Chương 5
Tác giả: Dr. Blair T. Spalding
1.Một Ngôi Đền Đục Trong Hang Núi
Sáng ngày đầu năm dương lịch, chúng tôi thức dậy sớm, tinh thần khoan khoái, dễ chịu. Mỗi người trong chúng tôi đều có cảm giác một sự gì sẽ đến, làm cho chúng tôi nghĩ rằng những kinh nghiệm đã qua của mình chỉ là những bước đầu trên con đường mình sẽ đi qua.
Trong khi chúng tôi ngồi tựu họp chung quanh bàn ăn điểm tâm, chúng tôi thấy xuất hiện một người lạ mặt mà chúng tôi đã gặp một lần trong một làng nhỏ trên đường đi đến đây. Sau khi chào hỏi xã giao thường lệ, người ấy nói:
- Các bạn đã đến với chúng tôi trên một năm nay. Các bạn đã cùng đi ngao du và sống chung với chúng tôi. Chúa Trời các bạn ở lại với chúng tôi đến tháng tư hay tháng năm, tôi đến để mời các bạn đi viếng một ngôi đền đục trong núi đá ở phía ngoài làng này.
Chúng tôi được cho biết rằng người ta phải dùng lối kiến trúc đặc biệt đó để bảo vệ cho ngôi đền khỏi bị quấy nhiễu bởi những toán cường đạo thường hay cướp phá vùng ấy để "Ăn hàng". Làng này cũng bị hủy diệt nhiều lần, nhưng dân làng đã tránh khỏi tai họa nhờ họ có thể trú ẩn trong ngôi đền.
Các vị Chân Sư đã sở hữu ngôi đền này cho do dân làng chuyển nhượng lại để gìn giữ nhiều tài liệu văn kiện mà các ngài coi như quý vô giá. Từ khi có sự chuyển nhượng này, những vụ cướp bóc đã chấm dứt, dân làng không còn bị tấn công bất ngờ, và mọi người đều sống bình yên. Người ta nói rằng vài pho tài liệu kể trên quả địa cầu. Đó có lẽ là những tài liệu cổ của giống người Naacals, cũng gọi là các "Huynh đệ Thánh Thiện", đã xuất hiện ở Miến Điện để dạy dỗ dìu dắt những bộ lạc thổ dân Nagas ở đó. Những tài liệu đó dường như chứng minh rằng tổ tiên của giống người này là tác giả của bộ sách Surya Siddhanta và các Thánh Kinh Phệ Đà thời thái cổ. Sách Surya Siddhanta là tác phẩm cổ xưa nhất mà người ta được biết về khoa thiên văn. Những văn kiện cổ xưa cho rằng sách ấy đã có từ ba muơi lăm ngàn năm về trước. Những Thánh Kinh Phệ Đà thời thái cổ đã có từ bốn mươi lăm ngàn năm. Không phải tất cả những tài liệu văn kiện của ngôi đền là những bản chánh, vì nhiều tài liệu đã được chép lại do cùng một nguyên bản với những tài liệu cổ của xứ Babylone và được di chuyển đến đây để được giữ gìn an toàn. Còn những bản chính từ cổ xưa là những nguyên bản đã có từ thời đại của Osiris và của châu Atlantide. Những khách viếng thăm ngôi đền này chỉ là một thiểu số rất ít, ngoài ra những vị Chân Sư đã có hiểu biết ít nhiều về sự giác ngộ tâm linh thật sự.
Người khách lạ nói tiếp:
- Ngày hôm nay đối với các bạn là ngày bắt đầu một năm mới. Theo quan điểm thông thường, năm cũ vừa qua đã thuộc về dĩ vãng, không còn trở lại cuộc đời chúng ta nữa, trừ phi là trong tư tưởng, do những công trình đã thực hiện. Một trang trong quyển lịnh đời của chúng ta đã được xé bỏ. Trái lại, quan điểm của chúng tôi khác hẳn. Chúng tôi coi năm vừa qua như một giai đoạn tiến bộ thêm vào những thành quả đã thực hiện được. Nó là cái gạch nối đưa chúng tôi đến những công trình thực hiện và một sự phát triển tốt đẹp hơn, đến một thời kỳ giác ngộ và hứa hẹn lớn lao hơn, một thời kỳ mà mỗi kinh nghiệm kế tiếp làm cho chúng tôi trở lên trẻ trung hơn, khỏe mạnh hơn và bác ái hơn. Các bạn nghĩ rằng: "Làm sao được như vậy?" Chúng tôi đáp: "Các bạn hãy tự tìm ra những kết luận của mình, các bạn hãy chọn lựa cách sống riêng của mình."
Vị trưởng nhóm của chúng tôi nói:
- Chúng tôi ước mong được thấy và biết.
Người lạ mặt nói tiếp:
- Kể từ bây giờ, có những bài học đúng đắn cho những kẻ không nhìn thấy, không biết, không hiểu ý nghĩa về mục đích cuộc sống chân chính. Đó không phải là một cuộc đời khổ hạnh, khắc khổ, cô lập hay buồn thảm, mà là một cuộc đời hoạt động trong sự vui tươi, một cuộc đời mà mọi sự buồn rầu, đau khổ đều bị vĩnh viễn loại trừ.
Kế đóm người lại nói với một giọng ít nghiêm cẩn hơn:
***
- Các bạn đã bày tỏ ý muốn được thấy và được biết. Nhìn các bạn tựu họp như vầy, tôi chợt nghĩ đến câu nói trong Kinh Thánh: "Khi nào hai hay ba người trong các ngươi nhân danh Ta mà hội họp, thì Ta luôn luôn có mặt bên họ."
Cuộc đời tu hành khổ hạnh, xuất gia lánh đời, để ẩn mình trong những tu viện Cơ Đốc hay Phật Giáo, không phải là điều cần thiết. Một cuộc đời như thế không giúp cho hành giả đạt tới sự giác ngộ tâm linh thật sự và thực hiện sự minh triết chân chính. Những pháp môn tu luyện đó đã từng có bao nhiêu ngàn năm về trước. Tuy nhiên, những giáo lý của đức Jesus, trong khoảng vài năm mà ngài xuất hiện ở thế gian, đã đóng góp một phần vô cùng lớn lao hơn nhiều trong việc giáo dục tâm linh cho dân chúng.
Người ta biết rằng đức Jesus đã từng thấu triệt mọi giáo lý, đã vượt qua nhiều cấp bậc Điểm Đạo, nghiên cứu những cấp đẳng Huyền Môn bí truyền, cùng những nghi thức lễ bái, và sau cùng đã đạt tới giáo lý của Osris. Những giáo lý này được chỉ dẫn cho ngài bởi một vị tư tế đã thoát ly ra khỏi tất cả mọi nghi thức lễ bái, và quy luật, sắc tướng.
Vị tư tế này là một đệ tử của vị Thánh Vương Thoth, thuộc triều đại thứ nhất của các vì vua Ai Cập. Đế quốc Ai Cập đã từng được nâng lên một trình độ văn minh cao cả hùng cường nhờ ảnh hưởng của Osris và những vị kế nghiệp của ngài. Vị Thánh Vương Thoth trị nước trong sự minh triết và cố gắng duy trì giáo lý của Osris. Tuy vậy những quan niệm vật chất và hắc ám đã xuất hiện khi những bộ lạc miền Nam là những giống người da đen đã đưa Thoth lên cầm quyền, tăng gia ảnh hưởng của họ. Những triều đại sau đó đã đi xa những giáo lý của Osris. Họ lần lần chấp nhận những quan niệm hắc ám của giống người da đen, và sau cùng đã tuyệt đối thực hành khoa bàn môn tả đạo. Đế quốc Ai Cập đã suy vong rất mau chóng, và một đế quốc như thế lẽ tự nhiên phải bị suy vong.
