watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Mật Mã Tây Tạng - tập I & II-CHƯƠNG 5 - tác giả Hà Mã Hà Mã

Hà Mã

CHƯƠNG 5

Tác giả: Hà Mã

Trác Mộc Cường Ba tưởng tượng, nếu mình và Đường Mẫn có thể cùng nhìn thấy cảnh tượng này, vậy thì cuộc đời chẳng còn gì phải nuối tiếc nữa; Trương Lập chợt nhớ tới một câu thơ của cổ nhân: “ Không dám nói cao giọng, sợ người trên trời nghe thấy”, anh cảm thấy câu thơ này là thích hợp nhất để thể hiện tâm trạng của mình lúc này; Kha Khắc và Hồ Dương cũng đều chìm đắm trong tình cảm pha trộn giữa tự ti và chấn động .



Khiêu vũ với sói



Trác Mộc Cường Ba điệu bộ gần như là thành khẩn, chậm rãi bước tới trước mặt sói xám, khi cách nó còn chưa đầy một mét, gã mới dừng lại. Gã quỳ một chân xuống, tay phải đặt lên ngực, gương mặt nở nụ cười thanh thiết: “Không có ác ý đâu, là bạn. Ta là bạn của các ngươi.”



Con sói xám nhe răng gầm gừ, âm thanh ấy dường như khiến cả bộ lông nó rung lên bần bật, Trác Mộc Cường Ba vẫn nhìn chằm chằm vào nó, ánh mắt toát lên lên một tình cảm nhân từ như người mẹ nhìn con, đồng thời vẫn giữ tư thế quỳ một chân ấy, không tiến thêm bước nào nữa, cũng không có động tác gì khác. Một người một sói, nhìn nhau chằm chằm như hai bức tượng, hơi thở phả ra miệng tạo thành những luồng sương trắng trong không khí, đan chéo vào nhau. Trác Mộc Cường Ba đọc được trong mắt con sói một tình cảm lạ kỳ, phảng phất như có sợ sệt, lại có gì đó uy hiếm, đồng thời cũng mong muốn tiến lại gần, gã thầm nhủ: “Mày muốn nói gì với tao hả? Anh bạn? Vừa mong muốn lại vừa sợ hãi tiếp cận con người chăng? Tao biết, súng đạn của con người đã khiến chúng mày không sao tin tưởng chúng tao được nữa, nhưng mà, hãy tin tao đi, tao thật lòng muốn làm bạn với chúng mày mà.”



Lưng Trương Lập ướt đẫm mồ hôi, thời gian tưởng chừng như đã đông cứng lại, từng giây từng phút sao mà chậm đến thế, con sói kia chỉ cần chồm đầu lên một cái, là có thể cắn đứt cổ Trác Mộc Cường Ba ngay tức khắc, nhìn điệu bộ không hữu hảo kia của nó, dường nhưu cũng đang chuẩn bị làm như vậy cũng nên, còn Trác Mộc Cường Ba thì có vẻ vẫn hoàn toàn không hề để tâm, Trương Lập xưa nay chưa từng thấy nét mặt Trác Mộc Cường Ba hòa nhã đến thế. Gã là ông chủ của một công ty lớn, thân thể cao lớn sắc mặt lại nghiêm nghị, dường như lại gần sói mới biến thành một người bình thường, mong mỏi có bạn, mong mỏi được giao lưu trao đổi, mong mỏi được chia sẻ nỗi cô đơn trong lòng người khác. Trương Lập không hiểu rốt cuộc đây là chuyện gì nữa, mọi chuyện xảy ra ở bốn băng nguyên này đều như trong một giấc mộng vậy.



Trước ánh mắt thân thiện mà chăm chú của Trác Mộc Cường Ba, thái độ của con sói xám dường như cũng từ từ thay đổi, tiếng gầm gừ dần khẽ đi, túm lông cổ xù lên từ từ xẹp xuống, đôi vuốt sắc như sắt thép kia cũng đã rút lên khỏi mặt đất đóng băng, ánh mắt hung hãn dần trở nên hoài nghi, bắt đầu nghiêng nghiêng nhìn Trác Mộc Cường Ba, dò xét gã động vật hai chân không sợ cái chết uy hiếp đang ở trước mặt nó, thỉnh thoảng lại phát ra một hai tiếng gầm ghè phẫn nộ.



Lúc này con soi thứ hai từ sau lưng Trác Mộc Cường Ba đi tới, Trương Lập không nhẫn nhịn được nữa, lớn tiếng hét lên: “Mau chạy đi! Cường Ba thiếu gia!” Trác Mộc Cường Ba từ từ quay đầu lại, nhưng không hề có bất cứ hành động nào khác. Tiếng hét của Trương Lập ngược lại còn khiến con sói phía trước Trác Mộc Cường Ba giật bắn mình, con quái liền rụt về phía sau, ngay lập tức cong lưng,lông dựng ngược lên nhìn Trương Lập đồng thời phát ra những tiếng gầm ghè đầy uy hiếp, mồ hôi của anh ta đã túa ra ướt đẫm cả đồ lót bên trong.



Trác Mộc Cường Ba nói: “Không sao, không cần phải sợ. Săn bắt là khả năng sinh tồn của chúng, trừ phi con sói đã cực đói, hoặc giả anh uy hiếp gì nó. Còn thông thường bọn chúng cũng không nhất thiết phải tiêu phí sức lực để cắt giết vô vị đâu. Chỉ cần anh không hét toáng lên với nó như thế, thái độ thù địch của chúng với chúng ta cũng sẽ từ từ biến mất. Thậm chí anh còn có thể chầm chậm bước tới gần nó nữa đấy.



Con sói phía sau lại gần Trác Mộc Cường Ba, ngẩng đầu lên, quẳng thứ gì đó xuống trước mặt gã. Trác Mộc Cường Ba cúi nhìn, thì ra là một mảnh thép đã bị đốt đen thui, bên trên vẫn lờ mờ còn sót lại màu sơn ngụy trang. Trác Mộc Cường Ba cầm mảnh sắt lên, giơ lại gần quan sát, “Đây là...!” Gã đã nhận ra, đây chính là mảnh vụn bắn ra từ chiếc xe việt dã của họ. Gã gật đầu với con sói: “Thì ra sớm đã chú ý tới chúng ta rồi à. Không sai, đây là đồ của chúng tao.”



Con sói kia vẫn ngẩng đầu lên nhìn gã, hoàn toàn không hiểu ý gã, Trác Mộc Cường Ba nghĩ ngợi giây lát, rồi nhét mảnh sắt vụn vào túi mình, vỗ vỗ vào đấy rồi gật gật đầu. Chính bản thân gã cũng không hiểu mình làm như vậy là có dụng ý gì, chỉ hy vọng con sói sẽ hiểu được ý tứ mình muốn biểu đạt. Con sói kia cơ hồ đã hiểu được ý gã, ngước mắt nhìn đồng loại, hai con sói cùng phát ra những tiếng “gừ gừ, gừ gừ”, Trác Mộc Cường Ba cũng không biết ý bọn chúng là gì nữa.



Trương Lập giờ mới cảm thấy có lẽ hai con sói thật sự không có ác ý, anh cẩn thận nhấc một chân lên, hỏi Trác Mộc Cường Ba: “Tôi có thể qua đó được không?”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Chậm rãi thôi”. Trương Lập cẩn thận di chuyển. Lúc này, một trong hai con sói đột nhiên ngửa đầu, phát ra tiếng hú dài chỉ có vào những đêm trăng tròn, con sói còn lại hòa theo tiếng hú, âm thanh xa xưa ấy vang vọng mãi hồi lâu trên vùng băng nguyên cằn cỗi, làm Trương Lập suýt nữa thì giật mình ngã nhào.

Hai con sói ngừng hú, nhưng phía xa xa vẳng đến một tiếng sói tru khác, Trác Mộc Cường Ba đã hiểu, thì ra bọn chúng đang trao đổi với nhau từ xa. Trương Lập cuối cùng cũng tới được bên cạnh Trác Mộc Cường Ba, thấy hai con sói vẫn chòng chọc nhìn mình đầy vẻ thù địch, muốn học theo Trác Mộc Cường Ba giao lưu hữu nghị một chút nhưng không bắt chước được, chỉ biết vây vẫy tay với bọn sói: “ Hì… chào…chào.”

