watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Mật Mã Tây Tạng - tập I & II-CHƯƠNG 10 - tác giả Hà Mã Hà Mã

Hà Mã

CHƯƠNG 10

Tác giả: Hà Mã

Trận chiến vừa bắt đầu đã lệch hẳn về một phía. Những cư dân của rừng già như cá trong nước, thân hình còn linh hoạt nhanh nhẹn hơn cả loài khỉ vượn, nhảy lên nhảy xuống giữa các tán cây như đi trên đất bằng, hơn nữa người nào cũng là tay cung thần, hễ có mũi tên nào bắn ra, không cần biết từ hướng nào, là ắt có một tên buôn ma túy ngã xuống. Mặc dù vết thương không chí mạng, song chất độc trên đầu mũi tên lại là chí mạng, bọn buôn ma túy ngã xuống thường chỉ kêu lên vài tiếng thảm thiết, rồi lặng lẽ nằm đó luôn.



Bất ngờ thoát nạn

“Hắc hắc hắc,” Gonzales cười gằn lạnh lẽo, “Xem ra lúc chúng mày quần nhau với Basinas bị thương cũng không nhẹ đâu nhỉ, sao hả? Cả đạn cũng hết rồi à? Sao không nổ súng bắn trả đi?” Con cáo già chốn rừng sâu này quả nhiên chỉ nhìn thoáng qua đã hiểu rõ tình thế trước mắt, vừa mở miệng ra đã dùng tiếng Anh nói chuyện với người trong vòng vây. Trương Lập và Nhạc Dương không thể nổ súng phản kích hiểu tượng trưng, trong rừng thấp thoáng bóng người, kẻ địch đã từ bốn phương tám hướng dần vây tới.



Hỏa lực mạnh áp chế, đồng thời đòn tấn công tâm lý của Gonzales cũng không hề dừng lại, hắn tiếp tục nói: “Bọn mày tới đây làm gì, mục đích của chúng mày, bọn tao đều biết rất rõ, muốn cướp đoạt của cải trên đất của người khác, đó là một sự lựa chọn hết sức sai lầm. Chúng mày đầu hàng đi, không những tao bảo đảm được chúng mày sẽ an toàn, hơn nữa… chúng ta còn có thể hợp tác, sau khi xong việc tao sẽ hộ tống bọn mày ra khỏi khu vực rừng nguyên sinh này, đồng thời chia cho một phần lớn… hừm, haha, thế nào hả, có hứng thú không?”



Đây vốn là một điều kiện hết sức hấp dẫn, song bọn Trương Lập nghe vậy lại vô cùng nghi hoặc. “Ý gì đây? Thằng cha này rốt cuộc đang nói cái khỉ gì vậy?” Trương Lập và Nhạc Dương, anh nhìn tôi, tôi nhìn anh, cả Ba Tang đang dựa người vào thân cây cũng không nói gì.



Gonzales thấy người bên trong không phản ứng gì, lại bổ sung thêm: “Đừng giãy giụa vô ích nữa, chỉ dựa vào mấy người chúng mày, cũng chẳng có năng lực mà nuốt trọn món lớn như vậy đâu. Phải biết là, người nào…” Trong rừng chợt có biến cố, một mũi tên lao vút qua khoảng không, đồng thời một tên buôn ma túy phụ trách canh phòng trên cao “hự” lên một tiếng rồi ngã xuống như bao cát.



“Cái quái gì vậy?” Bọn buôn ma túy tức khắc trở nên rối loạn, một tên thuộc hạ báo cáo: “Người Kukuer!” Gonzales kinh hoàng: “Cái gì? Người Kukuer! Chỗ này không phải phạm vi hoạt động của chúng, tại sao chúng lại đến đây chứ?”



Nhất thời, trong rừng, trên tán cây, chỗ đất trũng, đâu đâu cũng thấy bóng lông chim đung đưa lay động. Gonzales không thể tiếp tục cất lời uy hiếp, mà chuyển sang dùng tiếng Quechua nói: “Là ai? Nanh Sắc hay San thế? Chúng tôi là thuộc hạ của ngài Balang, ngài Balang và các người đã ký điều ước không xâm phạm lẫn nhau cơ mà, sao các người lại tấn công chúng tôi?”



Trong rừng vang lên tiếng đáp lại: “Basaka, ở Putumayo , ngươi và người của ngươi làm thủ lĩnh Nanh Sắc của chúng ta bị thương, chúng ta bắt người nợ máu trả máu!”



Gonzales hằn học trợn mắt lên nhìn kẻ tên là Basaka đứng bên cạnh, gã cao to ấy ủ rũ cuối đầu trước ánh mắt sắc như chim ưng của y, yếu ớt giải thích: “Không, không phải bọn tôi làm đâu, là một ông lão thổi rắn thả rắn cắn bị thương hắn ta mà, chúng tôi đâu biết hắn là Nanh Sắc, sớm biết thì đã…”



“Câm miệng!” Gonzales quát thuuộc hạ, sau đó gào lên với người trong rừng: “Hiểu lầm! Đó chỉ là hiểu lầm thôi! Chúng tôi biểu lộ lòng cảm thương sâu sắc và vô cùng xin lỗi thủ lĩnh Nanh Sắc, mong rằng anh ấy đã hồi phục trở lại, thần rừng sẽ bảo vệ anh ấy. Mấy hôm nữa ngài Balang nhất định sẽ đích thân đến tận nơi xin lỗi.”



Trong rừng không có tiếng đáp lại, mà chỉ có tiếng gầm như của loài dã thú, biểu thị quyết tâm báo thù cho thủ lĩnh của bọn họ. Basaka căng thẳng nói: “Xem ra tên của ngài Balang không dọa nổi chúng rồi, có cần nói tên của nhân vật lớn kia ra không?”



“Rắm chó!” Cái tát của Gonzales làm Basaka chảy cả máu miệng, “Bọn dã nhân này mà nổi cơn điên lên thì hiệp ước điều ước gì cũng là rắm chó hết. Bảo các anh em cẩn thận, ở trong rừng bọn này không khác bóng ma là mấy đâu.”



Lại một mũi tên nữa không biết từ đâu bay tới, một tên buôn lậu khác lại ngã xuống. Gonzales bừng bừng nổi giận: “Bắn mạnh vào cho tao, đừng tưởng người của tao chỉ biết ăn chay thôi nhé.”



Trận chiến vừa bắt đầu đã lệch hẳn về một phía. Những cư dân của rừng già như cá trong nước, thân hình còn linh hoạt nhanh nhẹn hơn loài khỉ vượn, nhảy lên nhảy xuống giữa các tán cây như đi trên đất bằng, hơn nữa người nào cũng là tay cung thần, hễ có mũi tên nào bắn ra, không cần biết từ hướng nào, là ắt có một tên buôn ma túy ngã xuống. Mặc dù vết thương không chí mạng, song chất độc trên đầu mũi tên lại là chí mạng, bọn buôn ma túy ngã xuống thường chỉ kêu lên vài tiếng thảm thiết, rồi lặng lẽ nằm đó luôn. Còn hỏa lực của bọn buôn ma túy lại bị các thân cây cao lớn chặn lại, mất hết cả uy phong thuở trước, toàn là bắn bừa bắn bãi làm cành cây lá cây rơi lả tả, nhưng lại chẳng thấy bóng người đâu. Tên không ngừng bay tới, còn cả đá, phi tiêu, boomerang, giáo mác, những vũ khí từ thời viễn cổ này không ngờ lại khiến cả đám người hiện đại trang bị vũ khí tới tận răng phải ôm đầu chạy trối chết, thảm hại vô cùng. Gonzales thấy tình hình không ổn, đành phải hạ lệnh: “Rút lui, rút lui, tập trung lại, đột phá vòng vây ở phía Nam .”



“Soạt…” một chiếc boomerang bằng xương lướt qua mặt Gonzales, tới nửa chừng không lại quay ngược trở về, rạch một vết máu me đầm đìa trên cái bụng béo của hắn. Gonzales cuống cuồng sợ hãi, vừa chạy như bay vừa hét lớn: “Yểm hộ cho tao, con bà nó, bọn mày chạy đâu hết cả rồi!”

Biến hóa liên tục diễn ra, làm người ta không kịp suy nghĩ. Trương Lập, Nhạc Dương và Ba Tang ở trung tâm vòng vây, song không ai có vẻ gì là bị tấn công. Đặc biệt là Trương Lập và Nhạc Dương, bọn họ không biết Trác Mộc Cường Ba và người Kukuer đã quen biết nhau từ trước, có cảm giác cứ như trời giáng thiên binh, kỳ tích xảy ra vậy. Các chiến sĩ thổ dân cũng không truy kích quá xa, đánh lui kẻ địch liền tự động rút lui. Trong rừng lại cất lên một giọng nói dễ nghe, hệt như thần nữ của rừng già đang triệu gọi: “Nhanh lên, theo chúng tôi. Nhân lúc máy bay trực thăng của chúng còn chưa đến, mau rời khỏi nơi này.” Bốn năm thổ dân mặt vẽ totem vằn vện, đầu đội trang sức lông chim, tay cầm vũ khí nguyên thủy chạy đến trước mặt bốn người.

Trương Lập và Nhạc Dương còn sợ hãi hơn cả lúc nãy, có trời mới biết được đám người này muốn làm gì! Dù giọng nữ kia nghe có vẻ không ác ý gì, nhưng Trác Mộc Cường Ba vẫn còn hôn mê nằm dưới đất, Ba Tang thì nghiến răng đau đớn, hai bọn họ không thể tự quyết định được. Cũng may Ba Tang vẫn còn tỉnh táo, anh ta ra lệnh: “Đi theo họ.” Lúc này đã có hai thổ dân lực lưỡng nhấc Trác Mộc Cường Ba, chạy như bay vào sâu trong rừng, lại có thêm hai người nữa đỡ Ba Tang chạy sát theo sau, Trương Lập và Nhạc Dương đành phải co chân đuổi theo.

Gonzales dẫn theo đám thuộc hạ hỗn loạn băng qua khu rừng, cuối cùng cũng coi như thoát khỏi sự truy đuổi của người Kukuer. Bọn chúng tôi đến chỗ người Basinas ngã xuống, nhìn từng cỗ thi thể đã sưng vù lên, hoàn toàn không còn nhận dạng, tên Cú Độc nổi tiếng máu lạnh này cũng không khỏi kinh hồn bạt vía, thở hắt ra một hơi. Mỗi cổ thi thể đều vặn vẹo theo những tư thế kỳ quái khác nhau, cơ thịt co rút cứng đờ, tư thế ấy như muốn bảo với những người khác rằng, bọn chúng bị cái đau cực kỳ khủng khiếp giày vò đến chết. Có thi thể còn tự lột cả da mình ra, chẳng còn đâu mặt mũi, gan ruột nát nhừ lòi cả ra ngoài; có người thì nổ súng tự sát, còn có người nghiến đến vỡ cả răng. Trước đó rốt cuộc là có thứ gì? Cảnh tượng kinh hoàng trước mắt làm cả đám người không làm còn dám tiếp tục chạy về hướng này nữa. Những nốt sưng vù trên thi thể, những tư thế chết kỳ quái này, rốt cuộc là do thứ gì gây nên? Gonzales lấy nòng súng lật một xác chết lên, trong lỗ mũi kẻ ấy liền có một con ong vàng vằn đen bò ra, hắn lập tức hiểu ra: “Ong sát nhân! Bọn chúng sao lại đụng tới ong sát nhân cơ chứ! Đúng là đáng chết. Không biết trong rừng có còn nữa hay không? Nhìn xác của đám người này, số lượng đàn ong sát nhân kia hẳn phải khủng khiếp lắm. Hừ, lại để bốn tên người Trung Quốc đó chạy mất rồi, tao ra đời bao nhiêu năm nay, còn chưa đen đủi như vậy bao giờ! Basaka, mày chết chưa? Chưa chết thì cút ra đây cho tao! Mày là thằng ngu xuẩn, lại đụng cả bọn Kukuer ấy làm gì! Chẳng lẽ mày không biết! Bọn ta muốn băng qua rừng già, không quan hệ tốt với bọn Kukuer là không xong hay sao! Con bà nó, bây giờ bọn chúng lọt vào tay người Kukuer rồi, muốn đưa người đi khó lắm đấy!”

