CHƯƠNG 7(tt)
Tác giả: Hà Mã
Giáo quan ma quỷ
Người mới đến không ngờ lại mắc áo tăng trong đỏ thẫm ngoài màu vàng, đội mũ hoà thượng màu đỏ, đeo chuỗi hạt Bồ Đề, tay cầm chày Kim Cương, nhìn bộ râu và mái tóc hoa râm, có thể thấy người này không còn trẻ nữa, thân hình gầy gò, nhưng đứng giữa nơi trời băng đất tuyết ông ta vẫn để trần cánh tay bên phải để tỏ lòng thành kính. Tuy đã được tiến sĩ Cổ nhắc trước rằng phía Phật giáo Tây Tạng sẽ phái một vị đại biểu, nhưng đột nhiên nhìn thấy vị Lạt ma này, mọi người đều không thể không kinh ngạc. Lạt ma một tay cầm chày, một tay đặt trước ngực, hỏi bằng lễ nghi Tạng giáo, Trác Mộc Cường Ba cũng đáp theo đúng giáo lễ: “Phải, không biết thượng sư có gì chỉ giáo.”
Lạt ma vừa nhìn tư thế của Trác Mộc Cường Ba liền biết ngay, chỉ có Cường Ba thiếu gia lớn lên trong nhà Đức Nhân lão gia mới có thể dùng những lễ nghi tôn hiệu này tự nhiên đến thế, sau khi ông ta tự giới thiệu, mọi người biết vị Lạt ma này tên là Quyết Ban Á La, vốn là tín đồ của Ninh Mã giáo, gần hai mươi năm nay vẫn luôn ở Sắc Lạp đại thừa tự ở Cách Lỗ mật tu. Lần này tới đây là do Đức Ni Trát Tát Khắc Đại Lạt ma trực tiếp báo cho ông, gần như không làm kinh động đến bất cứ người nào trong Tạng giáo, về điểm này thì Trác Mộc Cường Ba hiểu được, dù sao cũng là một chuyện chưa đâu vào đâu, Đức Ni Đại Lạt ma có lẽ cho rằng không tiện làm rình rang quá lớn. Khi Trác Mộc Cường Ba lo lắng hỏi về tuổi tác của Á La, Á La liền nói mình vừa qua năm mươi, sức khoẻ không vấn đề.
Nhưng Trác Mộc Cường Ba nhìn hàng lông mày rậm bạc trắng dựng ngược lên của Á La, cứ có cảm giác ông còn lớn tuổi hơn cả giáo sư Phương Tân nữa, thế nào cũng không thể khiến người ta yên tâm được.
Không bao lâu sau Ba Tang bước ra ngoài với bộ mặt nghi hoặc, rồi bảo giáo sư Phương Tân vào trong, đồng thời chuyển lời dặn Trác Mộc Cường Ba đợi ngoài cửa. Trác Mộc Cường Ba đợi cả nửa giờ đồng hồ, bắt đầu thấy hết kiên nhẫn thì giáo sư Phương Tân đi ra. Ông nói với Trác Mộc Cường Ba: “Hình như là trắc nghiệm, không biết thì trả lời là không biết, đừng nói bừa.”
Lữ Cánh Nam ngồi sau bàn làm việc, bên trên bày mấy thứ đồ vật, cô ra hiệu cho Trác Mộc Cường Ba ngồi xuống, rồi chỉ các thứ trên bàn hỏi: “Có thể cho tôi biết, anh biết những thứ nào trên bàn này không?”
Trác Mộc Cường Ba quét mắt một lượt, rồi thực thà đáp: “Một cọng cỏ, một tảng đá, một… loài vật to hơn con kiến một chút.”
Lữ Cánh Nam ngẩng đầu lên nhìn Trác Mộc Cường Ba, cô đeo một đôi kính gọng hình chữ nhật rất tinh tế, gác lên sống mũi: “Có thể nói tỉ mỉ hơn một chút nữa không.” Kế đó lại ghi nhanh gì đó vào một cuốn sổ.
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Không thể.”
Lữ Cánh Nam mỉm cười nói: “Ha, không cần cứng nhắc như vậy, thoải mái chút đi.”
Trác Mộc Cường Ba cất giọng đều đều, không nôn nóng cũng không chậm rãi: “Tôi không căng thẳng, rất thoải mái là khác.”
Lữ Cánh Nam xoay xoay cây bút trong tay, lấy làm hứng thú hỏi: “Lẽ nào, ông chủ lớn của Tập đoàn Thiên Sư bình thường nói chuyện cũng khô như ngói vậy sao?”
Trác Mộc Cường Ba vẫn đều đều đáp: “Còn chuyện gì nữa không?”
Lữ Cánh Nam lại nhìn Trác Mộc Cường Ba như nhìn một người hoàn toàn xa lạ, gật đầu nói: “Xong, tôi biết rồi, anh có thể ra ngoài.”
Trác Mộc Cường Ba không ngờ câu hỏi của mình lại đơn giản như vậy, trong lòng băn khoăn không hiểu sao giáo sư Phương Tân và Ba Tang lại tốn nhiều thời gian như thế. Lúc đứng dậy, Lữ Cánh Nam lại gọi gã, nói: “Ừm, đợi chút đã, theo như thoả thuận giữa giáo sư Phương Tân và chúng tôi đạt được thì chỉ phí cho lần huấn luyện ấy toàn bộ đều do anh ta phụ trách, có phải vậy không?”
Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Chuyện tiền bạc không thành vấn đề.” Đối với Trác Mộc Cường Ba mà nói, vấn đề duy nhất không phải là vấn đề chỉ sợ chính là vấn đề kinh phí này rồi.
Lữ Cánh Nam nói: “Ừm, vậy anh có biết nội dung huấn luyện của chúng ta bao gồm những gì không?”
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Không biết, chẳng phải các vị đã sắp xếp ổn thoả cả rồi sao?”
Lữ Cánh Nam nói: “Phải có điều tôi cảm thấy tốt nhất anh vẫn nên tìm hiểu trước một chút thì tốt hơn. Dựa trên những gì biét được từ chỗ Ba Tang, bọn họ ở vùng bảy nghìn mét hạ một mạch xuống còn khoảng năm trăm nghìn mét trên mực nước biển, đi qua nhiều loại địa hình như núi tuyết, rừng nguyên sinh, thảo nguyên, cũng có nghĩa là, phạm vi huấn luyện của chúng ta từ vùng tuyết trải dài tới đầm lầy, từ rừng sâu nguyên thuỷ lên tới núi cao chót vót, có thể nói là cực rộng. Tổng hợp các tư liệu của giáo sư Phương Tân cung cấp, kế hoạch của chúng ta chia làm ba bước, thứ nhất, là để mọi người học được kỹ năng cơ bản mà sinh tồn nơi hoang dã, bao gồm cả huấn luyện để thích ứng với các loại khí hậu các loại hoàn cảnh mội trường khác nhau; bước thứ hai, là cho mọi người học cách sử dụng các loại công cụ, bao gồm vũ khí và một số kỹ thuật chiến đấu phòng thân cần thiết; bước thứ ba, là để mọi người học cách phân biệt một số loại bẫy rập đơn giản và tránh khả năng gặp phải những nguy hiểm không lường trước. Từ những tư liệu trong tay tôi hiện nay, độ khó của lần hành động này cũng vượt xa so với tưởng tượng của tôi, chỉ riêng phần leo núi tuyết trên cao nguyên đã thuộc về phạm trù thám hiểm khảo sát rồi, nhưng đối với mọi người, đó chỉ là bắt đầu thôi, sau đó các vị còn phải xuyên qua một khu rừng có lẽ là xưa nay chưa từng có dấu chân của con người hiện đại đi qua, trong đó có rắn độc mãnh thú, một số chỉ cần chạm mặt thôi là đã toi đời rồi; còn đáng sợ hơn nữa là, trong rừng có lẽ còn có bộ lạc người Qua Ba sống nguyên thuỷ, đến giờ chúng ta vẫn chưa biết trí tuệ của họ thế nào, có thể là họ biết làm những cạm bẫy đơn giản, nhưng cũng đủ để khiến người ta mất mạng. Nhưng tất cả đều chưa phải là đáng sợ nhất, kẻ thù lớn nhất của chúng ta, cũng chính là từ tin tức anh mang về từ Khả Khả Tây Lý, có một nhóm người khác cũng đang tìm Bạc Ba La thần miếu, những kẻ từ thế giới hiện đại sở hữu vũ khí tối tân. Nếu những điều anh nói đều là sự thật, vậy thì mức độ nguy hiểm của hành trình này, ít nhất cũng phải nâng thêm một bậc. Anh thật là… không có vấn đề gì chứ?”
Trác Mộc Cường Ba gật đầu: “Phải.”
Lữ Cánh Nam lại nói: “Nghe nói thành viên cuối cùng trong đội đã tới rồi, tên là… là…”
Trác Mộc Cường Ba đáp: “Quyết Ban Á La. ”
“Ừm” Lữ Cánh Nam bề ngoài vẫn tỏ ra dửng dưng hờ hững, “Anh ra ngoài gọi người đó vào đây.”