Sau khi đức Jesus đã chăm chú nghe lời dẫn giải của vị tư tế này, Ngài bèn thấu triệt được ý nghĩa thâm sâu huyền diệu của giáo lý Huyền Môn. Những quan điểm sơ khởi của đức Jesus về giáo lý nhà Phật mà ngài đã thụ huấn của những nhà hiền triết phương Đông đã giúp cho Ngài nhận thức được những điểm tương đồng chính yếu của tất cả mọi giáo lý. Khi đó, Ngài bèn quyết định đi sang Ấn độ, đó là một dự tính hoàn toàn có thể thực hiện được do bởi con đường bộ xuyên Á châu của những đoàn lạc đà thường di chuyển từng kỳ hạn vào thời đó.
Sau khi đã nghiên cứu của giáo lý Phật giáo ở Ấn độ, đức Jesus nhận thấy giữa các tôn giáo có những điểm tương đồng. Ngài hiểu mặc dầu có những sự khác biệt về hình thức lễ và giáo điều do người đặt ra, nhưng tựu trung các tôn giáo chỉ có một nguồn gốc duy nhất là Thượng Đế...
Cuộc nói chuyện chấm dứt và chúng tôi đi đến ngôi đền. Tại đây. Tại đây, chúng tôi gặp bốn vị trong số các vị siêu nhân đã đến đây trước chúng tôi. Sau một lúc nói chuyện thông thường, chúng tôi tất cả đều ngồi xuống, và người khách lạ lúc nãy lại nói tiếp:
- Không một nhân vật lịch sử nào có thể bì kịp với đức Jesus. Phần đông người Âu Mỹ tôn sùng ngài như một thần tượng, và bởi đó họ đã lầm. Đáng lý ra họ nên coi ngài như hiện thân của một lý tưởng, thay vì tôn thờ ngài như thần tượng. Thay vì khắc những hình tượng để thờ ngài, người ta nên coi ngài như một nhân vật đang sống, vì hiện nay ngài thật sự đang sống trong chính cái thể xác đã từng bị đóng đinh trên Thập tự giá. Ngài vẫn còn sống và có thể nói chuyện với các bạn như hồi trước khi ngài bị đóng đinh. Sự lầm lạc to lớn của đa số người, là nghĩ rằng đức Jesus bị kết liễu cuộc đời trong tai nạn đau khổ và chết trên cây Thánh giá. Họ quên rằng phần lớn cuộc đời của ngài đã diễn ra trong thời gian khi ngài phục sinh. Ngày nay đức Jesus vẫn có thể dạy đạo và chữa bệnh một cách linh nghiệm hơn bao giờ hết. Các bạn có thể đến trước mặt ngài bất cứ lúc nào, nếu các bạn muốn. Nếu các bạn tìm ngài, thì các bạn sẽ gặp. Đức Jesus không phải là một vị vua có thể bắt buộc các bạn chấp nhận sự hiện diện của ngài, mà là một người Anh cả luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ các bạn và giúp đỡ thế gian. Khi ngài còn sống trên cõi thế gian phàm tục, ngài chỉ có thể tiếp xúc với một thiểu số người có hạn định. Còn dưới hình thể mà ngài khoác lấy hiện nay, ngài có thể tiếp xúc với tất cả với những người nào hướng về ngài. Phải chăng ngài đã nói rằng: "Bất cứ nơi nào có Ta, thì các người cũng có thể có mặt ở đó?" Câu này phải chăng có ý nghĩa là ngài ở một nơi rất xa, tận trên trời, và các bạn chỉ lên tới đó sau khi đã chết? Không, ngài vẫn ở tại cõi này, là nơi các bạn đang ở, ngài có thể di chuyển đó đây, và nói chuyện với bạn. Ta chỉ có thể cho ngài tự do hành động. Hãy nâng tầm mắt bạn nên cao hơn một chút, hãy bao gồm một chân trời rộng lớn hơn, và bạn sẽ thấy ngài, miễn là tâm hồn và trí não bạn hướng đến ngài một cách chân thành. Các bạn có thể cùng đi và nói chuyện với ngài.
Nếu các bạn quan sát tỉ mỉ thân thể ngài, các bạn sẽ thấy những vết thẹo đóng đinh trên Thánh giá, vết đâm của ngọn giáo và của chiếc mão gai, nay đã hoàn toàn lành hẳn. Tình Thương và niềm phúc lạc từ toàn thân ngài toát ra sẽ chứng minh cho bạn thấy rằng ngài quên tất cả, và tha thứ tất cả...
Tới đây, người khách lạ ngừng nói, tất cả đều đắm chìm một lúc trong một cơn im lặng thâm trầm, kế đó một ánh sáng mà chúng tôi chưa nhìn thấy bao giờ, chiếu khắp gian phòng. Chúng tôi nghe một giọng nói, lúc đầu dường như vọng lại từ đằng xa và không rõ ràng. Sau khi giọng nói trở lên hoàn toàn rõ rệt và vang rền những âm thanh sáng sủa như tiếng chuông ngân.
Một người trong chúng tôi hỏi:
- Ai nói đó?
Vị trưởng nhóm của chúng tôi đáp:
- Hãy im, đó là đức Chưởng Giáo của chúng ta, đức Jesus đó.
Một người trong bọn lại nói:
- Đúng rồi đức Jesus nói đấy.
Khi đó giọng nói tiếp tục:
- Khi tôi nói "Ta là Con Đường, là Chân Lý, là Sự Sống," tôi không có ý đem đến cho nhân loại cái ý nghĩ rằng chỉ có một mình tôi mới là Ánh Sáng, chân thật và duy nhất. Khi tôi nói: "Ta là người Con hoàn toàn, người Con Duy Nhất do Chúa Trời sinh ra," tôi muốn xác nhận với toàn thể nhân loại rằng một trong những người Con của Chúa Trời đã nhìn thấy, hiểu rõ và tuyên bố tính chất thiêng liêng của mìnnh. Người con ấy thấy rằng cuộc đời mình và những hành động của mình vốn phát sinh từ nơi Chúa Trời, tức là cái nguyên lý Vô Cực của vạn vật. Người tuyên bố mình là đấng Chirst, người con duy nhất do Chúa Trời sinh ra. Rồi bằng cách sống cuộc đời thánh thiện của một tâm hồn chân thật và kiên nhẫn, người trở nên nhân vật thiêng liêng mà người đã tuyên bố. Luôn luôn giữ gìn cái lý tưởng đó, người thấm nhuần nó khắp toàn thân của mình, và sau cùng đã đạt được cái mục đích mà người tìm kiếm.