Basaka hoảng hốt nói: “Vâng, vâng, tại tôi nhất thời sơ ý, tôi, tôi biết lỗi rồi.”

Gonzales chửi bới: “Biết lỗi thì được cái cứt gì, mày phải nghĩ cách bắt người về cho tao!”

Basaka gật đầu lia lịa, nhưng trong đầu hắn cũng biết, muốn đoạt người từ tay bộ lạc Kukuer về, vậy chẳng phải là đùa với Tử thần hay sao? Hắn còn chưa ngu tới mức ấy. Basaka nói: “Nhưng tôi chưa hiểu, đội trưởng, vừa rồi rõ ràng là có cơ hội bắn chết mấy tên đó, tại sao…”

Gonzales nói: “Mày thì hiểu cái gì. Tướng Kulu đã chỉ rõ là phải giữ lại mấy tên ngươi Trung Quốc đó.” Hắn đảo mắt nhìn quanh, rồi thấp giọng thì thầm vào tai tên thủ hạ tâm phúc: “Nghe nói, bọn chúng biết lối vào Thành phố Vàng.” “A!” Basaka giật mình kêu lên một tiếng, kích động đến nỗi mồ hôi chảy ròng ròng. Thành phố Vàng! Từ thế kỷ mười sáu, khi thực dân Tây Ban Nha đặt chân lên mảnh đất này, Thành phố Vàng được coi là kho báu vĩ đại nhất của đế quốc Inca cổ đại, mấy trăm năm nay đã có biết bao người vì tìm kiếm bí mật của Thành phố Vàng mà tiến vào rừng già nguyên sinh, người trước ngã xuống, người sau tiến lên, mãi đến giờ vẫn chưa chấm dứt. Gonzales nói: “Nếu không tại sao mấy phân đội chúng ta đều tranh nhau hành động như thế? Hy sinh vài thằng, có đáng để chúng ta huy động nhân lực đến thế không.” Nói đến đây, Gonzales cũng ngẩn người ra: “Thằng cha Merkin bảo chúng ta cầm chân mấy tên đó, lẽ nào hắn đã biết trước, hơn nữa cả hắn cũng biết nơi ấy ở đâu rồi? Hà, nếu vậy thì, chẳng phải là…”

Gonzales lấy lại bình tĩnh trước, hắn vỗ vỗ lên vai tên thuộc hạ đang ngẩn người ra vì hưng phấn, nghĩ ngợi giây lát, rồi đưa ra chủ ý: “Mặc dù lãnh địa người Kukuer cực kỳ nguy hiểm, nhưng bọn chúng cũng không thể ở đó cả đời được, thế nào cũng phải ra thôi, tới lúc ấy, chúng ta sẽ làm thế này… thế này…”

Gonzales không hề hay biết, cuộc đối thoại của hắn và Basaka, tất cả đều đã bị Soares đang nấp gần đó thu dọn chiến trường nghe hết từng chữ một, khi nghe đến đoạn Thành phố Vàng, tay y khẽ giật mình, suýt chút nữa thì để con ong chúa trong lọ thủy tinh bay đi mất. Y lấy làm khó hiểu, thầm nhủ: “Sao lại thế được, ai chơi trò này nhỉ? Merkin? Không thể nào, trò đùa này không hề có lợi gì cho hắn ta cả. Tin tức của chúng ta có vấn đề gì? Cũng không thể nào, chuyện này không hợp lý chút nào. Nhưng mà, đám quân du kích và bọn buôn ma túy đang bắt tay hành động với quy mô lớn như vậy, giao tình của Merkin và tên béo Gonzales kia tuyệt đối không thể làm tới mức này được, ngoài nguyên nhân kia ra, nhìn như cũng không còn lý do nào khác nữa rồi.” Soares không thể đoán định tính chân thực của đoạn đối thoại này, song y hiểu rõ, đám người Trác Mộc Cường Ba căn bản còn không biết cái gì gọi là Thành phố Vàng nữa.

“Tối quá, khắp nơi đều là bóng tối mù mịt. Ta đang ở đâu? Địa ngục ư? Nghĩ lại xem nào, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Hình như chúng ta bị tập kích, là cái gì, cái gì đang kêu ong ong kia! Trời ơi! Ong sát nhân, chính là chúng, là bọn chúng! Lại đến nữa rồi!” Trác Mộc Cường Ba mở trừng hai mắt, định nhúc nhích thân thể một chút, chỉ thấy xương cốt toàn thân đau đớn như bị nghiến nát, sau mấy lần đứng dậy thất bại, gã đành bỏ cuộc. Trác Mộc Cường Ba nhìn chăm chăm lên trần nhà, lấy làm kỳ quái trước hoàn cảnh hiện tại của mình, trần nhà lợp bằng lá cọ và cành cây tươi, công nghệ thô sơ, bốn vách tường đều gỗ ván, trên tường treo vài đầu thú và da hươu, không có cửa, chỉ có một tấm rèm cửa hình như kết bằng cỏ tranh. Không khí nóng như thiêu đốt và tiếng chim hót nghe đã quen thuộc kia nhắc nhở gã, lúc này gã vẫn còn trong rừng rậm nhiệt đới. Thế nhưng, đây là nơi nào?

“A, anh tỉnh rồi! Đã ngủ trọn một ngày hai đêm rồi.” Giọng tiếng Anh sao quen thuộc quá vậy, Trác Mộc Cường Ba khó khăn quay đầu lại, ngước nhìn về phía tấm rèm cửa, đồng thời nói: “Baba…” Chữ “tou” còn chưa thốt ra, gã đã trợn mắt há hốc miệng ra.

Babatou lúc này, đã không còn là cô gái ăn mặc theo kiểu văn minh ở Putumayo nữa, mà là một cô thiếu nữ thổ dân Anh điêng chính gốc. Mái tóc xanh thắt thành hai cái đuôi sam thả xuống hai vai, ngoài ra không còn bất cứ trang sức gì nữa, chẳng những thế, mà cả nửa thân trên cũng đều… đều không có bất cứ thứ gì, trên người chỉ có mỗi chiếc váy ngắn. Nước da khỏe mạnh màu vàng cam, toát lên vẻ quyến rũ đầy nữ tính phơi bày trước mắt Trác Mộc Cường Ba theo cách nguyên thủy nhất, dù đã trải qua nhiều thương hải tang điền, Trác Mộc Cường Ba vẫn không khỏi chấn động, nhất thời không nói được tiếng nào nữa.

Babatou tự nhiên cũng nhìn thấy ánh mắt rực lửa trợn trừng trừng lên của Trác Mộc Cường Ba, nét mặt không tránh khỏi thoáng hiện sắc hồng, có điều chỉ thoáng chốc cô đã trấn tĩnh lại, không có vẻ gì là xấu hổ nữa. Trên người Babatou vẽ đủ các loại hình xăm, trên hai cánh tay là một hình tương tự như hình rồng cuộn giản hóa trên lỗ châu mai Vạn Lý Trường Thành, từ eo đến bụng hình như vẽ một cánh cửa bên trong có thần minh, đến cả, đến cả, hai bầu vú cũng vẽ hình giống như nụ hoa vậy. Trác Mộc Cưởng Ba thầm tự mắng: đáng chết, tại sao lại nhìn kỹ thế chứ, hình như đây không phải là vấn đề mày cần quan tâm lúc này. Bình tĩnh, bình tĩnh, bình tĩnh, đây chỉ là phong tục cổ xưa của người dân vùng này thôi, chẳng có gì đáng kể kinh ngạc cả. Chết thật, sao lại đến gần mình thế, tại sao mình vẫn không cử động được?

Thấy Trác Mộc Cường Ba đỏ bừng mặt lên, mồ hôi ướt đẫm cả lưng. Babatou nhoẻn miệng nở một nụ cười tươi, nói: “Không cần kinh ngạc vậy đâu! Tôi vốn là người bộ lạc nguyên thủy mà. Hơn nữa, dù ở các thành phố văn minh, bên Đức bên Pháp, cũng có bãi tắm khỏa thân cơ thể mà, chỉ cần trong lòng ngay thẳng thì chẳng ngại gì đâu. Chẳng lẽ, anh có ý đồ gì không tốt hả?”

Trác Mộc Cường Ba lấy làm lúng túng, đành dứt khoát nhắm luôn mắt lại, tựa hồ như dùng Thiền đạo làm cho lục căn thanh tịnh, chỉ nghe trong phòng vang lên một tràng cười khúc khích như chuông bạc va vào nhau. Một lát sau thì không còn nghe tiếng gì nữa, thấy lỗ mũi ngưa ngứa, hắt xì một cái, Trác Mộc Cường Ba mở to mắt, thấy Babatou đang ngồi xổm bên giường, nhìn thẳng vào mắt mình, tay cầm một chiếc lông vũ sặc sỡ ve vẩy trên mặt gã. Lần này đã có chuẩn bị tâm lý, nên nói chung cũng đỡ hơn phần nào, ít nhất thì cũng đè nén được niềm thôi thúc nguyên thủy trong cơ thể kia, Trác Mộc Cường Ba từ từ tỉnh táo trở lại, cảm kích nói: “Các bạn đã cứu tôi?”

Babatou dẩu môi lên cười cười: “Người cao lớn khỏe mạnh thế này mà gan nhỏ thế. Phải rồi, anh trai tôi nhờ cao chữa rắn của anh nên mới không sao, cả bộ tộc chúng tôi đều rất cảm ơn anh đấy. Về sau nhìn thấy quân du kích và bốn người da vàng bắn nhau trong rừng, bọn tôi đều rất lo lắng, nhưng cũng không biết có phải là các anh không nữa, lần này chúng tôi vào rừng chỉ là để tìm tên Basaka trả thù thôi, không ngờ lại gặp được các anh thật. Lại càng chẳng thể ngờ các anh đụng với bọn ong sát nhân, đáng lẽ ong sát nhân cũng không ghê gớm như vậy đâu, độc của chúng tùy theo thể chất từng người mà khác nhau, thật không may, anh và cái chú nhìn có vẻ hung hăng kia đều có thể chất quá mẫn cảm, nếu không hai người đã không bị nặng thế này rồi.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Xem ra vận may của chúng tôi cũng không tệ nhỉ, không ngờ các bạn ở trong rừng mà thông tin cũng nhanh nhạy thế, phải rồi, có điện thoại di động không?? Tôi muốn liên lạc với thế giới bên ngoài một chút.”