Trác Mộc Cường Ba đã nhạy bén quan sát được, khi nghe thấy cái tên đó tai Lữ Cánh Nam khẽ rung động một chút, vùi đầu vào ghi chép chẳng qua chỉ để che đậy. Gã mở cửa ra, phát hiện thấy Á La Lạt ma đã đợi ngoài cửa, gã truyền đạt lời Lữ Cánh Nam mời ông vào trong. Á La vừa bước vào, Trác Mộc Cường Ba liền trông thấy, Lữ Cánh Nam, người đàn bà độc lập độc đoán lạnh lùng như băng ấy, không ngờ lại đứng lên đón tiếp, đúng vào khoảnh khắc cánh cửa sập lại, hình như cô đã quỳ xuống. Trác Mộc Cường Ba dụi mạnh tay vào mắt, không biết có phải mình hoa mắt rồi hay không.
Trác Mộc Cường Ba không hề hoa mắt, đúng là Lữ Cánh Nam đã quỳ xuống, hai gối chạm đất, hai tay chống xuống, đầu cũng không dám ngẩng lên, lẩm bẩm nói: “Á La đại nhân, con không ngờ người cũng đích thân tới đây.”
Quyết Ban Á La, ông già nhìn có vẻ đã tuổi cao sức yếu ấy dịu dàng vuốt đầu Lữ Cánh Nam , thấp giọng nói: “Đứng dậy đi con gái. Đây là sứ mệnh thần thánh nhất Đức Ni Đại Lạt ma đã giao cho ta đó.”
Lữ Cánh Nam đứng lên, Á La lại nói: “Vừa rồi ta đứng ngoài cửa đã nghe hết rồi, phân tích của con về mức độ nguy hiểm của hành động lần này e là đã hơi sai lầm. Trong lần hành động này, kẻ thù nguy hiểm nhất không phải những kẻ từ thế giới hiện đại mang súng ống kia, mà phải là bộ tộc Qua Ba mà con cho rằng đang còn trong giai đoạn dã man ăn lông ở lỗ ấy.” Nhìn dáng điệu chăm chú lắng nghe của Lữ Cánh Nam , Á La nói tiếp, “Con hiểu gì về bộ tộc Qua Ba chứ? Con hiểu được bao nhiêu về Bản giáo cổ đại chứ? Nhớ cho kỹ, đại trí giả đã nói với chúng ta, lúc lòng sáng bỏ quên một điều, ắt sẽ mang đến bóng tối phủ đầy.”
Lạt ma Á La ngửa mặt nhìn lên trần nhà màu trắng một lúc lâu, nhớ tới những lời Đức Ni Đại Lạt ma nói với mình trên đỉnh núi đó. Những lời ầy lúc nào cũng như tiếng chuông chùa vang vọng mãi trong lòng ông.
Trác Mộc Cường Ba bước ra ngoài liền bị giáo sư Phương Tân chạn hỏi ngay: “Cô ấy có cho cậu xem thứ gì không?”
Trác Mộc Cường Ba hình dung lại những thứ gã nhìn thấy một cách đại khái, giáo sư Phương Tân nghe xong liền suy nghĩ một lúc rồi nói: “Không giống những thứ tôi trông thấy, nghe anh kể thì không đoán ra được là những thứ gì, nhưng chắc là tiêu bản động vật và mẫu khoáng thạch thường thấy ở những nơi hoang dã. Ngải Lực Khắc, anh cười gì thế? Chắc anh biết là cái gì rồi đúng không?”
Ngải Lực Khắc xua tay nói: “Tôi không nói cho các anh biết được đâu, cô ả ấy lợi hại lắm.”
Ngoại trừ Ngải Lực Khắc, tất cả những người khác đều bị gọi riêng vào văn phòng, sau đó Lữ Cánh Nam đi ra, lớn tiếng quát: “Xếp hàng!”
Bảy người nhất thời cũng không biết xếp hàng thế nào, kéo qua đẩy lại một lúc, cuối cùng đành xếp theo thứ tự cao thấp, Trác Mộc Cường Ba đứng đầu, sau đó lần lượt là Trương Lập, Nhạc Dương, giáo sư Phương Tân, Đường Mẫn, Ba Tang, Á La. Sau khi mỗi người đều đã tự báo tên tuổi và giới thiệu bản thân, Lữ Cánh Nam mới cất giọng trong vắt vang vang, tựa như chim ưng đang rít trên bầu không: “Đã tới chỗ này, tôi mặc kệ trước đây các vị đã làm gì, chỉ cần các vị hiểu rõ thân phận hiện nay của mình. Chúng ta cần thành lập một đội thám hiểm để khảo sát khoa học, thứ mà chúng ta cần tìm, không chỉ vô cùng thần bí, hơn nữa còn cực kỳ nguy hiểm, bất cứ lúc nào cũng có thể gây mất mạng! Vì vậy, nếu có người nào muốn rút lui thì bây giờ vẫn còn kịp đấy,” ánh mắt cô quét qua một lượt, dường như không nhìn bất cứ ai, nhưng mỗi người đều cảm thấy như cô đang nhìn chằm chằm vào mình vậy.
Lữ Cánh Nam mỉm cười lạnh lùng, khoảnh khắc ấy, trông cô tựa như còn cao ngạo cô độc hơn cả Ba Tang nữa, “Dũng khí của các vị làm tôi rất khâm phục, nhưng chỉ có dũng khí không thôi thì chưa đủ, muốn đi tìm Bạc Ba La thần miếu, ý chí của mọi người phải cứng rắn hơn cả sắt thép, cơ thịt còn bền chắc hơn cả đá hoa cương, mỗi người đều phải có khả năng độc lập sinh tồn nơi hoang dã và tinh thần tập thể sẵn sàng hy sinh tính mạng vì đồng đội. Những điều này, chính là yêu cầu của tôi đối với các vị. Trong đội ngũ của chúng ta, không có bất cứ quan hệ cá nhân nào, sau một thời gian huấn luyện, người nào không thể vượt qua khảo hạch của tôi, sẽ lập tức bị khai trừ ra khỏi đội, người không tuân theo mệnh lệnh, cũng sẽ lập tức bị đuổi đi!” Nói tới đây, cô trừng mắt lên nhìn Trác Mộc Cường Ba, gã cũng trừng mắt lên nhìn lại cô. Trác Mộc Cường Ba nhìn Lữ Cánh Nam đứng trên cao, cơn gió nhẹ khẽ phất tung mái tóc dài xoã ngang vai, tà áo gió chiết eo khẽ rung rung, chỉ thấy núi biếc mây trắng sau lưng cô hoàn toàn không còn màu sắc gì hết, gã chỉ còn thấy gương mặt Lữ Cánh Nam, nụ cười lạnh lùng cao ngạo của cô, phảng phất như chìm đắm trong đó.
Lữ Cánh Nam vẫn nói bằng ngữ liệu lạnh lùng trước sau như một: “Vừa rồi tôi đã thực hiện một bài trắc nghiệm nhỏ với mọi người, hy vọng có thể dựa vào đó để biết kiến thức về sinh tồn nơi hoang dã của mọi người rốt cuộc tới mức nào. Rất tệ, dựa theo tiêu chuẩn của lần hành động này, kết quả kiểm tra của tôi là, kiến thức sinh tồn nơi hoang dã của tất cả mọi người đều bằng không. Lần hành động này không phải lữ hành hay thám hiểm đơn thuần, mà là một chuyến khảo sát khoa học vô cùng nghiêm cẩn, vì vậy, tôi yêu cầu mỗi người các vị, phải học cách sinh tồn nơi hoang dã trong thời gian ngắn nhất!”
“Rõ.” Ba Tang khịt mũi đầy vẻ bất mãn.
Lữ Cánh Nam nói: “Xem ra trong các vị đây có người không nghĩ vậy rồi.”
Ba Tang lập tức ưỡn ngực lên nói: “Tôi đã sống ở vùng hoang dã không người một thời gian rất dài, tôi không thấy cần thiết phải học cái thứ sinh tồn nơi hoang dã mà cô nói làm gì.”
Lữ Cánh Nam bước tới trước mặt Ba Tang, hai mắt nhìn thẳng, nghiêm giọng nói: “Đó chỉ là anh qua lại như con thoi ở khu vực không người khi làm một tên săn trộm mà thôi, căn bản không thể coi là sinh tồn nơi hoang dã được. Nhóm người các anh hành động tập thể, dựa vào các trang thiết bị và vũ khí hiện đại, nếu bỏ hết những thứ đó đi, chắc anh ở trên cao nguyên chưa cầm cự nổi một ngày thì đã chết ngóm rồi. Anh không tin hả? Vậy tôi hỏi anh, ở cao nguyên Thanh Tạng có những loài động thực vật hoang dã nào có thể ăn được? Thứ nào ăn vào sẽ chết người? Anh có biết cách dựa vào sao trời và cây cối để phân biệt phương hướng không? Anh có biết mây trên trời có thể cho chúng ta biết thời tiết tiếp sau đó sẽ thế nào không? Anh có biết đường đi của mạch núi và khoáng vật dưới lòng đất có ảnh hưởng gì đến từ trường sinh ra không? Anh có biết bão mặt trời khi nào thì ảnh hưởng đến việc truyền tin vệ tinh không? Anh có biết nhịp tim, hơi thở, hô hấp, nhiệt độ cơ thể của anh biểu thị anh còn có thể duy trì tồn tại trên cao nguyên bao lâu như thế nào không? Anh có biết trong đêm nhiệt độ hạ xuống mười mấy độ âm, phải làm sao mới tìm được nơi tránh gió và giữ nhiệt giữa miền hoang dã không? Xây băng thành nhà, đục băng lấy lửa, ăn rễ cỏ cành cây để duy trì sinh mạng, nhìn vết tích động vật trên băng để bố trí cạm bẫy… tất cả anh đều không biết hết! Anh chẳng qua chỉ là người dẫn đường có thể tìm được tới nơi đó mà thôi, hơn nữa còn đang mang tội trên mình, tốt nhất là anh chớ có quên điều đó.”