Tại sao có biết bao nhiêu người không hề thấy tôi? Đó là bởi vì họ đặt tôi trên một cái ngai thần tượng và để tôi vào một chỗ cao xa không thể đạt tới. Họ bao trùm tôi với bao nhiêu phép lạ nhiệm màu và những điều huyền bí, và đặt tôi ở một nơi xa xôi cách biệt với quần chúng mà tôi hằng thương yêu với một tình bác ái vô biên khôn tả. Tôi không rút lui khỏi họ, mà chính họ đã rút lui khỏi tôi. Họ đã dựng lên những bức màn, những vách tường ngăn cách, đặt ra những người trung gian và khắc nên những hình tượng của tôi cùng những người thân của tôi. Mỗi người trong chúng tôi đều được bao phủ bằng những huyền thoại và những chuyện nhiệm mầu làm cho tôi bị ngăn cách quá xa đến nỗi người đời không còn biết làm thế nào để đạt tới chúng tôi nữa. Người ta cầu nguyện và khẩn cầu đức Mẹ mến yêu của tôi và những người thân chung quanh tôi, và như vậy họ bao phủ chúng tôi với những tư tưởng trần gian phàm tục. Thật ra nếu người đời muốn biết chúng tôi một cách thật sự và mong ước được bắt tay chúng tôi như các bạn đã làm hôm nay đây, thì họ sẽ nói chuyện với chúng tôi như các bạn đã làm. Các bạn nhìn thấy chúng tôi không hề thay đổi. Chúng tôi muốn cho toàn thể thế gian cũng biết như vậy xiết bao!
Các người đã bao trùm chúng tôi từ bao nhiêu lâu với những điều huyền bí đến nỗi làm cho sự hoài nghi cuối cùng phải thắng thế. Các người càng làm nhiều hình tượng bao nhiêu, thì các người lại làm cho chúng tôi trở nên xa cách bấy nhiêu. Các người càng bao phủ chúng tôi trong sự nghi nan tăm tối sâu đậm bao nhiêu, thì cái vực thẳm mê tín dị đoan càng trở nên rộng lớn và khó vượt qua bất nhiêu. Nếu các người muốn bạo gan bước lại bắt tay chúng tôi và nói: "Tôi biết ông", thì chừng đó mỗi người đều có thể nhìn thấy chúng tôi và biết chúng tôi như hiện giờ. Không có sự mầu nhiệm nào chung quanh chúng tôi hay những người thân chúng tôi, vì chúng tôi thương yêu tất cả nhân loại.
Phần đông chỉ nhận thấy có một phần cuộc đời của tôi nó kết liễu trên cây Thánh giá. Họ quên rằng phần lớn cuộc đời tôi đã sống trong hình thức hiện tại. Họ quên rằng con người vẫn tiếp tục sống, dẫu rằng sau cái chết bất đắc kỳ tử. Người ta không thể hủy diệt sự sống. Sự sống vẫn còn tiếp diễn luôn luôn, và một đời sống tốt lành không bao giờ mất. Dẫu cho cái xác thể vật chất cũng có thể trở nên bất tử và không còn thay đổi.
Khi người anh em Phi Lát rửa tay và nói: "Các người hãy đem y đi và hãy tự tay các người đóng đinh y trên cây Thánh giá" tôi không cho rằng Phi Lát đã lầm lỗi. Y không hề biết gì về cái diễn biến lịch sử mà y đang dự phần trong đó, và điều tiên tri mà y đang thực hiện. Y và những người chung quanh y đã đau khổ nhiều hơn tôi. Nhưng tất cả những việc đã qua, đã được quên lãng và tha thứ, như các người sẽ thấy trong cuộc hội họp hôm nay.
Kế đó, hai nhân vật xuất hiện, và đức Jesus ôm hôn cả hai người. Đặt bàn tay Ngài lên vai của một trong hai người, Ngài nói:
- Người anh em này đã cùng tôi đi suốt con đường Đạo. Còn người kia, y đã trải qua nhiều cuộc thử thách đắng cay trước khi y mở mắt tỉnh ngộ, nhưng khi y tỉnh ngộ, y bèn đi theo chúng tôi. Y cũng hoàn toàn chân thật như những người khác, và chúng tôi thương yêu y cũng như bằng một tình thương không kém.
***
Khi đó, nhân vật thứ hai từ từ tiến lên và đứng yên một lúc. Đức Jesus dạy lại, mở rộng hai tay ôm lấy người ấy và nói: "Hỡi Phi Lát thân mến." Thật là không ai có thể lầm lẫn về những hảo ý của cả hai vị.
Kế đó, Phi Lát cất tiếng nói:
- Tôi đã đau khổ trong nhiều năm sau khi tuyên bố bản án vào cái ngày mà tôi đã nhẹ dạ gạ bỏ cái trách nhiệm nặng nề của tôi. Trong đời sống hằng ngày, rất ít người trong chúng ta nhận thức được những gánh nặng vô ích mà họ chồng chất lên vai kẻ khác chỉ vì họ muốn trốn tránh trách nhiệm của mình. Nhưng khi chúng ta đã thức tỉnh, chúng ta hiểu rằng khi mình càng cố gắng tránh né bổn phận và tìm cách đặt gánh nặng của mình lên vai kẻ khác, thì cái gánh nặng ấy càng đè nặng trên vai mình. Tôi đã phải mất nhiều năm ray rứt đau khổmới nhìn thấy rõ điều đó, nhưng thật cũng là một niềm vui mừng lớn lao thay từ khi tôi đã tỉnh ngộ!
Khi đó, khúc hợp ca vô tình trổi lên với một âm điệu du dương khôn tả. Sau vài điệu nhạc, đức Jesus tiến lên và nói:
- Các người có lấy làm ngạc nhiên chăng, khi biết rằng tôi đã tha thứ từ lâu cho những kẻ đã đóng đinh tôi trên Thánh giá? Kể từ lúc đó, tại sao người thế gian không tha thứ lẫn nhau như tôi vậy? Tại sao các người không nhìn thấy tôi trong cái chân tướng bản thể, không phải bị đóng đinh trên Thánh giá, mà vượt lên cao hơn tất cả những gì là trần gian tục lụy?
Khúc ca vô hình lại tiếp tục với câu hát:
"Xin ngài cứu rỗi và giải thoát cho tất cả, hỡi ngài là Con của Chúa Trời. Các người hãy nghiêng mình suy tôn ngài, nước Chúa đã được đặt ra cho nhân loại trường cửu đến muôn đời. Thật vậy, ngài sẽ ở bên cạnh các ngài, mãi mãi..."
Đó không phải là một cảnh tượng xa xôi, huyền ảo, hay lu mờ. Chúng tôi thật sự có mặt trong gian phòng lúc ấy và chúng tôi đã nói chuyện với những người đối thoại. Chúng tôi đã bắt tay chào hỏi và đã chụp ảnh tất cả các vị. Các vị đã hiện diện giữa nhóm chúng tôi, và chúng tôi đã vây quanh các vị. Sự khác biệt duy nhất giữa các vị và chúng tôi là các vị được bao phủ quanh mình bằng một thứ hào quang đặc biệt. Hào quang đó dường như là cái nguồn xuất phát ra ánh sáng chiếu khắp phòng. Các vị không có tỏa ra một cái bóng nào như chúng tôi. Thể xác các vị dường như trong suốt một cách lạ thường, bàn tay sờ vào thì nó giống như chất bạch ngọc (albâtre). Tuy nhiên, thân thể các vị có những rung động ưu ái tốt lành và tỏa ra chung quanh sự nhiệt thành và ấm áp của tình thương. Sau khi các vị đã ra đi, gian phòng dường như vẫn còn giữ lại sự ấm áp và ánh sáng của ngài. Sau đó, mỗi khi chúng tôi bước vào phòng này, chúng tôi đều cảm thấy như vậy. Một ngày nọ, vài người trong nhóm chúng tôi họp tại đó, trao đổi cảm tưởng lẫn nhau và vị trưởng nhóm chúng tôi nói:
- Gian phòng này thật là kỳ diệu.
