Chương 3
Tác giả: Dr. Blair T. Spalding
1. Một Ngôi Đền Cổ Một Trăm Hai Mươi Thế Kỷ
Trưa hôm đó, đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và tôi cùng đi đến ngôi đền, và đến nơi vào lúc năm giờ chiều ngày hôm sau. Tại đây, chúng tôi được hai người coi đền tiếp rước và dọn chỗ cho chúng tôi nghỉ lại ban đêm. Đền này được xây cất bằng đá trên một ngọn núi cao, tục truyền rằng đã có từ mười hai ngàn năm. Đền này vẫn còn trong trạng thái nguyên vẹn, toàn hảo. Có lẽ đó là một trong những ngôi đền đầu tiên được dựng lên bởi các vị Đạo Sư của môn phái tu luyện trường sinh hồi thời cổ. Các vị xây đền này với mục đích tạo nên một nơi tu tịnh hoàn toàn yên tĩnh, và có lẽ không có một cuộc đất nào khéo chọn hơn là chỗ này. Đó là một đỉnh núi cao nhất trong vùng, chiều cao ba ngàn năm trăm thước. Con đường núi đưa lên đây hầu như dốc đứng trong đoạn cuối cùng dài mười hai cây số. Có chỗ nó vượt qua những chiếc cầu treo bằng dây thừng. Một đầu những dây thừng này buộc chặt với những tảng đá lớn tận trên cao, và đầu kia buông thòng xuống trong khoảng không, cột những thân cây ghép lại làm cầu treo lủng lẳng ở một chiều cao hai trăm thước. Ở những chỗ khác, chúng tôi bắt buộc phải trèo lên những nấc thang buộc vào những sợi dây thừng từ trên cao thòng xuống. Đoạn đường dài một trăm thước cuối cùng là một đoạn hoàn toàn dốc đứng. Chúng tôi trèo lên con đường này toàn là bằng những cái thang dây thuộc loại kể trên. Khi đến nơi, tôi có cảm giác như ở trên tột đỉnh của thế giới.
Ngày hôm sau, chúng tôi thức dậy vào lúc mặt trời mọc. Sau một đêm ngủ ngon giấc, tôi hoàn toàn quên mất sự leo núi vất vả nhọc mệt của ngày hôm trước. Từ trên đỉnh núi nhìn xuống dưới, người ta không nhìn thấy gì trong khoảng một ngàn thước, thành thử nơi này có vẻ như treo lủng lẳng trên không trung. Thật là khó mà xoá bỏ cái cảm giác đó. Ba ngọn núi khác nhô lên ở tận đằng xa. Người ta nói rằng trên đỉnh mỗi ngọn núi ấy đều có một ngôi đền giống như ngôi đền này, nhưng các ngọn núi ấy ở cách xa đến nỗi tôi nhìn qua ống dòm cũng không nhìn thấy gì.
Đức Tuệ Minh cho tôi biết rằng nhóm đoàn viên của Tô Mặc, vị trưởng nhóm của chúng tôi, có lẽ đã đến ngôi đền ở trên đỉnh ngọn núi xa nhất cùng một lượt với chúng tôi tại đây. Ngài nói rằng nếu tôi muốn tiếp xúc với Tô Mặc, tôi có thể nói chuyện được, vì y cùng với các đoàn viên cũng đang đứng trên nóc đền như chúng tôi vậy. Tôi lấy bút ra viết một bức thông điệp gởi cho Tô Mặc: "Tôi đang ở trên nóc đền, ba ngàn năm trăm thước cao hơn mặt biển. Đền cho tôi cái cảm giác bị treo lủng lẳng trên không gian. Đồng hồ tôi chỉ đúng Bốn giờ năm mươi lăm phút sáng ngày thứ Bảy mồng Hai tháng Tám."
Đức Tuệ Minh đọc bức thông điệp và đắm chìm một lúc trong im lặng. Kế đó, tôi được sự trả lời của Tô Mặc: "Đồng hồ tôi chỉ Năm giờ một phút sáng ngày thứ bảy mồng hai tháng tám. Chỗ này hai ngàn tám trăm thước cao hơn mặt biển. Cảnh rất đẹp, vị trí này thật là độc đáo." Đức Tuệ Minh nói: Nếu các bạn muốn nói gì thêm, tôi sẽ đem đi bức thông điệp và đem về câu trả lời. Nếu các bạn không thấy gì trở ngại, tôi sẽ đi nói chuyện với những người ở ngôi đền đằng ấy.
Tôi bèn đưa thông điệp cho ngài và ngài liền biến mất. Một giờ ba khắc sau đó, ngài trở vê với một thông điệp của Tô Mặc nói rằng đức Tuệ Minh đã đến năm giờ mười sáu phút và nhóm của y đang sung sướng nghĩ đến những gì sắp thực hiện trong cuộc hành trình của chúng tôi. Sự sai biệt về giờ khắc trên đồng hồ của chúng tôi là do sự khác biệt của kinh tuyến trên trái đất.
Chúng tôi ở lại đền này trong ba ngày, trong khi đó đức Tuệ Minh đi viếng thăm tất cả những toán đoàn viên trong cuộc hành trình, có đem đi thông điệp của tôi và đem về những thông điệp của toán khác. Sáng ngày thứtư, chúng tôi sửa soạn trỡ về làng, nơi mà chúng tôi đã để lại những người bạn đã đi tìm những "người tuyết." Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ còn muốn đến một làng nhỏ ở trong thung lũng, cách chổ lộ tẻ trên con đường mòn của chúng tôi độ năm chục cây số. Tôi tán đồng việc đó và đề nghị để cho tôi đi theo hai vị. đêm đó chúng tôi nghiû trong một túp lều tranh của bọn mục đồng, và ra đi từ lúc sáng sớm để kịp đến nơi vào sáng ngày hôm sau, vì chúng tôi đi bộ. Vì không thể đi đến ngôi đền bằng ngựa, nên chúng tôi đã để ngựa ở lại với các bạn tôi trong làng nhỏ nói trên.