Ba Tang bị cô nói cho đỏ bừng cả mặt, gân cổ gồ lên, đôi mắt trợn trừng như muốn toé lửa, Lữ Cánh Nam hoàn toàn không buồn để tâm, quay người đi, nói: “Sao hả? Muốn động tay động chân hả? Dựa vào chút thủ đoạn vớ vẩn của anh đấy hả?”
Ba Tang bất chấp giới tính của đối phương, gầm lên một tiếng, tung một đấm sau lưng Lữ Cánh Nam, nắm đấm rít gió vù vù, chỉ thẫy Lữ Cánh Nam khẽ nghiêng đầu một cái, đột nhiên hất chân quá vai, mũi chân đá đúng ngay đỉnh đầu Ba Tang, kế đó khuỷu tay cô hạ xuống, thúc đúng vào bụng anh ta, rồi lại hất nắm đấm lên nhằm thẳng mặt Ba Tang mà đấm, nắm đấm vừa rút lại, bỗng xoè ra, chặt mạnh vào cổ họng đối phương. Ba Tang còn chưa kịp lấy hơi, tay kia của Lữ Cánh Nam đã lại đấm trúng trán anh ta, cú đấm này khá nặng, không ngờ đã đánh cho thân thể như quả cân bằng thép của Ba Tang ngã ngửa ra phía sau. Toàn bộ quá trình ấy, Lữ Cánh Nam vẫn luôn xoay lưng về phía anh ta, thậm chí đầu cũng không ngoảnh lại nữa.
Ba Tang lầm bầm bò dậy, cơn giận lập tức tan biến như mây khói, không còn chút thái độ bất mãn và cao ngạo nào nữa, trước đây trong quân đội anh ta dã học được đạo lý phục tùng kẻ mạnh. Lữ Cánh Nam ra hiệu cho anh ta trở về hàng ngũ, lạnh lùng nói: “Anh phải nhớ cho rõ, mọi người tới đây là để tiếp nhận sự huấn luyện của tôi. Đừng tưởng anh có cái hình xăm trông giống con nhện đó là giỏi lắm, khi tôi làm sĩ quan huấn luyện cho bộ đội đặc chủng, trước nay chưa bao giờ vì đội viên là nam giới mà hạ thủ lưu tình đâu.”
“Còn ý kiến nào khác nữa không?” Lữ Cánh Nam quay người lại, trên mặt cô như phủ một lớp sương lạnh giá, lần này thì Trác Mộc Cường Ba chẳng thấy cô đáng yêu chút nào nữa, chỉ nghe Lữ Cánh Nam nói tiếp: “Chúng tôi sẽ tiến hành huấn luyện kiểu địa ngục với mọi người theo phong cách nhà binh, tất cả hành động đều phải tuyệt đối phục tùng chỉ huy.” Cô chậm rãi đi qua trước mặt từng thành viên trong đội, tới chỗ Đường Mãn thì đột nhiên dừng lại, giật trên cổ Đường Mẫn một món trang sức: “Trong khi huấn luyện, không được phép mang những thứ này, nếu không chú ý, nó sẽ dẫn đến nguy hiểm chết người đó.”
Lữ Cánh Nam ra tay rất nhanh, Đường Mẫn còn chưa kịp phản ứng đã bị cô giật đi mất món đồ, đành nói: “Biết rồi, tôi sẽ cất đi.”
Lữ Cánh Nam nhìn món đồ trong tay, nét mặt hờ hững nói: “Tạm thời để tôi cất đi hộ cô, sau khi hoàn thành huấn luyện sẽ trả lại.”
Đường Mẫn cuống quýt nói: “Làm ơn, làm ơn trả lại tôi.” Trương Lập hiếu kỳ nhướng mắt lên nhìn, đó chẳng phải thứ gì khác, mà chính là mảnh tinh thạch màu hồng tím Trác Mộc Cường Ba đã liều chết lấy trên vách băng trong hang động ở Khả Khả Tây Lý về, đã được mài thành đồ trang sức đeo ở cổ.
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên bước lên một bước, ánh mắt nhìn thẳng: “Cảm phiền trả lại cho cô ấy.”
Lữ Cánh Nam cười khẽ: “Hử? Thái độ kiểu gì vậy?” Trác Mộc Cường Ba lạnh lùng lặp lại: “Phiền cô trả lại cho cô ấy.”
Ngữ điệu của Lữ Cánh Nam bỗng nhiên đổi, gượng gạo nói: “Muốn lấy lại hả? Dựa vào sức mình đi!”
Trác Mộc Cường Ba quay lại nhìn Lữ Cánh Nam , cô cũng không hề kiêng nể nhìn thẳng vào mặt gã. Trương Lập cuống lên tự nhủ: “Toi rồi, toi rồi, gặp giáo quan không biết món đồ ấy có ý nghĩa thế nào với Cường Ba thiếu gia rồi.” Nhạc Dương cũng thầm nghĩ: “Giáo quan bị sao vậy? Mỗi món đồ trang sức nhỏ mà cũng làm khó thế?”
Trác Mộc Cường Ba gằn giọng: “Vậy thì xin lỗi trước.” Gã chồm người tới, vươn tay ra giật miếng tinh thạch, Lữ Cánh Nam chỉ cười gằn, rụt tay lại, nghiêng người đi, lùi lại một bước tránh né. Trác Mộc Cường Ba vươn tay ra theo, Lữ Cánh Nam xoay người, lại tránh được, Trác Mộc Cuờng Ba thẹn quá hoá giận, lật tay đấm ra một đấm,, Lữ Cánh Nam nghiêng đầu, cơ hồ không hoàn toàn để tâm đến đòn tấn công của gã, tránh né hết sức ung dung
Trương lập thầm nhủ: “Ôi chà, Cường Ba thiếu gia sao đánh lại được chứ, đó là giáo quan cơ mà !”
Trác Mộc Cường Ba ra tay càng lúc càng nặng, càng lúc càng nhanh, nhưng hiềm nỗi căn bản không thể đụng tới chéo áo Lữ Cánh Nam , gã đã bị chọc cho điên lên, tựa như một con bò đực nổi cơn,hùng hục lao qua lao lại giữa sân tập, còn thân hình Lữ Cánh Nam thì phiêu hốt trôi dạt, giống như một võ sĩ đấu bò điệu nghệ .Nụ cười lạnh lùng vẫn nở trên môi, cô nhìn Trác Mộc Cường Ba lao bừa như con nhặng không đầu , đột nhiên thấy hai mắt gã vằn đỏ lên như sắp chảy máu tới nơi . Lữ Cánh Nam thở dài một tiếng, cố ý lộ ra sơ hở, Trác Mộc Cường Ba liền như một trái núi đè ập lên người cô .
Gã vật ngửa cô xuống đất, thân thể hoàn toàn đè lên trên, thở hồng hộc, giựt mảnh tinh thạch trên tay Lữ Cánh Nam , gằn giọng nói: “Làm ơn .. đừng tùy tiện ..lấy đồ của ..chúng tôi !”
Lữ Cánh Nam bình tĩnh nhìn Trác Mộc Cường Ba, để mặc cho hơi thở của gã đàn ông phả vào mặt mình, trong đời cô chưa bao giờ bị một người đàn ông đè xuống đất như thế này cả, chỉ nghe cô cũng không khách khí sẵng giọng trả lời: “Trong quá trình huấn luyện, tôi phải ngăn cản tất cả mọi chuyện vi phạm quy định, phương pháp chiến đấu gần giống như với võ vật Tây Tạng này của anh chỉ thích hợp đối phó với một kẻ thù đơn lẻ, đồng thời cũng không thực sư đánh ngã đối phương . Đủ chưa hả ,còn không buông tay ra !”
Lúc này Trác Mộc Cường Ba lại thoáng do dự, Lữ Cánh Nam đột nhiên giơ gối lên thúc mạnh, hất ngửa Trác Mộc Cường Ba ra nằm dưới đất, một lúc lâu sau cũng không bò lên nổi, Lữ Cánh Nam bật người đứng dậy, đôi mắt chim ưng lướt qua từng người một, lạnh lùng nói: “Nếu muốn sống sót trong lần hành động này, kỹ năng chiến đấu là hạng mục huấn luyện không thể thiếu được. Những thứ các vị cần phải học còn nhiều lắm !”
Hai gã đàn ông nhìn có vẻ hung hăng là Trác Mộc Cường Ba và Ba Tang đều bị dạy cho một bài học mà không có cả cơ hội trả đòn, người khác tự nhiên cũng không còn ý kiến gì nữa, lúc này mọi người mới hiểu ra, tãi sao Trương Lập và Nhạc Dương lại nói nữ sĩ quan huấn luyện này giống hoá thân của ác quỷ như thế .
Lữ Cánh Nam thấy mọi người đều yên lặng, liền tiếp tục giới thiệu nội dung và phương thức huấn luyện, cuối cùng nói: “Vì chúng có thể gặp phải một số phần tử vũ trang không rõ lai lịch, khi huấn luyện phải cần làm tốt công tác chuẩn bị, nên tôi dự dịnh chia mọi người ra thành hai tổ, lý thuyết thì mọi người học chung, còn khi thực hành thì hai tổ cạnh tranh . Các vị chớ nên coi thường cách thức huấn luyện cạnh tranh này , thành tích của mỗi người sẽ liên hệ tới việc xác định các thành viên tham gia và sắp xếp đội hình sau này đó , giờ chúng ta sẽ rút thăm để chia tổ . Ở đây có tám que thăm, bốn đen , bốn đỏ, ai rút màu sắc nào thì ở tổ đó, hết sức công bằng, tổ nào thiếu một người cũng chớ có oán trách.”