Babatou bật cười khanh khách: “Anh nghĩ rằng chỗ chúng tôi đây có điện thoại di động chắc? Nếu có cái thứ ấy, làm sao còn gọi là bộ lạc nguyên thủy được nữa chứ. Chúng tôi biết là nhờ mấy du khách gặp nạn nói thôi, họ cũng là người châu Á, nên bị quân du kích nhận lầm.”

Tim Trác Mộc Cường Ba như thắt lại, vội vàng hỏi: “Bọn họ đâu rồi? Bọn người ấy như thế nào? Có ai bị thương không?” Nhóm của giáo sư Phương Tân chẳng phải cũng vừa vặn có bốn người hay sao!

Babatou ngạc nhiên nói: “Anh quen họ hả? Chẳng qua chỉ là một nhóm người du lịch tự phát thôi mà, không ai bị thương cả, chỉ là hơi kinh hoàng chút thôi, chúng tôi đã phái người đưa họ đi rồi. Để nhớ xem nào, có một người Nhật Bản, hai người Trung Quốc này, còn một nữa hình như là người Singapore thì phải…” Kế đó lại tả cho Trác Mộc Cường Ba sơ qua tướng mạo bốn người đó, thì ra là bốn người đàn ông, Trác Mộc Cường Ba giờ mới yên tâm, xem ra chắc là thành viên của tổ chức “phượt” kia, chẳng phải là người Anh tên Sean kia đã nói, bọn họ có bốn người bị lạc mất hay sao. Trong lòng gã thầm cầu khấn, chỉ mong nhóm của giáo sư Phương Tân không xảy ra chuyện gì.

Nghĩ đến nhóm giáo sư Phương Tân, Trác Mộc Cường Ba lại hỏi: “Phải rồi, mấy người bạn của tôi đâu?”

Babatou thong thả nói: “Không sao đâu, trong lãnh địa của người Kukuer chúng tôi, dù là quân du kích cũng không tùy tiện tiến vào đâu. Nào, nào…” Vừa nói cô vừa lật tấm chăn giống như dệt bằng vải gai trên người Trác Mộc Cường Ba lên.

Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Cô, cô làm gì vậy?” Babatou nở một nụ cười bí hiểm: “Chữa cho anh chứ còn làm gì, thời gian này, toàn là tôi chữa bệnh cho anh đấy.”

“Cô là bác sĩ hả?” “Không, dùng phương pháp chữa bệnh đặc biệt của người Kukuer chúng tôi, anh hồi phục nhanh lắm.”

Trác Mộc Cường Ba đầu kêu ong ong, nóng bừng lên, thầm nhủ: “Sao lại cười như thế? Cách chữa bệnh của họ, chắc là… không phải cái cách đó chứ?”

Babatou vỗ một cái lên ngực Trác Mộc Cường Ba, gương mặt xinh đẹp làm bộ giận dữ, nhiếc móc: “Anh nghĩ đi tận đâu vậy? Sao mặt còn đỏ hơn cả mông khỉ đuôi xoắn thế?” Kế đó cô lại ra lệnh: “Xoay người qua, nào, một, hai, ba, anh tự dùng sức đi, một hai ba…”

Trác Mộc Cường Ba vất vả lắm mới lật sấp người xuống được, cũng đỡ phái rơi vào tình huống lúng túng như lúc nãy, gã không nên nổi một tiếng “phù” nhẹ nhõm, chỉ thấy những chỗ bị ong đốt trên lưng như bị kim chích, vừa ngứa vừa tê, còn nhoi nhói đau nữa. Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Cô sẽ không chọc thủng những nốt bị ong đốt đó đấy chứ?”

Babaotu lắc đầu: “Không đâu, tôi chỉ rạch những chỗ đã kết sẹo, để máu lại chảy ra thôi. Không làm vậy, thần Yize sẽ không chịu chữa bệnh cho anh đâu.”

Phát âm hết sức quái dị, Trác Mộc Cường Ba nói: “Thần Yize? Là, là cái gì thế?” Lúc này gã đã thấy lưng mình càng lúc càng ngứa hơn, lại còn hơi đau đau như bị vô số con kiến cùng cắn xé vậy.

“A, người Kukuer chúng tôi mà bị con gì cắn, hay mắc phải các chứng bệnh thông thường, đều nhờ thần Yize chữa trị cho cả, chúng là bác sĩ tốt nhất của rừng già này đấy. Anh có muốn xem không?”

“Ừm, ít nhất thì tôi cũng phải cảm ơn bác sĩ đã chữa bệnh cho mình chứ”. Trác Mộc Cường Ba vừa dứt lời. Babatou đã đưa một bình gốm tới trước mặt gã.

“Đây, đây chính là thần Yize sao?” Trong bình gốm quả nhiên là đầy kiến nhung nhúc ra vào, những con kiến đen dài chừng một centimet, tốc độ di chuyển nhanh nhẹn vô cùng. Trác Mộc Cường Ba ngẩn ra trong giây lát, rồi hỏi: “Bọn chúng đang làm gì trên lưng tôi vậy?”

Babaotu nở một nụ cười giảo hoạt, nói: “Bọn chúng ấy à, bây giờ chúng đang hút máu của anh. Sau đó, chúng sẽ bài tiết ra một loại kích thích tố, trung hòa độc tố xung quanh vết thương của anh, thứ vật chất ấy, còn thúc đẩy tuần hoàn máu, tẩy rửa các chất thải thừa trong cơ thể anh, đồng thời khôi phục những tế bào bị hủy hoại nữa.”

Trác Mộc Cường Ba hồ nghi hỏi: “Thần kỳ vậy sao?”

Babatou nghiêm nghị gật đầu: “Đương nhiên rồi, người Kukuer chúng tôi mấy ngàn năm nay được thần Yize bảo hộ, mà không gặp phải bệnh dịch nào lớn cả. Được rồi, xem ra cũng gần xong, để tôi bôi thuốc cho anh.”

Trác Mộc Cường Ba thấy sống lưng mát lạnh, cảm giác như thoa kem chống nắng, lại không nhịn được hỏi tiếp: “Giờ lại bôi thuốc gì nữa?”

Babatou nói: “Là thuốc cao đặc chế của người Kukuer chúng tôi, gồm có Turneraceae, cỏ gấu, mây vuốt gấu, lá thược dược và rất nhiều dược thảo khác. Xoa vết thương bị cắn đốt là cực kỳ công hiệu. Xong rồi, anh nghỉ ngơi cho tốt, lát nữa tôi mang cháo ngô với mật ong cho, lâu như vậy không ăn gì, người có khỏe mấy thì cũng không chịu được đâu.”

Babatou vén rèm cửa bước ra, Trương Lập và Nhạc Dương ngồi trên đàn tế bằng gỗ đằng xa buồn chán đến thẫn thờ, thở dài đến tiếng thứ một trăm lẻ bảy: “Ôi, thiên lý ở đâu chứ!” “Ài, đen tối quá!” “Tại sao tôi không được đãi ngộ như thế chứ?” “Sớm biết thế, lúc ấy đã cho bọn ong mật kia đốt mấy phát rồi!”



Người Kukuer

Lần đầu tiên, hai người đến lãnh địa của người Kukuer, cơ hồ không dám tin vào mắt mình nữa. Khu này là vùng đồi cao hơn rừng cây thông thường một chút, cả khu vực vẫn được cây cối che phủ, nhưng ở chỗ cao nhất là đàn tế thì có thể nhìn thấy toàn bộ mấy cánh rừng nhỏ xung quanh và các dòng sông uốn khúc. Dưới tán lá xanh tốt có hơn trăm căn nhà gỗ lợp lá cọ, có đàn tế, có điện thờ, có nơi sinh hoạt tôn giáo, mái nhà hình bầu dục nhọn, nhìn chữ V, tất cả các kiến trúc cần thiết của một nền văn minh bộ lạc nguyên thủy đều có hết. Điều làm hai người không thể ngờ được, tự nhiên chính là chuyện phụ nữ trong bộ lạc toàn bộ đều để ngực trần, hơn nữa còn hết sức tự nhiên, hoàn toàn không hề có ý che giấu hay xấu hổ thẹn thùng gì cả. Nhạc Dương và Trương Lập vừa thấy mấy thiếu nữ đầu đội bình gốm ra suối lấy nước về, bên này lại có vài người nữa đội quần áo thực phẩm đi ra bờ sông, vừa đi vừa nói nói cười cười, nét mặt động tác hoàn toàn chẳng khác gì các cô gái mặt quần áo đầy đủ ở các thành phố trò chuyện cười đùa với nhau, chỉ khác một điểm duy nhất, bọn họ không ai mặc quần áo! Hai chàng thanh niên máu nóng kiến thức nông cạn, cứ tranh nhau nhìn đến mạch máu căng phồng. Trương Lập còn suýt chút nữa thì chảy máu mũi. Đặc biệt là khi hai anh chàng này trông thấy cô gái xinh đẹp quyến rũ nhất bộ lạc Babatou tự tay chăm sóc Trác Mộc Cường Ba, ngày nào cũng ra ra vào vào căn nhà gỗ nhỏ ấy, lần nào vào cũng mấy tiếng đồng hồ không thấy ra. Hai người lấy làm tức tối, thậm chí còn nổi ý đồ giết quách Trác Mộc Cường Ba đi cho xong nữa.

Chiếu lý mà nói thì Trác Mộc Cường Ba không trẻ như họ, hình như tướng mạo cũng không được tuấn tú bằng, hai người nghĩ mãi mà không thông, cuối cùng đã đưa ra kết luận thế này: “Cường Ba thiếu gia có sức hấp dẫn thần kỳ đối với phái nữ… à không, đối với tất cả các động vật giống cái, phạm vi sát thương từ tám tuổi đến tám mươi tuổi. Chính tại vì ma lực trời sinh đó, mới khiến hai chàng thanh niên lý tưởng có tương lai tươi sáng đồng hành nhiều lần không được các cô gái xinh đẹp bằng tuổi để mắt tới. “Suy luận thế này chắc chắn không sai vào đâu được, ngày hôm ấy chẳng phải con ếch kia cứ bám chặt lên đầu Cường Ba thiếu gia còn gì, bây giờ nghĩ lại, gần như có thể khẳng định trăm phần trăm, đó là một con ếch cái rồi.” Đưa ra được kết luận như vậy, tâm lý hai người nói chung cân bằng lại đôi chút. Bọn họ nào biết rằng, kết luận thoạt nghe có vẻ hoang đường này, về sau lại chính xác như dự đoán tiên tri vậy.

“Anh ấy tỉnh rồi, hai người vào thăm đi.” Babatou mỉm cười, cầm lọ gốm đi qua hai anh chàng đang để hồn vía lơ lửng trên mây.

“Cường Ba thiếu gia, đã mất nửa thời gian rồi, vậy mà, giờ chúng ta còn chưa rõ mình đang ở đâu nữa.”

“Phải đấy, hơn nữa nghe Khỉ Đuôi Xoắn nói, quân du kích đã mai phục sẵn xung quanh lãnh địa của người Kukuer rồi, xem ra chúng ta vừa ra khỏi đây là chúng sẽ lập tức ra tay luôn đó.”

“Ba Tang? Anh Ba Tang đã khỏe rồi, nhưng hình như anh ấy rất hợp chuyện với thầy tế ở đây, từ chiều hôm qua cứ rịt trong đền thờ của họ ấy.”

“Này, Cường Ba thiếu gia, Babatou lúc nào cũng ở bên cạnh anh, hai người…”

“Hai thằng nhóc này… tôi vừa mới tỉnh lại, giờ còn chưa biết mình đang ở đâu nữa, lẽ nào hai người không biết người bệnh cần được nghỉ ngơi hay sao? Yên lặng một chút cho tôi nhờ có được không?”