Sáng ngày hôm đó, khoảng mười giờ, đột nhiên có một cơn giông bảo dữ dội sấm chớp không ngừng, hăm dọa sẽ có cơn mưa lũ tầm tả đêm ngày. Nhưng trời vẫn tạnh ráo không rơi một giọt mưa. Chúng tôi đi qua một khu rừng cây rất rậm rạp. Mặt đất bao phủ cằng một loại cỏ rất khô và cứng. Trọn vùng chung quanh dường như khí hậu khô ráo một cách đặt biệt khác thường. Sét đánh làm cho cỏ khô bắt lửa cháy lan tràn ở nhiều nơi, và trước khi chúng tôi nhận biết được việc gì xảy ra, chúng tôi đã bị vây phủ chung quanh bởi một đám cháy rừng. Không bao lâu, cơn hỏa hoạn đã bọc phát dữ dội và đồng loạt tiến đến gần chúng tôi từ ba phía với một tốc lực nhanh chóng kinh khủng. Khói bóc lên từng đám dày đặt làm cho tôi hoang mang lo sợ. Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ có vẽ bình tĩnh ung dung, điều cũng làm cho tôi trấn tĩnh được ít nhiều. Hai vị nói:
- Có hai cách đi thoát khỏi nơi đây. Cách thứ nhất là đi đến một dòng suối chảy dưới đáy một vực sâu ở gần đây. Muốn vậy, chúng ta phải vượt qua tám cây số đường rừng. Đến đó chúng ta có thể trú ẩn an toàn cho đến khi đám cháy tự nó tàn rụi dần vì không có chỗ bốc cháy thêm được nữa. Cách thứ nhì là vượt qua đám cháy, nhưng bạn phải tin tưởng nơi khả năng của chúng tôi là có thể độ cho bạn đi an toàn qua vùng khói lửa.
Tôi nhận thấy rằng các vị luôn luôn tỏ ra có đủ bản lĩnh tháo vát trong tất cả mọi trường hợp, và tôi liền hết sợ ngay lập tức. Tôi bèn đặt cả thể xác lẫn linh hồn tôi dưới sự che chở của hai vị, tôi đi giữa, hai vị quàng vai tôi đi kèm hai bên. Chúng tôi thẳng tiến về hướng mà đám cháy đang hoành hành với một cường độ mãnh liệt nhất. Ngay lúc đó dường như có một cái vòm mở rộng trước mặt chúng tôi. Chúng tôi đi xuyên qua đám cháy mà không một mảy may bị khó chịu vì khói, hơi nóng hay những đống lửa cháy đỏ rực trên đường đi của chúng tôi. Chúng tôi đi như vậy trên mười cây số một cách yên ổn và an toàn dường như không có hỏa hoạn ở chung quanh. Sau cùng chúng tôi vượt qua một con rạch nhỏ, và sau đó chúng tôi đã ta khỏi vùng hỏa hoạn. Bận về, tôi đã có thời giờ để quan sát con đường mà chúng tôi đi qua trong lúc đó. Trong khi chúng tôi vượt qua khỏi đám cháy, đức Tuệ Minh nói với tôi:
- Bạn có thấy chăng, trong trường hợp tuyệt đối khẩn cấp, thật rất dễ mà kêu gọi đến những định luật thượng đẳng huyền bí của Trời để thay thế vào những định luật hạ đẳng của trần gian? Vừa rồi, chúng tôi đã nâng nâng những rung động của thể xác chúng tôi lên một nhịp độ cao hơn nhịp độ của lửa, và bởi đó, lửa không còn làm hại chúng tôi được nữa. Nếu một người thường có thể nhìn thấy chúng tôi lúc đó, họ sẽ tưởng rằng chúng tôi biến mất, nhưng thật sự chúng tôi vẫn có mặt tại chỗ. Thật ra chúng tôi không thấy có sự khác biệt. Trong trạng thái đó, chúng tôi không còn ý thức về những giác quan của thể xác. Một người thường có lẽ cho rằng chúng tôi đã dùng thuật thăng thiên, và điều đó có lẽ cũng đúng như vậy. Chúng tôi đã vượt lên một trình độ tâm thức siêu đẳng mà người thường không thể với lên tới được. Mỗi người có thể bắt chước chúng tôi. Chúng tôi đã sử dụng một định luật mà Thượng Đế ban cho để cho chúng ta sử dụng. Chúng tôi có thể sử dụng định luật ấy để di chuyển thể xác của mình đến tận bất cứ nơi nào dù xa đến đâu trong không gian. Chính đó là cái định luật mà chúng tôi đã sử dụng để xuất hiện và biến mất trước mặt người đời, để thắng đoạt không gian, như người ta thường nói. Chúng tôi chỉ thắng đoạt mọi khó khăn chướng ngại bằng cách nâng cao tâm thức của mình cho nó vượt lên trên những khó khăn đó. Điều đó giúp chúng tôi thắng đoạt tất cả những giới hạn mà con người thường tự đặt ra cho mình trong cái tâm thức phàm trần của họ...
Tôi có cảm giác dường như chúng tôi chỉ đi lướt trên mặt đất. Khi chúng tôi ra khỏi vùng hỏa hoạn và được an toàn ở bên kia bờ rạch, trước hết tôi có cảm giác như vừa thức dậy sau một cơn ngủ mê và đó chỉ là một giấc mộng. Nhưng sự hiểu biết những gì đã xảy ra lần lần tăng trưởng ở nơi tôi, và ý nghĩa thật sự của những diễn biến đó bắt đầu hiện rõ từ từ và soi sáng tâm hồn tôi. Chúng tôi tìm một nơi có bóng mát trên bờ rạch, và ăn một bữa lót dạ, kế đó chúng tôi nghỉ ngơi trong một giờ đồng hồ và trở về làng.