Anh ta đã biểu lộ cái cảm tưởng chung của chúng tôi, chúng tôi không ai nói thêm điều gì nữa. Khi chúng tôi trở lại đó vào mùa thu năm sau, gian phòng giống như một nơi linh điện và chúng tôi ngồi tĩnh tâm tại đó trong nhiều giờ.
Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên đó, chúng tôi đợi cho các vị siêu nhân bước ra khỏi phòng. Trong khi Phi Lát sắp sửa ra đi, người yêu cầu vị trưởng nhóm chúng tôi cùng đi theo người. Chúng tôi dùng các cầu thang đi xuống phòng dưới, và đi theo con đường hầm để ra ngoài đường. Chúng tôi đi về làng và trở về nhà trọ, tại đây chúng tôi còn ngồi nói chuyện đến nửa đêm.
Sau khi các vị quan khách đã ra về, chúng tôi tụ họp chung quanh bà chủ nhà, và mỗi người đều đến bắt tay bà để cảm ơn về buổi tối đặc biệt đó. Một người trong chúng tôi nói:
- Tôi chỉ có một cách duy nhất để phát biểu những tư tưởng và cảm nghĩ của tôi, là nói rằng những quan niệm vật chất thiển cận của tôi đã hoàn toàn tan vỡ đến nỗi tôi sẽ không bao giờ còn thấy lại một mảnh vụn nhỏ nhặt nào!
Dường như bạn tôi đã thức động đến những tư tưởng thầm kín của tất cả mỗi người trong nhóm. Về phần tôi, tôi không nói gì về những cảm nghĩ của mình và cũng không hề nghĩ đến việc thuật chuyện lại cho ai nghe. Việc đó tôi để tùy nơi sự tưởng tượng của độc giả. Khi chúng tôi chào bà chủ nhà trước khi đi ngủ, không ai thốt ra một lời nào nữa. Mỗi người đều có cảm tưởng rằng một thế giới hoàn toàn mới lạ đã xuất hiện trước mắt chúng tôi. Chúng tôi lui về phòng riêng trong đêm đó với ý nghĩ rằng mình đã trải qua một ngày đầu năm tốt đẹp nhất trong đời.
2. Tài Liệu Cổ Xưa Đến Bốn Trăm Năm Mươi Thế Kỷ
Sáng ngày hôm sau, vào lúc ăn điểm tâm, chúng tôi hỏi bà chủ nhà và được biết rằng không phải là một điều bất thường mà thấy đức Jesus xuất hiện như Ngài đã làm đêm trước. Bà nói rằng Ngài vẫn thường tham dự với bà và các bạn hữu trong công việc chữa bịnh.
Ngày đó, bà chủ nhà và hai bà khác quyết định đến ngôi đền với chúng tôi. Khi chúng tôi vừa ra khỏi nhà, hai người đàn ông đi theo chúng tôi. Một người nói với bà chủ nhà rằng có một đứa trẻ trong làng bị đau ốm và nhờ bà đến chữa bịnh. Chúng tôi bỏ dở lộ trình và đi theo hai người lạ mặt đến nhà đứa trẻ, thì thấy em bé ấy thật sự đang đau nặng. Bà chủ nhà chúng tôi liền tiến tới và đưa hai tay ra. Mẹ em bé đặt đứa nhỏ trong vòng tay của bà. Gương mặt đứa bé liền sáng lên, rồi nhăn lại một lúc. Sau vài phút, nó ngủ một giấc li bì. Bà chủ nhà mới trả em bé lại cho người mẹ nó và chúng tôi ra đi để đến ngôi đền.
Người ta đưa chúng tôi đi qua nhiều phòng trong ngôi đền. Trong lúc nói chuyện, chúng tôi được biết rằng một trong hai người đã đi theo chúng tôi hồi sớm mai là con cháu của một trong các bậc siêu nhân có gương mặt còn trẻ mà chúng tôi đã gặp tại làng cũ của Thánh Jean Baptiste ở ngày xưa. Chúng tôi đã gọi vị siêu nhân ấy là vị sư tổ, tác giả các văn kiện cổ xưa. Trái lại, người cháu chắt này già như một ông lão, điều này làm chúng tôi ngạc nhiên.
Trong khi chúng tôi trở lại gian phòng thứ nhất, vị trưởng nhóm của chúng tôi hỏi rằng một điều ước nguyện có thể nào thực hiện được chăng? Bà chủ nhà đáp rằng mọi điều mong ước được bày tỏ dưới một hình thức cầu nguyện, rằng đức Jesus vẫn dùng một hình thức cầu nguyện toàn vẹn vì lời cầu nguyện của ngài luôn luôn được đáp ứng. Một lời cầu nguyện luôn luôn được đáp ứng chỉ có thể là toàn vẹn, bởi đó nó rất khoa học, và nếu nó đúng tinh thần khoa học, lẽ tất nhiên nó phải theo một định luật đúng đắn. Bà chủ nhà nói tiếp:
- Định luật ấy là như vầy: Lời cầu nguyện được đáp ứng là tùy theo đức tin. Nói một cách khác, bất luận là bạn mong ước điều gì khi bạn cầu nguyện, bạn hãy tin rằng bạn đã nhận được những điều mong ước đó, rồi bạn sẽ có.
Nếu chúng ta biết chắc rằng những gì ta cầu xin đã được ban cho ta, chúng ta cũng biết rằng chúng ta đã hành động đúng luật. Và nếu điều mong ước được thực hiện, chúng ta biết rằng luật đã ứng nghiệm. Còn nếu điều ta ước mong không được đáp ứng, thì ta biết rằng chúng ta đã cầu nguyện trái phép. Lỗi ấy không phải ở nơi Trời, mà ở nơi chúng ta. Trong trường hợp đó, thì đây là điều răn:
"Các bạn hãy kính yêu Thượng Đế với tất cả tấm lòng thành, với tất cả linh hồn, tất cả sức mạnh, tâm tư và trí não của bạn. Bây giờ, bạn hãy đi sâu vào tâm hồn bạn, không thành kiến, không sợ hãi, và không nghi nan, với một tâm hồn vui vẻ, tự do và biết ơn, và biết rằng những gì bạn cần dùng, những gì bạn cầu mong, bạn đã được rồi đấy."
Cái bí quyết là hãy nâng tâm hồn lên cho hòa nhịp với Thượng Đế. Kế đó, phải giữ nguyên trạng thái đó không cho suy chuyển một ly, dầu cho ta có gặp phải sự chống đối của toàn thể thể thế giới. Đức Jesus nói:
- Riêng ta, ta không thể làm gì được. Đức Chúa Cha ngự nơi ta đã làm tất cả mọi việc.
Các bạn hãy có đức tin nơi Thượng Đế, đừng nghi ngại, đừng sợ sệt. Các bạn hãy nhớ rằng quyền năng của Thượng Đế không giới hạn. Tất cả mọi việc, ta đều có thể làm được.
3. Đức Jesus Xuất Hiện
Trong nhiều ngày liên tiếp, suốt hai tháng trường chúng tôi nghiên cứu một loạt những tấm bia đá cổ xưa sắp thành hàng trong một phòng kín của ngôi đền. Những bia đá này có khắc những cổ tự và những hình biểu tượng hàm xúc nhiều ý nghĩa thâm sâu. Ông lão đi theo chúng tôi giảng giải cho chúng tôi nghe những ý nghĩa của các bia đá cổ. Một ngày nọ vào ngày tháng Ba, như thường lệ chúng tôi đến gian phòng nói trên và thấy ông lão nằm yên bất động trên tấm nệm, dường như người ngủ, Một bạn tôi bước đến gần, đặt nhẹ một bàn tay trên mình ông lão để đánh thức ông dậy, nhưng đều thụt lùi lại và hoảng hốr kêu:
- Ông ta không còn thở, hay là ông ấy đã chết rồi!