“Không được.”

“Cường Ba thiếu gia, các cô gái thổ dân ở đây vừa nhiệt tình lại vừa buông thả, anh nhất định phải khống chế được tình cảm của mình, anh phải giữ đạo đức trong tình yêu đấy nhé, chớ có làm chuyện gì để cô Mẫn Mẫn phải đau lòng đấy!”

“Các… các cậu, hai thằng nhóc này… ra ngoài! Đây là mệnh lệnh đấy!”

“Cường Ba thiếu gia, ngàn vạn lần chớ nên nổi nóng, chúng tôi chỉ muốn tốt cho anh thôi mà.”

“Phải đấy phải đấy.”

….

Đêm đến, quả nhiên Babatou đang ở trên đàn tế quan sát bầu trời đầy sao, anh ta nằm nghiêng bên cạnh đài quan sát. Được sự cho phép của đại tế sư, Ba Tang là người ngoài tộc duy nhất được bước lên đàn tế ngắm sao trời. nói là đàn tế, kỳ thực là một gò đất hơi cao hơn một chút so với khu vực xung quanh, người Kukuer đã dùng các thân cây to dựng nên một giàn gỗ hình thang trên gò đất đó, trên đó, có hai giá gỗ như cần trục, ở giữa là một đĩa tròn không tâm, chính giữa đĩa tròn là một khúc gỗ hình như cây thập tự, khúc gỗ và đĩa tròn có thể di chuyển xung quanh nhau, mỗi lần đến ngày lễ của bộ tộc, đại tế sư bao giờ cũng một mình bước lên đài tế sử dụng thứ kỳ dị này để quan sát các ngôi sao trên trời.

Dù Babatou không biết Ba Tang đã nói chuyện gì với đại tế sư, nhưng người nào đã được đại tế sư công nhận thì cũng được người Kukuer tôn trọng, cô nhã nhặn nói: “Ngài Ba Tang.”

“Ừm,” Ba Tang điềm đạm nói, “năm ngày rồi.” Trong vẻ cao ngạo của anh ta thấp thoáng nỗi lo âu, ánh mắt anh ta cũng vô cùng phức tạp, dường như đang cực kỳ mâu thuẫn, lại như đang phải gánh trên vai áp lực nặng nề, ít nhất, đó là cảm giác của Babatou trong lúc này. Ẩn chứa trong giọng nói của Ba Tang là sự bất lực và cam chịu: “Kế hoạch ban đầu vốn không phải như vậy, chúng tôi chỉ muốn bình yên băng qua rừng già, đã suy tính hết sức đầy đủ đến hoàn cảnh môi trường khốc liệt và các loài động vật nguy hiểm rồi, có điều, căn bản không ai nghĩ đến chuyện sẽ xung đột trực tiếp với quân du kích và bọn buôn ma túy. Dường như trong bóng tối kia có một cánh tay vô hình đang thao túng hành trình của chúng tôi, đến giờ, cả ông Trời cũng muốn khảo nghiệm chúng tôi chắc?”

Babatou nói: “Đại tế sư có nói rồi, thần Chac vĩ đại đã phẫn nộ, người sẽ trừng phạt những kẻ phá hoại thế giới này. Có điều tôi cũng không được hiểu cho lắm, ông Ba Tang, ông có thể dùng kiến thức khoa học hiện đại để giải thích ngôn ngữ đã được đại tế sư thần hóa không? Dù sao thì, ông nói cũng giống hệt như đại tế sư vậy.”

Ba Tang lẩm bẩm đáp: “Rừng mưa nhiệt đới Nam Mỹ là môi trường nhiệt đới khí áp thấp, được luồng không khí xích đạo tuần hoàn bao bọc. Theo lẽ thông thường, khu vực này một năm có gần bảy tháng là bị mây mù bao phủ, thời tiết thường gặp nhất chính là hàng ngày lúc mặt trời lên thì mát mẻ dễ chịu, tới trưa bắt đầu có mây tích tụ, chiều thì mưa như trút nước tới tận hoàng hôn. Nhưng chúng tôi vào rừng đã năm ngày rồi, chẳng những không có một giọt nước mưa, hơn nữa đêm nào cũng trời trong đầy sao, mây mù nhiệt đới đi đâu rồi? Cô, cô có biết sóng thần không?” Ba Tang chợt hỏi.

Babatou nói: “Ừm, có nghe nói, địa chấn dưới biển gây ra sóng thần, là thảm họa tự nhiên vô cùng đáng sợ, nhưng có chuyện gì với việc này chứ?”

Ba Tang lắc đầu: “Không, không có quan hệ, chỉ có điều đạo lý là giống hệt như nhau. Khi tầng đáy đứt gãy gây ra xê dịch, địa hình đáy biển đột nhiên biến hóa, trước tiên không phải là biển động sóng thần, mà là dung tích đáy biển tăng lên, khiến mặt biển rút xuống, đường bờ biển rút ra ngoài xa mấy dặm hoặc nhiều hơn nữa, để lộ ra tầng đá ngầm trước giờ chưa từng hiện ra. Sau đó, mặt biển phải khôi phục lại cân bằng của nó, lượng nước biển kia sẽ dựng lên thành một bức tường nước, cuồn cuộn ập trở về, sức mạnh đáng sợ đủ để hủy diệt tất cả mọi thứ, thậm chí chúng còn cao hơn mặt biển trước đó mấy chục đến gần trăm mét, nhấm chìm, nuốt trọn tất cả những thứ dưới bậc nước đó, rồi lại rút đi. Lúc này tầng mây trên cao đang bị ảnh hưởng của khí áp, về cơ chế cũng giống hệt như sóng thần vậy, khi khí áp thấp bị khí áp thấp hơn ảnh hưởng, luồng khí tuần hoàn sẽ tản ra xung quanh, giống như là thổi bong bóng vậy, dồn hết mây ra bên ngoài quả bong bóng đó. Thế nhưng, một khi quả bong bóng ấy bị vỡ, mây ở xung quanh sẽ dồn vào lấp chỗ với tốc độ nhanh chưa từng thấy, tới lúc đó, mưa của mấy ngày, mấy chục ngày sẽ tập trung đổ xuống trong một ngày. Cô thử tưởng tượng, đó là cảnh tượng thế nào.”

“A.” Babatou kêu lên một tiếng khe khẽ, phảng phất như cảm thấy nguy cơ trong một sớm một chiều.

Ba Tang lại tiếp lời: “Kiểu khí hậu biến dị này, từ rất lâu trước đây hoặc phải mất mấy trăm năm mới có một lần. Còn bây giờ, rừng nhiệt đới bị chặt phá trên diện rộng, thảm thực vật trên núi Andes cũng bị phá hoại nặng nề, tốc độ tan chảy của sông băng tăng lên, tác dụng điều tiết khí áp của khe núi giảm sút, có lẽ sau này cứ vài năm, hoặc mỗi năm, đều sẽ xuất hiện thiên tai như vậy, đây chính là cái giá con người phải trả cho chính những hành vi của mỗi người thôi. Có điều, cô cũng không cần lo lắng, tôi quan sát rồi, khu rừng này cao hơn những nơi khác xung quanh đây, dù có mưa to, cũng không ảnh hưởng gì đến bộ tộc các cô đâu.”

“Ừm.” Babatou nói, “Đại tế sư cũng nói rồi, thần Kukuer sẽ bảo vệ chúng tôi được bình an.”

“Hừ, thần kukuer hả?” Trong tiếng cười của Ba Tang ẩn chứa chút khinh miệt, nhưng nét mặt lại không tỏ vẻ gì, anh ta ngoảnh mặt đi hỏi: “Các cô, là hậu duệ của người Anh điêng hả?”

“À…” Babatou không hiểu tại sao Ba Tang lại đột nhiên hỏi vấn đề này, cô líu ríu nói: “Chuyện này, tôi cũng không rõ lắm, có điều, chắc là phải đấy. Tổ tiên chúng tôi đã sống rất nhiều năm trong cánh rừng này rồi, theo những ghi chép trong bộ tộc, từ thời đại Kakupakate, tổ tiên của chúng tôi đã được các vị thần bảo vệ mà an cư lạc nghiệp ở đây rồi.”

Ba Tang nhìn cây thập tự, bình phẩm: “Bất kể các cô là hậu duệ của người nào, từ dụng cụ các cô dùng để làm quan sát bầu trời có thể thấy, tổ tiên của các cô có một nền văn minh hết sức huy hoàng chói lọi đấy. Dụng cụ này đơn giản thế thôi, nhưng lại có thể theo dõi đường đi của mặt trăng và mặt trời một cách rất dễ dàng, hơn nữa còn có tác dụng rất nỗi bật trong việc quan trắc chòm sao Đại Hùng và Tiểu Hùng nữa.”

Nghe Ba Tang đánh giá cao tổ tiên mình, Babatou tỏ ra vô cùng cao hứng, nhưng chỉ thoáng chốc cô lại ủ rũ nói: “Đáng lẽ, bộ tộc chúng tôi còn có cả thánh thạch truyền đời nữa cơ, nhưng mấy năm trước đã bị người ta ăn trộm mất rồi.” “Ừm, vậy hả?” Ba Tang đột nhiên nổi hứng với chuyện này, liền hỏi han cặn kẽ các chi tiết liên quan đến thánh thạch. Thì ra thánh thạch là một tảng đá hình trụ tròn có khắc các hoa văn kỳ quái, nghe nói có cán, có đầu, toàn thân đều chạm nổi, hình tượng đó, rất giống một trụ đá trổ hoa thu nhỏ theo tỷ lệ nhất định, cầm trong tay giống như một cái giản (1) bằng đá. Hai người nói chuyện rất muộn, trước khi rời khỏi đàn tế, Ba Tang vẫn không quên nhìn lên bầu trời một lần nữa. Vầng trăng lông kia lại tròn hơn hôm qua thêm một chút.

Độc tố trong cơ thể dần dần được thanh tẩy, mấy vết thương phần mềm kia đến nhanh, nhưng cũng đi nhanh, chiều hôm sau, Trác Mộc Cường Ba đã có thể xuống giường đi lại, hoạt động cho dãn gân dãn cốt, hầu như đã không còn gì đáng ngại, cả cảm giác đau đớn cũng không thấy nữa. Trác Mộc Cường Ba không ngờ, ngoài cửa kia, thủ lĩnh trẻ tuổi Gấu Mật Nanh Sắc đã dẫn theo một đám chiến sĩ, xếp hàng hoan nghênh gã khỏi bệnh, đằng xa là các nam nữ lão thiếu trong bộ tộc Kukuer, Babatou phụ trách phiên dịch. Nanh Sắc thân mật vỗ mạnh lên lưng Trác Mộc Cường Ba, cao hứng nói: “Người dám đối đầu với tướng Kulu, nhất định là anh hùng.” Nói xong anh ta lại chỉ vào ngực mình: “Anh cứu mạng tôi, chúng ta là anh em, là người một nhà.” Cả bộ tộc liền reo hò ầm ĩ.

Trác Mộc Cường Ba được Babatou và Nanh Sắc dẫn đi vòng quanh thôn làng của người Kukuer. Babatou làm hướng đạo kiêm phiên dịch, được âm thanh tràn trề niềm vui ấy giới thiệu, Trác Mộc Cường Ba dần dần hiểu được về bộ lạc Kukuer này.