2. Vượt Qua Khu Rừng Cháy
Làng này tỏ ra là một nơi đầy thú vị, vì tại đây có những tài liệu lịch sử được giữ gìn rất kỹ lưỡng. Những tài liệu khi này được phiên dịch ra, đã đem đến một bằng chứng không thể chối cãi rằng Thánh Jean Baptiste đã từng sống ở tại đây năm năm. Sau đó, chúng tôi đã có dịp xem và dịch những tài liệu khác nữa chứng tỏ rằng ngài đã ở lại trong vùng này độ mười hai năm. Mãi về sau, người ta đưa cho chúng tôi xem những tài liệu dường như chứng tỏ rằng ngài đã cùng với người địa phương đi du lịch trong hai mươi năm xuyên qua các sứ Tây Tạng, Trung Hoa, Ba Tư và Ấn Độ. Chúng tôi có cảm tưởng rằng có thể theo dõi bước chân của ngài trên lộ trình mà các tài liệu đã ghi rõ. Những văn kiện này làm chúng tôi thích thú đến nỗi chúng tôi đã trở lại một vài làng để sưu tầm sâu rộng thêm. Bằng cách soạn lại những dự kiện thâu thập được, chúng tôi có thể vẽ ra một bản đồ ghi rõ lộ trình và những sự di chuyển của Thánh Jean Baptiste. Vài sự việc được diễn tả cho chúng tôi trong những câu chuyện tường thuật hấp dẫn và linh động đến nỗi chúng tôi tưởng tượng rằng mình đang đi cùng một con đường với Thánh Jean Baptiste và theo những đường mòn mà ngài đã đi qua trong quá khứ xa xăm đó.
***
Chúng tôi ở lại làng này trong ba ngày, sau đó chúng tôi sẵn sàng trở về làng mà nơi đó chúng tôi đã bỏ lại vài người bạn. Sứ mạng của đức Tuệ Minh và Dật Sĩ ở làng này chỉ là để chữa bịnh cho những người đau yếu. Hai vị có thể trở về làng trong một thời gian ngắn hơn tôi rất nhiều, nhưng vì tôi không thể đi nhau như hai vị, nên hai vị đã dùng cách di chuyển của tôi.
Các bạn tôi chúng tôi tại làng. Họ đã hoàn toàn thất bại đi tìm những "Người tuyết." Sau năm ngày đi tìm, họ đã mệt mỏi và bỏ cuộc. Trên đường về, họ chú ý cái bóng đen của một người in rõ trên nền trời xanh trên một đỉnh núi cáchh đó gần hai chục thước. Trước khi họ có thể sử dụng ống dòm, thì người ấy đã biến mất. Họ chỉ nhình thấy cái bóng ấy trong thời gian rất ngắn, và chỉ có ấn tượng rằng người ấy có hình thù giống như khỉ có lông dài. Họ hối hả đi đến nơi mà cái bóng đen đã xuất hiện, nhưng không thấy dấu vết gì cả. Họ dùng thời gian còn lại trong ngày để thám hiểm vùng chung quanh những không kết quả. Và sau cùng đành phải bỏ qua việc ấy.
Sau khi nghe lời tường thuật của tôi, các bạn tôi muốn trở lại viếng ngôi đền, nhưng đức Tuệ Minh cho họ biết rằng chúng tôi sắp viếng ngôi đền tương tự nên họ bèn bỏ ý định trên. Một số lớn các dân vùng lân cận đã tựu họp tại làng để xin chữa bịnh, vì những người biết chuyện đã đồn đại tin tức khắp nơi, và thuật chuyện bốn dân làng bị bọn "Người tuyết" bắt đi đã được cứu thoát. Ngày hôm sau, chúng tôi tham dự các cuộc hội họp và đã chứng kiến vài trường hợp chữa bịnh thật lạ kỳ. Một thiểu phụ độ chừng hai mươi tuổi bị cóng lạnh và tê liệt hai bàn chân trong mùa đông năm trước, nay đã bình phục. Chúng tôi được nhìn thấy chỗ thịt hư nát nay đã liền lại trước mắt chúng tôi cho đến khi hai bàn chân trở lại bình thường và cô ấy có thể đi đứng một cách hoàn toàn tự nhiên. Hai người mù đã thấy lại được ánh sáng trong số đó hình như có một người bị mù từ thủa mới sinh ra. Nhiều chứng bịnh khác cũng được chữa khỏi. Tất cả những người bịnh đều có vẻ rất xúc động bởi những lời nói của các Chân Sư.
Sau buổi họp, chúng tôi hỏi đức Tuệ Minh rằng việc chữa khỏi bịnh này có lôi cuốn được nhiều người hay chăng? Ngài đáp:
- Nhiều người thật sự đã được giúp đỡ nên điều ấy đã khêu gợi sự chú ý của họ. Vài người bắt đầu làm việc công quả trong một thời gian. Nhưng phần nhiều thì không bao lâu sẽ quay về đường cũ với những thói quen cố hữu của họ. Họ đo lường sự cố gắng mà họ phải làm, và thấy nó quá lớn. Hầu hết đều sống một cuộc đời dễ dãi và không lo lắng. Trong số những người tự cho mình có đức tin, chỉ có độ một phần trăm là bắt tay vào việc một cách nghiêm chỉnh. Kỳ dư đều hoàn toàn sở cậy nơi kẻ khác để được giúp đỡ khi họ gặp khó khăn. Đó là cái nguyên nhân chính của những phiền lụy của họ, Họ quả quyết có thể giúp đỡ bất cứ ai họ muốn giúp đỡ nhưng tỏ ra bất lực không giúp đỡ được ai. Họ có thể nói về cái kho ân huệ thiêng liêng mà họ sử dụng để giúp đỡ những người bịnh của họ. Nhưng muốn thật sự tắm gội trong cái kho ân huệ đó, người ta phải chấp nhận và chứng minh sự hiện hữu của nó bằng cách thật sự lập công bồi đức và làm những công quả của một đời sống thánh thiện.
3. Những Di Tích Của Thánh Jean Baptiste
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi rời khỏi làng cùng với hai người dân làng dường như đã có làm việc công quả tâm linh. Chiều ngày thứ ba, chúng tôi đến một làng ở cách làng của Thánh Jean Baptiste hai mươi cây số. Tôi rất mong ước các bạn tôi có thể được xem những tài liệu mà tôi đã thấy. Chúng tôi bèn quyết định ở làng thứ hai này và Dật Sĩ cùng đi với chúng tôi. Những bản văn kiện làm cho các bạn tôi vô cùng thích thú và giúp tôi vẽ bản đồ với những lộ trình di chuyển của Thánh Jean Baptiste.