Trác Mộc Cường Ba từ đầu vẫn quan sát hai con sói bên cạnh, đột nhiên hai mắt sững sờ, như choàng tỉnh giấc: “Tôi hiểu rồi!”

Trương Lập vốn đã ở trong trạng thái căng thẳng cao độ, Trác Mộc Cường Ba reo lên một tiếng như vậy, làm anh cảm giác như trái tim mình sắp nhảy vọt ra đường miệng. Anh vuốt vuốt ngực rồi nói: “Cường Ba… Cường Ba thiếu gia, anh hiểu được chuyện gì vậy?”

Trác Mộc Cường Ba chậm rãi nói: “ Bọn chúng, cũng không phải là cư dân của vùng băng nguyên này.”

“Hả?” Trương Lập đưa mắt nhìn, cảm thấy bọn sói này cũng không khác gì với bọn sói đã thấy ở nông trường. Chỉ nghe Trác Mộc Cường Ba giải thích: “Nơi này trời đông đất lạnh, gió tuyết mù mịt, còn bọn chúng, anh nhìn bọn chúng mà xem, lông măng trên mình chưa mọc hết, vẫn còn giữ lớp lông xơ sẫm màu. Cũng có nghĩa là, bọn chúng vốn sống ở nơi khí hậu tương đối ấm áp, không biết vì nguyên nhân gì mà tới vùng đồng hoang xa lạ này. Bọn chúng đuổi con gấu ngựa kia vượt qua Khả Khả Tây Lý, có lẽ chính là muốn trở về nơi sinh sống trước đây cũng nên!” Trác Mộc Cướng Ba kích động nói, “Tao hiểu rồi, tao hiểu rồi! Chúng mày, chúng mày muốn tao dùng xe đưa về nhà! Bọn mày cũng biết con quái vật bốn bánh bọc sắt kia là phương tiện giao thông rất tốt đúng không? Có phải vậy không?

Trác Mộc Cường Ba hoan hỉ mừng rỡ, hỏi xong mới nhận ra, lũ sói căn bản không hiểu gã đang nói gì, nhưng chuyện phức tạp như vậy, muốn gã dùng động tác để biểu thị lại thì thật khó quá; đồng thời, Trác Mộc Cường Ba cũng nhớ ra xe của bọn gã sớm đã bị thiêu thành đống sắt vụn, bọn gã còn đang phải khổ sở vùng vẫy cầu sinh giữa chốn này, nói không chừng còn phải nhờ những người bạn sói này giúp đỡ ấy chứ, nói gì đến chuyện giúp đỡ bọn chúng. Nghĩ tới đây, sắc mặt Trác Mộc Cường Ba lại sa sầm xuống, gã trìu mến nhìn con sói gầy gò nhất, lẩm bẩm nói với Trương Lập: “Anh chàng đáng thương, anh xem, bốn chân nó đều đã lạnh đến run lên cầm cập rồi kìa.”

“Ừm,” Trương Lập uể oải đáp một tiếng, trong bụng thầm nhủ: “Anh không thấy à? Hai chân tôi cũng đang run lên cầm cập đây này. “Lúc nãy mồ hôi lạnh ướt đẫm cả người, giờ gió rét thổi tới, Trương Lập chỉ thấy toàn thân mình từ trên xuống dưới như bị phủ một lớp băng vậy.

“Soạt”, Trác Mộc Cường Ba đột nhiên đứng dậy rút thanh đao Tây Tạng của gã ra, hai con sói cùng nhảy bật về phía sau, lập tức ở trong trạng thái chuẩn bị chiến đấu. Trương Lập vẫn còn băn khoăn, Cường Ba thiếu gia này bị làm sao vậy? Nói trở mặt là trở mặt luôn à? Muốn tấn công bất ngờ cũng phải có ám hiệu ám hiếc gì gì đó chứ. Nhưng anh chợt nhận ra, Trác Mộc Cường Ba đang cầm đao, bước lại phía mình.

Trương Lập kinh hãi thốt: “Cường…Cường Ba thiếu gia, ông…ông chủ Trác! Anh, anh định làm gì vậy?

Trác Mộc Cường Ba cúi người, kéo vạt áo khoác bằng da của Trương Lập lên, nói với anh: “Chúng ta…cần phải giúp chúng!” nói xong, liền vung đao, cắt ra một mảng lớn từ chiếc áo da của Trương Lập.

Tuy áo da của ba người đều do Trác Mộc Cường Ba cung cấp, nhưng lại hơi khác nhau một chút, chiếc Đường Mẫn mặc là lông cáo bạc, chiếc của Trác Mộc Cường Ba là lông báo tuyết, giờ hai chiếc này đều đã quấn lên người Đường Mẫn, chỉ còn lại chiếc áo khoác da dê non trên người Trương Lập. Da dê non cả lông là chế phẩm giữ ấm cực tốt nhưng rất hiếm có người còn làm, dù sao thì dùng da dê non làm áo khoác cũng là chuyện vô cùng xa xỉ, trước kia chỉ có thổ ty mới được hưởng đãi ngộ như vậy mà thôi.

Trác Mộc Cường Ba cho đao vào vỏ, cầm mảnh da trên tay, khẽ áp mặt lên lớp lông mềm mại, rồi giơ ra phía trước, nói: “Đây, ấm lắm, tao không giúp chúng mày được gì hơn nữa đâu, chỉ có cái này thôi, nhận đi!” Hai con sói đưa mắt nhìn nhau, con to hơn cảnh giác tiến lại gần, Trác Mộc Cường Ba không ngừng gật đầu nhè nhẹ với nó. Nó khẽ vươn đầu lên thăm dò, rồi đột nhiên ngoạm lấy mảnh da, chạy vọt lại chỗ đồng bọn. Con sói kia cũng học theo Trác Mộc Cường Ba, áp mặt vào tấm da dê non, mùi vị quen thuộc và cảm giác ấm áp trên miếng da khiến nó rên lên những tiếng “ư ử” dễ chịu.

Lúc này con sói thứ ba cũng từ đằng xa chạy lại, ba con sói lập tức chụm đầu lại thành hình chữ “phẩm”, chốc chốc lại có một hai con ngoảnh đầu quan sát Trác Mộc Cường Ba. Trương Lập ngẩn người ra nói: “Anh xem kìa, bọn chúng cứ như đang mở hội nghị thảo luận gì vậy. chuyện này thật không thể nào tin được, hoàn toàn không hề giống với động vật hoang dã trong tưởng tượng của tôi chút nào”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Ừm, sói vốn là loài động vật quần cư, không ai đoán được những thể sống hoang dã ấy rốt cuộc có chỉ số thông minh là bao nhiêu. Có điều ba con sói này đúng là đã làm tôi rất kinh ngạc, bọn chúng…bọn chúng cứ như thể có năng lực tư duy giống con người vậy, ba đứa chúng tụ hợp lại với nhau, chính là thành một tiểu đội có thể độc lập tác chiến. Lũ sói trước đây tôi từng gặp chưa có con nào giống như ba con này. Cái đầu của bọn chúng cũng khác hẳn với bọn sói thông thường đấy chứ”.

Trương Lập thốt lên: “Ồ, thì ra Cương Ba thiếu gia trước đây thường hay gặp phải sói. Chẳng trách anh nhìn thấy bọn này mà không hề sợ hãi chút nào”.

Trác Mộc Cường Ba nghiêm nghị gật đầu: “Đúng vậy. Tôi có kể với anh rồi, hồi trước tôi thích nói chuyện với động vật. Phải rồi, tôi quên mất không nói với anh, quê tôi đa phần đều là núi cao rừng sâu, thực ra là chó ở đấy ít lắm, các bạn nhỏ hay trò chuyện với tôi hầu hết đều là sói cả. Lẽ nào anh quên rồi? Bộ tộc Qua Ba sống chung với sói, chính là ở phía Tây quê nhà tôi còn gì.”

Lúc này, một trong ba con sói đã quay đầu chạy ngược về phía Bắc, chỉ lát sau, nó ngậm một khúc xương quay lại, tới trước mặt Trác Mộc Cường Ba, ngước lên nhìn gã. Trương Lập kinh ngạc hỏi: “ Đây… đây là ý gì vậy?”