Chúng tôi tựu lại quanh tấm nệm với ý nghĩ là ông lão đã chết nên không để ý đến việc gì xảy ra và có ai bước vào phòng. Bỗng một tiếng "Chào các bạn" kéo chúng tôi ra khỏi cơn mơ. Chúng tôi quay lại phía cửa vào và thấy đức Tuệ Minh. Sự xuất hiện của ngài làm chúng tôi ngạc nhiên, vì chúng tôi tưởng là ngài đang ở một nơi cách đây một ngàn năm trăm cây số. Trước khi chúng tôi định tĩnh tinh thần, ngài đã bước tới gần và bắt tay chúng tôi.
Sau một lúc hai người chúng tôi lui ra sau và đức Tuệ Minh bước tới gần tấm nệm. Đặt một bàn tay trên trán ông lão, ngài nói:
- Đây là một huynh đệ thân mến của chúng ta vừa mới từ giã cõi đời và bỏ dở công việc của y đang làm. Các bạn nghĩ rằng y đã chết. Ý tưởng đầu tiên của các bạn là tìm một người đào huyệt, mua một cỗ quan tài, và xây cho y một ngôi mộ để cho y yên giấc nghìn thu. Hỡi các bạn, hãy suy nghĩ trong một lúc. Ngày xưa đức Jesus đã kêu gọi đến ai khi ngài nói: "Hỡi Chúa Cha, con xin tạ ơn chúa đã nghe lời cầu nguyện của con?" Ngài không kêu gọi đến cái phàm ngã, cái lớp vỏ bên ngoài. Ngài nhìn nhận và kêu gọi đến Chân Ngã, tức Đại Ngã vô biên, vốn tàn năng, vốn nghe, biết, và nhìn thấy tất cả, tức là đức Thượng Đế toàn thông và hiện diện ở khắp mọi nơi. Đức Jesus chủ ý đến diều gì khi ngài đứng bên cạnh nắm mồ của Thánh Lazare? Phải chăng ngài làm như các bạn là nhìn vào lỗ huyệt đào, và thấy xác thể thánh Lazare đang chương sình và sắp tan rã? Không. Khi mà các bạn chỉ nghĩ đến người chết, ngài nghĩ đến người sống, là Con duy nhất của Chúa Trời. Nhãn quang của ngài trụ vào sự sống trường cửu, bất biến hiện diện khắp nơi và thấm nhuần tất cả mọi vật. Bây giờ, với tầm nhãn quang của chúng ta cương quyết nhắm vào sự hiện diện hằng có của Thượng Đế, chúng ta có thể nhìn thấy hoàn tất công việc của người huynh đệ thân yêu này, y đã không bao giờ tuyệt đối trông cậy nơi Thượng Đế. Y đã trông cậy một phần vào sức mình và đã đi đến trạng thái hiện tại mà các bạn đã thấy. Y đã bỏ cuộc Chúa Trời. Y đã phạm vào điều lầm lạc mà nhiều người trong các bạn đang làm hiện thời, điều lầm lạc mà các bạn gọi là sự chết. Người huynh đệ thân yêu này đã không có khả năng từ bỏ sự nghi ngờ và sợ sệt. Y đã cậy nơi sức mình và không thể hoàn tất công việc mà mỗi người trong chúng ta đều phải làm. Nếu chúng ta cứ để y nằm yên như thế, thể xác y sẽ tan rã. Y sẽ phải trở lại cõi trần để hoàn thành công việc thế gian mà y làm chưa xong. Thật ra, công việc ấy đã gần xong đến nỗi chúng ta có thể giúp y hoàn tất chu đáo. Chúng ta cho rằng thật là mợt vinh dự lớn lao mà có thể giúp đỡ y trong trường hợp này. Các bạn đã hỏi rằng y có thể nào thức tỉnh dậy và sống lại như mọi người hay chăng? Có, y có thể, và tất cả những người đã chết như y đều có thể sống lại. Mặc dầu các bạn cho rằng y đã chết, nhưng chúng tôi là những người đã từng chia sẽ ít nhiều cuộc đời của y, chúng tôi có thể giúp đỡ y. Không bao lâu y sẽ hiểu và sẽ có thể đem thể xác đi theo với y. Không cần phải bỏ xác cho cái gọi là "Sự chết" và sự tan rã, dẫu rằng sau khi đã làm cái điều lầm lạc lớn lao nói trên...
Đức Tuệ Minh ngừng nói trong một lúc và có vẻ đắm chìm trong một cơn thiền định thâm sâu. Một lúc ngắn ngủi sau đó, bốn người trong các vị khách gặp nhau trong làng đều bước vào gian phòng. Các vị bước đến gần nhau, cũng nhắm mắt định thần và đi vào cơn đại định thâm trầm. Kế đó, hai người trong các vị đưa tay ra và mời chúng tôi cùng nhập cuộc. Chúng tôi bước đến gần và khoác tay trên vai nhau, làm thành một vòng tròn chung quanh chỗ nằm của xác chết.
Chúng tôi đứng im lặng trong một lúc, kế đó ánh sáng trở lên tỏ rạng hơn trong gian phòng. Chúng tôi quay lại nhìn thấy đức Jesus và Phi Lát đang đứng cách chúng tôi có vài bước. Hai vị tiến tới và nhập đoàn cùng với chúng tôi. Lại một cơn im lặng thâm trầm tiếp theo sau, kế đó đức Jesus đến gần xác chết, đưa hai tay lên và nói:
- Hỡi các bạn, tôi xin đề nghị với các bạn hãy cùng tôi vượt trong một lúc qua cõi giới bên kia cửa Tử. Cõi ấy không phải là vùng cấm địa như các bạn có thể tưởng. Nếu các bạn cùng với tôi vượt qua cửa Tử và quan sát cõi ấy từ phía bên kia, các bạn sẽ thấy rằng nó sẽ thuần túy tạo nên bởi những tư tưởng của con người. Ở cõi giới bên kia cũng có sự sống, giống như bên này vậy.
Đức Jesus đứng yên một lúc hai tay đưa thẳng về phía trước, và nói:
- Hỡi người anh em và bạn hữu, bạn hiện diện với chúng tôi, chúng tôi cùng hiện diện với bạn, và tất cả chúng ta đều hiện diện chung nhau với Chúa Trời. Sự tinh khiết tuyệt đối, sự bằng an và điều hòa của Chúa Trời bao phủ và thấm nhuần tất cả. Sự thực hiện điều đó nay đã biểu lộ nơi bạn một cách độc đáo và rõ rệt đến nỗi bạn có thể đứng dậy và được nhận ở một bên đấng Cha Lành. Bạn thân mến, bây giờ bạn đã thấy và biết rằng thể xác của bạn không phải là cát bụi trở về cát bụi, hay nhúm tro tàn hoàn lại đống tro tàn. Sự sống vẫn ở đó, tinh anh và trường cửu. Không cần phải bỏ thể xác cho nó tan rã trong sự chết. Bây giờ bạn đã nhận thức được sự huy hoàng của cõi giới nguyên thủy của mình. Bây giờ bạn có thể đứng dậy và đến với Chúa Trời...
Hỡi quý độc giả, nếu người ta thử diễn tả sự mỹ lệ và tinh anh của ánh sáng tràn ngập gian phòng này bằng ngôn ngữ của trần gian, thì đó là những danh từ trống rỗng. Khi xác chết bất động ngồi dậy, dường như ánh sáng chiếu xuyên qua mọi vật, thành thử không có vật gì phát ra bóng đen, cả thể xác của người chết cũng như của chúng tôi.
