua ngày thứ nhì, chúng tôi đang vất vả khó nhọc để trèo lên một con đường dốc đứng, dưới ánh mặt trời nóng gắt, thì vị trưởng nhón của chúng tôi, vẫn im lặng từ suốt hai ngày qua không nói một câu nào, thình lình nói lớn:
- Này các bạn, tại sao con người lại bị bắt buộc phải bò lết trên mặt đất?
Chúng tôi đồng thanh đáp lại rằng ông ta đã nói lên đúng cái ý nghĩ của chúng tôi lúc ấy. Vị trưởng nhóm nói tiếp:
- Nếu có những người mà có thể làm được những gì mà chúng ta vừa thấy, thì tại sao tất cả lại không thể làm được như vậy? Tại sao con người lại bằng lòng chịu bò lết trên đất, và không những bằng lòng thôi, mà bị bắt buộc phải bò và lết? Nếu con người có cái quyền năng chế ngự như mọi loài, thì chắc hẳn là y phải có thể bay cao hơn loài chim. Nếu như vậy, tại sao y không chứng tỏ quyền năng của mình từ lâu? Đó chắc hẳn là do tư tưởng của con người. Tất cả đều do cái quan niệm duy vật của con người về bản chất của mình. Trong tư tưởng của y, con người chỉ có nghĩ rằng y đang bò lết trên mặt đất thôi. Bởi đó nên y chỉ có thể bò và lết!
Dật Sĩ liền chụp ngay lấy cơ hội nói:
- Ông bạn hoàn toàn có lý, tất cả đều do tâm trạng của con người. Tùy theo sự cảm nghĩ của con người, mà y bị giới hạn hay toàn năng, tự do hay nô lệ. Các bạn tưởng rằng những người mà ngày hôm qua các bạn đã thấy đi trên mặt nước để vượt qua sông để tránh khỏi con đường đi vòng quanh vất vả này, là những người đặc biệt và có ân huệ thiêng liêng chăng? Không, họ không khác gì các bạn cả. Họ không có được mảy may quyền năng nào hơn các bạn. Họ chỉ có phát chuyển quyền năng thiêng liêng của họ bằng cách sử dụng đúng đắn cái sức mạnh của tư tưởng. Những gì các bạn đã thấy chúng tôi làm, các bạn cũng có thể làm được một cách tự do và hoàn hảo như vậy, bởi vì tất cả những hành động của chúng tôi đều hòa hợp với một với một định luật thiên nhiên mà mỗi người đều có thể sử dụng tùy theo ý muốn.
Tới đây câu chuyện chấm dứt. Chúng tôi gặp lại năm mươi hai người đã vượt qua sông, và cùng nhau đi đến nơi thôn ấp, mục tiêu của chuyến hành hương.
****
3. Ngôi Đền Chữa Bịnh
Ngôi Đền Chữa Bịnh nằm ở trong thôn ấp nói trên. Tục truyền rằng từ ngày dựng lên ngôi đền này, tại đó người ta chỉ có thốt ra những lời nói biểu lộ lòng hiếu sinh, tình bác ái, và sự bình an. Những làn âm ba rung động tại đây có một mãnh lực phi thường làm cho phần nhiều khách hành hương được khỏi bịnh ngay trong khoảnh khắc. Người ta cũng đồn rằng nững lời nói biểu lộ đức hiếu sinh, bác ái và bình an tại đây được lập đi lập lại nhiều lần và toát ra từ ngôi đền này từ lâu đến nỗi những âm ba rung động có đủ mãnh lực để phá tan ảnh hưởng của mọi lời nói xung khắc và bất hảo mà người ta thốt ra tại đây. Điều này cũng tiêu biểu cho sự tác động trong con người. Nếu người ta tập được thói quen chỉ thốt ra những lời nói có tính cách hiếu sinh, bác ái, điều hòa và chí thiện, thì không bao lâu người ta sẽ không còn có thể thốt ra một lời nói chướng tai nghịch nhĩ nào nữa. Chúng tôi đã thử dùng những danh từ xấu xa và mỗi lần như vậy đều nhận thấy rằng chúng tôi không thể nào thốt ra nên lời.