Không ngờ kết quả rút thăm lại là Trác Mộc Cường Ba , Ba Tang, Trương Lập, Nhạc Dương ở chung một tổ, còn giáo sư Phương Tân, lạt ma Á La, Đường Mẫn ở chung một tổ, cả Lữ Cánh Nam cũng cảm thấy khó tin trước kết quả này, đành phải để Ngải Lực Khắc bù vào tổ thiếu người cho cân bằng lực lượng . Cùng với lời tuyên bố của Lữ Cánh Nam , đợt huấn luyện đặc biệt của họ chính thức bắt đầu .
Nói chuyện dưới trời sao
Vì thời gian tuyên bố đợt huấn luyện đặc biệt chính thức bắt đầu đã vào chập tối, nội dung ngày đầu tiên chính là để mọi người làm quen với nhau , đồng thời lại tuyên bố thêm một loạt những quy định nghiêm khắc được quân sự hoá, chẳng hạn như thời gian ăn sáng không được nhiều hơn muời lăm phút, buộc phải ngủ giường cứng, quần áo mặc tuyệt đối phải ngay ngắn chỉnh tề, thậm chí còn nghiêm khắc đến nỗi thời gian đi đại tiểu tiện cũng có quy định rõ ràng. Ăn cơm xong giáo sư Phương Tân tìm gặp Lữ Cánh Nam thẳng thắn dứt khoát nói: “Sĩ quan Lữ, tôi cảm thấy rất kinh ngạc và không hiểu trước hành động ngày hôm nay của cô , tôi cho rằng cách làm đó của cô là sai lầm rồi.”
Lữ Cánh Nam thản nhiên nói: “Giáo sư Phương, tôi tôn trọng ông là người bề trên có trí tuệ, nếu mọi người đều hiểu chuyện và có trí tuệ như ông thì tôi cũng không cần tốn nhiều công sức quản lý họ tới vậy . Nhưng như ông thấy đấy, đám người này là một bát cát rời , ngoại trừ hai binh sĩ quân đội còn biết phục tùng mệnh lệnh, những người khác đến từ những ngành nghề khác nhau, thậm chí còn có cả phạm nhân trong ngục được bảo lãnh ra, nếu tôi không nghiêm khắc một chút, sau này làm sao bắt họ nghe lệnh tôi được? Nếu không thề phục tùng theo sự sắp xếp và điều độ thống nhất , tôi thật sự không thể huấn luyện họ thành một đội ngũ có năng lực thám hiểm, càng không thể nói tới chuyện bàn kế hoạch lên đường có thực thi được hay không làm gì nữa”.
Giáo sư Phương Tân nói: “Đương nhiên là tôi hiểu mục đích và ý nghĩa và hành động đó của cô, tôi nghĩ , những người khác không ngu hơn tôi đâu, mọi người đều nhận ra được dụng ý của cô . Nhưng vấn đề chính là ở đây , phải biết rằng đám người chúng tôi làm nhiều ngành nghề khác nhau , tuổi tác chênh nhau đến mười mấy thậm chí là mấy chục tuổi . Chúng tôi không phải là binh sĩ chỉ biết phục tùng mệnh lệnh cấp trên , mỗi người đều có năng lực suy nghĩ độc lập và tính cách khác nhau , tuy là một bát cát rời rạc, nhưng dù sao cũng ở trong một cái bát, nếu cô chỉ dựa vào vũ lực và thói quen ngang ngạnh xưa nay buộc họ phải khuất phục, cái bát đầy cát khó khăn lắm mới tập trung lại được này có thể sẽ rã rời còn nhanh hơn trong tưởng tượng của cô đấy . Đừng nói người khác, chỉ nói Trác Mộc Cường Ba thôi , tôi rất hiểu đứa học trò này, anh ta là người nghĩ cái gì là lập tức làm ngay, chưa bao giờ khuất phục trước cường quyền hay thế lực mạnh hơn gấp bội, chưa bao giờ tôi thấy anh ta khuất phục nhận thua cả . Lần này tham gia huấn luyện đặc biệt , tôi từng nghĩ rằng thuyết phục anh ta cũng là một chuyện vô cùng khó khăn , có điều, có lẽ anh ta đã học được rất nhiều ở Khả Khả Tây Lý, biết được bản thân còn thiếu sót nhiều điều nên mới đồng ý tham gia huấn luyện với chúng ta . Bằng không, với tính cách của anh ta, lúc này đã lên trên núi tuyết , chứ không phải trong trung tâm huấn luyện này đâu . Nếu nói, cô muốn anh ta khuất phục mệnh lệnh của cô, vậy thì chỉ có một kết quả duy nhất. chính là anh ta sẽ bất chấp sự an toàn của bản thân, một mình đi tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, vậy thì tất cả khả năng hợp tác cũng sẽ nữa đường đứt gánh hết”
Lữ Cánh Nam nghiêng đầu lắng nghe, rồi hỏi : “Vâỵ thì theo ý của giáo sư , tôi phải làm thế nào?”
Giáo sư Phương Tân tự tin nói : “Đơn giản lắm, quản lý bằng tình người, đừng dùng những quy củ cứng nhắc trong quân đội để hạn chế bọn họ, mỗi một bước hãy cố gắng giải thích rõ với họ, làm như vậy có lợi ích và ý đồ gì, đối đãi như đối đãi với anh em cha chú của cô vậy, hãy giáo dục họ như giáo dục người trong nhà ấy”.
Đôi mày liễu của Lữ Cánh Nam nhíu lại, điều này quả là quá khó đối với cô, nhưng cô vẫn gật đầu nói: “Tôi biết rồi , cảm ơn giáo sư đã nhắc nhở, để tôi nghĩ kỹ đã.”
Sau đó tiến sĩ Cổ lại trò chuyện với qua video với mọi người một lần, giáo sư Phương Tân đùa đùa nói : “Cuối cùng cũng gặp được người học trò đắc ý kia của thầy rồi, quả nhiên là kỷ nghệ kinh người, hai anh chàng to cao khoẻ mạnh cũng đánh không lại cô ta” .Tiến sĩ Cổ không ngờ lại lật đật hoảng hốt nói: “Đừng có hiểu lầm, tôi chỉ dạy Cánh Nam kiến thức về khảo cổ và sinh tốn nơi hoang dã thôi, kỹ thuật chiến đấu của người ta là học của thầy khác , lão già như tôi đây nghĩ chắc cũng không đánh giỏi được như vậy đâu.” Sau đó tiến sĩ Cổ lại nói chuyện riêng với Lữ Cánh Nam , Ngải Lực Khắc , nội dung trò chuyện của họ thì không ai rõ cả .
Trước khi đi ngủ, vài người còn đang cằn nhằn giường cứng quá thì Lữ Cánh Nam đột nhiên vào phòng giảng giải bổ sung một lượt, giải thích ngủ giường cứng là để huấn luyện cho mọi người có thể thích ứng với việc đa phần phải ngủ trên nền đất ở các vùng hoang dã, còn quy định về thời gian là để mọi người luyện thành thói quen nắm chắc từng giây khắc một cách chính xác, bởi vì trong không ít trường hợp có thể được thời gian là có thể giữ được tính mạng, còn việc đi ngủ đúng giờ có thể bỏ qua, tùy thói quen của từng người là được, nhưng với điều kiện không được ảnh hưởng đến việc huấn luyện của ngày hôm sau. Quy định vừa được tuyên bố, trong phòng lập tức vang lên tiếng vỗ tay râm ran, Lữ Cánh Nam nhìn giáo sư Phương Tân khe khẽ gật đầu .
Trác Mộc Cường Ba dỗ Đường Mẫn đi ngủ, rồi một mình nhẹ nhàng ra khỏi doanh trại, ngọn gió núi an lành dịu dàng lại mang theo một chút lạnh khiến tinh thần người ta phấn chấn hẳn lên, cơn buồn ngủ hoàn toàn tan biến. Ngẩng đầu nhìn bầu trời, sao giăng khắp chốn, trăng sáng rạng ngời toả chiếu màn đêm bao la, những ngôi sao chi chít nối liền thành một sợi dây bạc phảng phất như đang đung đưa chảy trên nền trời dêm thăm thẳm, Ngân Hà, đó chính là vẻ đẹp của vũ trụ vô cùng vô tận bày ra trước mắt nhân loại Trác Mộc Cường Ba nhớ đến cảnh đêm ở Kha Khả Tây Lý, lúc đó cũng là một vầng trăng non , chỉ chớp mắt trăng đã tròn rồi lại khuyết, nói thực lòng, đối với lần thám hiểm này, gã bắt đầu cảm thấy hoài nghi và lo lắng, liệu gã có thể tìm được cánh cửa cấm kỵ cả trăm nghìn năm nay chưa từng có người nào mở ra kia không? Tử Kỳ Lân có phải là thần thú bảo vệ Bạc Ba La thần miếu hay không ? Suy nghĩ từng rất đơn thuần của gã sao lại trở nên phức tạp và lộn xộn đến vậy? Giờ đã thành người hoạt động khảo sát khoa học với danh nghĩa nhà nước rồi , gã ngấm ngầm cảm thấy có gì đó không ổn lắm, nhưng rốt cuộc là không ổn ở chổ nào, thì lại không thể nói rõ ra nổi .