Kế đó, những vách tường dường như nới rộng ra và trở nên trong suốt, và sau cùng dường như tầm nhãn quang của chúng tôi phóng vào khoảng không gian vô tận. Không thể dùng danh từ nào để có thể diễn tả sự huy hoàng của cảnh tượng lúc ấy. Khi đó chúng tôi hiểu rằng Thần Chết đã biến mất và chúng tôi đang hiện diện trước Sự Sống trường cửu, huy hoàng.
Người trần gian cũng như chúng tôi chỉ có thể nhìn với đôi mắt kinh ngạc. Trong những giây phút đó, chúng tôi vượt lên cao hơn nhiều những gì mà một khối óc giàu tưởng tượng có thể nghĩ về sự mỹ lệ huy hoàng của cõi Trời. Đó không phải là một cơn mơ, mà đó là sự thật. Sự thật ấy có thể vượt khỏi rất xa tất cả những giấc mơ. Ngày hôm đó, ảnh hưởng kỳ diệu của sự mỹ lệ và sự bằng an của cảnh tượng ấy gây ra, cộng thêm với đức tin mà các vị Chân Sư đã gây cho chúng tôi, đã hoàn toàn đưa chúng tôi vượt qua bên kia bức rào ngăn cách giữa sự Sinh và sự Tử. Ngày nay, bức rào ngăn cách đó đối với chúng tôi chỉ còn là đồng bằng không chướng ngại. Tuy nhiên, dường như chúng tôi thấy một cách rõ rệt rằng bằng cách này hay cách khác, mỗi người phải tự mình làm sự cố gắng cần thiết để vượt qua những chướng ngại nếu y muốn nhìn thấy sự huy hoàng lộng lẫy của cõi giới vô hình.
***
Mọi di tích của sự già nua đã biến mất nơi Chandersen, mà chúng tôi coi như là đã phục sinh từ cõi chết. Y day lại xác bạn hữu và liền cất tiếng nói. Giọng nói của y hàm xúc một điểm chân thành và hùng dũng:
- Hỡi các bạn, các bạn không thể biết được nỗi vui mừng, sự bằng an và niềm ân huệ lớn lao mà các bạn đã đem đến cho tôi bằng cách đánh thức tôi dậy như các bạn đã làm. Một lúc trước đây, tất cả đều tăm tối. Tôi đang ở đó, ngại ngùng sợ sệt không dám tiến tới và cũng không thể thụt lùi. Tôi chỉ có một cách để bày tỏ những cảm tưởng của tôi. Tôi đang đắm chìm trong sự tối tăm u ám, thì bỗng nhiên tôi thức tỉnh, và bây giờ tôi lại ở một bên các bạn.
Kế đó, gương mặt y trở nên sáng lạn với một niềm hân hoan vui vẻ đến nỗi người ta không nghi ngờ lòng thành thật của y. Y day lại chúng tôi, và nói:
Hỡi các bạn, thật là hân hạnh thay khi tôi nghĩ đến sự kết hợp giữa chúng ta. Các bạn không thể biết được niềm vui của tôi khi tôi bắt tay các bạn. Thật là một niềm phúc lạc mà nhìn thấy và cảm xúc được sự chân thành của các bạn khi các bạn chấp nhận sự can thiệp của những vị cứu trợ cao cả thiêng liêng của tôi! Nếu các bạn có thể nhìn thấy bằng đôi mắt của tôi trong lúc này, các bạn sẽ biết được cái ân huệ mà tôi vừa kinh nghiệm. Niềm vui lớn nhất của tôi là biết rằng được một cách chắc chắn rằng mỗi người trong các bạn sẽ có ngày đạt tới một giai đoạn giống như của tôi và chừng đó sẽ biết được một niềm vui tương tự. Tôi có thể nói rằng thật cũng đáng sống trọn một cuộc đời để thụ hưởng được một lúc an lạc như thế...
Một lúc sau, Chandersen đã biến mất. Phải chăng đó chỉ là một ảo ảnh? Các bạn tôi đều đồng thanh cho là không, vì có hai người đã đích thân đến bắt tay đương sự. Tôi để cho quý độc giả quyền tự do phê phán việc ấy.
Khi đó một trong các vị quý khách ở làng ấy day lại chúng tôi và nói:
- Tôi biết các bạn đang có sự nghi nan. Nhưng các bạn nên hiểu rằng tất cả những việc ấy không phải được dàn cảnh để làm vui mắt các bạn. Đó chỉ là một sự việc thông thường và ngẫu nhiên xảy ra trong cuộc đời của chúng tôi. Khi đến một lúc quyết định, chúng tôi có thể thắng đoạt được thời cơ và làm chủ tình hình. Nếu để riêng một mình y, người anh em này không đủ sức để tự mình vượt qua bức rào chướng ngại. Quả thật, như các bạn đã thấy, y đã chết và bỏ xác nằm trơ. Nhưng mà y đã đạt tới một trình độ tâm linh khá cao, nên chúng tôi có thể giúp y vào lúc quyết định. Trong trường hợp đó, linh hồn đã trở lại, thể xác hoàn thành sự tinh luyện cho nó đến mức toàn hảo, và hành giả có thể đem thể xác y theo đến bất cứ nơi đâu. Sự bất hạnh của người anh nay là do bởi y muốn chết quá! Y đã bỏ xác y lại đúng vào lúc mà chỉ thêm vài bước nữa cũng đủ để cho y vượt qua bức rào ngăn cách và hoàn tất công phu tu luyện đến mức toàn hảo. Thật là một hân hạnh rất lớn cho chúng tôi mà có thể giúp đỡ y trong dịp đó...
Chúng tôi từ từ rút tay lại và đứng yên một phút trong một cơn im lặng hoàn toàn. Một người trong chúng tôi gián đoạn phút im lặng đó bằng một câu:
- Ôi! Thượng Đế toàn năng!
Riêng phần tôi, dường như không bao giờ tôi còn muốn nói gì nữa. Tôi muốn suy gẫm. Trong một giờ đồng hồ, tôi đã sống trọn một đời người. Chúng tôi tất cả đều ngồi xuống. Vài người trong chúng tôi đã định tĩnh tinh thần trở lại, bèn nói chuyện thì thầm với nhau.
Một khắc đồng hồ sau, trong khi chúng tôi đang ngồi nói chuyện, một bạn tôi bước đến gần cửa sổ nhìn ra ngoài và nói hình như có nhiều người lạ mặt đã vào làng. Ngạc nhiên, chúng tôi đi ra để nhìn xem. Thật vậy, thật là một điều rất hiếm mà có những người khách lạ đi bộ đến làng vào mùa này, vì lúc ấy là giữa mùa đông.
Khi đến làng, chúng tôi thấy một nhóm vài người đến từ một thôn nhỏ cách đó chừng độ năm chục cây số. Họ có đem theo một người, đi lạc trước đó một ngày trong cơn bão tuyết và hầu như đã hoàn toàn bị chết cóng. Các bạn y chở y nằm trên một chiếc cáng và đã đi bộ vượt qua một quãng đường dài đầy tuyết phủ. Đức Jesus bước đến gần, đặt bàn tay trên đầu người ấy và đứng yên trong một lúc. Thình lình, người ấy bỏ mền ra và liền đứng dậy. Các bạn y trố mắt nhìn một cách vô cùng kinh ngạc và bỏ chạy trong cơn hoảng sợ. Chúng tôi không thể nào thuyết phục họ quay trở lại. Người chết cóng vừa được chữa khỏi có vẻ hoang mang ngơ ngác. Hai bạn trong nhóm chúng tôi mời y về nhà để nghỉ ngơi một ít lâu. Kỳ dư đều quay trở lại nhà trọ, và chúng tôi thức đến nửa đêm để bình luận xảy ra trong hai ngày hôm đó.