Ngôi đền này là mục tiêu hành hương của những người muốn được chữa khỏi các chứng bệnh tật. Các vị Chân Sư ở vùng kế cận thường có những cuộc tựu họp định kỳ tại làng này để tiếp với họ và những người muốn thừa cơ hội để học Đạo. Ngôi đền được hoàn toàn cống hiến cho việc chữa bịnh và luôn luôn mở cửa cho công chúng. Vì công chúng không phải lúc nào cũng được gặp các Chân Sư nên các ngài khuyên họ hãy lại ngôi đền này mỗi khi có dịp thuận tiện vì mục đích chữa bịnh. Bởi đó, các Chân Sư không có chữa bịnh cho những người hành hương này từ lúc đầu. Các ngài đã cùng đi một lượt với họ để chỉ cho họ thấy rằng cái ngài không khác biệt chi với họ cả, và mỗi người có tự nơi mình những quyền năng thiên phú mà Thượng Đế đã ban cho. Khi các ngài nêu gương vượt qua sông bằng cách đi trên mặt nước, tôi nghĩ rằng các ngài muốn chứng minh cho những người hành hương và chúng tôi thấy khả năng thắng đoạt mọi chướng ngại khó khăn của các ngài và khuyến khích chúng tôi hãy bắt chước làm theo các ngài.
Ở những nơi cheo leo cách trở mà từ đó người ta không thể nào đi tới ngôi đền này, người nào đến cầu xin sự cứu giúp của các Chân Sư đều được những kết quả tốt lành. Luôn luôn cũng có những kẻ tò mò và những kẻ vô ngưỡng, nhưng dường như họ không nhận được một sự giúp đỡ nào rõ rệt. Chúng tôi tham dự nhiều cuộc hội họp từ hai trăm đến hai nghìn người, trong đó tất cả những người có bịnh tật nan y đều được khỏi bịnh chỉ bằng cách âm thầm bày tỏ ý muốn được chữa khỏi. Chúng tôi có dịp quan sát một số rất lớn những người được chữa khỏi bịnh như vậy trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Trong chín mươi phần trăm các trường hợp, sự khỏi bịnh được lâu bền, và đối với những người được chữa khỏi bịnh trong ngôi đền thì tỷ lệ đó lên đếm một trăm phầm trăm. Ngôi đền này luôn luôn mở rộng cửa cho những ai muốn tìm đến. Người ta có thể đến đó bao nhiêu lần và ở lại đó bao nhiêu tùy ý. Một lý tưởng được hình thành bằng cách tư tưởng của những khách đến viếng và in sâu trong trí họ.
Đức Tuệ Minh nói:
- Chính ở đây là nơi xuất phát cái mầm móng tư tưởng đưa đến việc tôn sùng thần tượng của thời quá khứ. Con người tìm cách tạc trong gỗ, đá, vàng, bạc hay đồng, hình ảnh cái lý tưởng của họ. Khi cái hình tượng vừa thành hình xong, thì cái lý tưởng đã vượt lên cao hơn cái hình tượng ấy rồi. Bởi vậy, người ta phải nhìn thấy cái diện ảnh, yêu và lý tưởng hóa những gì đến với ta từ chỗ kín đáo trong linh hồn chứ không phải đưa ra một vật thể làm thần tượng để tiêu biểu cho cái lý tưởng mà chúng ta muốn nêu cao. Một trạng thái gần đây hơn của sự mê tín là suy tôn như một thần tượng người nào phát biểu cái lý tưởng của mình. Trái lại, người ta chỉ nên sùng kính cái lý tưởng được nêu lên, chứ không phải là cái cá nhân đã biểu lộ cái lý tưởng đó. Đức Jesus quyết định bỏ ra đi vì ngài thấy rằng dân chúng bắt đầu suy tôn cái cá nhân ngài, thay vì yêu cái lý tưởng mà ngài là tiêu biểu. Người ta muốn tôn ngài lên làm vua. Dân chúng chỉ nhìn thấy một điều, họ chỉ thấy đức Jesus là người cung cấp đầy đủ mọi thứ để thỏa mãn nhu cầu vật chất của họ.