Chiều hôm đó, vị Chân Sư cùng đi với toán thứ tư đến và nghỉ lại ban đêm với chúng tôi. Ngài đem đến cho chúng tôi những thông điệp của toán thứ nhất và toán thứ ba. Ngài sinh ra ở làng và đã sống ở đó từ nhỏ tới lớn. Chính những vị tổ tiên của ngài đã soạn thảo những văn kiện này và những tài liệu đã được gia tộc luôn luôn giữ gìn cẩn thận. Ngài thuộc giòng dõi nhiều đời của của vị tác giả trên, và không có người nào trong gia tộc đã từng kinh nghiệm về sự chết. Các vị nhân viên trong gia tộc đều có khả năng di chuyển thể xác đi ngao du trong cõi vô hình và trở về tùy ý muốn. Chúng tôi hỏi rằng có điều chi trở ngại chăng, nếu chúng tôi mời vị tác giả các văn kiện vui lòng đến nói chuyện với chúng tôi. Vị Chân Sư đáp rằng không có gì trở ngại và định rằng cuộc gặp gỡ sẽ diễn ta vào ngay tối hôm đó.
Chúng tôi đang ngồi đợi trong ít lâu, thì một người trạc độ ba mươi lăm tuổi thình lình xuất hiện trong gian phòng. Người ấy được giới thiệu cho chúng tôi, và chúng tôi bắt tay nhau. Diện mạo người ấy làm cho chúng tôi ngạc nhiên đến mức câm lặng, vì chúng tôi tưởng rằng sẽ gặp một vị rất cao tuổi. Người ấy có vóc dạc trung bình với những nét vạm vỡ, nhưng gương mặt đượm một vẻ hiền lành nhân hậu rõ rệt mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Mỗi cử chỉ người biểu lộ một tâm hồn cương nghị và dũng mãnh. Một vầng hào quang lạ lùng toát ra từ toàn thân người.
Trước khi an tọa, đức Tuệ Minh, Dật Sĩ, vị Chân Sư, và người khách lạ cùng nắm tay nhau một lúc trong một cơn im lặng hoàn toàn. Kế đó, tất cả chúng tôi đều ngồi xuống, và người lạ mặt vừa xuất hiện trong gian phòng bèn cất tiếng nói:
- Các bạn yêu cầu Trời cầu sự gặp gỡ tối nay để hiểu rõ hơn những bản văn kiện đã được đọc và diễn đạt cho các bạn. Chính tôi là người đã soạn thảo và giữ gìn những văn kiện đó. Những tài liệu nói về Thánh Jean Baptiste và đã làm cho các bạn ngạc nhiên, tường thuật những sự việc có thật về thời gian lưu trú của ngài ở tại đây với chúng tôi. Như người ta được biết, ngài là một người có kiến thức sâu rộng, và một trí óc tuyệt vời. Ngài nhận thức cái chân lý của giáo phái chúng tôi, nhưng dường như ngài không bao giờ có thể đồng hóa một cách trọn vẹn, vì nếu như vậy thì ngài đã không bao giờ chết. Tôi vẫn thường hay ngồi trong gian phòng này, và nghe Thánh Jean cùng chúng tôi đàm luận. Chính tại đây mà Thánh Jean đã được thụ huấn của cha tôi truyền lại. Chính là tại đây mà cha tôi qua đời và đem cả thể xác của người đi luôn, điều này Thánh Jean đã chứng kiến tận mắt. Tất cả những người trong gia đình bên nội cũng như bên ngoại tôi đều đã đem thể xác đi luôn khi họ qua đời. Sự qua đời đó, tức là một giai đoạn chuyển tiếp, có nghĩa là thể xác của họlà một vật hoàn hảo về mặt tâm linh. Người ta trở lên ý thức được cái ý nghĩa tâm linh của cuộc đời, ý nghĩa của Thượng Đế, đến mức độ nhìn cuộc đời bằng cái tầm nhãn quang của Thượng Đế. Khi đó, người ta thụ hưởng cái đặc ân tiếp nhận đuợc những giáo lý cao siêu nhất và người ta có thể giúp đỡ tất cả mọi người.
Chúng tôi không bao giờ đi xuống từ trạng thái tâm thức đó, vì những người nào đã đạt tới đó không có ý muốn rớt xuống thấp hơn. Họ biết rằng đời người là một sự tiến hóa không ngừng. Không có thoái bộ hay thoái hóa, và không ai muốn đi thụt lùi trở lại. Tất cả đều đưa tay ra để giúp đỡ những người đi tìm ánh sáng. Họ gửi thường xuyên những thông điệp trong vũ trụ càn khôn. Trong tất cả các vùng trên thế giới ngày nay đều có những thụ cảm đã diễn đạt những thông điệp đó. Chính là để làm cái việc phóng sự đó mà chúng tôi muốn đạt tới cái cõi giới, hay cái trạng thái tâm thức kể trên. Tất cả chúng ta đều có thể và đều muốn giúp đỡ, phụng sự bằng cách này hay cách khác. Chúng tôi có thể nói chuyện với những tâm hồn thụ cảm, giáo dục họ, và nâng cao tâm thức họ hoặc trực tiếp, hoặc do một người trung gian. Chúng tôi làm tất cả những công việc đó. Nhưng một người trung gian không thể làm công việc giùm cho kẻ khác hoặc huấn luyện họ mãi mãi. Người ta phải quyết định tự mình làm công việc đó và bắt tay vào việc. Chừng đó người ta được tự do và chỉ trông cậy vào sức mình.
Đức Jesus ý thức được rằng thể xác là một vật tâm linh và bất diệt. Khi tất cả mọi người đều đạt tới trạng thái tâm thức đó, chúng ta có thể cảm thông với tất cả và phổ biến trong quần chúng cái giáo lý mà chúng ta đã nhận được. Chúng tôi thụ hưởng cái đặc ân được biết rằng mỗi người đều có thể thực hiện những công trình giống như của chúng tôi và giải quyết tất cả mọi vấn đề khó khăn của cuộc đời. Tất cả những khó khăn và phiền toái sẽ trở nên giản dị. Dung mạo bề ngoài của tôi không khác gì các bạn hay những người các bạn hay gặp thường ngày. Và tôi không thấy một sự khác biệt nào giữa các bạn với tôi.