***
4. Tài Liệu Khắc Trên Những Bia Đá Cổ
Câu chuyện xoay chiều đến một điểm, khi đó một bạn tôi hỏi địa ngục ở tại nơi đâu, và ác quỷ có nghĩa là gì? Đức Jesus phản ứng mau lẹ đáp:
- Địa ngục và ác quỷ không có nơi chỗ nào nhất định ngoài ra trong tư tưởng phàm tục của người đời. Cả hai đều ở đúng vào nơi mà con người đặt ra cho chúng. Các bạn là những người có học thức, các bạn có thể nào tìm thấy chăng một vị trí địa dư nào cho địa ngục và ác quỷ trên quả địa cầu? Nếu cõi trời là tất cả và bao trùm tất cả, làm sao người ta có thể tìm thấy trong chất dĩ thái bao la một nơi chốn nào nhất định cho địa ngục hay ác quỷ? Nếu Chúa Trời là tất cả mọi nơi và cai quản tất cả moi sự, thì còn có chỗ nào đâu nữa cho địa ngục hay ác quỷ trong cái thiên cơ toàn diện của ngài? Bây giờ chúng ta đã lục soát khắp cả vũ trụ và không tìm thấy chỗ nào là nơi trú ẩn của ác quỷ. Như vậy, chúng ta bắt buộc phải nhìn nhận rằng ác quỷ ở chỗ nào có người ta và nó chỉ có những quyền năng mà người đời đã gán cho nó. Các bạn tưởng tượng rằng tôi có thể đuổi tà ra khỏi bất cứ một người nào, rồi sau đó để cho nó nhập vào một bầy heo, rồi bầy heo này sẽ đâm đầu xuống biển? Tôi không hề thấy tà ma hay quỷ quái nhập vào một người nào, trừ phi người ấy đã tự ý đem nó vào mình. Cái quyền năng duy nhất của tà ma mà tôi nhìn nhận thấy là cái quyền năng mà chính người đời đã gán cho nó.
Một lúc sau, câu chuyện xoay chiều đến vấn đề Thượng Đế, và một bạn tôi hỏi:
- Con muốn biết Chúa Trời là ai và bản chất thật sự của Ngài là như thế nào?
Đức Jesus đáp:
- Tôi hiểu tầm mức quan trọng của câu hỏi đó. Anh muốn xác định vấn đề ấy cho rõ ràng. Ngày nay, thế giới đang bị xáo trộn bởi nhiều tư tưởng trái ngược. Người ta không tìm đến nguồn gốc của danh từ. Thượng Đế hay Chúa Trời là cái nguyên lý cai quản mọi vật. Cái Nguyên Lý nó ngự trị trong một sinh vật là Tinh Thần, và Tinh Thần vốn toàn năng, toàn trí và toàn thông. Chúa Trời là Tư Tưởng duy nhất của cái nguyên nhân trực tiếp và chỉ đạo của tất cả mọi sự tốt lành ở quanh chúng ta. Chúa Trời là nguyên nhân của mọi sự sống mà ta thấy ở chung quanh ta. Chúa Trời là nguồn gốc của tình Bác Ái bao la nó duy trì và hợp nhất tất cả mọi hình thể sinh hoạt. Chúa Trời hay Thượng Đế là một cái nguyên lý vi diệu, chớ không phải là một đấng có cá thể riêng biệt. Chúa Trời không bao giờ là một nhân vật riêng rẽ, trừ phi khi nào người trở nên là một đấng Cha Lành, đầy tình thương và có cá tính đối với quan niệm riêng của mỗi người. Thật vậy, đối với mỗi người, Chúa Trời có thể trở nên một bậc Phụ Mẫu, đầy Bác Ái và ban rải tất cả. Chúa Trời không bao giờ là một đấng Cao Cả ngự trị ở một nơi nào đó trên trời, ở một cõi giới gọi là Thiên Đàng, nơi đó ngài ngồi trên một chiếc ngai vàng và xử xét người đời sau khi họ chết. Vì Chúa Trời là sự sống vậy, và sự sống không bao giờ mất. Cái hình ảnh nói trên chỉ là một quan niệm sai lầm nảy sinh trong trí của kẻ ngu dốt.
Điều ấy cũng áp dụng cho nhiều sự sai lầm khác mà các bạn có thể nhận thấy trên thế gian ở chung quanh ta. Chúa Trời không phải là một vị Quan Tòa, hay một ông vua, có thể áp đặt sự hiện diện của Ngài đối với con người, và đem người đời xét xử trước một tòa án cộng lý. Chúa Trời là một đấng Cha Lành đầy bác ái và giàu lòng quảng đại, mở rộng hai tay mừng đón khi bạn tiến đến gần Ngài. Ngài không cần biết bạn là ai trong hiện tại hay trong quá khứ. Bạn luôn luôn là con của Ngài, nếu bạn tìm đến Ngài với tấm lòng thành và với mục đích chân thật, dẫu rằng bạn đã có lúc bỏ nhà đi hoang và đã mỏi mệt trên con đường lầm lạc sa ngã. Bạn luôn luôn có thể lại quay trở về nhà của đấng Cha Lành với niềm tin tưởng chắc chắn về một sự tiếp đón đầy hảo ý. Bữa tiệc liên hoan luôn luôn chờ đón bạn ở đó, bàn tiệc luôn luôn được sắp đặt sẵn sàng. Khi bạn trở về, bạn sẽ không nghe một lời trách móc nào của một huynh đệ đã trở về nhà trước bạn.
Các bạn có thể nhìn thấy Chúa Trời và nói chuyện với ngài bất cứ lúc nào, cũng y như bạn nói chuyện với cha mẹ, bạn bè hay thân nhân của bạn. Thật vậy, ngài còn gần gũi bạn hơn bất cứ người nào trên thế gian, ngài chăm sóc và ưu ái bạn còn hơn bất cứ bằng hữu thân tính nào. Ngài không bao giờ giận dữ hay chán nản. Chúa Trời không hề hủy diệt, sát phạt, gây tổn thương hay làm buồn lòng một người con nào hay một sinh vật nào của ngài sáng tạo ra. Nếu ngài làm như vậy, ngài đã không phải là Chúa Trời. Một đấng Thượng Đế mà xét xử, sát phạt hay từ chối một sự tốt lành nào đối với những sinh vật hay những đứa con của ngài, chỉ là do tưởng tượng của những triết gia ngu dốt. Các bạn không cần phải sợ sệt đấng Thượng Đế như thế, trừ phi các bạn cố ý muốn làm vậy. Vị Chúa Trời chân chính luôn luôn đưa tay ra và nói: "Tất cả những gì Ta sở hữu, cũng là của con." Một thi nhân há chẳng đã nói rằng Thượng Đế với ta còn hơn là hơi thở, hay tay chân của ta. Thi sĩ nói câu ấy hẳn là do một nguồn cảm hứng thiêng liêng. Tất cả đều được cảm hứng thiêng liêng khi họ hướng về điều thánh thiện hay công lý. Mỗi người đều có thể được cảm hứng thiêng liêng bất cứ lúc nào nếu họ muốn.