Chiều cao trung bình của người Kukuer tương đối thấp, màu da sẫm hơn những chủng tộc người Anh điêng khác, hầu hết các chiến sĩ đều cường tráng mạnh mẽ, bắp chân thô ngắn, vai rộng, đầu to, đôi mắt màu da cam và mái tóc đen kia, nhìn cũng có mấy phần đặc điểm của dân người châu Á. Trang phục của họ tương đối đơn giản, đàn ông mặc một chiếc khố rộng bằng lòng bàn tay, bọn họ quấn khố vài vòng quanh hông, một đầu thả phía trước, một đầu ở phía sau, trông rất giống trang phục của võ sĩ Sumo Nhật Bản. Hai đầu mảnh khố đều có hình thêu do chính tay mẹ hoặc vợ người đó làm. Phụ nữ thì từ eo trở xuống quấn một chiếc váy. Trong bộ tộc bất kể nam hay nữ, những phần lộ ra trên cơ thể đều có hình vẽ totem, trong đó hình xăm trên mặt là đẹp nhất, dựa theo thân phận và đẳng cấp khác nhau mà xăm những hình khác nhau. Chỉ có đàn ông mới có trang sức trên đầu, phụ nữ thông thường tết tóc từ hai đến bốn bím, đàn ông dùng lông chim làm trang sức, cắm thành nhìn rẻ quạt, cũng có phân biệt theo đẳng cấp. Đàn ông thông thường cắm lông vẹt châu Mỹ, chiến sĩ thì cắm lông chim ưng, còn thủ lĩnh như Gấu Mật Nanh Sắc thì là lông của một loài đỗ quyên đến từ Trung Mỹ.

Họ sống trong nhà cỏ tranh hoặc nhà lợp bằng lá cọ, trong nhà có tường chia làm hai gian, phía trước là phòng khách, phía sau là phòng ngủ, phòng ốc thường không có cửa, mái hiên rất thấp, có thể chắn mưa che nắng. Giường bện bằng cành cây, bên trên rải cỏ, lúc ngủ dùng một tấm thảm bằng cỏ hoặc vải bông thay cho chăn. Họ không nấu nướng trong nhà, mà dùng bếp lộ thiên bên ngoài. Người Kukuer trồng khoai, sắn, đậu tằm, ngoài ra cũng chăn nuôi các động vật lớn như lạc đà không bướu, ngựa…, nhưng hầu hết các chiến sĩ đều vào rừng săn bắn, khỉ nhện là thức ăn thường xuyên nhất của họ. Họ có các thợ thủ công lành nghề chế tạo vũ khí, nhưng cũng tiếp xúc cả với súng ống hiện đại, quần áo mặc thường ngày cũng có một phần được dệt may bằng công nghệ hiện đại, bộ lạc này cũng không hề cách biệt với thế giới bên ngoài, mà tiếp xúc với nền văn minh hiện đại bên ngoài một cách vừa phải, thích đáng. Họ bắt một số động vật trong rừng ra ngoài đổi lấy nhu yếu phẩm, trong rừng nguyên sinh đâu đâu cũng cò nguy hiểm rình rập, các nhà sưu tập và chủ quán đặc sản muốn có các loại động vật hoang dã, đều đồng ý trả giá không hề thấp để mua các thứ đó.

Chiến sĩ của bộ tộc Kukuer từ nhỏ đã sinh ra trong rừng, lớn lên trong rừng, rừng già này chính là nhà của họ, họ thông thạo đủ các phương pháp tác chiến trong rừng sâu, bố trí những loại bẫy rập đơn giản để bắt dã thú. Vì vậy, lãnh địa của người Kukuer xưa nay đều bất khả xâm phạm, đến cả quân du kích và bọn buôn ma túy xưa nay vẫn xưng bá trong rừng sâu này cũng phải ký điều ước không xâm phạm lẫn nhau với họ. Có lúc bọn buôn ma túy còn phải trả một khoản tiền lớn làm phí mãi lộ, mới được đi qua lãnh địa của người Kukuer, nhưng nơi này đã là đường sát biên giới, chưa tới lúc vạn bất đắc dĩ, bọn chúng cũng không bao giờ đặt chân lên lãnh địa của họ. Nghe nói, ở sâu trong lãnh địa này, có thứ còn đáng sợ hơn cả người Kukuer gấp trăm gấp ngàn lẩn, nơi ấy thì càng không có một dấu chân người.

Trong bộ tộc chia làm nhân quyền và thần quyền, nhân quyền là tộc trưởng, cũng chính là cha của Gấu Mật Nanh Sắc và Babatou, thần quyền là đại tế sư, ông ta lúc nào cũng ở trong đền thờ. Đền thờ thần linh của họ, là một gian nhà gỗ không lớn lắm, đứng dưới tán của một cây cổ thụ cao gần bốn chục mét, đích thực là khiến người ta nảy sinh cảm giác kính ngưỡng trước bậc minh thần cao quý. Nghe nói sau khi Ba Tang tỉnh lại, có nói mấy câu về thời tiết biến dị, vừa hay lại trùng khớp với cách nói của đại tế sư trong đền thần, nên đã được đại tế sư mời vào nói chuyện, sau đó còn đồng ý cho anh ta lên đàn tế quan sát bầu trời nữa. Về chuyện này, cả Trác Mộc Cường Ba cũng cảm thấy không thể nào tin nổi, nhưng sau đó Ba Tang lúc nào cũng chỉ hờ hững lảng tránh không nói gì.

Người Kukuer rất giỏi uống rượu, họ dùng mật ong, nước và một loại rễ cây đặc biệt để ủ rượu, làm ra một loại rượu nồng độ rất cao, mùi thơm sực nức.

Điều làm Trác Mộc Cường Ba thấy hứng thú nhất là người Kukuer hầu như nhà nào cũng nuôi chó, rất tạp, nhỏ thì có chó không lông, chó đốm hoa, chó chồn, lớn thì có chó fila, có chăn cừu, chó bull, thứ nào cũng có, thậm chí còn có cả loại mà Trác Mộc Cường Ba không gọi được tên. Đáng kinh ngạc nhất là, lũ chó này đều không sủa, thấy người tới thì chỉ nghếch mắt lên liếc nhìn một cái, rồi lại nhắm tịt mắt vào ngủ, đến cả mấy con nổi tiếng hung hăn như chó ngao Brazil cũng thế.

Trác Mộc Cường Ba hỏi Babatou tại sao chó họ nuôi lại không kêu, câu trả lời của cô là, đó là cách huấn luyện chó đã lưu truyền từ rất lâu rồi, ở đây họ có câu tục ngữ gọi là: “Chó không sủa mới là chó tốt.” Trác Mộc Cường Ba cứ có cảm giác hình như mình đã nghe cách nói này ở đâu rồi, có điều gã vừa mới khỏi bệnh, trước sau không tài nào nhớ ra nổi. Gã đến trước mặt một con chó trông có vẻ như là chó Argentina, xoa xoa đầu con vật đang rúc mình ngủ khò khò ấy, con chó mở đôi mắt nhập nhèm lên nhìn Trác Mộc Cường Ba, ngáp một cái rõ dài, rồi quẫy quẫy đuôi, vùi đầu ngủ tiếp. Trác Mộc Cường Ba tò mò hỏi: “Nếu không sủa, vậy tác dụng chủ yếu của chúng là làm gì?”

Babatou đáp: “Có thể dùng đề truy dấu vật săn, có điều hầu hết thời gian bọn chúng đều chơi với lũ trẻ con, địa vị của chúng trong làng của chúng tôi cũng cao lắm đấy nhé. Trong làng có tập tục, nhà nào có chó bất hạnh qua đời, thì phải cử hành tang lễ long trọng cho nó, hơn nữa về sau chúng còn được hợp táng với chủ nhân của mình nữa cơ.” Trác Mộc Cường Ba lại hỏi thêm một số chuyện về lũ chó châu Mỹ này, kết quả phát hiện ra Babatou cũng không thích chó lắm, cô cũng chỉ biết là có tập tục như vậy, còn tại sao lại có, thì cũng không rõ cho lắm.

Ngoài đền thờ và đàn tế, Babatou đã dẫn Trác Mộc Cường Ba đi tới từng góc nhỏ của ngôi làng bộ tộc Kukuer cư trú, giúp gã có đượcn những hiểu biết đại thể về bộ lạc nửa nguyên thủy nửa văn minh này. Tham quan trong bộ lạc Kukuer này, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy sức khỏe mình đã khôi phục đáng kể, bèn định tạm biệt Babatou, nhưng bị cô từ chối. Babatou nói: “Bây giờ sức khỏe anh vừa mới bình phục, còn chưa cảm thấy gì, nhưng chất độc trong cơ thể thì chưa hoàn toàn hết đâu, đi trong rừng một hai ngày là lại tái phát nữa đấytôi phải tiếp tục bôi thuốc cho anh mới được. Còn nữa, dù có muốn đi, thì nhất định cũng phải đợi qua ngày mai mới đi được, ngày mai chính là ngày lễ của bộ tộc Kukuer chúng tôi, mọi người ai cũng tham gia chúc mừng, nếu đại ân nhân của bộ lạc như anh mà không tham gia, tức là đã coi thường người Kukuer chúng tôi, mà chúng tôi thù dai lắm đấy nhé. Trong rừng sâu, cả quân du kích và bọn buôn lậu đều biết rất rõ, ở vùng này mà đắc tộc với người Kukuer, muốn đi một bước cũng khó khăn lắm. Nhìn anh kìa, cuống lên muốn đi như vậy, chẳng lẽ người Kukuer chúng tôi làm anh thấy ghét thế à?”

Trác Mộc Cường Ba vội nói: “Không phải, vì lần đầu tiên chúng ta gặp mặt vội vã quá, có rất nhiều chuyện mọi người còn chưa hay. Chúng tôi đang tham gia một đội thi đấu tranh giải, phải từ Putumayo băng qua rừng nguyên sinh tới Saint Mary trong thời gian quy định, bị chậm trễ ở đây, chúng tôi đã bị các đội khác bỏ rớt lại phía sau rồi, thế nên tôi mới nghĩ, nếu mình cử động được rồi, vậy thì phải nhanh chóng đuổi kịp các đội khác.”

Babatou dẩu môi lên nói: “Tôi mặc kệ, thế nào anh cũng phải đợi qua ngày mai mới đi được, mấy bạn kia của anh đều đang giúp chúng tôi sắp xếp cho buổi lễ cơ mà.” Vừa nói cô vừa nhủ thầm: “Bôi cho anh bao nhiêu nước ép với dầu Maja, thế nào cũng không thể chưa có tác dụng gì đã để anh đi rồi chứ.” Nghĩ tới đây, cô không giấu nổi một nụ cười tinh nghịch, làm Trác Mộc Cường Ba lại thêm một phen mù mờ chẳng hiểu ra làm sao.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ngày mai chắc không phải ngày thu hoạch mùa màng, vậy là ngày lễ gì nhỉ?”

Babatou nghiêng đầu nói: “Ừ, nói thế nào nhỉ, ngày mai là ngày lễ lớn một năm một lần của chúng tôi, đã lưu truyền từ rất lâu rất lâu rồi, giống như… có lẽ là giống ngày lễ Độc lập của người Mỹ vậy, tôi nghĩ chắc là như thế đấy, có điều theo cách nói của tổ tiên, thì đây là ngày lễ do thần thánh đặt ra đó.”