“Đêm về gió lớn, đang nghĩ gì vậy anh bạn?” giọng nói nồng nhiệt như lửa của Ngải Lục Khắc làm người ta nghe qua một lần thì không thể nào quên .
Trác Mộc Cường Ba chọn một tảng đá sạch sẽ ngồi xuống, ngẩng mặt nhìn sao trời , nói: “Tiến Sĩ Ngải , muộn rồi sao ông còn chưa ngủ ?”. Bọn họ chia nhau ở ba căn phòng, Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam ở chung một phòng , Trác Mộc Cường Ba, Trương Lập, Nhạc Dương , Ba Tang ở chung một phòng, còn Ngải Lục Khắc , Lạt Ma Á La và giáo sư Phương Tân ở chung với nhau .
Ngải Lực Khắc cười cười nói: “Không cần phải xa lạ thế chứ, trước đây thành viên đội khảo sát đều gọi tôi là chú Mao Lạp , anh cũng có thể gọi tôi một tiếng anh Mao Lạp cũng được , tôi cũng biết bạn bè anh cũng gọi anh là Cường Ba, nếu không ngại thì tôi cũng gọi như thế nhé !”
Trác Mộc Cường Ba biết tên đầy đủ của Ngải Lục Khắc là Mao Lạp -Ngải Lực Khắc, chỉ là gã không biết Mao Lạp nghĩa là gì mà thôi, liền nói luôn : “Đương nhiên là được, anh Mao Lạp.”
Ngải Lực Khắc nói: “Tôi quen ngủ muộn rồi, không ngờ anh cũng ở đây , xem anh như đang đầy bụng tâm sự , có thể nói ra được không ?“ Trác Mộc Cường Ba lắc đầu đáp: “Không có gì, ngày đầu tiên đến môi trường xa lạ , chưa quen lắm nên không ngủ được thôi.”
Ngải Lực Khắc nói bằng giọng Tân Cương đặc trưng của mình: “Hê …, anh bạn , gạt người khác là không đúng đâu nhé, tâm sự thì không giấu được ai đâu, ánh mắt anh biết nói đấy. Nếu vì chuyện xảy ra ban sáng mà không vui, vậy tôi có thể thay Cánh Nam xin lỗi anh một tiếng. Tôi biết, áp lực của Cánh Nam cũng rất l ớn, cô ấy buộc phải huấn luyện những người gần như chưa bao giờ có kinh nghiệm sinh tồn nơi hoang dã như các anh thành đội viên đội khảo sát đi thám hiểm, cô ấy cũng lo lắng lắm chứ.”
Trác Mộc Cường Ba thoải mái nói: “Thực ra chuyện ban sáng cũng không có gì, tôi không để trong lòng đâu, đương nhiên là tôi hiểu dụng ý của cô ấy. Thực ra trước đây tôi cũng từng mấy lần đi vào khu vực không người ở Tây Tạng, đều là vì tìm kiếm những con ngao mình thích. Phải biết rằng, chó ngao chân chính cần phải vào sâu trong núi thì mới tìm được, nhưng những lần đó tôi đều tổ chức một đội tìm kiếm chó rất phô trương, khác hẳn với lần này. Nói thực một câu, trước chuyến đi Khả Khả Tây Lý, tôi chưa từng gặp phải chuyện nào quá hung hiểm cả, mà theo những gì tôi được biết, nơi chúng ta muốn đến lần này còn nguy hiểm hơn cả Khả Khả Tây Lý nữa, nguy hiểm đến độ…đến độ không biết rốt cuộc là nó nguy hiểm tới mức nào nữa.” Gã ngưng lại một chút, rồi nhìn thẳng vào mắt Ngải Lực Khắc nói: “Có phải anh thấy tôi rất điên cuồng không…vì một con ngao?”
Ngải Lực Khắc nở một nụ cười trìu mến: “Không, vừa hay ngược lại, tôi có thể hiểu được tâm trạng của anh. Nếu nói anh tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu mà làm tất cả những chuyện này, thì chỉ có thể chứng minh anh là một kẻ tầm thường, nhưng vì một con chó…”
“Là ngao, ngao Tây Tạng.”
“Ừm, được rồi, vì một con ngao mà làm như vậy, cả tôi cũng thấy kính phục anh rồi đó.” Đôi mắt nhìn xa trông rộng của Ngải Lực Khắc bắt đầu chớp sáng, ông nói với giọng như đang hoài niệm: “Con người, sống cả một đời, ít nhất cũng nên làm chuyện gì đó, mọi người đều có mục đích và sự theo đuổi của riêng mình. Nhưng đại đa số lại chỉ vì sinh tồn mà mệt mỏi bôn ba, trong số họ có rất nhiều người cho đến khi già, cả đời chẳng ngờ cũng không có mấy chuyện đáng để nhớ lại. Nếu hỏi rằng họ sống vì cái gì, họ sẽ nói với anh, đằng nào cũng đã sống, vậy thì cứ sống tiếp thôi. Vậy thử hỏi cuộc đời này còn ý nghĩa gì nữa? Thật là đáng buồn. Khi anh có thứ để theo đuổi về tinh thần, bất kể thứ anh theo đuổi là cái gì, chỉ cần anh kiên tâm tin rằng đó là đúng, thì hãy làm đi. Cho dù thời gian và lịch sử bỏ quên anh chăng nữa, chỉ cần anh cảm thấy thỏa mãn với những điều mình đã làm cho bản thân là đã đủ lắm rồi.”
Ngải Lực Khắc nói một lời làm người trong mộng giật mình sực tỉnh, Trác Mộc Cường Ba trước nay vẫn quật cường làm cùng một chuyện, có người ủng hộ cũng có người phản đối, đến cả thầy giáo của gã là giáo sư Phương Tân có lúc cũng không thể hoàn toàn hiểu được những gì gã làm, lúc này nghe Ngải Lực Khắc nói vậy, gã đột nhiên thấy trào dâng lên một sự đồng cảm sâu sắc, gã nắm chặt hai tay Ngải Lực Khắc, xúc động nói: “Cảm ơn! Cảm ơn anh! Cảm ơn anh Mao Lạp!”
Ngải Lực Khắc tròng mắt cũng hơi ươn ướt, điềm đạm nói: “Không cần cảm ơn tôi, đây là những lời thầy giáo tôi, tiến sĩ Cổ Tuấn Nhân đã nói trong ngày đầu tiên tôi tham gia đội khảo sát khoa học, nhiều năm như vậy, trải qua bao nhiêu khảo nghiệm sinh tử, nhưng tôi chưa từng do dự một lần, chính là vì những lời này của tiến sĩ Cổ thủy chung vẫn văng vẳng bên tai, một chữ tôi cũng không dám quên.”
“Ừm? Hai người đều ở đây à?” Trương Lập cũng từ trong phòng bước ra.
Trác Mộc Cường Ba nói: “sao vậy, binh sĩ cũng không tuân thủ quy định, nửa đêm chạy loăng quăng hả?”
Trương Lập đáp: “Trước tôi hay trực đêm mà, vừa rồi hình như nghe bên ngoài có tiếng nói, nên mới ra xem thử.”
Ba người đều không muốn ngủ, liền ở luôn khoảng đất trống bên ngoài mấy căn nhà nói chuyện, Trác Mộc Cường Ba kể chuyện về chó cho hai người kia nghe, hễ nhắc đến chó là lần nào gã cũng đặc biệt hưng phấn, hơn nữa nói mãi nói hoài mà không hết chuyện, gã kể từ chuyện chó con tới cho Shiba Inu đến chó Công tước Charles, lại từ chó xù Bắc Kinh nói đến chó đầu bò, chỉ cần là các giống chó nổi tiếng, gã đều có những kiến thức chuyên môn nhất định. Trương Lập và Ngải Lực Khắc được một phen mở rộng tầm mắt, không ngờ chỉ về loài chó mà cũng có nhiều học vấn đến thế. Trác Mộc Cường Ba nói: “Người ta cho rằng chó nuôi trong nhà sẽ trung thành cả đời với chủ nhân, tuyệt đối trung thành, thực ra, họ đã sai, điều này không chính xác. Sự trung thành của loài chó với người được xây dựng trên cơ sở tin tưởng và hiểu biết lẫn nhau, bọn chúng cũng có quan niệm đúng sai riêng của mình, có thể hiểu được thế nào là tốt thế nào là không. Tôi từng thấy rất nhiều những con chó ở thành phố bị người ta bỏ rơi, bọn chúng hoàn toàn hiểu được là chủ nhân không cần đến chúng nữa, đã hoàn toàn bỏ rơi chúng rồi, thế nên rất nhiều con sau khi hòa nhập vào môi trường mới, đã rất dựa dẫm và lấy lòng chủ nhân mới. Bởi vì những con chó được nuôi lớn trong gia đình con người đã không thích ứng với môi trường bên ngoài nữa, sau khi bị chủ nhân bỏ rơi, cảm giác hoang mang bất lực ấy còn dữ dội hơn một đứa bé bị lạc cha mẹ bội lần. Vì thế, nếu gặp được người hảo tâm nuôi dưỡng, chúng sẽ cố gắng hết sức để làm chủ nhân mới vui lòng, thế nhưng, liệu có bao nhiêu người biết được, khi chúng ra sức làm chủ nhân vui lòng, chúng cũng hy vọng được chủ nhân đón nhận và đáp lại biết bao không?”
Trương Lập nghi ngờ hỏi: “Nghe anh nói thế, hình như là chỉ số thông minh của chúng cao lắm thì phải?”