Nhiều vị bạn hữu của tôi cùng đoàn kết với nhau để giúp đỡ thế gian. Đó là công việc làm trong đời của chúng tôi. Có những thời kỳ phải cần huy động tất cả mọi nghị lực của chúng tôi lại với nhau để đánh tan những luồng sóng tư tưởng xấu xa hắc ám, những tư tưởng nghi ngờ, những tư tưởng dị đoan nó suýt nữa đã nhận chìm toàn thể nhân loại trong vực thẳm. Các bạn có thể gọi đó là những lực lượng tà vậy, bất hảo hay gì tùy ý. Theo chúng tôi, những sức mạnh đó chỉ xấu xa hắc ám trong phạm vi mà người đời đã tạo ra nó.
Nhưng ngày nay, chúng tôi thấy một ánh sáng ngày càng tỏ rạng hơn lên, khi mà người ta từ bỏ những điều mê tín dị đoan trói buộc của họ. Sự giải thoát đó có thể làm cho họ đắm chìm một ít lâu trong chủ nghĩa duy vật. Nhưng điều này giúp cho họ tiến gần mục đích, vì chủ nghĩa duy vật không gây chướng ngại cho tinh thần bằng sự mê tín dị đoan hay những huyền thoại hoang đường. Cái ngày mà tôi đi trên mặt nước, chắc chắn các bạn tưởng rằng tầm nhãn quang của tôi hướng về chỗ nước sâu, vực thẳm chăng? Không. Tôi chỉ nghĩ đến quyền năng của Chúa Trời, nó thắng đoạt tất cả mọi sự hiểm nguy của vực thẳm. Khi tôi làm như vậy, mặt nước trở nên rắn chắc như đá, và tôi có thể đi trên mặt biển một cách tuyệt đối an toàn.
Đức Jesus ngừng một lúc, và bạn tôi hỏi:
- Thưa Ngài, buổi nói chuyện của Ngài với chúng tôi hôm nay có làm phiền rộ Ngài và làm gián đoạn công việc cao cả của Ngài chăng?
- Các anh không thể là phiền rộn một vị nào trong các bạn hữu của tôi, dẫu rằng trong một lúc, và tôi nghĩ rằng tôi cũng là một người trong nhóm đó.
Một bạn khác nói:
- Ngài là vị Anh Cả của chúng tôi.
- Cám ơn bạn, tôi vẫn luôn gọi các bạn là anh em.
Khi đó, một người trong chúng tôi day lại đức Jesus và hỏi ngài:
- Thưa ngài, phải chăng mọi người đều có thể biểu lộ đấng Chirst tự trong mình?
Ngài đáp:
- Phải, chỉ có một con đường đưa đến sự Toàn Thiện. Con người sinh ra tự Chúa Trời phải trở về với Chúa Trời. Những gì xuất xứ từ cõi Trời đều phải quay trở lại cõi Trời. Lịch sử đấng Chirst không phải bắt đầu từ lúc tôi giáng sinh, cũng như không phải chấm dứt khi tôi bị đóng đinh trên Thập Tự Giá. Đấng Chirst vẫn hằng có, khi chúng tôi sáng tạo nên người đầu tiên theo hình ảnh của ngài và giống như ngài. Đấng Chirst và người ấy chỉ là một. Tất cả mọi người cùng với người ấy chỉ là một. Cũng như Chúa Trời là Cha của người ấy, thì ngài là Cha của tất cả mọi người. Trong thời gian trên năm mươi năm sau ngày tôi bị pháp nạn trên cây Thánh Giá, tôi đã sống với những đệ tử và những người thân yêu của tôi. Tôi đã truyền pháp cho họ. Trong thời gian đó, chúng tôi tựu họp nhau trong một vùng hẻo lánh yên tịnh xứ Judée, ở đó chúng tôi được ẩn trú an toàn khỏi bị quấy rầy bởi những kẻ tò mò mê tín. Chính ở đó nhiều người đã đắc được những quyền năng lớn lao và thực hiện một công trình vĩ đại. Khi đó tôi hiểu rằng bằng cách rút lui một thời gian, tôi có thể tiếp xúc với toàn thể thế giới để giúp đỡ nhân loại. Bởi đó, tôi rút lui và sống ẩn dật. Vả lại, những đệ tử tôi thường ỷ lại nơi tôi nhiều hơn là tự trông cậy nơi sức mình. Để giải thoát họ khỏi thói ỷ lại đó, tôi phải rút lui khỏi tập đoàn họ. Vì có sự liên hệ chặt chẽ giữa họ với tôi, nên phải chăng là họ có thể tìm lại tôi tùy ý muốn...
Các bạn hãy tự coi mình như một phần tử của sự sống vô biên. Các bạn hãy chấp nhận tự hy sinh vì lợi ích chung của toàn thể. Các bạn hãy tập làm điều lành mà không cần nghĩ đến hậu quả. Các bạn hãy tập từ bỏ mọi đời sống phàm tục và từ bỏ mọi thứ của cải vật chất của trần gian. Hãy làm như vậy một cách thoải mái tự do, đó không phải là một sự quên mình hãy cam tâm sống cuộc đời bần cùng khắc khổ. Bạn càng cho ra bao nhiêu những gì mà Chúa Trời ban cho bạn, thì bạn sẽ nhận thấy rằng bạn càng có nhiều hơn để cho ra, dẫu rằng đôi khi dường như bổn phận đòi hỏi bạn phải cho tất cả, thậm trí đến cả sự sống. Khi đó, bạn sẽ thấy rằng người nào muốn duy trì sự sống của mình sẽ mất nó. Bạn sẽ vui mừng và nhận thấy rằng sự sống mà bạn đem cho kẻ khác, lại chính là sự sống mà chính bạn thu hoạch được. Khi đó bạn sẽ biết rằng nhận lãnh, có nghĩa là cho ra một cách rộng rãi, phóng khoáng. Nếu các bạn hy sinh cái sự sống hữu hình hữu hoại này, một đời sống cao cả hơn sẽ xuất hiện. Tôi bảo đảm với các bạn rằng một đời sống như thế là một sự thực hiện lớn lao không phải cho riêng mình, mà cho tất cả.
Có lúc bạn sẽ có lòng ưu ái để cảm thông với những nhu cầu cấp bách của thế gian. Khi bạn cảm thấy điều đó, bạn sẽ có thể giúp đỡ kẻ đồng loại một cách vô tư mà không hề khoe khoang tự phụ. Bạn có thể ban rãi nguồn ân huệ thiêng liêng cho những linh hồn khát khao chân lý mà nguồn ân huệ ấy sẽ không bao giờ cạn. Bạn hãy sử dụng khả năng dùng lời thuyết giảng đạo lý để đem nguồn an ủi cho những kẻ tìm đến bạn, để đem sự bằng an và nguồn hy vọng cho những kẻ bịnh tật, những kẻ mệt mỏi, chán nản cuộc sống, tất cả những người bị sự đau khổ của cuộc đời đè nặng lên vai. Bạn có thể thức tỉnh những kẻ mù quáng vô tình hay cố ý. Dẫu cho một linh hồn bị sa đọa đến bực nào, y cũng sẽ cảm thấy rằng có linh hồn đấng Christ đứng ở bên cạnh y...
Kế đó, đức Jesus nói rằng ngài sẽ đến một nhà huynh đệ khác trong làng ngay chiều hôm đó. Tất cả cử tọa đều đứng dậy. Đức Jesus ban ân huệ cho tất cả chúng tôi, và rời khỏi gian phòng với hai người khác.