Không ai là người nhìn nhận rằng họ vốn có tự nơi mình cái khả năng thỏa mãn lấy mọi thứ nhu cầu của chính mình. Không ai nhận thấy rằng họ phải sử dụng cái quyền năng đó như đức Jesus vậy. Vì lẽ đó, ngài nói:
- Tốt hơn là ta phải ra đi, vì nếu ta không bỏ đi, thì đấng hằng An Ủi sẽ không bao giờ đến với các ngươi.
Nói cách khác, khi mà người ta ỷ lại vào cá nhân đức Jesus, người ta sẽ không nhận thức được cái quyền năng mà họ vốn có từ nơi mình. Người ta phải tuyệt đối tin tưởng ở nơi mình. Nếu người ta trông cậy nơi kẻ khác, họ suy tôn kẻ khác ấy làm thần tượng thay vì tự mình biểu lộ cái lý tưởng của mình.
Chúng tôi đã chứng kiến tận mắt những trường hợp khỏi bịnh thật lạ lùng. Vài người bịnh chỉ cần đi ngang qua đền cũng được chữa khỏi. Những người khác phải ở lại đó trong một thời gian rất lâu. Không bao giờ có ai đứng ra làm bất cứ một cuộc hành lễ nào. Dường như không cần phải hành lễ bởi vì những âm ba rung động toát ra từ trong đền có hiệu lực đến nỗi bất cứ người nào bước vào trong vòng ảnh hưởng của nó cũng đều cảm nhận được những ảnh hưởng tốt lành. Chúng tôi thấy người ta chở đến một người bị bịnh cứng khớp xương. Những khớp xương đã cứng đơ của y được hoàn toàn chữa khỏi trong vòng một tiếng đồng hồ và y đã có thể đi đứng lại được. Sau đó y đã làm công tác trong bốn tháng để giúp đỡ trong cuộc hành trình của chúng tôi. Một người khác bị cụt mất hết năm ngón tay và được thấy cả năm ngón tay đều mọc lại. Một đứa trẻ nhỏ bị tàn phế và tứ chi liệt bại được chữa khỏi ngay tức khắc và chạy ra khỏi đền. Những người bị các chứng phong cùi, đui mù, câm điếc, và nhiều chứng bịnh nan y khác cũng được chữa khỏi ngay lập tức. Sự thật, tất cả những người đến hành hương tại đây đều được chữa khỏi bịnh. Chúng tôi có dịp quan sát một số lớn những người được khỏi bịnh hay hai ba năm về sau bịnh tật đã khỏi hẳn không còn tái phát. Người ta nói rằng những trường hợp bịnh tái phát trở lại là bởi vì người bịnh thiếu đức tin và không có nhãn quang tâm linh thật sự.
4. Phép Chuyển Di Tư Tưởng
Khi chúng tôi về cứ điểm ở làng Asmah, thì mọi việc đã chuẩn bị sẵn sàng để vượt qua truông núi. Sau một ngày nghỉ ngơi, chúng tôi thay đổi toán phu khuân vác và lừa ngựa, và khởi đầu giai đoạn thứ nhì của cuộc hành trình, tức là vượt qua dãy núi Tuyết Sơn.
Trong hai mươi ngày kế đó, sự việc diễn biến một cách bình thường, không có gì đáng kể. Đức Tuệ Minh nói với chúng tôi về tâm thức Bồ Đề. Ngài nói:
- Chính do bởi sự tác động quyền năng của tư tưởng mà chúng ta có thể biểu lộ tâm thức Bồ Đề hay tâm thức của đấng Christ. Bằng quyền năng của tư tưởng, chúng ta có thể phát triển thể xác của chúng ta đến mức độ làm cho nó trở thành bất tử, ở mức độ mà chúng ta không còn chịu sự biến đổi gọi là sự chết. Do sự tác động của tư tưởng, do sự tác động của tâm thức Bồ Đề, chúng tôi có thể hoán cải những người chung quanh và thay đổi hoàn cảnh sinh hoạt của mình. Tất cả những điều đều do cái quyền năng mà Thượng Đế ban cho con người để quan niệm một lý tưởng và thực hiện một mục đích. Trước hết, phải biết cảm nhận và tin tưởng bằng đức tin rằng đấng Christ, tức Bồ Đề tâm, vốn ngự trị bên trong chúng ta. Kế đó, phải hiểu ý nghĩa thật sự của giáo lý Jesus, hợp nhất cái linh thể của mình với Thượng Đế, cái linh thể đó vốn được tạo nên hình ảnh của Ngài và giống như Ngài. Phải chan hòa, hỗn hợp nó với linh thể toàn vẹn của Thượng Đế, vì chính trong trạng thái chan hòa, hỗn hợp đó mà Thượng Đế nhìn thấy chúng ta...