Trác Mộc Cường Ba khẳng định: “Không sai, ở rất nhiều nước phương Tây, những nhà nào nuôi chó nhất định sẽ coi nó như một thành viên trong gia đình vậy, tuyệt đối không đơn giản chỉ là thú cưng thôi đâu. Có một sự thực thế này, nếu anh có hứng thú thì có thể thí nghiệm mà xem, những con chó loại lớn như ngao, chó cảnh sát, chó đầu bò…, chỉ cần là chó cỡ lớn trưởng thành, nếu chủ nhân tặng chúng cho người khác, gửi nuôi chỗ khác hay là bán đi, bọn chúng có thể phân biệt được đó. Đặc biệt là nếu chủ nhân đếm tiền trước mặt nó, nó có thể nhận định được sự thực này. Nếu là cho tặng, nhiều năm sau chủ nhân cũ tới thăm nó, nó vẫn tỏ ra rất thân thiết; còn nếu là bán nó đi, cho dù chỉ cách nửa năm, nó và chủ nhân đã trở nên hoàn toàn xa lạ rồi.”
Ngải Lực Khắc cũng nói: “Đúng rồi, tôi cũng cho rằng trí lực của chúng vượt xa tính toán hiện nay của con người, cô họ của tôi sống một mình bên Pháp, cuối đời mắc bệnh não, không thể tự lo liệu cuộc sống riêng, thậm chí đại tiểu tiện cũng không kiểm soát được, đã đổi liền bảy người giúp việc, nhưng họ đều lần lượt không chịu đựng nổi mà bỏ bà ấy đi. Về sau, người ta mang cho bà một con chó Labrado tên là Euler, tôi trông thấy con vật ấy rồi, thông minh vượt sức tưởng tượng của các anh đấy, thậm chí chỉ cần cô họ tôi liếc mắt một cái, nó đã biết phải làm gì rồi. Cô họ tôi đi lại không được tiện lắm, căn phòng đã ba lần bị phát hỏa, nhưng lần nào Euler cũng cứu cô tôi về từ tay thần chết. Nó ở bên cô tôi suốt mười một năm, cho tới khi già và chết. Euler chết rồi, tinh thần cô họ tôi chấn động rất mạnh, mãi không chịu tin vào sự thực đó, chỉ nửa năm sau, cô họ tôi cũng qua đời. Trong những năm tháng cuối cùng của cuộc đời, bệnh não của cô tôi chuyển biến vô cùng tệ, tinh thần hoảng hốt, quên cả tên của người chồng đã chết và con trai, quên cả đức Chúa mà cô thờ phụng, thậm chí còn chẳng biết bản thân là ai, chỉ cứ lặp đi lặp lại: ‘Euler, đi mua rau đi, Euler, mang giày lại đây, Euler, con ngoan của bà, Euler, con ngoan của bà.’ Cho tới buổi sáng tắt thở, cô vẫn còn nhìn ánh mặt trời ngoài cửa sổ, mìm cười nói với chúng tôi: ‘Euler, ra lấy báo và sữa bò vào đây. Euler, chúng ta phải đi rồi. Euler, chúng ta phải đi rồi.’ Khi và gọi tên Euler, trong mắt tràn ngập vẻ hài lòng, cảm giác hạnh phúc ấy làm tâm hồn tôi rung động, lúc đó tôi đã biết, Euler tuyệt đối không phải là vật cưng, nó là một phần của cô họ tôi. Bà ấy không thể không có Euler, giống như con người không thể không có linh hồn vậy.”
Khóe mắt Trương Lập cũng bắt đầu ươn ướt, anh nhìn thấy ở Euler một tinh thần dâng hiến vô tư, tinh thần ấy ở trong xã hội loài người, chỉ thể hiện ở một nơi – tình mẫu tử. Chỉ có tình yêu của mẹ với con cái, mới thuần khiết vô tư, hoàn toàn không tính toán những gì cho đi và nhận lại như thế. Trương Lập trong khoảnh khắc ấy như được trở về thị trấn nhỏ đầy mưa gió kia, nằm trên giường bện đã ba ngày ba đêm, nhưng bất cứ lúc nào trở mình, anh cũng thấy bóng hình gầy gò ấy của mẹ, bà mặc áo vải xanh ngồi trên chiếc ghế băng nhỏ trước bậc thềm, nụ cười hiền từ như Bồ Tát, từng mũi kim xuyên vào chiếc đế giày vải. Nếu anh trở mình gây tiếng động hơi lớn một chút, mẹ sẽ tới bên giường, nhẹ nhàng vuốt lưng cho, miệng lẩm bẩm : “Bệnh con sắp khỏi rồi, con sẽ khỏe thôi mà, mai là mẹ mua được cho con cái gì ăn rồi.” Ban ngày người xe như nước chảy qua sau lưng mẹ, cùng với bóng hình lặng lẽ của mẹ anh tạo thành một sự đối lập rất rõ rệt, ban đêm sao trời lấp lánh trên đỉnh đầu mẹ, ánh trăng nhuộm mái tóc xanh của mẹ sang màu bạc trắng, ba ngày ba đêm, mẹ cứ luôn ở bên cạnh giường anh chăm sóc, lặng lẽ khâu đế giày. Bất kể là lúc nào, anh cũng cảm nhận được hơi ấm của mẹ, bao nhiêu năm sau khi giật mình sực tỉnh khỏi cơn mộng, bất kể là ở nơi đâu, anh cũng nhìn thấy rất rõ hình ảnh mẹ ngồi trước bậc cửa kia, lặng lẽ khâu đế giày, hình dáng ấy đã khắc sâu vào linh hồn anh, cả đời cũng không thể nào quên được.
Ngải Lực Khắc tiếp tục nói với Trác Mộc Cường Ba: “Vì vậy, tôi hoàn toàn hiểu được sự theo đuổi của anh đối với loài chó đặc biệt này. Chó đích thực là một loài động vật rất kỳ diệu, nếu anh coi chúng là bạn, chúng sẽ là những người bạn trung trinh nhất; nếu anh coi chúng là người thân, chúng sẽ trở thành người thân nhất của anh, chẳng khác gì con cái anh vậy.”
Trầm mặc giây lát, Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc hỏi: “anh sao vậy? Trương Lập?” Tuy nghe chuyện của Ngải Lực Khắc, Trác Mộc Cường Ba cũng có chút thương cảm, nhưng gã lại kinh ngạc phát hiện ra, Trương Lập đã không cầm lòng được mà rơi nước mắt.
Trương Lập lau khô nước mắt, ngại ngùng nói: “À, không có gì, vừa nãy tôi nghe chuyện của tiến sĩ Ngải Lực Khắc, chợt nhớ đến mẹ tôi thôi.” Anh bắt đầu chậm rãi cất tiếng: “Hồi nhỏ nhà tôi nghèo lắm, bố thì ra ngoài kiếm sống, mẹ tôi phải khâu đế giày thuê cho người ta để kiếm chút tiền trang trải chi tiêu…”
Dưới bầu trời sao tĩnh lặng, không biết tại sao mà cảm xúc dâng trào, ba người đàn ông mới quen biết bắt đầu trò chuyện tâm sự tới tận đêm khuya…
Ngày hôm sau, đợt huấn luyện đặc biệt mang tính định hướng của bọn Trác Mộc Cường Ba chính thức bắt đầu, theo sắp xếp, buổi sáng là học lý thuyết, còn buổi chiều, là bài học kỹ năng thực tế. Nội dung bọn họ cần học rất nhiều, bài lý thuyết buổi sáng bao gồm an toàn ngoài trời, cấp cứu ngoài trời, nhận biết động thực vật hoang dã, lý luận khảo cổ học, và một phần tri thức liên quan đến khí tượng và địa lý; bài thực hành buổi chiều thì bắt đầu từ những điều đơn giản nhất, chẳng hạn như leo trèo, gia công chế tạo khí giới đơn giản, cơ sở cận chiến, buổi tối thì phải học lớp bổ túc Tạng văn, Tạng ngữ cổ, còn bị bắt phải học cả ngôn ngữ của người Qua Ba, còn văn tự của người Qua Ba thì nghe nói là đã thất truyền từ lâu, đành bỏ qua không học, mọi người thấy thế đều như được đại xá vậy.