***
Chúng tôi nói rằng chúng tôi nhận thấy nơi một người một cái gì tốt đẹp hơn chúng tôi vô cùng. Người đáp:
- Đó chỉ là sự so sánh giữa cái hữu diệt và cái bất tử. Các bạn hãy nhìn thấy tính chất thiêng liêng của mỗi người mà không cần phải so sánh người ấy với những người khác, rồi các bạn sẽ thấy họ cũng giống như tôi. Các bạn hãy tìm kiếm Phật tánh trên gương mặt mỗi người rồi các bạn sẽ thấy ngay Phật tánh sẽ hiện trên mặt họ. Chúng tôi tránh mọi sự so sánh. Chúng tôi chỉ nhìn thấy Phật tánh ở tất cả mọi người và bất cứ lúc nào. Làm như thế, chúng tôi trở lên vô hình vô ảnh đối với các bạn. Nhờ có tầm nhãn quang toàn vẹn, bao quát nên chúng tôi nhìn thấy sự toàn thiện toàn mỹ, trái lại, với một nhãn quang thiếu sót, các bạn chỉ nhìn thấy có sự bất toàn. Các bạn có thể cho rằng giáo lý của chúng tôi xuất xứ từ nguồn cảm hứng thiêng liêng cho đến khi mà các bạn thụ huấn với một vị Chân Sư và có thể nâng cao tâm thức của mình đến mức nhìn thấy và nói chuyện với chúng tôi như bây giờ. Không có sự cảm hứng nào trong việc nói chuyện hay thử nói chuyện với một người. Giáo lý của chúng tôi đưa người hành giả đến mức độ mà họ có thể nhận được nguồn cảm hứng thiêng liêng thật sự. Nhưng nguồn cảm hứng đó chỉ có thể đến trực tiếp từ Thượng Đế mà thôi. Bằng cách để cho Thượng Đế tự biểu lộ xuyên qua các bạn, các bạn sẽ sống với chúng tôi...
4. Những Cuộc Chữa Bịnh Nhiệm Màu
Sáng ngày hôm sau, chúng tôi thức dậy sớm và sẵn sàng dùng điểm tâm vào lúc sáu giờ rưỡi. Khi chúng tôi đi từ quán trọ ngang qua đường lộ để đến tiệm ăn, chúng tôi gặp các Chân Sư cùng đi một đường. Các ngài vừa đi vừa nói chuyện với nhau như mọi người thường. Các ngài lên tiếng chào chúng tôi và bày tỏ sự ngạc nhiên mà thấy các ngài sống bình dị như vậy. Các ngài đáp:
- Chúng tôi cũng chỉ là người như các bạn vậy. Tại sao các bạn lại cứ một mực coi chúng tôi là khác thường? Chúng tôi không khác các bạn ở một điểm nào cả. Chúng tôi chỉ có phát triển nhiều hơn những quyền năng mà Thượng Đế ban cho tất cả chúng ta.
Chúng tôi bèn hỏi:
- Vậy tại sao chúng tôi không thể thực hiện những công trình giống như của các ngài?
- Tất cả những người mà chúng tôi tiếp xúc, tại sao họ không theo chúng tôi và không bắt ta vào việc làm của chúng tôi? Chúng tôi không thể và cũng không muốn bắt buộc ai theo chúng tôi. Mỗi người có quyền tự do sinh hoạt và đi theo con đuờng mà họ chọn lựa tùy sở thích. Chúng tôi chỉ muốn vạch cho họ thấy con đường dễ dàng và giản đơn mà chúng tôi đã đi thử và nhận thấy là rất mỹ mãn.
Chúng tôi ngồi vào bàn ăn và câu chuyện xoay về những diễn biến của đời sống hằng ngày. Tôi lấy làm say mê thích thú và vô cùng thán phục. Bốn vị siêu nhân ngồi trước mặt chúng tôi. Một vị đã hoàn thành từ hai nghìn năm nay phép tinh luyện xác thân đến mức có thể di chuyển thể xác đi bất cứ nơi nào tùy ý muốn. Ngài đã sống một nghìn năm trên địa cầu và vẫn duy trì sự hoạt động trẻ trung của một người ba mươi lăm tuổi.
Ngồi kế bên ngài là một người trong thân quyến, nhưng trẻ hơn đến năm thế hệ. Vị này tuy đã sống trên bảy trăm năm trên Trái Đất, nhưng bề ngoài xem có vẻ chưa đến bốn mươi tuổi. Ngài và vị tổ tiên năm đời của ngài có thể nói chuyện với nhau một cách rất tự nhiên như hai người thường.
Kế đó là đức Tuệ Minh, ngài đã sống trên năm trăm năm và bề ngoài xem như một người mười sáu tuổi. Sau cùng là Dật Sĩ, bốn mươi tuổi và có cái dung mạo tương đương với người ở tuổi ấy. Bốn vị nó chuyện với nhau như anh em, không một mảy may lộ vẻ tự tôn. Tuy câu chuyện thật giản dị khả ái, mỗi lời nói của các ngài đều biểu lộ một sự hợp lý hoàn toàn và chỉ rằng các ngài biết rõ tận tường đề tài thảo luận. Các ngài không lộ vẻ gì là huyền thoại hay bí mật. Các ngài sự sự như những người thường trong công việc hằng ngày. Tuy vậy, đôi khi tôi vẫn cảm thấy khó tin rằng đó không phải là chuyện xảy ra trong giấc mơ.
Sau bữa ăn sáng, một trong những người bạn tôi đứng dậy để trả tiền. Đức Tuệ Minh nói:
- Ở đây các bạn là khách của tôi.
***
Nói xong, ngài đưa tay về phía bà chủ quán, mà chúng tôi còn tưởng rằng đó là một bàn tay không. Chừng xem lại, chúng tôi thấy bàn tay ngài cầm đúng số tiền ghi trên tờ hóa đơn tính tiền bữa ăn. Các vị Chân Sư không đem tiền bạc theo trong mình và không cần ai cung cấp tiền bạc. Khi cần dùng, tiền bạc luôn luôn có sẵn trong tầm tay, mà các ngài lấy trực tiếp từ chất Tiên Thiên Khí trong vũ trụ.
Khi bước chân ra khỏi quán, vị Chân Sư đi cùng với toán thứ tư bắt tay chúng tôi và nói rằng ngài phải trở về toán của ngài, rồi biến mất dạng. Chúng tôi ghi nhận giờ phút mà ngài biến mất và về sau chúng tôi có kiểm điểm lại thì thấy ngài đã trở về toán của ngài không đầy mười phút sau khi giã từ chúng tôi.