Nói đến đây, đức Tuệ Minh ngừng lại và cho biết rằng Ngài sẽ giã từ chúng tôi trong vài ngày để đến gặp vài người bạn đang hội họp trong một làng cách đó độ bốn trăm cây số, trong một làng nhỏ ở biên giới mà chúng tôi sẽ đi đến trong bốn ngày. Kế đó ngài biến mất và vài ngày sau ngài đã đến chỗ hẹn vào đúng lúc, cùng với bốn người bạn.
Khi chúng tôi đến làng biên giới nói trên, trời mưa tầm tã không ngớt và tất cả chúng tôi đều bị ướt loi ngoi. Người ta dành cho chúng tôi một quán trọ đầy đủ tiện nghi, gồm có một gian phòng lớn có đủ bàn ghế, có sưởi ấm và trang hoàng lịch sự, dùng làm phòng khách và phòng ăn. Một người trong chúng tôi hỏi nhiệt lực làm sưởi ấm gian phòng này do đâu mà có? Quan sát kỹ, chúng tôi không thấy có lò sưởi hay củi lửa gì cả. Chúng tôi hơi ngạc nhiên, nhưng không bình phẩm gì vì chúng tôi đã bắt đầu quen những sự việc lạ lùng và chúng tôi chắc rằng sau này mọi người sẽ được giải thích rõ.
Chúng tôi vừa ngồi vào bàn ăn để dùng cơm tối thì đức Tuệ Minh và bốn người bạn của Ngài bước vào phòng mà chúng tôi không biết các ngài vào bằng cách nào. Tất cả năm vị đều xuất hiện ở một góc phòng, mà gần đó không có cửa nẻo chi cả. Việc ấy xảy ra một cách giản dị, âm thầm và không một tiếng động. Đức Tuệ Minh giới thiệu với chúng tôi bốn người khách lạ, và các ngài ngồi vào bàn ăn với chúng tôi một cách tự nhiên như ở nhà. Chúng tôi chưa kịp để ý nhìn thấy gì, thì bàn ăn có đầy đủ những thức ăn ngon lành, nhưng không có thịt, vì các vị toàn dùng chay.
Sau bữa ăn, một người trong chúng tôi hỏi gian phòng được sưởi ấm bằng cách nào. Đức Tuệ Minh nói:
- Hơi ấm mà các bạn cảm thấy trong gian phòng này là do một sức mạnh cụ thể mà mỗi người đều có thể sử dụng. Người ta có thể tiếp xúc với mãnh lực ấy, và sử dụng nó dưới hình thức ánh sáng, nhiệt điện hay tinh lực để vận chuyển máy móc, cơ khí. Đó là điều mà chúng ta gọi là vũ trụ lực, một mãnh lực thiên nhiên mà Thượng Đế ban cho loài người. Sức mạnh ấy có thể vận chuyển mọi loại cơ khí, thực hiện những cuộc chuyên chở mà không tốn nhiên liệu, và cung cấp ánh sáng và nhiệt lực. Mãnh lực ấy có ở khắp nơi để cho con người sử dụng, không bao giờ cạn và không cần phải mua.
Một người trong chúng tôi hỏi phải chăng các món ăn vừa rồi là xuất xứ từ chất Tiên Thiên Khí trong vũ trụ và đến một cách trực tiếp dưới hình thức các món vật thực mà chúng tôi đã ăn, cũng như bánh mì và các món vật phẩm khác vẫn được cung cấp cho chúng tôi từ trước.