Trác Mộc Cường Ba không nói lại được Babatou, đành miễn cưỡng gật đầu đáp ứng, gã muốn một mình yên tĩnh để suy nghĩ lại các vấn đề gặp phải trong lần băng rừng này. Babatou cũng bận rộn sắp xếp chuẩn bị cho lễ tế, liền dặn dò Trác Mộc Cường Ba không được đi lung tung, rồi để gã một mình nghỉ ngơi.

Trác Mộc Cường Ba nhớ lại các vấn đề gặp phải trong cuộc hành trình này, không phải là không có chuẩn bị, bọn gã cũng đã điều tra nghiên cứu phạm vi thế lực của quân du kích và bọn buôn lậu ma túy rồi, cũng tìm hiểu tư liệu về các sinh vật nguy hiểm trong rừng rậm châu Mỹ, thế nhưng, khi mấy người bọn gã phải thực sự đối mặt với những nhân tố nguy hiểm đó thì đều tỏ ra luống cuống tay chân cả. Gã nhớ lại những điều Lữ Cánh Nam từng cảnh cáo trong lúc huấn luyện cả bọn, xem ra những lời ấy đích thực là rất chính xác – “Không tự thân trải qua, chỉ biết lý thuyết không thôi, dù là anh có đọc cả ngàn vạn lần thuộc lòng như cháo, thì cũng không bằng vận dụng trong thực tiễn một lần.”

Từ miệng Babatou gã biết được, lãnh địa của người Kukuer nằm giữa Putumayo và Saint Mary, cũng có nghĩa là, bọn gã đã may mắn được người Kukuer đưa đi một đoạn khá dài. Nếu ngày kia mới rời khỏi bộ lạc Kukuer, thời gian đã mất một nửa, hành trình chỉ sợ mới đi được một phần ba, còn lại một nửa thời gian làm sao hoàn thành được hai phần ba hành trình còn lại đây? Không được, lần băng rừng này buộc phải hoàn thành, nhất định phải cho con mụ khó tính Lữ Cánh Nam đó biết được năng lực của bọn gã, dù là bị quân du kích và bọn buôn ma túy bắt tay vây bắt, bọn gã cũng vẫn băng qua được khu rừng rậm nguyên sinh nguy hiểm này. Tới lúc đó, để xem cô ta nói được gì? Như thế thì có thể trực tiếp đi tìm Bạc Ba La thần miếu được rồi. Trên thảo nguyên mênh mông ấy, bóng hình uy phong lẫm lẫm đó, đôi mắt tràn trề bá khí đó, vẫn còn đang đợi chờ gã cơ mà.

(1) Giản: Binh khí cổ, giống như thanh kiếm, nhưng không có mũi nhọn, cũng không có lưỡi hình trụ.

Lễ tế của người Kukuer

Trác Mộc Cường Ba ngồi trên một bình đài cao hơn mặt đất một chút, lòng hướng về sự thanh thản an nhàn, phảng phất như đã thấy Tử Kỳ Lân ở ngay trước mắt. Ở thôn làng dưới kia, người Kukuer đang ra ra vào vào bận rộn chuẩn bị cho lễ tế. Trên bãi đất trống phía xa xa, đám trẻ con Kukuer đang chơi đùa, bọn chúng dựng mấy tấm bảng gỗ ở đằng xa, có lớn có nhỏ, cắm hờ trên đất bùn, sau đó dùng một cái túi hình vuông bên trong nhét đầy bùn đất, ném vào bảng gỗ, hình như xem độ to nhỏ của bảng gỗ ném trúng để xác định địa vị cao thấp, chơi đùa hết sức vui vẻ.

Trác Mộc Cường Ba nhìn lũ trẻ với ánh mắt đầy ngưỡng mộ, bọn trẻ này có cả nam cả nữ, nhưng trẻ con Kukuer đều không mặc bất cứ quần áo gì, bọn chúng vui vẻ nô đùa ầm ĩ, hình như không hề có phân biệt giới tính. Nhìn lũ trẻ ngây thơ hoạt bát ấy, Trác Mộc Cường Ba không khỏi nghĩ ngợi xa xăm: “Thời viễn cổ, phải chăng con người cũng như vậy? Mặc quần áo chỉ để chống lại cái lạnh, phòng ngừa bị sây sát kể từ khi nào, con người bắt đầu khoác lên cái áo văn minh, có nghi lễ tôn giáo, rồi tỏ ra khinh thường coi rẻ hành vi nguyên thủy này? Bọn họ quên mất bản tính động vật của mình, tự xưng mình là giống loài được thiên thần sủng ái, là tồn tại hoàn toàn khác biệt với những sinh mệnh khác trong tự nhiên, thế nên có quyền mặt sức muốn làm gì thì làm với những sinh vật cấp thấp hơn, đối với tự nhiên không có lợi cho văn minh của họ cũng thỏa ý phá hoại. Nền văn minh như của người Kukuer đây, liệu còn có thể tiếp tục tồn tại trong rừng sâu được bao nhiêu lâu nữa? Bọn họ hoặc là phải hòa nhập vào nền văn minh chung, hoặc là sẽ bị văn minh ấy tiêu diệt, chỉ có hai con đường ấy để lựa chọn mà thôi.” Gã đứng dậy, dõi mắt nhìn khu rừng già tĩnh lặng, ai mà biết được, đằng sau sự tĩnh lặng ấy, ẩn chứa bao nhiêu âm mưu và chém giết. Sinh mệnh tồn tại được là nhờ xâm chiếm, trong thế giới này, có lúc nào mà không diễn ra cảnh thôn tính và chiếm đoạt. Bỗng nhiên, Trác Mộc Cường Ba giật mình ngoảnh đầu lại lần nữa, nhìn lũ trẻ đang chơi đùa kia, trò chơi ấy quả thực quá đỗi quen thuộc, hình như bản thân gã hồi nhỏ cũng chơi rồi thì phải. Đúng hồ nhỏ gã cũng chơi trò này rồi, chỉ có điều dùng bảng đá thay cho bảng gỗ, đá cục thay cho túi vải đổ bùn mà thôi. Đã bao nhiêu năm gã không chơi trò này rồi? Ba mươi năm? Hay là ba mươi lăm năm? Lâu quá rồi, bản thân gã cũng không nhớ nổi nữa.

Ngày hôm sau, là ngày lễ lớn nhất trong năm của người Kukuer, được họ gọi là lễ thần Nadimuke, lễ tế được mở màn trong tiếng ồn ào náo động. Người Kukuer tập trung cả ở bãi đất trống lớn nhất giữa làng, dùng ván gỗ dựng thành một vũ đài. Từ sáng sớm nam nữ già trẻ lớn bé đã đến xung quanh vũ đài, ai nấy đều hết sức dày công tô vẽ trên thân mình, dùng những màu đậm sặc sỡ nhất, những hoạt tiết phức tạp nhất, tộc trưởng và đại tế sư cũng có mặt. Bọn Trác Mộc Cường Ba ra chào tộc trường và đại tế sư, được sắp xếp ngồi vào bàn khách quý. Babatou không ngồi bên cạnh trưởng tộc, mà đặc biệt chạy tới làm thuyết minh cho mấy người đám Trác Mộc Cường Ba.

Đại tế sư là một ông già, tên là Akima, ông vừa cất tiếng nói, người bên dưới vũ đài liền im lặng như tờ. Giọng nói âm sắc cao âm vang khắp không gian rộng lớn, đợi khi đại tế sư nói xong, Babatou mới thì thầm nói cho bọn Trác Mộc Cường Ba biết, đây là đại tế sư đang thay mặt toàn bộ tộc cầu khẩn với thần linh.

Sau khi đại tế sư nói một tràng dài, lễ tế chính thức bắt đầu, người Kukuer dùng các thứ phát ra âm thanh có tiết tấu giống như trống gỗ, xương thú, vỏ quả, đồ gốm, và một loại nhạc khí giống cây sáo bốn lỗ thổi ra tiếng nhạc trầm hùng. Bốn người cao lớn vạm vỡ nâng một người tiến vào, người trong bộ tộc lần lượt cung kính nhường ra một con người, cúi rạp đầu xuống đất, xung quanh còn có rất nhiều người khác vung tay múa chân xoay chuyển nhảy múa, theo vào tận giữa bãi.

Bọn Trác Mộc Cường Ba nhìn thấy, những người đứng giữa đều đeo mặt nạ khắc bằng gỗ, bên trên tô hai màu đỏ, lam, dáng điệu hung hăng dữ tợn vô cùng. Babatou nói, người đàn ông được khiêng vào kia là Quilan, anh ta là người mang lời đáp của vị thần tối cao truyền đạt lại cho người trong bộ tộc, đây là màn đầu tiên, gọi là nghi thức ban tên của thần.

Người tên là Quilan đó ngồi ở ngôi cao, theo sau có rất nhiều người Kukuer đeo mặt nạ hình các loại động vật khác nhau lục tục kéo nhau vào sân trong nhịp trống, tiếp nhận sự chúc phúc của Quilan. Mỗi người đầu thú đều biểu diễn một điệu múa giữa khoảng đất trước mặt đám người đep mặt nạ khắc gỗ, đại để mô phỏng lại hành vi của loài động vật ấy, biểu hiện các ích lợi mà loài vật đó mang lại cho người Kukuer. Babatou giới thiệu, Quilan đang truyền đạt ý chí của thần tối cao, ban cho các loài động thực vật có ích cho bộ tộc Kukuer danh hiệu của thần, tổng cộng có tới hơn một trăm vị thần bước ra.

Từ lời giới thiệu của Babatou, họ biết được người Kukuer là một dân tộc đa thần, bọn họ tin thờ giáo nghĩa “vạn vật trong trời đất đều có thần linh”, chẳng hạn như vị thần đầu tiên là thần quản việc trồng ngô, gọi là Yumil Kaxob, còn vị thần trông nom cây ca cao thì gọi là Ek Chuah. Trong đó so về thần bí thì không ai hơn được Yinawea, nghe nói, đó là bậc chân thần xuống chốn thế gian, đến cả một trong những vị thần có địa vị cao nhất là Thần Chó cũng phái phân thân xuống bảo vệ Yinawea. Vũ điệu tiếp sau biểu thị thần Yinawea chỉ dẫn tổ tiên người Kukuer đánh thắng chiến trận, xây dựng thành trì, lại dạy họ cách chữa bệnh, chế tạo đồ kim loại, canh nông, chăn nuôi gia súc, văn tự…

Xem mãi xem mãi, Trương Lập không khỏi nghi hoặc thốt: “Quái thật, sao càng xem tôi càng thấy giống lễ ‘nhảy đại thần’ ở Tây Tạng thế nhỉ?”

Nhạc Dương hỏi: “Nhảy đại thần là cái gì?”

Trương Lập nói: “Cũng kiểu một hoạt động tôn giáo thôi, một điệu múa mà người biểu diễn phải đeo các loại mặt nạ khác nhau, sư đoàn trưởng có dẫn tôi đi xem một lần rồi. Mặt nạ ở Tây Tạng to hơn, hình vẽ quái dị hơn, hình như là kể một số chuyện giáng yêu trừ ma gì đó. Chẳng biết có phải mấy nền văn minh cổ đại đều có các hoạt động tương tự như thế hay không nhỉ.”

Nhạc Dương nói: “Ừ, chỗ chúng tôi gọi là ‘nhảy nợ’, chỗ chúng tôi cũng có, nghe anh nói vậy, mới thấy giống thật, quái lạ nhỉ?”