Trác Mộc Cường Ba mỉm cười rồi lại quỳ một chân xuống, dịu dàng nói: “Làm quà trao đổi phải không? Cám ơn chú mày.” Gã không hề sợ hãi, đưa tay cầm lấy khúc xương cho vào túi áo trước ngực. Con sói xám lại gầm gừ phát ra những tiếng khe khẽ, nhưng lần này thì cả Trương Lập cũng nghe ra được, trong tiếng kêu của con sói ít nhiều đã hàm chứa chút gì đó đắc ý, hay có thể nói, đó là tiếng cười của sói xám cũng được, anh cũng không nén nổi một nụ cười. Trương Lập cảm nhận được một cách sâu sắc, giữa Trác Mộc Cường Ba và sói, có tình cảm kiểu như vừa gặp đã quen, đồng thời anh cũng phát hiện thêm một điều nữa. anh chàng Trác Mộc Cường Ba lạnh lùng đến độ khiến người ta khó mà tiếp cận này, không ngờ lại sẵn sàng đánh bạn với bầy sói. “ Chỉ vì hồi nhỏ đã là bạn hay sao? Chắc là không chỉ có thế thôi chứ?” Trương Lập lặng lẽ suy tư.

Trác Mộc Cường Ba nhận xong lễ vật, liền chậm rãi chìa tay ra, định vuốt ve đầu con sói xám, con sói nheo nheo mắt, dường như cũng không hề có ý cự tuyệt, đúng lúc bàn tay Trác Mộc Cường Ba sắp chạm vào long nó, con sói xám trước mặt học bỗng nhiên dựng đứng hai tai lên, dường như đang lắng nghe gì đó, Trác Mộc Cường ba cũng rụt tay lại. Con sói lại ngẩng lên, miệng gầm gừ những tiếng “khọt khẹt”, trong mặt toát lên vẻ tha thiết rồi tựa như chào tạm biệt gã, quay đầu bước đi, được hai bước lại ngoảnh đầu về phía sau nhìn gã, rồi cùng với đồng loại cắp miếng da kia, đuổi theo hướng chạy của con gấu ngựa khi nãy.

Trương Lập nói: “Chuyện gì vậy? Nói đi là đi luôn hả?”
Trác Mộc Cường Ba nhìn theo bóng ba anh em nhà sói xám chạy theo hướng con gấu ngựa kia biến mất, rồi cũng dần khuất khỏi tầm mắt, chợt dâng lên cảm giác hụt hẫng pha lẫn thương cảm, lẩm bẩm nói: “Không biết nữa, có lẽ là còn chưa được chúng tin tưởng.” Gã thầm nhủ: “Chỉ còn biết chúc chúng mày lên đường bình an thôi, bạn của tao ạ!”

Trương Lập đột nhiên reo lên: “Anh nghe xem!”

Vùng hoang nguyên mênh mông vang lên những âm thanh quen thuộc, là âm thanh do nền văn minh nhân loại sáng tạo ra. Trác Mộc Cường Ba thoáng giật mình, trầm giọng nói: “Là tiếng động cơ xe hơi. Chúng ta bị phát hiện rồi à?”

Nhưng Trương Lập lại phấn khích nói: “Không phải! Không phải tiếng động cơ xe Hummer, hơn nữa cũng không chỉ có một chiếc, chúng ta được cứu rồi!” hai mắt anh giờ đã đỏ lên.

Trác Mộc Cường Ba áy náy nhìn theo hướng đi của ba anh em nhà sói xám lần nữa, thấp giọng nói: “Thì ra là như vậy hả.”
Một đội xe gồm ba chiếc Mitsubishi xuất hiện trong tầm nhìn của Trương Lập và Trác Mộc Cường Ba, quốc kỳ Trung Quốc bay lấp lóa dưới ánh mặt trời, hai người liền ra sức vẫy tay, lớn tiếng hò hét, Trương Lập còn cởi luôn chiếc áo khoác bị cắt mất quá nửa, vùng vẫy kêu gọi.


Tiểu đội trưởng La Văn Hổ nói vào bộ đàm liên lạc: “Phải, đây là tiểu đội 1, tôi là chỉ huy. Chúng tôi phát hiện ra ba người gặp nạn ở địa điểm cách hổ Khả Khả Tây Lý mười ki lô mét về phía Bắc, trong đó có một cô gái bệnh rất nặng. Phải, tôi chuẩn bị đưa họ trở về đại bản doanh, vâng.”

Bên bờ hồ Khả Khả Tây Lý, lá cờ của đại bản doanh viết rất rõ rành “Đội Khảo sát Khoa học Khả Khả Tây Lý, Trung Quốc”. Trác Mộc Cường Ba và Trương Lập được kiểm tra sơ bộ, rồi ở lại trong lán bạt, còn Đường Mẫn thì đưa sang lán y tế để nhân viên y vụ của đội khảo sát thăm bệnh. Một lúc sau, bên ngoài có người nói: “Đội trưởng trở về rồi.” Một người vén tấm màn che cửa đi vào.

Người này râu ria xồm xoàm, giống như dưới mắt treo ngược một cây chổi lau nhà vậy, mũi ưng mắt ó, nhìn điệu bộ như hung thần ác sát. Anh ta phủi những mạt băng dính trên bộ râu rậm rạp, cất tiếng hỏi: “Các anh… săn trộm phỏng?”

Trác Mộc Cường Ba và Trương Lập cùng lắc đầu. “Du lịch thám hiểm?” lại lắc đầu.

“ Lẽ nào cũng giống như chúng tôi, đến khảo sát khoa học?” vẫn lắc đầu. “Vậy các anh đến đây làm quái gì?” giọng nói của anh chàng râu rậm đã cao thêm tám độ.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Bọn tôi tới tìm một trạm cứu hộ, gọi là… là trạm cứu hộ Lôi Khác Tháp Cách.”

“Hả?” tay đội trưởng ngạc nhiên thốt lên, “Các anh từ đâu tới vậy?”

Trương Lập thấp giọng đáp: “Từ Trị Đa đi về phía Tây…”

“Điên rồ!” Tay đội trưởng đột nhiên giận dữ quát mắng. “Hai anh không có bản đồ chắc? Từ Trị Đa đi về phía Tây! Hai người các anh trông cũng cao lớn khỏe mạnh, thế mà đầu óc bã đậu! Ba người một cái xe, vậy mà muốn vượt qua Khả Khả Tây Lý hử! Các người nghĩ đây là chỗ nào chứ? Tưởng là công viên chác! Không chết là may phúc bảy mươi đời nhà các người rồi đấy!” Tay đội trưởng giật tấm bản đồ tỉnh Thanh Hải trên cách bạt xuống, trải ra trước mặt hai người bọn Trác Mộc Cường Ba, ấn ngón tay vạch một đường, rồi gõ mạnh xuống, “Cả con đường lớn thế này, các anh mù hết hay sao rồi mà nhìn không ra? Từ Trị Đa xuất phát, dọc theo đường sắt Thanh Tạng hay đường quốc lộ Thanh Tạng, đều rất dễ dàng tới được Cách Nhĩ Mộc, ở đó có trạm bảo hộ tự nhiên vùng ngoại biên Khả Khả Tây Lý, tức là trạm kiểm lâm Cách Nhĩ Mộc, đến được đây rồi, tự nhiên sẽ có người chỉ đường cho các anh đường tới Lôi Khắc Tháp Cách thôi. Vậy mà các anh lại đi vắt ngang một đường như vầy! Nói cho hai anh biết, đến cả bọn tôi cũng không dám đi liều như vậy đâu, ai dẫn đường thế? Là ai dẫn đường hả?”

Trác Mộc Cường Ba chừng này tuổi đầu, vẫn còn chưa từng bị người nào mắng nhiếc nghiêm khắc như vậy, có điều lần này mạng của gã và Trương Lập là do người ta cứu về, gã chỉ còn biết cố nhịn mà nuốt cục tức vào trong, chỉ vào lều y tế. “A! Là con nha đầu kia!” tay đội trưởng đã tức lại càng tức, “hai người đàn ông, lại đi nghe một cô nhóc hả? Làm cái trò gì vậy!”