Đức Tuệ Minh mời chúng tôi đi theo ngài đến nhà của một trong bốn người bạn, ở cách đó độ ba trăm năm chục cây số. Chúng tôi cũng gặp thân mẫu ngài tại đó. Ngài nói:
- Thân mẫu tôi là một trong những người đã tinh luyện thể xác đến mức độ có thể phân thân đi khắp mọi nơi và để học đạo trên những cõi cao. Bởi đó, bà sống thường xuyên trong cõi vô hình. Điều này là một việc tình nguyện, vì nhờ học Đạo thượng đẳng, bà có thể giúp đỡ chúng tôi rất nhiều. Nói rõ hơn cho các bạn dễ hiểu, bà đã tiến hóa đến mức đạt tới cõi Trời là nơi hiện diện của đức Jesus, tức là nơi mà đôi khi người ta gọi là cảnh giới thứ bảy của cõi Thiên Đường. Đối với các bạn, cảnh giới đó sẽ là điều bí mật lớn nhất trong mọi điều bí mật, nhưng thật ra không có gì bí mật cả. Đó là một trạng thái tâm thức mà tất cả mọi điều huyền bí đều được tiết lộ. Người hành giả đạt tới đó rồi, thì sẽ trở lên vô hình vô ảnh đối với kẻ thế nhân phàm tục, nhưng họ có thể trở lại thế gian để dạy Đạo cho những người thụ cảm và có căn duyên. Họ trở lại trong thể xác của họ, vì thể xác ấy đã được tinh luyện đến mức toàn hảo để có thể được di chuyển khắp mọi nơi tùy ý. Những vị đạo đồ ở cấp đẳng có thể trở lại thế gian mà không cần phải đầu thai chuyển kiếp. Những người nào đã bước qua cửa Tử bị bắt buộc phải đầu thai trở lại để khoác lấy một thể xác mới. Còn thể xác của chúng tôi là những thể xác tâm linh toàn hảo và có thể được giữ gìn rất lâu. Người nào đã từ bỏ thể xác để thăng lên các cõi giới tinh thần sẽ nhận thấy rằng họ phải tái sinh trong một thể xác mới để tiếp tục tiến hóa nữa...
Tối hôm đó, trước khi rời khỏi bàn ăn, chúng tôi quyết định chia cuộc hành trình ra làm năm toán, mỗi toán đặt dưới sự trông nom của một trong những người khách lạ đã thình lình xuất hiện trong phòng để dùng bữa với chúng tôi. Cách sắp đặt này sẽ giúp chúng tôi có thể thám hiểm nhiều vùng rỗng lớn. Nó sẽ làm cho công việc của chúng tôi được dễ dàng và giúp chúng tôi có thể kiểm chứng những hiện tượng huyền linh như là đi ngao du trong cõi vô hình và giao thông với nhau bằng phép di chuyển, tư tưởng. Mỗi toán sẽ gồm ít nhất hai đoàn viên và do một trong năm vị Chân Sư lãnh đạo. Mỗi toán sẽ ở cách biệt rất xa với những toán khác, nhưng sự liên lạc sẽ được thực hiện bởi các vị Chân Sư, các ngài đã tỏ ra rất nhiều cảm tình ưu ái đối với chúng tôi, và không bỏ qua một dịp nào để cho chúng tôi kiểm chứng lại công việc của các ngài.
5. Những Sơn Nhân
Qua ngày hôm sau, tất cả mọi việc đều được chuẩn bị sẵn sàng từng chi tiết. Toán của tôi gồm có tôi và hai đoàn viên, đức Tuệ Minh và Dật Sĩ đi dẫn đường. Sáng ngày kế đó, mỗi toán đều sẵn sàng ra đi theo những chiều hướng khác nhau. Chúng tôi đồng ỳ rằng mỗi toán sẽ quan sát cẩn thận những gì xảy ra đến ghi chép làm tài liệu. Chúng tôi hẹn sẽ gặp nhau trở lại trong hai tháng ở quê hương của đức Tuệ Minh, một làng nhỏ cách đó ba trăm năm chục cây số. Sự liên lạc giữa các toán khác nhau sẽ do các vị Chân Sư đảm nhiệm việc đó mỗi buổi chiều, nói chuyện với nhau bằng tư tưởng và di chuyển từ toán nọ đến toán kia.