Suốt ngày hôm đó, chúng tôi cùng đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và vị Sư Tổ, tác giả các văn kiện, đi dạo chơi trong làng và các vùng phụ cận. Vị Sư Tổ thuật lại cho chúng tôi nghe với rất nhiều chi tiết, và sự việc xảy ra trong khoảng mười hai năm mà Thánh Jean Baptiste đã lưu trú trong làng này. Những chuyện đó được kể lại một thời dĩ vãng xa xăm bên cạnh Thánh Jean. Từ trước đến giờ, chúng tôi vẫn coi ngài như một nhân vật huyền thoại do thiên hạ bày đặt ra để lòe đời. Kể từ ngày đó, đối với tôi ngài đã trở nên một nhân vật lịch sử có thật. Tôi tưởng tượng lúc đương thời ngài cũng đã từng đi dạo như chúng tôi trong làng này và các vùng chung quanh, và được các Chân Sư cao cả truyền dạy những pháp môn mà ngài không hoàn toàn hấp thụ được những chân lý căn bản.
Trong ngày hôm đó, chúng tôi đi đó đi đây, vừa nghe kể lại những câu chuyện lịch sử thú vị, vừa nghe giảng dạy và phiên dịch những sự kiện lịch sử ở ngay tại chỗ mà những câu chuyện tường thuật ấy đã xảy ra hằng bao nhiêu ngàn năm trở về trước. Kế đó, chúng tôi trở về làng trước khi trời tối, ai nấy đều mệt mỏi.
Ba vị siêu nhân cũng đi bộ như chúng tôi, nhưng không lộ vẻ mệt mỏi chút nào. Trong khi chúng tôi mình mẩy lấm bùn lầy, cát bụi và mồ hôi, thì các ngài đều có vẻ tươi tỉnh, thư thái và y phục của các ngài mặc đều trắng tinh như lúc mới bắt đầu ra đi. Chúng tôi đã nhận thấy, trong những chuyến xuất hành đi qua, rằng y phục của các Chân Sư không hề bị hoen ố, và chúng tôi vẫn thường nói lên sự nhận xét đó, nhưng không được trả lời.
Chiều hôm đó, chúng tôi lại nêu câu hỏi về vấn đề ấy thì vị Sư Tổ đáp:
- Điều ấy làm các bạn ngạc nhiên hơn nhiều mà thấy rằng một mảy bụi bặm vật chất của Thượng Đế tạo ra lại có thể dính vào một nhân vật cũng do Thượng Đế sáng tạo mà nó không tùy thuộc quyền sở hữu, ở một nơi mà người ta không muốn cho nó dính vào. Với một quan niệm đúng đắn, điều ấy sẽ không thể xảy ra, vì không một mảy bụi bặm vật chất nào của Thượng Đế có thể được đặt vào một chỗ mà người ta không muốn.
Một lát sau đó, chúng tôi nhận thấy rằng y phục và thân thể của chúng tôi cũng sạch sẽ và trơn tru như các Chân Sư, sự biến đổi này diễn ra trong nháy mắt trên thân mình tôi và các bạn của tôi. Mọi dấu vết của sự mệt nhọc đều đã biến mất và chúng tôi cảm thấy khỏe khoắn nhẹ nhàng cũng như mình vừa mới ngủ thức dậy và đã tắm rửa xong. Đó là cách trả lời cho những sự thắc mắc của chúng tôi. Đêm ấy, chúng tôi đi ngủ với một niềm yên tĩnh thâm trầm sâu xa nhất trong tâm hồn mà chúng tôi chưa hề cảm thấy bao giờ kể từ khi chúng tôi bắt đầu sống chung với các vị Chân Sư. Sự kính sợ của chúng tôi đã nhanh chóng thành một tình thương sâu xa đối với những tấm lòng cao quý hồn nhiên của các ngài, là những đấng Cao Cả đã làm biết bao việc tốt lành cho nhân loại. Các ngài gọi tất cả mọi người là bằng hữu, anh em, và chúng tôi cũng bắt đầu coi các ngài như những bậc Anh Cả. Các ngài không tự gán cho mình một giá trị nào cả, và luôn luôn nói rằng chính Thượng Đế đã biểu lộ xuyên qua các ngài. Các ngài nói:
- Riêng tôi, tôi không thể làm gì được. Chính Thượng Đế ngự nơi tôi, ngài đã làm tất cả mọi việc.
Sáng ngày hôm sau, lúc ăn điểm tâm, có người báo tin cho biết rằng ngày ấy chúng tôi sẽ đi đến một làng ở tận trên cao trong vùng núi. Từ đó chúng tôi sẽ đi viếng ngôi đền trên đỉnh của một ngọn núi mà tôi đã nhìn thấy ở đằng xa từ trên một đỉnh núi cao hơn mà tôi diễn tả trước đây. Vì đường núi cheo leo, chúng tôi không thể đi ngựa trên một quãng đường dài hơn hai mươi lăm cây số. Chúng tôi đem hai người dân làng đi theo trên hai quãng đường này, rồi giao ngựa cho họ dắt đi đến một thôn nhỏ ở gần bên và giữ ngựa ở tại đó để chờ chúng tôi đi bận về. Mọi việc xảy ra như đã dự định. Chúng tôi giao ngựa cho hai người dân làng và bắt đầu đi theo con đường núi nhỏ hẹp đưa đến làng trên núi. Vài đoạn đường núi này là những nấc thang tam cấp đục trong vách đá.
Chúng tôi đến nơi vào lúc bốn giờ chiều. Ngôi đền dựng trên một đỉnh núi nhìn thẳng xuống xóm làng. Vách núi dốc đứng cheo leo đến nỗi muốn lên tới đỉnh, người ta phải thòng xuống một cái thúng đương bằng mây để du khách ngồi vào đó và dùng dây kéo lên. Cái thúng dùng để đưa khách lên tới đỉnh núi và cũng dùng để đưa khách từ trên đỉnh đi xuống phía dưới.