Trương Lập lí nhí: “Cô ấy nói đã từng tới…”

“Cô ta nói cô ta đến rồi chứ gì! Ai lái xe hả? Có phải anh không!” Bị tay đội trưởng chỉ vào, Trương Lập liền cúi gằm mặt xuống. “Anh có động não tí nào không thế? Anh là lái xe, thế nào thì cũng phải tìm hiểu địa hình địa đồ một chút chứ, ai lại đi nghe một con nhóc bịa đặt bao giờ, chẳng lẽ anh không biết, mạng của hai người bọn họ, toàn bộ đều trên vai lái xe như anh đây sao!” rồi lại tiếp một tràng chửi bới không tiếc lời nữa.

“Đi, đi với tôi tới chỗ bác sĩ!” Tay đội trưởng lại hằn học lườm Trương Lập một cái. “Xem xem chuyện tốt anh làm thế nào!”

Bác sĩ Ba Căn là người Mông Cổ, theo đội khảo sát khoa học đã năm năm ròng, thấy đội trưởng cước vào, liền khẽ gọi: “Đội trưởng Hồ Dương.”

“Ừm, tình hình thế nào?”

“Không tốt lắm, sốt cao bốn mươi độ, hô hấp và mạch đập đều rất gấp, mặt mũi và tứ chi đều có phù thũng dạng nhẹ. Xem ra là sau khi bị bệnh, thân thể không điều hòa mà dẫn tới phản ứng cao nguyên. Cô ta cũng coi như là may mắn, nếu kéo dài thêm ba bốn tiếng đồng hồ nữa thì chắc chắn không cứu nổi. Chúng ta ở đây thiếu các thiết bị cần thiết để chữa trị, hơn nữa nơi đây lại quá cao so với mực nước biển, theo tôi thì cần phải lập tức đưa về trạm cứu hộ. “Ba Căn lắc cái đầu tròn bóng, đôi mắt ti hí đeo cặp kính tròn nheo lại thành một đường chỉ mảnh, nét mặt vô cùng lo lắng.

“Bác sĩ Ba Căn, ông tới xem thử coi, Mã Lập Vân và Trương Thường Quý nôn ọe dữ lắm. “Bên ngoài lại có người đang gọi lớn.


Sáo xương


Bác sĩ Ba Căn từ bên ngoài trở vào, nói: “Đội trưởng, hai anh chàng kia cũng bị phản ứng cao nguyên rồi, uống thuốc hình như không hiệu quả gì.”

Đội trưởng Hồ Dương đanh mặt, nghĩ ngợi giây lát: “Được, cứ vậy đi, lập tức phái một xe đưa ba người bọn họ đến trạm cứu hộ. Tiểu Lưu ở lại đây là được rồi, anh đưa ba người bọn họ về, đi đường cẩn thận đấy.”

Tiểu Lưu là nhân viên tình nguyện của đội khảo sát khoa học, nghiên cứu sinh Đai học Y, dọc đường luôn theo sát bác sĩ Ba Căn tìm hiểu phương pháp cứu hộ trên cao nguyên, Ba Căn đi rồi thì chỉ còn lại mình anh ta là nhân viên y vụ ở đây. Ba Căn nói: “Được thôi, để tôi dặn dò Tiểu Lưu một chút đã.”

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tôi cũng muốn đi.”

Hồ Dương ngoác miệng ta mắng: “Anh không bị bệnh chẳng bị thương, thân thể cường tráng như bò mộng ấy, anh đi hả! Đi làm cái khỉ gì! Một xe của chúng tôi chỉ chở được bốn người, cộng thêm lái xe nữa là đã quá lắm rồi, trên xe chỉ còn phải chất thực phẩm và xăng dự trữ nữa. Anh đi thì ngồi chỗ nào? Nóc xe hả! Hai người các anh, ngoan ngoãn đợi ở đây cho tôi!”

Trác Mộc Cường Ba không cam tâm: “Tôi… tôi có thể lái xe mà.”

Hồ Dương trợn tròn mắt lên, hỏi: “Anh biết đường hử?” Anh ta lườm Trác Mộc Cường Ba và Trương Lập đang lúng túng chẳng biết làm sao, rồi lại nói: “Đợi một thời gian nữa, đội xe tiếp tế về thì các anh đi theo luôn.”

Hồ Dương vừa đi, Trương Lập đã uất ức nói: “Kiểu gì vậy chứ, đối xử với chúng ta như với bọn săn trộm à! Không phải tôi đã đưa giấy tờ cho họ xem từ đầu rồi sao!”

“Hừm…” một thanh niên cao gầy từ bên ngoài bước vào, anh ta là người vừa giúp họ khiêng Đường Mẫn lên xe: “Đừng lớn tiếng như thế, đội trưởng của bọn tôi là vậ đấy, hung hăng lắm, ở đây ai cũng bị anh ấy mắng cho rồi. Ở chỗ này, anh nghìn vạn lần chớ nên làm sai chuyện gì.

Trác Mộc Cường Ba nghe tiếng xe khởi động, bước ra khỏi căn lều bạt, đứng nhìn theo chiếc xe việt dã nhỏ dần nhỏ dần, lẩm bẩm một mình: “Họ đi rồi.”
Anh chàng gầy gò kia an ủi: “Yên tâm đi, tôi đến trạm cứu hộ rồi, thiết bị y tế ở đó rất đầy đủ. Con gái anh sẽ không sao đâu.”

“Ừm,” Trương Lập cố nhịn để không bật cười. Trác Mộc Cường Ba thì thấy vành tai đã hơi nong nóng. Anh chàng kia trợn tròn mắt lên hỏi: “Sao hả? Tôi nói gì sai à?”

Trương Lập lắc đầu: “Không có gì, không có gì. Phải rồi, anh là…”

“À, tôi tên Lưu Quảng, chữ Lưu trong Người bay Lưu Tường(1), chữ Quảng trong Quảng Châu, cứ gọi tôi là Tiểu Lưu được rồi. Sau này sức khỏe các anh là do tôi phụ trách.” Lưu Quảng cao khoảng một mét bảy, gương mặt còn hơi trẻ con bị cái rét làm cho hồng tía lên.

Trác Mộc Cường Ba nói: “Tiểu Lưu, ở gần đây có đội tuần tra “núi nào của Khả Khả Tây Lý không?

Lưu Quảng lắc đầu đáp “Ở đây thì không, bọn họ không đi sâu vào trung tâm Khả Khả Tây Lý thế này đâu, môi trường khác nghiệt quá. Họ hoạt động ờ vùng xung quanh trạm kiểm lâm thôi, hàng năm chỉ có mùa sinh sản của linh dương Tây Tạng thì họ mới mạo hiểm tiến vào mấy khu tập trung sinh sản nổi tiếng của bọn linh dương. Vì vậy thông thường khoảng thời gian này, những người đội khảo sát khoa học chúng tôi gặp phải đa phần đều là bọn săn trộm, không ngờ các anh lại lỗ mãng xông vào đây như thế. Đúng rồi, nghe các anh kể các anh đã gặp gấu ngựa, thật không đấy

Trương Lập liền thuật lại một lượt những truyện họ gặp phải sau khi xe bị phá hủy, nói đến đoạn quan trọng, hai mắt anh chàng Tiểu Lưu liền sáng rực lên, còn hưng phấn hơn Trương Lập gấp bội, không ngừng hỏi han nọ kia. Nghe xong, Tiểu Lưu lấy làm thất vọng nói: “Chúng tôi đi từ hồ Kusai tới đây, đã năm sáu ngày rồi, ngoài mấy con bò Yak và xương người chết ra thì chẳng gặp đưlợc cái gì cả. Đám động vật ấy thấy cả đội xe lớn đi qua đều bỏ chạy từ xa rồi.”

Trương Lập an ủi anh ta: “Sau này sẽ thấy thôi. Á!” Anh thân thiện vỗ vỗ lên vai Tiểu Lưu, đột nhiên lòng bàn tay thấy đau đau, liền khẽ kêu lên một tiếng.