Khi chúng tôi muốn tiếp xúc với vị trưởng toán hay với một đoàn viên, chúng tôi chỉ cần giao bức thông điệp của mình cho các Chân Sư. Sự trả lời đến với chúng tôi trong một thời gian rất ngắn không thể tưởng tượng. Khi chúng tôi đưa những bản thảo thông điệp như thế, chúng tôi viết tay và có ghi ngáy giờ cẩn thận. Chúng tôi cũng ghi chép trong bức thơ trả lời ngày giờ chúng tôi nhận được. Khi chúng tôi tựu họp với nhau trở lại, chúng tôi đem đối chiếu những tài liệu đã ghi chép và nhận thấy mọi việc đều ăn khớp với nhau một cách hoàn toàn. Ngoài ra, các Chân Sư di chuyển từ trại này sang trại khác và nói chuyện với các đoàn viên của mỗi toán khác nhau. Chúng tôi ghi chép cẩn thận những địa điểm và ngày giờ khi các ngài xuất hiện và biến mất, cùng những đề tài đã đề cập tới. Về sau, khi chúng tôi đem đối chiếu những tài liệu ghi nhận, thì mọi sự cũng đều hoàn toàn ăn khớp với nhau.
****
Cuộc thăm viếng hiện thời cũng để đáp ứng một lời kêu gọi tương tự và cũng nhằm mục đích cứu giúp những người bịnh không thể di tản ra khỏi làng. Dường như những "Người tuyết" này là những kẻ ngoài vòng luật pháp đã từng ở những vùng sơn cước đầy tuyết lạnh trong nhiều thế hệ, và sau cùng đã thành lập nên những bộ lạc du mục có thể sống tự túc trong những vùng núi non hoang vắng, hoàn toàn cách biệt cách biệt với thế giới văn minh của loài người. Tuy dân số của chúng không bao nhiêu, chúng rất hung dữ và hiếu chiến. Đôi khi chúng bắt cóc những người nào không may lọt vào tay chúng và hành hạ những người ấy. Vì có bốn người dân làng đã bị bắt đi trong hoàn cảnh đó những người khác không biết phải làm sao, mới gửi một người đi cầu cứu với Dật Sĩ. Dật Sĩ bèn ra đi với đức Tuệ Minh và đem cả chúng tôi theo.
Lẽ tự nhiên là chúng tôi rất mong mỏi được thấy những người sơn nhân đó, mà chúng tôi có nghe nói đến nhưng vẫn chưa tin. Lúc đầu, chúng tôi nghĩ rằng người ta nên thành lập một đoàn nghĩa binh cấp cứu mà chúng tôi có thể gia nhập. Nhưng hy vọng đó đã tiêu tan khi đức Tuệ Minh và Dật Sĩ cho chúng tôi biết rằng hai vị sẽ đi một mình và cùng đi ngay tức khắc. Trong chốc lát, hai vị đã biến mất dạng và trở về vào lúc chiều ngày hôm sau, cùng với bốn người dân làng vừa được giải thoát. Những người này thuật lại nhiều câu chuyện quái đản về cuộc phưu lưu của mình và về những người sơn nhân đã bắt cóc họ. Dường như những "Người tuyết" lạ lùng này sống hoàn toàn khỏa thân. Chúng mọc lông khắp mình như những loài thú và chịu đựng nổi thời tiết lạnh kinh khủng trên miền sơn cước. Chúng di chuyển rất mau lẹ. Người ta còn nói rằng chúng có thể rượt bắt những loài thú rừng ở vùng của chúng ở. Chúng gọi các Chân Sư là những "Người của Mặt Trời," và khi các ngài đến giải thoát cho những kẻ bị bắt, thì chúng không chúng cự.