Riêng phần lý thuyết này cũng đã được Lũ Cánh Nam xử lý giảm bớt đi kha khá, kiến thức về sinh tồn nơi hoang dã đều tạm thời chỉ bao gồm một phần cơ bản buộc phải nắm vững trong phạm vi từ ranh giới có tuyết trở lên, trong vòng khoảng từ bốn nghìn đến tám nghìn mét trên mực nước biển; còn động thực vật học cũng chỉ có thể đưa ra vài điểm đơn giản, cố gắng dạy họ cách nhận biết các loài động thực vật có hại và vô hại, nhận biết các loài động thực vật độc nhất, nguy hiểm nhất làm điển hình, và biết cách tìm các loài động thực vật có thể ăn được phân bố rộng khắp nhất, còn những loài động thực vật khác thì không thể nào bắt họ tìm hiểu cho bằng hết được. Còn những bài học thực hành buổi chiều là để tạo nền tảng, đó mới là thử thách thực sự, lúc này, khả năng của Đường Mẫn mới thể hiện ra. Đừng chỉ nhìn dáng vẻ nhỏ nhắn yêu kiều của cô mà lầm tưởng, lúc huấn luyện Đường Mẫn đều nghiền răng chịu đựng, hoàn toàn không tỏ ra lép vế, ngày đầu tiên về tay chân đều bị mài cho sưng vù lên, buổi tối liền tự dùng kim đâm thủng các bọng máu bầm, ngày hôm sau không kịp liền sẹo lại tiếp tục huấn luyện với cường độ cao, nhưng cô không kêu than lấy một tiếng. Còn buổi tối thì mới là lúc khiến tất cả đau đầu nhất, những văn tự tiếng Tạng cổ nhìn quái đản kỳ dị kia, quả thực rất khó hiểu được ý nghĩa của những ký hiệu đó, đừng nói là hiểu được, chỉ cần đọc được lên đã là giỏi lắm rồi. Vậy mà Ngải Lực Khắc và Lữ Cánh Nam còn đưa ra ý kiến, muốn mọi người học hết những loại văn tự cơ sở biểu thị khởi nguyên của văn minh, để mọi người biết được nguyên do sản sinh và diễn biến của những ký hiệu đó, làm như vậy có mục đích là để khi mọi người đứng trước một văn tự ký hiệu hoàn toàn lạ lẫm, bản thân có thể suy đoán được phần nào ý nghĩa của chúng, kết quả là đề nghị ngày bị tuyệt đại đa số thành viên trong đoàn bao gồm cả giáo sư Phương Tân phản đối mạnh mẽ. Lý do của những người phản đối là, kiến thức đó tuyệt đối thuộc về phạm trù của những người chuyên nghiệp, đối với những người IQ tầm tầm như vậy quả thật là quá hà khắc.
Huấn luyện đặc biệt
Trong quá trình huấn luyện, đặc điểm tính cách của mỗi thành viên cũng dần dần lộ rõ, Ba Tang trước sau vẫn lạnh lùng kiêu ngạo, rất ít giao lưu với người khác, cứ như thể anh ta là người hoàn toàn độc lập bên ngoài tập thể này vậy, chuyện này khiến Trác Mộc Cường Ba rất không hài lòng. Nhưng nếu nói xa lánh mọi người, thì hình như Lạt ma Á La còn khó tiếp cận hơn Ba Tang gấp bội. Mỗi ngày ngoại trừ hoàn thành nội dung huấn luyện ra, ông đều chỉ niệm kinh Phật, đến cả Ngải Lực Khắc cũng không sao nói chuyện gì với ông được, nhưng trí nhớ của Lạt ma Á La thì tốt đến kinh ngạc, dù là nội dung gì chăng nữa, gần như chỉ cần Ngải Lực Khắc và Lữ Cánh Nam giảng qua một lượt là ông đã hoàn toàn nhớ được hết. Họa may chỉ có Trác Mộc Cường Ba mới biết, trí nhớ của những Lạt ma có thể đọc thuộc lòng không sai một chữ hơn mấy trăm vạn chữ của kinh điển Tạng giáo này, tất cả đều do rèn luyện mới có được.
Người có trí nhớ kém nhất không ngờ lại là Trác Mộc Cường Ba, giáo sư Phương Tân có một phần kiến thức về sinh vật học, Trương Lập, Nhạc Dương, Đường Mẫn đều còn trẻ, Ba Tang có kinh nghiệm sinh tồn nơi hoang dã tương đối phong phú, chỉ có Trác Mộc Cường Ba là như người mới hoàn toàn. Nhưng chắc chắn gã là người khắc khổ nhất trong các thành viên tham gia huấn luyện, xem lại vở ghi chép, nhớ lại những điều đã học hầu như chiếm trọn thời gian nghỉ ngơi của Trác Mộc Cường Ba, thậm chí gã còn đạt đến cảnh giới vong ngã. Chẳng hạn như lúc ăn cơm, gã kinh ngạc nhận ra bát sứ mà bọn họ sử dụng là sứ Thanh Hoa, có lẽ được nung vào khoảng giữa những năm 1980, ký hiệu Cảnh Đức trấn dưới đế bát là giả mạo, đũa bọn họ dùng làm bằng gỗ lim, sinh trưởng ở cùng một môi trường địa lý với cây cương trúc thích hợp chế tạo cung tên, cơm họ ăn nấu bằng gạo vùng Đông Bắc, chỉ có đất đen tích tụ ở Tuyền Vũ nham mới có thể trồng được ra những hạt gạo vừa dẻo vừa mềm vừa bông mà ăn lại không dính miệng như thế. Trước khi ngủ gã lại ôn bài một lượt nữa: chiếc giường hai tầng này làm bằng gỗ bình thường, ghép bằng chêm gõ, chỉ miễn cưỡng chịu được trọng lượng của hai người, còn những loại gỗ tốt nhất thì phải kể đến trầm hương, kế đó là tử đàn, hoàng hoa, sa thạch mộc, thiết lê, ô mộc, hoàng dương, gỗ lim…; chăn gối ga giường đều là vải bông, trong các vật liệu làm chăn làm áo của người xưa, tơ vùng hồ Tập Lý được xem là tương đối cao nhã, còn loại tơ lụa cánh ve phát hiện ở gò Mã Vương thì đến giờ vẫn còn đang khảo chứng xem xuất xứ từ đâu. Ngay cả trong mơ, những người cùng phòng có lúc cũng nghe thấy Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm: “Bướm tằm mắt xanh, cánh có vẩy, thuộc giống bướm tằm lớn, vùng Tây Bắc Nam Mỹ, cánh dài một mét hai, trên cánh có mắt xanh, ngấm thứ bảy trên bụng có hai tuyến tiết độc, có thể chế tạo cyanide, cực độc. Sứa châu Úc, cực độc…người chạm vào ba mươi giây sau là chết…”
Không chỉ như vậy, mỗi ngày vào giờ nghỉ trưa, Lạt ma Á La lại yêu cầu Trác Mộc Cường Ba đọc thuộc cổ kinh Ninh Mã mà cha gã yêu cầu ông truyền thuật lại, cho tới khi nào một chữ cũng không sai mới thôi, vì những câu chuyện mang tính chất thần thoại trong cổ kinh rất có thể là sự thật, có thể dẫn dắt bọn họ phát hiện ra phương hướng chính xác.
Sau đó cũng chính Trác Mộc Cường Ba là người yêu cầu nghiên cứu quan hệ giữa khởi nguyên của văn tự và sự tiến hóa của nền văn minh, tuy cuối cùng không đi tới đâu, nhưng có thời gian rảnh là Trác Mộc Cường Ba lại đến hỏi han Ngải Lực Khắc về khởi nguồn của văn tự, sự khác biệt giữa chữ tượng hình và chữ ký hiệu ở đâu, chữ hình nêm, chữ của người Maya, chữ hình con dấu, chữ giáp cốt và chữ tượng hình của người Ai Cập có gì đặc sắc và có gì chung, hỏi đến cả Ngải Lực Khắc cũng phải gãi đầu gãi tai, cuối cùng không thể không dùng một câu: “I phục you rồi,” để kết thúc những câu hỏi không thể trả lời nổi.
Trong những người có hứng thú nhất với Trác Mộc Cường Ba e rằng phải tính tới Lữ Cánh Nam là một, cô cảm thấy vô cùng lạ lùng trước gã đàn ông mạnh mẽ bất cứ lúc nào cũng tràn trề tinh lực và nghi vấn này, hầu như luôn trả lời chũng câu hỏi gã đưa ra một cách vô cùng cặn kẽ, cũng đã mấy lần ngấm ngầm biểu thị muốn nói chuyện riêng với Trác Mộc Cường Ba, nhưng gã hoặc là giả vờ không biết, hoặc là lựa lời từ chối, tất cả tình cảm của gã đã hoàn toàn dốc trọn cho Đường Mẫn, gã không muốn về phương diện tình cảm cá nhân lại có lối rẽ nào khác nữa.
Trong các bài huấn luyện thực hành cơ bản, người kém nhất đương nhiên chính là Đường Mẫn, nhưng cô bé hay khóc này dù đã thất bại rất nhiều lần, nhưng chưa bao giờ rơi lấy một giọt nước mắt. Bao nhiêu khổ cực cũng không khuất phục được cô, cuối cùng Đường Mẫn cũng qua được hết các bài kiểm tra. Nhưng đáng kinh ngạc nhất chính là Lạt ma Á La, ông già nhìn chẳng có vẻ gì nổi bật này giống như một vị ẩn sĩ cao nhân, khiến người ta không sao hiểu nổi rốt cuộc ông còn làm được những gì. Bất kể là hạng mục huấn luyện khó tới đâu, ông cũng đều một lần là thông qua, dễ dàng như khi ông nhớ những lý thuyết kia vậy, có lúc cả Trác Mộc Cường Ba cũng không thể đạt ngay lần đầu thực hiện, nhưng Lạt ma Á La vẫn gọn gàng vượt qua, thoải mái đến mức cả Ngải Lực Khắc cũng phải thở dài tự than không bằng.
Nhưng trong cả thời kỳ đầu của quá trình huấn luyện, Trác Mộc Cường Ba vẫn luôn có cảm giác không ổn, cảm giác bị người ta theo dõi, sống lưng lành lạnh. Gã biết, người đàn ông tóc vàng kia không dễ dàng bỏ cuộc như vậy, nhưng trước sau gã vẫn không tìm được tung tích của kẻ thù, càng như vậy, gã lại càng thấy nguy hiểm. Còn một vấn đề nữa chính là, tổng chỉ huy của hành động lần này, đã tiến hành huấn luyện lâu như vậy rồi, nhưng mãi vẫn chưa thấy lãnh đạo xuất hiện, Trác Mộc Cường Ba mang vấn đề này đi hỏi Lữ Cánh Nam, thì được trả lời là người đó đã ra nước ngoài khảo sát, hình như là công trình thủy lợi cỡ lớn thì phải.