Tiểu Lưu chộp bàn tay đeo găng của Trương Lập, nói: “Đợi chút.” Anh ta nhẹ nhàng tháo găng ra, không ngờ lại không rút ra được, liền nhìn qua kẽ hở, đoạn nói: “Bên trong toàn là máu đông này, nhanh, tôi phải xử lý một chút.”

Găng tay của Trương Lập bị cắt ra, giờ mới phát hiện hai tay anh đều đã bị mài rách, máu thấm ra rồi đông cứng lại, bàn tay và găng dính chặt vào nhau. Trương Lập nhớ lại, chắc có lẽ là bị mài rách lúc đua với chiếc Hummer kia, không ngờ mãi mà không nhận ra.

Tay Trương Lập được băng bó qua loa, giờ cơm tối, các thành viên đội khảo sát ở xung quanh đều trở về đại bản doanh, họ chia làm ba đội, lần lượt tiến hành khảo sát sông băng Mã Lan Sơn, hồ Ẩm Mã và xa nhất là hồ Mặt Trăng, nghiên cứu sự biến đổi của địa hình và môi trường sinh thái, mỗi tổ có khoảng mười người, tổng cộng mười ba chiếc xe, trong đó ba chiếc là xe tải lớn chở đồ đạc vật dụng, một chiếc là xe phát tín hiệu, nâng phạm vi có thể sử dụng bộ đàm liên lạc của các thành viên đội khảo sát lên tới hai mươi cây số. Buổi tối mọi người tụ tập ăn uống, coi như để chúc mừng Trác Mộc Cường Ba và Trương Lập đại nạn thoát chết, lúc ấy, Trác Mộc Cường Ba mới nhận ra anh chàng đội trưởng râu rậm tên Hồ Dương kia, tuy chửi bới người ta thì ác miệng, nhưng tính tình cũng khá tốt, liên tiếp gắp đồ ăn cho mọi người, còn nói môi trường ở đây không tốt, không ăn nhiều đồ dinh dưỡng một chút, thể lực sẽ không trụ được. Trác Mộc Cường Ba và Trương Lập lại đem chuyện mình gặp nạn kể lại một lần nữa, chỉ có điều đã giấu đi chi tiết bị xe Hummer truy sát. Nghe đoạn về đại kim điêu, nét mặt không ít thành viên đều lộ vẻ háo hức mong đợi, chỉ riêng một người tương đối lớn tuổi, tên là Tiêu Cốc Khởi, mọi người đều gọi là Lão Tiêu, thì khẳng định chắc chắn: “Không nhìn thấy đại kim điêu nữa đâu. Bọn chúng một ngày bay được nghìn dặm, bị đại bại một trận như vậy, tuyệt đối không dừng lại nơi này nữa, chắc là sẽ theo hướng Nam bay về phía Tây Tạng rồi.”

Ngày hôm sau, lúc bọn Trác Mộc Cường Ba thức giấc, các thành viên đội khảo sát sớm đã dậy từ lâu, có người thậm chí còn đã xuất phát. Trác Mộc Cường Ba một mình đi bộ khỏi bản doanh, đến bờ hồ Khả Khả Tây Lý, nhìn mặt nước bị gió thổi dấy lên những cơn sóng, từng đợt hoa nước bán tung tóe, trong long cũng trống trải như hồ nước kia, vốn định tìm đội tuần tra núi lấy tập nhật ký kia xong là có thể trở về luôn, giờ lại chôn chân ở chỗ đội khảo sát khoa học này. Đường Mẫn thì không biết giờ thế nào, cũng không biết bao giờ mới có thể đi tìm đội tuần tra núi được. Gã lại nhớ đến ba anh em nhà sói xám, bọn chúng cũng từng giống như gã, phải khó khăn cầu sinh trên vùng băng nguyên rộng lớn, không biết bây giờ chúng ra sao. Nghĩ mãi nghĩ mãi, gã rút khúc xương trong túi ngực ra, quà của sói xám, Trác Mộc Cường Ba cười thầm trong bụng: “E là chỉ có mấy anh bạn sói chúng mày mới tặng thứ này mà thôi.”

“Dậy rồi à?”

“Ừm, đội trưởng.” Trác Mộc Cường Ba không cần quay đầu lại cũng biết đối phương là ai.

“Còn nhớ cô bé kia phải không?”

Trác Mộc Cường Ba không trả lời. Đội trưởng Hồ Dương vỗ mạnh lên lưng gã, nói: “Anh còn giả bộ với tôi làm gì, đều là người từng trải cả rồi.”

Trác Mộc Cường Ba cười cười. Hồ Dương đến trước mặt gã, ngước mắt nhìn mặt hồ Khả Khả Tây Lý, hồi lâu sau mới nói: “So với lần trước tôi đến đấy, mặt hồ lại rộng thêm không ít rồi.”

“Ủa,” Trác Mộc Cường Ba nhìn Hồ Dương, ánh mắt anh ta dường như chứa đựng một nỗi u uất vô hạn.

Hồ Dương nói: “Đây đều là hậu quả của hiệu ứng nhà kính, từ lâu đã rất rõ rệt. Sông băng núi Mã Lan đang tan chảy với tốc độ nhanh chưa từng thấy,còn hồ Khả Khả Tây Lý, cũng càng lúc càng rộng thêm.”

“A!” Trác Mộc Cường Ba chẳng hứng thú lắm với những chuyện này. Gã thầm nghĩ: “Nếu giáo sư Phương Tân, chắc chắn sẽ rất hợp chuyện với thằng cha đội trưởng này. Giáo sư vẫn là giáo sư, cái gì cũng biết.”

Hồ Dương quay đầu lại, nhìn thấy khúc xương trong tay Trác Mộc Cường Ba.”Ủa?” Anh ta tò mò lại gần nhìn thử, hỏi, “Có thể cho tôi xem không?” Anh ta cầm trên tay, cẩn thận quan sát một lúc, rồi đột nhiên hỏi, “Cái này, ai cho anh vậy?”

Trác Mộc Cường Ba không ngờ lại có người thấy hứng thú với khúc xương này, gã không muốn giải thích quá nhiều, chỉ hờ hững đáp: “Một người bạn tặng tôi.”

Hồ Dương tán thưởng: “Đồ tốt đấy.” Anh ta lấy bộ đàm ra, lớn tiếng gọi: “Lão Tiêu, mau ra đây, cho anh xem cái này hay lắm. Tôi ở bờ hồ, nhanh nhanh một chút.”

Trác Mộc Cường Ba trở nên hồ đồ, định lấy về: “Cái này không phải là xương bình thường hả?”

Ai đoán được, không ngờ Hồ Dương lại chẳng nỡ trả cho gã, anh giơ tay lên chặn tay Trác Mộc Cường Ba, xoay sang phía khác: “Anh hiểu cái khỉ gì chứ.”

Lão Tiêu hói trán mặc áo lông dày cồm cộp, trông như con quay, “hồng hộc hồng hộc” chạy tới. Hồ Dương vừa thấy lão từ xa đã bước lên, vẫy vẫy khúc xương trong tay nói: “Anh xem, cái gì đây.”

Lão Tiêu đón lấy, hai người thì thà thì thầm, bốn con mắt sáng ngời, giống như hai gã thẩn giữ của trông thấy gạch vàng từ trên trời rơi xuống vậy.

Trác Mộc Cường Ba bước tới, chỉ nghe lão Tiêu nói: “Không lầm được đâu. Chính là thứ này, bảo tang Tây Tạng cũng có một cái hệt như thế.”

Trác Mộc Cường Ba nghi ngờ tai mình đã nghe lầm. Đúng lúc ấy, lão Tiêu hỏi: “Bạn anh… làm nghề gì vậy?”

Trác Mộc Cường Ba trả lời đúng sự thật: “Ừm, là một người làm việc ngoài trời.”

Lão Tiêu nói: “Chẳng trách, anh ta nhất định cũng không biết giá trị của thứ này rồi.”

Trác Mộc Cường Ba lấy làm khó hiểu, nói: “Đây chẳng phải là một khúc xương hay sao?”

Lão Tiêu cầm khúc xương, giơ lên vầng mặt trơi mới lên: “Anh xem xem chỗ này, rõ ràng là có dấu vết bị mài này, đã thấy chưa, chỗ này có một cái rãnh, cả đây nữa, đây là vết ố, chứng tỏ trước đây rất hay được sử dụng.”