Khi chúng tôi đã sẵn sàng, người ta thòng cái thúng xuống và chúng tôi được kéo lên từng người một cho đến nơi có một mõm đá nhô ra ngoài, chỗ này bề cao đến một trăm ba chục thước khỏi mặt đất. Đến đây, chúng tôi bước ra khỏi thúng và theo đường nhỏ lên tận ngôi đền ở trên đỉnh núi cách đó một trăm bảy mươi lăm thước bề cao, vách của ngôi đền liền với vách của núi đá. Chúng tôi được cho biết rằng còn phải lên một chuyến thứ nhì cũng giống y chuyến thứ nhất. Thật vậy, chúng tôi thấy từ ngôi đền nhô ra một cây đà bằng gỗ rất lớn giống như cây đà gie ra từ mõm đá lúc nãy. Từ cái trục ở phía trên người ta thòng xuống một sợi dây cói để cột vào một cái thúng bằng mây lúc nãy, và chúng tôi lại được kéo lên từng người một đến tận nóc bằng của ngôi đền.
***
Lại một lần nữa, tôi có cảm tưởng như đang ở trên nóc tột đỉnh của thế giới. Đỉnh núi này nhô lên ba trăm thước cao hơn các ngọn núi ở vùng chung quanh. Làng mà từ đó chúng tôi bắt đầu ra đi, còn ở trên cao hơn nữa, trên đỉnh một truông núi mà người ta dùng để vượt qua dãy Hi Mã Lạp Sơn. Đền này còn ở ba trăm năm chục thước thấp hơn ngôi đền mà trước đây chúng tôi đã viếng chung với đức Tuệ Minh và Dật Sĩ, nhưng ở đây tầm nhãn quang có thể nhìn bao quát hơn nhiều. Dường như chúng tôi có thể nhìn vào chỗ không gian vô tận.
Người ta dọn cho chúng tôi một chỗ nghỉ đêm thật thoải mái tiện nghi. Ba vị siêu nhân cho chúng tôi biết rằng các vị sắp đi viếng vài nhóm đoàn viên ở rải rác khắp nơi và các vị sẵn lóng chuyển thông điệp của chúng tôi cho họ. Chúng tôi bèn viết thơ cho các bạn hữu và có ghi cẩn thận ngày giờ và địa điểm. Chúng tôi giữ lại một bản sao của các thông điệp, về sau chúng tôi kiểm điểm lại thì được biết rằng tất cả các thông điệp đều được giao tận nơi không đầy hai mươi phút sau khi gửi đi. Khi chúng tôi đưa những thông điệp cho các vị siêu nhân, các vị bắt tay từ giã chúng tôi và hẹn gặp nhau lại vào sáng ngày hôm sau, rồi các vị biến mất.
Sau bữa ăn chiều ngon lành do những người coi đền dọn ra, chúng tôi lui về phòng yên nghỉ nhưng không ngủ được, vì những kinh nghiệm vừa qua bắt đầu gây cho chúng tôi những ấn tượng sâu xa. Chúng tôi đang ở trên một chiều cao ba ngàn thước khỏi mặt đất, không một người nào ờ kế cận trừ ra những người coi đền, và không một tiếng động nào khác hơn là giọng nói của chúng tôi. Bầu không khí chung quanh thật hoàn toàn yên lặng.
Chúng tôi có dặn một người coi đền hãy đánh thức chúng tôi khi trời vừa dạng sáng. Y gõ cửa trong khi tôi vừa chợp mắt ngủ chưa được bao lâu. Chúng tôi sửa soạn mặc quần áo xong, hối hả chạy mau ra sân thượng để ngắm nhìn mặt trời mọc ở vùng núi. Trong cơn vội vàng chúng tôi gây nhiều tiếng động ầm ĩ đến nỗi những người gác đền hoảng kinh chạy ra xem có phải chúng tôi đã loạn trí chăng! Tôi nghĩ rằng chắc là không bao giờ ngôi đền này đã trải qua cơn náo động như thế từ ngày nó được dựng lên, nghĩa là từ trên mười nghìn năm nay. Thật vậy, ngôi đền này cổ xưa đến nỗi nó đồng hóa làm một với cái đỉnh núi.
Khi ra đến sân thượng, không ai cần bảo ai nên giữ im lặng nữa, vì mọi sự dặn dò đều là thừa. Vừa nhìn ra ngoài, hai bạn tôi đã đứng lặng người, miệng há hốc, hai mắt dương lên thật lớn. Tôi tưởng chừng chắc là tôi cũng đã làm như vậy. Tôi còn đợi xem họ nói gì, thì họ đã đồng thanh la lớn:
- Chúng ta hẳn là bị treo lơ lửng trong không gian!
Sự xúc động và ngạc nhiên của họ thật giống y như của tôi khi tôi vừa lên tới nóc đền ở đỉnh núi bên kia trước đây không lâu. Họ đã quên trong một lúc rằng hai chân họ vẫn chấm đất và họ có cảm giác như đứng phất phơ trong không gian. Một bạn tôi nói:
- Tôi không ngạc nhiên nếu các vị Chân Sư có thể bay nhẹ trên không gian sau khi đã có cái cảm giác như chúng ta vừa rồi.
Một chuỗi cười ngắn kéo chúng tôi trở về thực tế. Chúng tôi quay lại nhìn thấy ngay sau lưng chúng tôi có đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và vị Sư Tổ, tác giả các văn kiện. Một bạn tôi cao hứng muốn chạy lại bắt tay hết thảy các vị cùng một lúc, và nói:
- Thật là kỳ diệu. Không ai lấy làm ngạc nhiên nếu các vị có thể bay bổng trên không, sau khi đã lưu trú tại đây.
Các vị mỉm cười, và một vị nói:
- Các bạn cũng có thể bay bổng như chúng tôi. Các bạn chỉ cần biết từ nội tâm rằntg các bạn có cái quyền năng đó rồi các bạn hãy sử dụng nó.
***
Chúng tôi ngắm nhìn phong cảnh. Sương mù đã hạ thấp xuống và bay từng đợt phất phơ theo chiều gió, nhưng cũng hãy còn khá cao nên người ta không thể nhìn thấy dưới đất. Những đợt sương mù di chuyển làm cho chúng tôi có cái cảm giác như được chở đi trên đôi cánh im lặng của một con chim khổng lồ. Nhìn về phía xa, người ta mất cả ý thức về trọng lượng của mình, và thật là khó mà tưởng tượng rằng mình đang bay lướt trong không gian. Riêng phần tôi, tôi đã thấy mất ý thức về trọng lượng của mình đến nỗi tôi đã nhẹ mình bay lơ lửng trên nóc đền. Thình lình một tiếng động làm cho tôi té nặng đến nỗi tôi cảm thấy một sự xúc động mà hậu quả hãy còn tồn tại nhiều ngày mới hết.