Chúng tôi được biết rằng các Chân Sư đã nhiều lần thử mở một cuộc tiếp xúc với những "Người tuyết", thì chúng bỏ ăn, bỏ ngủ và chạy trốn trong những chỗ núi rừng hoang vu vì quá sợ sệt. Chúng đã mất mọi sự liên lạc với đời sống văn minh và thậm chí cũng quên rằng trước kia chúng đã có mối tương quan với những chủng tộc loài người và tổ tiên của chúng đã xuất phát từ đó mà ra. Quả thật là chúng đã hoàn toàn biệt lập với xã hội loài người.
Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ không muốn nói nhiều với chúng tôi về những "Người tuyết." Chúng tôi cũng không thể xin hai vị cho chúng tôi đi theo tận nơi để nhìn xem chúng Đáp lại những câu hỏi của chúng tôi, hai vị chỉ nói như sau:
- Chúng cũng là con của Thượng Đế như chúng ta nhưng từ lâu chúng đã nuôi lòng sợ hãi và thù ghét kẻ đồng loại, và những tật đố này ngày càng tăng trưởng. Như vậy, chúng đã tự ly khai với xã hội loài người đến mức quên mất đi sự liên hệ của mình trong đại gia đình nhân loại và tưởng rằng chúng là những loại thú rừng. Đi lần đến chỗ cực đoan, thậm chí chúng cũng mất cả bản năng của loài thú rừng, vì loài thú rừng do bản năng dìu dắt còn nhận biết được những người thương yêu chúng và đáp lại cái tình thương đó. Khi con người tự ly khai với Thượng Đế và với nhân loại đến mức đó, y có thể rớt xuống thấp hơn loài vật. Không có ích gì mà đưa các bạn đến gặp những "Người tuyết", vả lại điều ấy còn làm hại cho chúng.Chúng tôi hy vọng rằng một đứa trong chúng nó có ngày sẽ trở nên thụ cảm đối với sự dạy dỗ của chúng tôi, và do người tuyết ấy làm trung gian, chúng tôi sẽ độ cho tất cả chúng nó...
Chúng tôi được cho biết rằng chúng tôi được tự do tìm cách nào tùy sáng kiến riêng của mình để nhìn thấy những "Người tuyết" lạ lùng đó; các Chân sư chắc chắn sẽ che chở chúng tôi khỏi mọi tai nạn và có thể ra tay giải cứu nếu chúng tôi bị bắt. Theo chương trình được thiết lập cho ngày hôm sau, chúng tôi phải đi viếng một ngôi đền rất cổ xưa, ở cách làng này độ sáu chục cây số. Hai người đoàn viên trong toán của tôi quyết định không tham dự cuộc viếng thăm này để đi thu thập tài liệu về những "Người tuyết". Họ khẩn khoản yêu cầu hai người dân làng cùng đi theo họ, nhưng hai người này quyết liệt từ chối. Không một người nào chịu rời khỏi làng, khi mà có nguy cơ gặp phải "Người tuyết" ở vùng chung quanh. Hai đoàn viên này bèn ra đi một mình. Họ được đức Tuệ Minh và Dật Sĩ cho chỉ thị về lộ trình và những gì phải làm. Họ giắt súng ngắn vào lưng và chuẩn bị lên đường. Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ đã bắt họ phải hứa rằng chỉ bắn chết người trong trường hợp chẳng đặng đừng. Họ có thể bắn súng trơn, không lắp đạn, hay bắn chỉ thiên tùy ý muốn để thị oai với bọn sơn nhân, nhưng họ phải hứa trên danh dự rằng họ chỉ bắn chết trong trường hợp không thể nào làm khác hơn.
Tôi ngạc nhiên mà thấy có một khẩu súng ngắn trong hành lý của chúng tôi, vì chúng tôi không bao giờ cần phải sử dụng khí giới. Tôi đã bỏ những khẩu súng của tôi từ lâu, thậm trí cũng không nhớ rõ là bỏ ở đâu. Nhưng sau mới biết là một trong những người lao công giúp chúng tôi sửa soạn hành lý, đã xếp vào đó hai khẩu súng ngắn mà không ai hay biết.