Trác Mộc Cường Ba càng tò mò hơn, hỏi: “Rốt cuộc đây là cái gì thế?”

Hồ Dương cười khì khì nói: “Đây là cây sáo xương. Anh biết không? Tức là sáo làm bằng xương động vật ấy, có thể phát ra âm thanh the thé chói tai, khiến dã thú ở ngoài xa mấy cây số cũng dựng hết cả lông lên. Tất nhiên, con người cũng không ngoại lệ, không tin anh thổi thử mà xem.”

Lão Tiêu đưa cây sáo xương cho Trác Mộc Cường Ba, rồi cùng Hồ Dương nhìn gã chằm chằm. Trác Mộc Cường Ba bị hai người nhìn chòng chọc, bất đắc dĩ đành đưa cây sáo lên môi dưới, khẽ thổi một hơi, mới đầu thì không có âm thanh gì, sau khi đổi hai ba vị trí, khúc xương quả nhiên phát ra một tiếng “tuýt”.

Âm thanh đó không hề hãi hùng kinh hồn như Hồ Dương nói, mà kéo dài, ai oán, tựa hồ một con ưng cô độc trên cao nguyên bao la phát ra từng tiếng gào bi thảm, như nỗi nhớ thời viễn cổ vọng về, từng tiếng từng tiếng thấm qua khoang xương nhỏ xíu. Hồ Dương và lão Tiêu đưa mắt nhìn nhau, đều trông thấy vẻ bi thiết trên mặt nhau, âm thanh ấy không ngờ lại khiến người ta cảm thấy bi thương đến thế, tuy Trác Mộc Cường Ba chỉ có thể thổi ra được một âm điệu duy nhất, nhưng âm thanh đó hòa với sóng dập dềnh trên mặt hồ Khả Khả Tây Lý, cơ hồ khiến người ta nghe thấy được tiếng kêu u uất của nước hồ Khả Khả Tây Lý vậy.

Một lúc sau, Hồ Dương mới nói với lão Tiêu: “Xem ra, lời giới thiệu trong bảo tàng chưa chắc đã là sự thật, tôi dám cược là bọn họ cũng chưa từng thổi thử lần nào.”

“Ơ, các anh chưa nghe âm thanh này bao giờ à.” Trác Mộc Cường Ba cảm giác như mình bị mắc bẫy.

“Anh nói đùa à?” Lão Tiêu nói, “Thứ sáo xương này, ở bảo tàng Tây Tạng có mỗi một cây, chúng tôi có thể nhìn thấy là tốt lắm rồi, ai dám lấy ra thổi chứ. Đây là một thứ pháp khí của Tạng giáo cổ, giá trị văn hóa của nó phải ngang với đai ngọc, rồng ngọn của văn hóa Hồng Sơn(2), mặt nạ đồng xanh mắt lớn của văn hóa đồi Tam Tinh(3) cổ đại. Vậy nên tôi bảo, cây sáo xương này, về sau anh nên giao cho bảo tàng quốc gia thì hôn, đối với người làm tác khảo cổ thì nó rất có giá trị nghiên cứu lịch sử đấy. Phải rồi, nhất định phải dò hỏi người bạn kia của anh cho kỹ, hỏi xem anh ta nhặt được thứ này ở đâu vậy.” Hồ Dương còn bổ sung thêm: “Thứ sáo xương này, thông thường là dùng xương mác của con người để mài thành đấy.” “Cái gì cơ!” Trác Mộc Cường Ba giờ mới hiểu ra, chẳng trách lại để gã thổi, gã vừa nhổ nước bọt phì phì, nói: “Tạng giáo cổ à, là phái nào dùng thứ pháp khí này vậy?”

Hồ Dương nhếch môi cười cười đáp: “Anh đúng là uổng công làm người dân tộc Tạng rồi, cả chuyện này mà cũng không biết hả, đây chính là pháp khí của Mật giáo Tây Tạng cổ đại nhà các anh đấy!”

“Mật giáo(4)?” Trác Mộc Cường Ba lắc lắc đầu nói: Tôi xưa nay không có hứng thú gì với tôn giáo cả, nói gì đến Mật giáo chứ.”

Hồ Dương lại nói: “Chính là Phật giáo ấy mà. Tạng Mật, chính là Tạng truyền Phật giáo đó…”

Lão Tiêu nói: “Lão Hồ này, đừng ở đó mà khoe kiến thức của anh nữa, anh hiểu được bao nhiêu về Mật giáo chứ? Đủ để lòe mắt người không biết gì là cùng thôi.”

Đội trưởng Hồ Dương liền được thể lấn tới, lập tức nói: “Ừm, phải rồi, lão Tiêu anh chẳng phải rất hiểu biết về Mật giáo Tây Tạng hay sao, giảng cho Cường Ba một bài đi.”

Lão Tiêu nói: “Tôi sao dám nói là hiểu biết được chứ, chẳng qua chỉ biết sơ một chút. Mật giáo ban đầu là do Phật giáo Đại Thừa và Bà La Môn giáo ở Ấn Độ cộng thêm các loại tín ngưỡng của người dân địa phương hòa trộn lại mà thành, nó được gọi là Mật giáo chủ yếu là để phân biệt với Hiển giáo, Hiển giáo chính là Phật giáo Đại Thừa và Tiểu Thừa, chính là Phật giáo mà các chùa miếu chúng ta thường thấy hàng ngày tuyên truyền thừa phụng. Khoảng thế kỷ thứ bảy sau Công nguyên, Mật giáo tách khỏi Hiển giáo, có hẳn một hệ thống tư tưởng khác biệt rõ ràng với Phật giáo Đại Thừa và Tiểu Thừa. Giáo chủ của Hiển giáo là Thích Ca Mâu Ni, điều này thì chắc các anh cũng phải biết chứ, còn giáo chủ của Mật giáo thì càng nổi tiếng hơn, ông ta được gọi là Đại Phật Như Lai. Xét về hệ tư tưởng, Hiển giáo là do Thích Ca Mâu Ni thuyết giáo với đối tượng là các chúng sinh không cùng cội rễ, vì vậy nên nó công khai, dễ hiểu, tùy theo ý người. Còn Mật giáo là Đại Nhật Như Lai tự nói chân lý mà nội tâm ngộ ra, vì vậy nó bí mật, thâm ảo, tùy theo ý mình. Đặc biệt, Phật giáo lưu truyền ở vùng Tây Tạng, căn bản đều là Mật giáo hết, cái gọi là Tiền Hoằng Kỳ, Hậu Hoằng Kỳ, Ngũ đại giáo phái, thực ra đều chỉ Phật giáo mật truyền cả.” Thấy Trác Mộc Cường Ba nghe mà nhíu chặt hai hàng lông mày, lão Tiêu nói: “Phải, pháp khí của Mật giáo cổ đại có không ít thứ mài bằng xương người, nghe thì hơi tàn nhẫn một chút, nhưng so với Bản giáo nguyên sinh mà Tạng Vương Lãng Đạt Mã dựa vào để hủy diệt Phật giáo thì còn tốt hơn nhiều.”

Trác Mộc Cường Ba vốn đã sắp ngáp dài đến nơi, đột nhiên nghe lão Tiêu nhắc đến Lãng Đạt Mã diệt Phật giáo, liền không nhìn nổi hỏi một câu: “Thầy giáo Tiêu cũng biết chuyện Tây Tạng diệt Phật à?”

“Ừm, biết một chút thôi, thực ra lịch sử của Tây Tạng từ thời cổ xưa đã rất thần bí rồi, một là ở đây có rất nhiều nơi hẻo lánh, không qua lại với thế giới bên ngoài, hai là trải qua chiến tranh loạn lạc kéo dài, rất nhiều văn bản lịch sử quý giá đã bị mất mát, có thể nó bất kể Trung Quốc hay Phương Tây, đều phải đến thế kỷ hai mươi mới tiến hành những nghiên cứu về lịch sử Tây Tạng.”

Đội trưởng Hồ Dương đứng bên cạnh làm ra vẻ thần bí, nói: “Anh biết lão Tiêu đây hồi trước làm gì không? Anh ấy từng tham gia hoạt động giao lưu văn hóa Tây Tạng, tuyên truyền về Tây Tạng với người phương Tây đấy.”