Trương Lập nói: “Mấy điệu múa kiểu sùng bái thần thánh này, chắc Trác Mộc Cường Ba hiểu biết hơn phải không, Cường Ba thiếu gia, Cường Ba thiếu gia?”

Trác Mộc Cường Ba đang thần người ra, từ lúc điệu múa tế thần bắt đầu, gã đã ngẩn người ra đó rồi. Mặc dù những tấm mặt nạ khắc gỗ kia và mặt nạ của kịch Tây Tạng có chút khác nhau, nhưng tư thế nhảy múa kia, nội dung điệu múa kia, chẳng phải chính là “khương mẫu (1)” của người Tạng hay sao? Mặc dù không thích đọc các thứ liên quan qua nhiều đến vấn đề tôn giáo, nhưng khương mẫu” và kịch nghệ của người Tạng, đều là những thứ hồi nhỏ Trác Mộc Cường Ba tương đối hứng thú. Bây giờ mặt dù không có âm nhạc hoành tráng như lúc biểu diễn “khương mẫu”, chỉ có tiếng trống và tiếng gõ vào vỏ cứng của quả cây, nhưng động tác nhảy múa của người Kukuer kia, mặt nạ đầu thú mà họ đang đeo trên đầu, thật giống hệt như điệu “khương mẫu” mà gã xem hồi nhỏ. Trong khoảnh khắc đó, điệu múa thần bí mà nguyên thủy ấy, cơ hồ như lại đưa Trác Mộc Cường Ba trở về Tây Tạng, Tây Tạng thuở gã còn là một đứa trẻ, vùng đất vẫn còn chỉ thuộc về thiên nhiên vĩ đại, vùng đất còn chưa bị văn minh chinh phục!

Trương Lập hỏi mấy câu liền, Trác Mộc Cường Ba mới sực tỉnh, lẩm bẩm nói: “Cái gì? Nhảy thần? Hay lẽ nào, đây chính là ngôn ngữ cơ thể mô phỏng tự nhiên mà con người thời viễn cổ học được trước tiên, thế nên, những vũ điệu từ thời xa xưa lưu truyền lại này, bất kể là chủng tộc gì, khu vực nào, cũng đều có những nét tương tự đến kinh người. Đây là cách lý giải của tôi, các cậu thấy thế nào?”

Trương Lập nói: “Ừm… có lý đấy, tôi tán thành phân tích này của anh.”

Nhạc Dương lại phát biểu ý kiến bất đồng: “Nói như vậy hình như hơi miễn cưỡng thì phải. Tôi nghe nói, người Tạng trước đâu cũng là một dân tộc theo thuyết đa thần, bộ tộc Kukuer cũng có rất nhiều thần linh, lễ nhảy thần của họ lại giống với lễ nhảy thần của Tây Tạng như thế, dựa vào điểm này, có chắc là họ không có quan hệ gì với Tây Tạng không nhỉ?”

Trương Lập phì cười nói: “Cậu đúng là biết liên tưởng, phải biết rằng bây giờ chúng ta đang ở đâu chứ, là Nam Mỹ cách Trung Quốc Đại lục hai mươi ngàn kilomet đấy. Bộ tộc Kukuer này lạ là thổ dân sống ở đây từ bao đời, lại cư trú ở vị trí địa lý thế này, gần như là không có tiếp xúc với thế giới bên ngoài, cậu nói họ và Tây Tạng có quan hệ, chứng cứ ở đâu chứ?”

Nhạc Dương xòe hai tay ra, nói: “Bằng trực giác.”

“Phì.” Trương Lập khoát tay một cái, tỏ vẻ coi thường không thèm quan tâm nữa.

Nhưng sau đó Nhạc Dương lại bổ sung: “Từ trước khi chúng ta chuẩn bị xuất phát, bắt đầu là câu nói kỳ quái của giáo quan, sau đó là chúng ta chẳng hiểu sao lại bị quân du kích và bọn buôn ma túy đuổi giết, tiếp theo là gặp được một số thứ hình như có liên quan tới Tây Tạng ở bộ lạc nguyên thủy này, những điều này làm tôi không sao hiểu nổi. Phía sau những sự việc tưởng chừng như riêng rẽ này, hình như có liên hệ gì đó, trực giác cho tôi biết, chuyến đi này của chúng ta, không đơn giản chỉ là băng qua rừng rậm thôi đâu, nhất định là có thứ gì đó, thứ gì đó mà chúng ta không biết.”

Trác Mộc Cường Ba giật mình, trực giác của Nhạc Dương hoàn toàn không đơn giản chỉ là dựa vào cảm giác để đưa ra kết luận, mà được đưa ra dựa trên một tư duy logic tinh tế tỉ mỉ. Nghe Nhạc Dương nói như vậy, gã cũng sinh lòng hồ nghi, vậy thì, trò chơi gã thấy lũ trẻ chơi hôm qua là thế nào, vùng đất này, lẽ nào thực sự có liên quan tới Tây Tạng?

Babatou trợn tròn mắt, hiếu kỳ nhìn hai người đang lầm rầm nói chuyện, lên tiếng nhắc nhở: “Tập trung xem đi, ít nói thôi, đây là lễ tế quan trọng của người ta đó.”\

Kế đó là Hành trình di cư , một người Kukuer đóng giả làm ông già, trên lưng vác một cái bao to tướng tượng trưng cho trọng lượng nặng nề, bắt đầu đi vòng xung quanh vũ đài, tất cả người Kukuer có mặt đều đứng lên, đi theo sau lưng ông già đó, bọn Trác Mộc Cường Ba cũng đứng lên đi theo, Babatou giải thích, tiết mục này nói lên tổ tiên họ năm xưa vì muốn tìm kiếm vùng đất an cư đã phải bôn ba vô cùng vất vả, tất cả người Kukuer đều sẽ không bao giờ quên, cuộc sống hôm nay là do vô số bậc cha ông đã dùng máu và tuổi xuân đổi lấy cho họ.

Đi quanh bốn vòng, hoạt động mang tính toàn bộ tộc này cũng kết thúc. Phần thứ ba là màn chiến tranh, chỉ thấy hai nhóm người Kukuer đeo các mặt nạ tô màu khác nhau, biểu thị cho hai bộ tộc, mở đầu là người bộ tộc khác đeo mặt nạ màu đen thắng thế, người Kukuer đeo mặt nạ đỏ liên tiếp bại trận rút lui, đúng lúc đó, một người Kukuer đeo mặt nạ tượng trưng cho thầy tế đứng ra, trịnh trọng lấy ra một mảnh vỏ cây tượng trưng cho lời dạy của thần thánh, lớn tiếng đọc vang, trong tiếng đọc đó, một thiếu nữ Kukuer được khiêng ra.



Thiếu nữ Kukuer này toàn thân không một mảnh vải, trên mặt vẽ hoa văn màu đen, được đặt xuống một bàn gỗ tượng trưng cho đàn tế, nét mặt cô có vẻ vô cùng hạnh phúc và vinh hiển. Những người Kukuer đeo mặt nạ đỏ dùng dao vạch ngang vạch dọc bên trên cơ thể thiếu nữ, sau đó đặt đủ loại hoa quả màu đỏ, quả hạch và ngũ cốc lên ngực, hông và tay chân cô, một lúc sau, họ lại lấy các thứ đó xuống, chia cho những người đeo mặt nạ đỏ khác cùng ăn.

Nhạc Dương kinh ngạc thốt: “Người Kukuer cũng biết trò này à, hình như đây là Nyotaimori (2) của người Nhật mà?”

Lần này đến lượt Trương Lập hỏi: “No no cái gì? Nyotaimori? Là cái gì thế?”

Nhạc Dương thè lưỡi nói: “Cái này, cái này… ây da. Đằng nào thì cũng gần giống như anh đang xem đây này.”

Babatou giải thích, những hoa văn màu đen vẽ trên mặt đó tượng trưng cho việc cô gái đã được chọn làm tế phẩm của thần, đó là một việc hết sức vinh hạnh. Tương truyền, rất lâu, rất lâu trước đây, thiếu nữ đó phải hiến lên thần linh cả máu tươi và sinh mạng của chính mình, không biết từ bao giờ, nghi thức này đã dần dần biến hóa thành như ngày hôm nay.

Những người đeo mặt nạ đỏ ăn uống xong liền xông ra tái chiến với người đeo mặt nạ đen, lần này, người Kukuer đeo mặt nạ đỏ như có thần linh phù trợ, uy lực tăng cao, chẳng mấy chốc đã đánh cho lũ người ngoại tộc đeo mặt nạ đen tơi bời hoa lá, bỏ cả vũ khí giáp trụ chạy trối chết.

Nhạc Dương nhìn đoạn biểu diễn đó, bỗng thấy chấn động trong lòng. Điệu múa nguyên thủy vụng về đơn sơ ấy, tiếng nhạc tràn đầy tiết tấu ấy, những hoa quả ngũ cốc màu đỏ mà các chiến sĩ Kukuer đặt trên thân thể thiếu nữ kia trong tiết mục chiến tranh giản hóa ấy, dường như ẩn dụ một điều gì đó. Anh không dám khẳng định, nhưng cứ có cảm giác, ẩn dụ ngầm ấy, làm sống lưng anh lạnh toát.

Còn một người nữa cũng cảm thấy kinh hãi, đó chính là Batang đang ngấm ngầm nắm chặt tay ngồi bên cạnh, chỉ là hình thức của điệu múa không làm anh ta chấn động là mấy, thứ làm Ba Tang thấy bất an và căng thẳng là tiếng trống và tiếng gõ kia, tiết tấu gấp rút tựa hồ như chiến đấu kia mang đến cho anh ta cảm giác sợ hãi. Anh ta biết, có lẽ trong sâu thẳm ký ức, mình đã từng nghe âm thanh đó rồi, nhưng là lúc nào, ở nơi đâu, thì anh ta không muốn và cũng không thể nhớ lại được.

Tiếp theo sau là bắt đầu lễ chúc mừng của toàn bộ tộc, mọi người đều tham gia, bắt đầu nhảy múa hát ca, nam nữ già trẻ cùng cất tiếng hoan ca, Nhạc Dương và Trương Lập không kìm nổi mà cuống quýt nhảy lên vũ đài, hòa vào đám người Kukuer kia. Trác Mộc Cường Ba đứng bên cạnh, cũng cảm nhận được lòng nhiệt tình dào dạt và niềm vui phấn khởi của họ.

Phía xa xa, có mấy thợ săn Kukuer đang lùa một con vật đeo vải đỏ, trông như con dê, chắc có lẽ là lạc đà không bướu châu Mỹ. Người đầu tiên cầm cốc gỗ, dùng cành cây nhúng nước vẩy mở đường, miệng lẩm nhẩm tụng niệm gì đó, một người lực lưỡng mình trần tay cầm vũ khí bằng sắt, cơ hồ như đợi để mổ bụng moi ruột con vật. Trác Mộc Cường Ba hỏi Babatou: “Họ làm gì vậy?”

Babatou mỉm cười: “Phóng sinh, vừa để chúc mừng buổi lễ, vừa chúc mừng anh khỏi bệnh luôn!”