Sáng hôm ấy, chúng tôi quyết định ở lại ngôi đền này trong ba ngày, vì chỉ có một nơi thú vị để đi thăm viếng trước khi gặo lại các toán khác. Đức Tuệ Minh đã đem tới những thông điệp. Một thông điệp cho biết rằng toán của vị trưởng nhóm chúng tôi đã đến viếng ngôi đền này chỉ mới cách đây ba ngày. Sau bữa ăn điểm tâm, chúng tôi bước ra ngoài chúng tôi bước ra ngoài để nhìn xem sương mù tan dần. Chúng tôi ngắm nhìn cho đến khi sương mù tan đi mất và mặt trời ló dạng. Người ta nhìn thấy thôn ấp nhỏ ẩn dưới triền núi và thung lũng diễn ra tận đằng xa. Vì các vị siêu nhân đã quyết định đến viếng thôn ấp này, nên chúng tôi xin phép đi theo các vị. Các vị vừa nhận lời vừa cười, và khuyến khích chúng tôi nên sử dụng cái thúng bằng mây để thòng xuống đất. Các vị nói rằng đi bằng cách đó thì khi đến nơi, chúng tôi sẽ có cái hình dáng bề ngoài dễ coi hơn là nếu chúng tôi sử dụng phương pháp di chuyển của các vị. Người ta bèn dùng cái thúng thòng chúng tôi từng người một xuống tận chỗ mõm đá nhô ra ở giữa chừng, và từ đó, xuống vùng cao nguyên nhìn xuống dưới làng. Khi tất cả chúng tôi vừa bước ra khỏi cái thúng, thì lạ thay, các vị siêu nhân đã có mặt tại đó. Chúng tôi cùng nhau đi xuống làng, và ở lại đây suốt ngày hôm đó.
Đó là một làng cổ có những nét dị kỳ, đặc biệt của vùng sơn cước này. Nó gồm có độ hai mươi nhà đục trong triền núi, và cửa nẻo đều đóng kín bằng những phiến đá lớn. Người ta xây cất nhàkiểu này để tránh cho nhà khỏi bị đè bẹp dưới trọng lượng của tuyết mùa đông. Chúng tôi được cho biết rằng Thánh Jean Baptiste đã từng sống tại làng này và được thụ huấn và Đạo lý trong đền. Đền này vẫn còn nguyên vẹn như hồi xưa. Làng và ngôi đền đã được lập nên ít nhất sáu nghìn năm trước khi Thánh Jean đến viếng nơi này. Vào lúc năm giờ chiều, vị Sư Tổ, tác giả các văn kiện, bắt tay từ giã chúng tôi và nói ngài phải vắng mặt nhưng sẽ trở lại trong giây lát. Kế đó ngài biến mất dạng.
Chiều hôm đó, từ trên nóc đền chúng tôi ngắm nhìn cảnh mặt trời lặn lạ lùng nhất chưa từng thấy, tuy rằng tôi đã có dịp may nhìn thấy cảnh trời chiều ở hầu hết khắp nơi trên thế giới.
Chúng tôi ngồi trên sân thượng đến nửa đêm, vừa nói chuyện vừa hỏi đức Tuệ Minh và Dật Sĩ về nhiều vấn đề, nhất là về địa hình, địa vật và lịch sử của vùng này. Đức Tuệ Minh đưa ra nhiều chú thích trong các văn kiện mà các Chân Sư từng biết rõ. Những văn kiện ấy chứng tỏ rằng xứ này đã từng có người ở từ nhiều ngàn năm trước thời kỳ có lịch sử của thế giới.
Chúng tôi đang ngắm vầng trăng rằm trong sáng xuất hiện trên dảy núi đằng xa ở tận chân trời. Thình lình, chúng tôi nghe có tiếng động ở phía sau lưng. Chúng tôi quay lại nhìn thấy một bà mệnh phụ trạc độ ngũ tuần đang đứng đó và mỉm cười vừa hỏi rằng sự xuất hiện thình lình của bà có làm cho chúng tôi sợ hãi không? Trước hết chúng tôi có cảm tưởng rằng bà ấy đã nhảy từ trên bờ tường xuống sân thượng, nhưng sự thật thì bà ấy chỉ có dậm chân để làm cho chúng tôi chú ý, và sự im lặng thâm trầm của miền núi lúc ban đêm đã làm vang dội âm thanh ấy lên gấp bội phần. Đức Tuệ Minh mau bước tới chào mệnh phụ và giới thiệu chị ngài với chúng tôi. Bà mỉm cười và hỏi bà có làm rộn chúng tôi không?
Chúng tôi an tọa, và câu chuyện xoay chung quanh những kỷ niệm cùng những kinh nghiệm về công việc phụng sự trong cuộc đời tu hành của bà. Bà có ba người con trai và một người con gái, tất cả đều được giáo dục trong cùng một tinh thần như của bà. Chúng tôi hỏi có các con bà cùng đi không? Bà đáp rằng hai người con nhỏ nhất không bao giờ rời bà. Chúng tôi yêu cầu được gặp các con bà. Bà đáp rằng họ cũng đang rảnh việc, và ngay lúc đó xuất hiện hai người, một người nam và một người nữ. Hai người này chào cậu và mẹ, rồi tiến tới để được giới thiệu với tôi và hai bạn tôi. Người con trai cao lớn vạm vỡ, có dáng hào hùng, đầy nam tính, trạc độ chừng ba mươi tuổi. Người con gái vóc dáng hơi nhỏ, dáng điệu thanh tân, với những nét diễm kiều. Đó là một thiếu nữ đẹp và trạc độ hai mươi tuổi. Về sau chúng tôi được biết rằng người nam có đến một trăm mười lăm tuổi và người nữ đã một trăm hai mươi tám tuổi. Chúng tôi còn ngồi đàm đạo đến quá nửa đêm mới chia tay nhau.
Qua ngày hôm sau, các vị siêu nhân tỏ ý muốn từ giã chúng tôi để ra đi. Chỉ còn có Dật Sĩ ở lại với chúng tôi, và ngày kế đó đến lượt chúng tôi cũng sửa soạn lên đường. Mặc dầu trời hãy còn chưa sáng, hầu hết tất cả dân làng đều thức dậy rất sớm để tiễn đưa chúng tôi.