Lão Tiêu nói: “Đủ rồi đấy nhé, đó chẳng qua chỉ là mào đầu cho hoạt động khảo sát sông băng ở Tây Tạng, chỉ đề cập tới một phương diện rất nhỏ của Tây Tạng, người ta mời tên râu rậm nhà anh đấy chứ, tôi chẳng qua chỉ là vai phụ thôi.”

Trác Mộc Cường Ba hỏi: “Đội trưởng Hồ Dương đã đi Thần Sơn ở Tây Tạng rồi sao?”

Đội trưởng Hồ Dương nói: “Ừm, hồi ấy chúng tôi tiến hành khảo sát khoa học ở sông băng, tài nguyên ở sông băng trong dãy Himalaya cực kỳ phong phú, chúng tôi có ở lại Tây Tạng một thời gian, còn có cả người bản địa đi theo đoàn nữa, thế nên chuyện gì ở Tây Tạng cũng đều biết được chút chút.”

Trác Mộc Cường Ba chợt nhớ đến nơi Ba Tang và lão La Ba từng nhắc tới, liền buột miệng hỏi: “Vậy thì, theo cảm giác của anh, trong rặng Thần Sơn ấy, đoạn nào là nguy hiểm nhất vậy?”

Đội trưởng Hồ Dương trầm ngâm đáp: “Chắc là đoạn tiếp giáp với hai nước Nepal và Ấn Độ rồi, núi non ở đó không cao lắm, độ cao bình quân chỉ khoảng 7.000 mét trên mực nước biển, nhưng điều kiện khí hậu thì có thể nói là khắc nghiệt nhất trong dãy Himalaya, người nào tới rồi đều phải nói là nơi ấy còn khắc nghiệt hơn cả đỉnh Chomolungma nữa, hơn nữa thế núi còn hiểm trở, trong đoạn núi non kéo dài hơn nghìn ki lô mét ấy, có tới mười mấy ngọn xưa nay chưa bao giờ bị con người chinh phục.”

Lão Tiêu bổ sung: “Nghe nói, từng có vô số nhà mạo hiểm trước sau tìm đường tới, hy vọng trở thành người đầu tiên chinh phục những đỉnh núi đó, nhưng không sao lên tới đỉnh núi, không hiếm người mới đến chân núi thì đã bỏ cuộc quay về, còn số đông thì đã vĩnh viễn mất tích trong dãy núi tuyết mênh mông đó rồi.”

Đội trưởng Hồ Dương vòng tay qua vai lão Tiêu nói: “Không sai, trước nay tôi vẫn luôn thấy lão Tiêu nhà anh hiểu Tây Tạng hơn tôi nhiều, có thể coi như một chuyên gia Tây Tạng nửa mùa được rồi đó, tôi nhớ xem nào, là… năm 1996 đúng không nhỉ, chuyên mục Khoa học và Tự nhiên còn đặc biệt mời lão Tiêu đi phỏng vấn nữa chứ, chủ đề có liên quan tới Tây Tạng mà, mà… chủ đề gì ấy nhỉ?”

Lão Tiêu cười hà hà nói: “Là ảnh hưởng tan chảy của sông băng trên cao nguyên đối với khí hậu toàn cầu, trong đó có đề cập tới một số vấn đề văn hóa địa lý Tây Tạng thôi.”

Trác Mộc Cường Ba không hứng thú với chủ đề này lắm, liền quay sang hỏi: “Vậy thầy giáo

Tiêu có biết Tứ Phương miếu không?”

“Tứ Phương miếu?” lão Tiêu và đội trưởng Hồ Dương nhìn nhau ngờ vực, rõ ràng là mới lần đầu nghe thấy danh từ này.

Trác Mộc Cường Ba liền bổ sung: “Lúc công chúa Văn Thành vào đất Tạng làm dâu, ngoài Đại Chiêu tự, Tiểu Chiêu tự, còn có bốn tòa thần miếu được xây dựng tu sửa ở Tây Tạng. Đây chính là Tứ Phương miếu, hình như bị thiêu hủy từ thời diệt Phật rồi.”

Lão Tiêu lắc đầu nói: “Điều này thì chắc phải chuyên gia nghiên cứu lịch sử Tây Tạng mới biết được, những điều tôi biết toàn bộ chỉ là những thứ vặt vãnh bề ngoài, chẳng hạn như Mật giáo ngày nay thế nào, cả Bản giáo cổ đại ở Tây Tạng nữa…”

Lão Tiêu và đội trưởng Hồ Dương liền lôi chuyện Mật giáo với Bản giáo ra thảo luận một hồi, nhưng Trác Mộc Cường Ba không để ý lắng nghe nữa, chỉ nghĩ thầm: Tứ Phương miếu này tại sao không được nhắc trong chính sử, mà trong quyển cổ kinh Ninh Mã ở nhà mình lại ghi chép tường tận thế được? Nếu nói cây sáo xương này thuộc về Mật giáo, vậy tại sao nó xuất hiện ở Khả Khả Tây Lý được nhỉ?

Trác Mộc Cường Ba còn định dò hỏi thêm chuyện về cây sáo xương, thì bộ đàm của Hồ Dương kêu lên, anh ta bật máy lên, chỉ nghe một người cuống quýt nói: “Đội trưởng! Chúng tôi phát hiện một đám săn trộm ở hồ Ẩm Mã, đám Kha Khắc đã lái xe đuổi theo rồi, bảo tôi ở lại báo cho các anh, các anh mau tới đi.” Hồ Dương nói ngay: “Là thành viên trong đội tiên phong Lâm Húc Thanh. Mau lên, lão Tiêu, dẫn mấy người theo, nhớ cầm súng nữa. Trác Mộc Cường Ba, còn ngẩn ra đó làm gì nữa, cùng đi luôn, xem xem thế nào!”

Trác Mộc Cường Ba vốn định gọi Trương Lập cùng đi, nhưng nhớ ra vết thương ở tay họ Trương vẫn chưa lành hẳn, chuyện này lại đang gấp, liền một mình leo lên xe của Hồ Dương. Trên xe, gã mới hỏi: “Sao bọn họ không cùng lên xe đuổi theo, để một người lại canh gác làm gì?”

Hồ Dương nói: “Ngu thế. Vượt ra khỏi phạm vi tăng cường tín hiệu của xe phát tín hiệu thì không liên lạc bằng bộ đàm được nữa, còn bản thân phạm vi che phủ của tần số máy vô tuyến điện chỉ có năm trăm mét thôi. Giờ chúng ta chỉ có thể tới hồ Ẩm Mã trước, rồi bảo Lâm Húc Thanh chỉ đường.” Ba chiếc xe việt dã xuất phát từ đại bản doanh, nhanh chóng nhưng thận trọng nhằm hướng hồ Ẩm Mã phóng tới.

Trác Mộc Cường Ba không ngờ cảnh trí dọc đường lại đẹp đến thế, gã trông thấy cả một cây cầu băng khổng lồ vất ngang qua không trung, giống như núi Vòi Voi ở Quế Lâm vậy, xe phóng qua bên dưới cầu băng, bên đường còn có vô số tảng đá chất đống thành một cái gò nhỏ, lão Tiêu nói, đó là gò Mã Ni(5) , trên các phiến đá có khắc kinh văn của người Tạng, tảng đá ở dưới cùng có khi đã vài trăm năm lịch sử, kinh văn khắc trên đó đều mờ đi hết cả, điều này chứng tỏ rằng ở đây từng có người Tạng qua lại. Mà rất có thể đây là đoạn đường những người Tạng ở xa tít tận cực Bắc Thanh Hải hay xa hơn nữa phải đi qua khi hành hương. Trác Mộc Cường Ba nhắm mắt lại có thể tưởng tượng ra những người hành hương mặc Kinh bào, đi một bước lại quỳ lạy một lần…