“Ồ,” Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn, cảm thấy cảnh tượng này hết sức quen thuộc, tựa như đã thấy ở đâu rồi vậy. Ai ngờ người đàn ông mình trần kia cầm vũ khí, lại đâm thẳng vào ngực con vật trông giống dê kia một cách hết sức chuẩn xác, máu tươi lập tức phun trào ra, rõ ràng là đã đâm thẳng vào tim con vật rồi. Con vật bị mấy người Kukuer giữ chặt tứ chi, không thể giãy giụa, co rút mấy cái rồi lăn ra chết. Nhìn cảnh tượng đó, Trác Mộc Cường Ba sực nhớ ra, đây hình như là một màn pháp sự, ngày trước ở Tây Tạng , gã đã từng thấy cảnh tượng tương tự như vậy rồi. Lẽ nào, giữa các nền văn inh nguyên thủy, đúng là có sự tương đồng đến mức đáng ngạc nhiên như vậy hay sao? Đây rốt cuộc là chuyện gì? Trác Mộc Cường Ba không kìm được, liền hỏi: “Không phải là phóng sinh à? Sao lại…”

Babatou giải thích: “Phóng sinh theo cách hiểu của chúng tôi, là giải thoát triệt để. Trước tiên là mở ra hố sinh mệnh của con lạc đà không bướu đó, tức là tim, sau đó là cắt đứt động mạch, lột da rồi pha thành miếng nhỏ, đặt vào các đồ đựng khác nhau, dựa theo vị trí trên cơ thể mà phân thành đẳng cấp một cách nghiêm khắc, rồi dùng ba thanh gỗ bắc thảnh giá để nấu lên, đêm nay sẽ có nghi thức mời khách, mọi người sẽ hát bài ca cảm tạ với anh. Anh xem, mọi người đều đến cả rồi kìa.”

Người Kukuer vừa ca vừa múa, vô cùng náo nhiệt, bọn họ mang những món ngon nhất ra khoản đãi ân nhân của thủ lĩnh, dùng những lễ nghi long trọng nhất để chúc phúc cho Trác Mộc Cường Ba.

Tối hôm ấy mọi người vừa uống rượu, vừa nghe nhạc nhảy múa, Nanh Sắc rót mười bát rượu, chìa tay ra với Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba chỉ cười nhạt, mặt không đổi sắc uống một mạch hết cả mười bát rượu ấy, làm Nanh Sắc lấy làm kinh ngạc. Anh ta vốn định nói, mỗi người năm bát, vừa để bày tỏ lòng hữu hảo, đồng thời cũng có ý phân cao thấp thêm lần nữa, chẳng ngờ Trác Mộc Cường Ba lại một mình uống cả mười bát, hơn nữa lại còn điềm nhiên như không, bản lĩnh này, anh ta tự biết là mình không bì nổi. Mà người Kukuer thì cứ ai uống được rượu tức là anh hùng, Trác Mộc Cường Ba tự nhiên lại được vẻ vang thêm lần nữa. Babatou rót rượu cho gã, trong mắt cũng ánh lên ý đồ riêng. Song họ nào có biết, chưa tính đến chuyện Trác Mộc Cường Ba là người tộc Tạng, chỉ riêng việc gã bao năm lăn lộn trên thương trường thôi, mười bát rượu đó đương nhiên chỉ là chuyện nhỏ. Lát sau, trên bàn tiệc, Nanh Sắc vô cùng thành khẩn mời bọn Trác Mộc Cường Ba ở lại bộ lạc thêm mấy ngày, gọi bọn gã là những vị khách tôn quý nhất của người Kukuer, Babatou cũng tỏ ý đó, nhưng Trác Mộc Cường Ba đều khéo léo khước từ.

“Tại sao lại đi gấp như vậy?” Không chỉ có Babatou ỉu xìu thất vọng, đến cả Trương Lập và Nhạc Dương cũng xị mặt ra.

Trác Mộc Cường Ba thành thực trả lời: “Thực ra mục đích chuyến đi lần này của chúng tôi, chỉ là băng qua khu rừng này, để lấy kinh nghiệm cho đợt huấn luyện sinh tồn nơi hoang dã mà chúng tôi tham gia thôi. Còn việc thành ra nông nỗi này, đến cả chúng tôi cũng chưa từng nghĩ tới. Thời gian định ra ban đầu chỉ có mười ngày, giờ đã qua mất một nửa, chúng tôi lại lỡ mất hai ngày ở đây nữa, giờ vết thương đã lành rồi, chúng tôi cần phải nhanh chóng lên đường mới bổ sung lại được thời gian bị chậm trễ.”

Nhạc Dương đứng bên cạnh nhắc nhở: “Nhưng mà, quân du kích đang rình rập xung quanh lãnh địa của người Kukuer, chỉ đợi chúng ta ra khỏi đây thôi đấy.”

Trương Lập cũng nói: “Đúng đấy, lần này chẳng biết là chúng ta tiếp nhận huấn luyện kiểu gì nữa, bị quân du kích và bọn buôn ma túy bắt tay đuổi đánh, đừng nói là chúng ta, dù là bộ đội đặc chủng chính quy chăng nữa, cũng chưa chắc mà bình yên rút lui được đâu. Muốn băng rừng trong mười ngày hả, tôi thấy chẳng thể nào đâu, hay là chúng ta cứ ở đây, chờ cho hết mười ngày, chắc là họ sẽ tới tìm chúng ta thôi, nếu không thì lúc ấy liên lạc với họ cũng được, coi như chúng ta lại thất bại lần nữa có sao đâu.”

Trác Mộc Cường Ba vừa nhíu mày, Ba Tang đã cười gằn lạnh lẽo: “Hừ, đây mà giống lời của sĩ quan đặc cảnh nói ra à. Mục đích của đợt huấn luyện này, chính là để chúng ta đối mặt với các hoàn cảnh nguy hiểm, cũng bao gồm cả chuyện chiến đấu với kẻ địch, bỏ cuộc như vậy, không chỉ đại diện cho một lần thất bại, mà còn nói lên rằng tất cả các nội dung huấn luyện đều uổng phí cả, rằng chúng ta căn bản không có cơ hội để đối đầu với những thách thức khó hơn nữa, cậu có hiểu không?”

Trương Lập phản bác: “Nhưng giờ cả vũ khí cơ bản chúng ta cũng chẳng có, chúng ta lấy gì để chiến đấu với đám quân du kích đó đây? Lần này bị thương, còn có người Kukuer giúp chúng ta, vậy còn lần sau thì sao? Lần sau anh hay Cường Ba thiếu gia hoặc người khác, bao gồm cả tôi và Nhạc Dương, chúng ta ngã xuống lần nữa, liệu còn may mắn như lần này nữa không?”

Babatou lúng túng nhìn bốn vị khách, sao họ càng nói càng hăng, chừng như sắp đánh nhau tới nơi thế kia. Trác Mộc Cường Ba cất tiếng: “Được rồi, được rồi. Không có gì phải tranh luận nữa, lấy ít thắng nhiều, xoay chuyển tình thế, tay không chiến đấu giữa vòng hỏa lực trùng trùng của kẻ địch, đây cũng là một trong các hạng mục huấn luyện của chúng ta. Trước giờ chúng ta vẫn được huấn luyện kỹ năng sinh tồn nơi hoang dã, chính là phải dựa vào đôi tay này tạo ra hoàn cảnh thích hợp cho mình sinh tồn ở môi trường hoàn toàn xa lạ. Không thể nào vác vũ khí đi khắp nơi được, chúng ta phải dựa vào… cái đầu mình nhiều hơn nữa chứ. Lần này tình thế bất lợi đối với chúng ta, ai bảo chúng ta phải so vũ khí nhiều với quân du kích đâu chứ? The tôi được biết, bộ tộc Kukuer, chẳng phải còn có lối đi sau có thể ra vào hay sao?” Câu cuối cùng, gã cố ý nói bằng tiếng Anh cho Babatou nghe.

Babatou lắp bắp thốt lên: “Cái đó, thì đúng rồi, nhưng mà chỗ ấy, chỗ ấy làm sao đi qua được chứ? Chỗ ấy đã được gọi là cấm địa yên nghỉ của Ah puch đấy.”

Nhạc Dương nói: “Thật sự phải đi đường đó sao? Đấy hình như là khu rừng chết mà hình như cả người Kukuer cũng bị cấm đi vào cơ mà?”

Trác Mộc Cường Ba hỏi: “So với rừng rậm nguyên sinh có quân du kích vũ trang lập trạm canh, cậu thấy lối nào nguy hiểm hơn?”

Ba Tang nói: “Đều rất nguy hiểm, theo những ghi chép lịch sử của người Kukuer, từ thế kỷ mười sáu, người Tây Ban Nha, nhà khảo cổ người Đức, thám hiểm gia người Mỹ, bao nhiêu người bước vào khu rừng đó mà không một ai trở ra cả, đó à rừng Than Thở, được mệnh danh là mộ phần của các nhà thám hiểm. Lần cuối cùng là vào năm 1965, nhà thám hiểm người Anh Malaer đã đặt dấu chấm hết cho cuộc đời mình ở trong khu rừng ấy.”

Trác Mộc Cường Ba vỗ vỗ lên vai Ba Tang cổ vũ tinh thần: “Chẳng sao cả. Đừng quên bây giờ là thế kỷ hai mốt, giờ đây khoa học kỹ thuật mỗi ngày mỗi khác, người năm một chín sáu mấy có thể không qua được, nhưng cũng không chứng tỏ rằng chúng ta không vượt qua được.”

Ba Tang liếc xéo Trương Lập và Nhạc Dương: “Tôi thì chẳng sao cả.”

Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Trương Lập, Trương Lập cúi đầu không nói, lại quay sang nhìn Nhạc Dương, Nhạc Dương nghĩ giây lát, rồi đáp: “Chết thì chết, ai bảo anh là đội trưởng.” Trác Mộc Cường Ba mỉm cười, nói: “Được, cứ quyết định như vậy đi.”

Nanh Sắc nhờ em gái phiên dịch, nói: “Nếu mọi người đã quyết ý muốn đi, chúng tôi cũng không thể miễn cưỡng, đêm nay chúng ta cứ uống cho thoải mái no say đi, thần Chac sẽ bảo vệ cho các bạn.”

“Nào, cạn ly!”



Chú thích:

(1) Khương mẫu: Một điệu múa truyền thống của người Tạng, các từ “nhảy thần”, “nhảy đại thần”, “nhảy nợ” đều chỉ loại hình nghệ thuật này. Các phái khác nhau của Phật giáo Tạng truyền đều có nội dung “khương mẫu” của riêng mình, tuy có khác nhau, nhưng nội dung chủ yếu đều phản ánh tâm lý sùng bái tự nhiên của người cổ đại.

(2) Hay còn gọi là body sushi, là cách bày món ăn truyền thống của Nhật Bản, trực tiếp bày đồ ăn lên mình một geisha khỏa thân.
Mật Mã Tây Tạng - tập I & II
Lời mở đầu
Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5
Chương 5 (tt)
Chương 6
Chương 6 (tt)
Chương 7
Chương 7 (tt)
Tập II - Lời mở đầu
CHƯƠNG 1
CHƯƠNG 2
CHƯƠNG 3
CHƯƠNG 4
CHƯƠNG 5
CHƯƠNG 5 (tt)
CHƯƠNG 6
CHƯƠNG 6 (tt)
CHƯƠNG 7
CHƯƠNG 7(tt)
CHƯƠNG 8
CHƯƠNG 8 (tt)
CHƯƠNG 9
CHƯƠNG 9 (tt)
CHƯƠNG 10
CHƯƠNG 10 (tt)
CHƯƠNG 11
CHƯƠNG 12
CHƯƠNG 13
CHƯƠNG 14