Phía trước lại có một gò Mã Ni to hơn nữa, bên cạnh còn cắm một lá cờ, một cái đầu bò Tây Tạng đã bị phong hóa hoàn toàn được đặt ngay ngắn hướng về phía Đông Nam, đó chính là phương hướng của Bố Đạt La cung. Lại vòng qua một dốc núi nữa, hồ Ẩm Mã đã hiện ra trước mắt, nước hồ xanh lam, bờ hồ đóng băng, giữa hồ cũng có một lớp băng mỏng, nhưng vẫn phản chiếu sắc xanh của nền trời. Hồ Ẩm Mã hình dạng như cái đai, kéo dài mười mấy ki lô mét, xe của đội khảo sát đi dọc theo con đường ven hồ, triền núi bên bờ đối diện đều bị tuyết trắng che phủ, giữa hồ lại có vài chỗ núi nhô ra dạng bán đảo, nhìn xa xa như cảnh sắc vùng địa cực vậy. Xa hơn nữa là những đỉnh núi phủ tuyết, lão Tiêu chỉ vào mấy ngọn núi giới thiệu: “Phía Tây Nam là ngọn núi cao nhất Khả Khả Tây Lý, Cương Trát Nhật (KangzhagRi), nó phải cao tương đương với ngọn Bố Ca Đạt Bản(6), đều trên 6.800 mét cả. Đáng lẽ ra nhìn về phía Bắc là có thể thấy được núi Bố Ca Đạt Bản, nhưng bị sông băng Mã Lan che mất rồi, sông băng Mã Lan là sông băng lớn nhất ở Khả Khả Tây Lý đấy.”

Hồ Dương không biết có phải tâm trạng không tốt hay không, dọc đường không nói lấy câu nào.



Đến nơi, mọi người xuống xe thì thấy Lâm Húc Thanh đang đứng bên bờ hồ, vẻ phẫn nộ hiện rõ trên gương mặt, không xa chỗ anh đứng, có ba mươi cái xác linh dương Tây Tạng xếp thẳng hàng, đã có năm con bị lột sạch da, lộ ra thân thể chỉ còn máu thịt bầy nhầy, đôi mắt trắng đen rõ ràng mở lớn lồi hẳn ra ngoài. Bàn tay Hồ Dương bóp chặt đến nỗi phát ra những tiếng “rắc rắc”, Trác Mộc Cường Ba cũng phẫn nộ, ngay bên bờ hồ thiêng liêng thánh khiết như tiên nữ này, máu tanh bẩn thỉu lại ở gần bọn họ đến như vậy, đám người tham lam, đám người bán linh hồn cho đồng tiền đó, đúng là đã không còn nhân tính gì nữa rồi.

Giờ Trác Mộc Cường Ba mới nhận ra, Trương Lập cũng theo chiếc xe thứ ba đi ngay sau lưng bọn họ, anh ta bước đến vỗ mạnh vào lưng gã: “Chuyện thế này mà lại không gọi tôi, anh… anh cũng quá…” Trác Mộc Cường Ba nói: “Vết thương của anh còn chưa khỏi, tôi làm sao… hừ, để lên xe rồi nói đi.”

Hồ Dương đứng buồn bã trầm mặc mấy phút trước thi thể lũ linh dương, rồi nói: “Để lại một xe và ba người xử lý đống xác này. Những người còn lại, theo tôi.”

Trên xe, một thành viên đội khảo sát tên Trần Kiệt giận dữ nói: “Cũng may là chúng ta đặt bản doanh ở bên hồ Khả Khả Tây Lý, bằng không, bằng không, bọn vô nhân tính không biết còn làm ra những chuyện gì nữa.”

Thấy Trác Mộc Cường Ba hơi ngạc nhiên, lão Tiêu vỗ vỗ lên lưng gã, nói: “Hồ Khả Khả Tây Lý là một nơi dừng chân của linh dương Tây Tạng đi tránh rét, đàn linh dương ở đó lớn hơn nhiều, chúng tôi đặt đại bản doanh một mặt để tiện cho công tác khảo sát các hồ xung quanh và núi Bố Ca Đạt Bản, hai là cũng có thể bảo vệ đàn linh dương Tây Tạng tránh rét. Bọn săn trộm thường xuất hiện trong hai khoảng thời gian, một là mùa đông, lúc lông linh dương Tây Tạng dày nhất, có thể lột toàn bộ làm áo khoác; hai là mùa xuân, đợi chúng nó mọc lông măng mới, có thể vừa lấy lông. Bọn người này thông thuộc tập tính của linh dương Tây Tạng hơn chúng ta nữa, đàn linh dương này, xem ra năm nay mới tới đây kiếm cỏ và nước uống, mùa hè hàng năm, bọn chúng đều tới hồ Trác Nãi sinh con đẻ cái, hầu như là linh dương Tây Tạng ở khắp nơi đều về tham gia đại hội này, đàn xa nhất có khi phải vượt đến cả hơn nghìn cây số, lúc ấy cũng là thời gian hoành hành của bọn săn trộm. Đám người ấy, căn bản chẳng bao giờ đoái hoài đến sự sinh sôi nảy nở của lũ linh dương cả.”

Đi theo vệt bánh xe trên băng tiến về phía Bắc, lão Tiêu nói: “Bọn người này muốn chạy vào dãy Côn Luân chắc?”

Hồ Dương gật gật đầu: “Ừm, e là thế đấy, dãy Côn Luân địa hình đan chéo phức tạp, cực nhiều khe rãnh, vào đấy rồi thì rất dễ thoát khỏi truy đuổi. Có điều cũng phải mất vài ngày mới tới được, bọn chúng nhất định phải kiếm chỗ nào đó ẩn nấp trước, rất có khả năng là trong lúc hoảng hốt không kịp lựa đường, đã lánh vào sông băng rồi.”

“Mã Lan Sơn!” lão Tiêu thốt lên. Hồ Dương gật gật đầu, bọn họ cứ lần theo vết bánh xe, quả nhiên đã tới sông băng Mã Lan Sơn.

Chú thích:




(1) Vận động viên chạy vượt rào cùa của đội tuyển điền kinh Trung Quốc, vô địch Olympic và Thế giới.

(2) Nền văn hóa hình thành trong thời kỳ đồ đá mới ở miền Bắc Trung Quốc, cách ngày nay khoảng 5.000-6.000 năm, thời gian kéo dài khoảng 2.000 năm, phát hiện lần đầu tiên vào năm 1935 tại Hồng Sơn, thành phố Xích Phong, thuộc khu tự trị Nội Mông Cổ, nên được đặt tên này.

(3) Di chỉ đồi Tam Tinh nằm bên bờ sông Áp Tử, thị trấn Nam Hưng, cách thành phố Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc) 40 km về phía Nam. Khu vực này có ba gò đất nổi lên liền nhau, nên được đặt tên này. Di chỉ Tam Tinh là một phát hiện mới của lịch sử khảo cổ thế giới, làm thay đổi nhận thức của con người đối với lịch sử và văn hóa thời cổ đại.

(4) Còn gọi là Mật tông

(5) Trên các vùng núi, vệ đường, bờ sông, ven hồ ở nhiều nơi của Tây Tạng đều có thể nhìn thấy từng gò đống xếp bằng nhiều tảng đá, phiến đá, bên trên khác các hình thù thần thánh, câu chữ biểu thị cát tường, gọi là gò Mã Ni hay còn gọi “gò thần”; đây là những kiệt tác của nghệ nhân dân gian dân tộc Tạng.

(6) Bố Ca Đạt Bản, còn gọi là Tân Thanh Phong, cao 6.860m so với mực nước biển, thuộc tỉnh Thanh Hải, là ngọn cao nhất trong dãy núi Côn Luân
Mật Mã Tây Tạng - tập I & II
Lời mở đầu
Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5
Chương 5 (tt)
Chương 6
Chương 6 (tt)
Chương 7
Chương 7 (tt)
Tập II - Lời mở đầu
CHƯƠNG 1
CHƯƠNG 2
CHƯƠNG 3
CHƯƠNG 4
CHƯƠNG 5
CHƯƠNG 5 (tt)
CHƯƠNG 6
CHƯƠNG 6 (tt)
CHƯƠNG 7
CHƯƠNG 7(tt)
CHƯƠNG 8
CHƯƠNG 8 (tt)
CHƯƠNG 9
CHƯƠNG 9 (tt)
CHƯƠNG 10
CHƯƠNG 10 (tt)
CHƯƠNG 11
CHƯƠNG 12
CHƯƠNG 13
CHƯƠNG 14