Thời gian dần trôi đi, chớp mắt nhiệt độ cao nhất ban ngày ở khu huấn luyện đã lên tới 26 độ, chiều hôm đó sau khi kết thúc huấn luyện, các thành viên nam trong đội đều thay áo ba lỗ rằn ri, dưới ánh mặt trời, những cơ bắp gần như hoàn mỹ của Trác Mộc Cường Ba toát lên một thứ bá khí mạnh mẽ. Gã lúc này và mấy tháng trước giờ đã khác nhau một trời một vực, leo trèo, buộc dây, đào hang, tìm mạch nước, chiến đấu, mỗi môn đều đạt thành tích xuấ sắc nhất, còn bài kiểm tra lý thuyết cũng đã đạt tiêu chuẩn, ít nhất cũng đã biết mấy thứ Lữ Cánh Nam khảo hạch gã trong ngày đầu tiên tới đây là gì rồi. Cỏ đó gọi là cỏ lác, rất thường gặp ở cao nguyên Thanh Tạng, cục đá đó là sa thạch đỏ bị phong hóa, nhìn thì rắn, nhưng thực ra lại rời rạc, không thể bám vào để trèo lên và làm vật cố định, còn con vật to hơn con kiến kia, chính là kiến quân đội nổi tiếng trong sa mạc, đã làm bao người nghe tên thôi đã sợ chết khiếp.
Đồng thời, gã cũng biết được một chút về mấy loài động thực vật nghe có vẻ thần kỳ quái dị mà Ba Tang nhắc đến kia, cây có thể thắt chết người, hình như là một biến dị của Từ Đằng, bộ rễ của thực vật dạng leo trong thời kỳ sinh trưởng, chạm phải thực thể là liến quấn leo lên, một ngày đêm có thể vươn ra tới mấy mét, nếu quấn lên người rồi lại để nó tìm được cây to có thể leo lên, sáng hôm sau tất sẽ phát hiện người kia đã chết ngắc trên thân cây rồi; còn đỉa ngũ sắc Tây Tạng càng đáng sợ hơn một bậc, bọn chúng có thể dài tới mười xăng ti mét, trời vừa ấm lên là bắt đầu nhung nhúc bò đi, về nạn đỉa này, người Tạng có câu ngạn ngữ để hình dung: “Ngựa trắng đi qua biến thành ngựa đỏ; chó trắng đi qua chỉ còn lại xương với da.” Còn các thứ như đục băng, vuốt sắt, vòng số tám, khóa móc mà đội khảo sát sử dụng ở Khả Khả Tây Lý, giờ Trác Mộc Cường Ba đã hiểu chúng như hiểu cánh tay của chính mình, chỉ là vẫn còn thiếu cơ hội vận dụng vào thực tế mà thôi.
Trác Mộc Cường Ba đang nhớ lại mấy động tác bắt tóm mà Lữ Cánh Nam dạy, một mình chậm rãi luyện tập, Trương Lập và Nhạc Dương ngồi dưới gốc cây nghỉ ngơi, hai anh lính tuổi tác gần gần nhau này chỉ hận là quen biết quá muộn, giờ đã thành đôi bạn thân thiết; Ba Tang ngồi trên chạc cây cao, vẫn lạnh lùng như một con ưng cô độc, anh ta nóng tính, dễ nổi cáu, có điều trước sau đều chịu thiệt dưới tay Trác Mộc Cường Ba và Lạt ma Á La, về sau đã lành tính được phần nào, giáo sư Phương Tân và Ngải Lực Khắc lúc nào cũng thảo luận đủ thứ vấn đề học thuật, Đường Mẫn và Lữ Cánh Nam thì đứng ở xa xa, nhưng Trác Mộc Cường Ba cảm giác được bọn họ đều đang nhìn gã, bỗng Lạt ma Á La, người thần bí nhất trong đội bước tới chỗ gã.
Lạt ma Á La nhìn Trác Mộc Cường Ba luyện tập, rồi nghi hoặc hỏi: “Anh là Khố Bái à?”
Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu, sau đó nói: “Trước có đạt được mấy kỳ, về sau đi làm kinh doanh, không tham gia nữa.”
Trương Lập đột nhiên nhảy bật lên, hỏi: “Cường Ba thiếu gia, tôi đã nghe từ Khố Bái đó mấy lần rồi, rốt cuộc là danh hiệu gì vậy?”
Trác Mộc Cường Ba cười khì khì, nói: “Là cách gọi giống như quán quân trong một cuộc thi đấu thể thao thông thường thôi mà.”
Lạt ma Á La nghiêm túc nói: “không chỉ đơn giản như vậy đâu. Khố Bái là danh hiệu của vinh quang và thần thánh, là cách gọi dũng sĩ của dân tộc Tạng. Từ lâu lắm rồi, ở khu Tây Tạng đã rất thịnh hành các cuộc thi đấu trên phạm vi rộng, lúc đó các phiên quốc đều phái những thanh niên cường tráng nhất tới tham gia tranh đoạt Khố Bái, nội dung thi đấu bao gồm cưỡi ngựa bắn cung, đấu với bò lông Tây Tạng, đấu vật kiểu Tạng, áp gia, nga đa…cộng lại cũng phải chục môn, giờ chỉ còn khu Tây Nam A Lý là vẫn giữ truyền thống Khố Bái, mà nội dung thi đấu cũng đã bị giản lược chỉ còn bốn môn áp gia, suất túc, đóa gia và ném dây thừng thôi”. Lạt ma Á La đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, nói: “Đoạt được Khố Bái là một chuyện không hề dễ dàng chút nào, về các phương diện đều phải vô cùng xuất sắc.”
Nhạc Dương cũng đứng lên hỏi: “Áp gia, đa gia, đóa…là cái gì thế?”
Trương Lập cũng biết sơ qua về những hạng mục thi đấu này của người Tạng, bèn giải thích cho Nhạc Dương, áp gia là voi kéo co, hai người đàn ông dựa lưng vào nhau, quàng dây lên vai như người kéo thuyền, lúc thi đấu thì mỗi người ra sức tiến về phía trước, tư thế giống như voi vậy, ngoài ra quy tắc cũng giống như kéo co bình thường; nga đa là ném đá bay, chính là dùng dây buộc chặt vào hòn đã, lợi dụng kỹ xảo và quán tính của dây thừng để ném đã đi thật xa, càng xa càng chuẩn xác thì càng tốt; đóa gia thì giống như cử tạ, nâng tảng đá lớn, ngoài ra còn có môn kéo sừng bò, đánh trận…
Lạt ma Á La lại hỏi Trác Mộc Cường Ba: “Lần đầu tiên trông thấy anh ra tay, cảm thấy trong thủ pháp suất túc lại có các kỹ thuật như niêm, thiếp, quải, khuyên (bám dính, áp sát, ngoặt, vòng), hình như không phải học được trong khi luyện tập Khố Bái phải không?”
Trác Mộc Cường Ba thầm khen đối phương lợi hại, giải thích: “Khi tôi ở Thành Đô buôn bán, gặp được một ông già ở Thanh Dương cung, ông ấy dạy tôi Thái Cực quyền”
Lạt ma Á La gật gật đầu, Trác Mộc Cường Ba liền hỏi ngược lại: “Có điều nói đi cũng phải nói lại, thân thủ của Á La thượng sư mới khiến chúng tôi kinh ngạc đó. Đúng là chân nhân bất lộ tướng, tôi nghĩ không còn câu nào thích hợp hơn để nói về thượng sư nữa đâu.”
Giọng Lạt ma Á La vẫn bình thẩn như mọi khi: “Tôi tu luyện ở Sắc Lạp tự mấy chục năm, cũng từng học qua mấy chiêu nhảy nhót.” Nói xong, ông lại đi tụng kinh niệm chú gì đó luôn.
Trác Mộc Cường Ba cảm giác lấy làm kỳ lạ, tại sao Lạt ma Á La lại đột nhiên nghĩ ra câu hỏi đó, trong một thoáng ngẩn ngơ ấy, gã trông tháy trên sườn núi dường như có thứ gì lấp lánh phản quang.
Trên màn hình, thời gian, khoảng cách với mục tiêu, góc độ, độ dốc tất cả đều hiện lên rõ ràng, cả gương mặt đầy vẻ hồ nghi của Trác Mộc Cường Ba được phóng đại ngay trước mắt. Merkin mặc bộ quân phục oai phong lẫm liệt đứng trong cánh rừng sâu trên triền núi, y buông chiết ống nhòm điện tự xuống, nghi hoặc lẩm bẩn: “Chắc chắn vậy rồi sao? Huấn luyện đặc biệt cái mẹ gì thế? Lẽ nào đã biết nơi đó ở đâu rồi à?”
“Max!” Merkinh quát lớn một tiếng, một phần tử vũ trang tóc nâu, lông mày dựng ngược mắt ti hí, mũi cao miệng rộng lật đà lật đật chạy trong bụi cây ra. Thân hình y cũng cao đến mét tám, nhưng cả người đều ở trong trạng thái sẵn sàng khom lưng cúi đầu, trong còn có chút lọm khọm. “Thưa ông chủ, chuyện gì vậy?” Tiếng Anh của Max rất lưu loát, thì ra hắn chính là tên đã đốt thuốc cho Merkin ở Khả Khả Tây Lý.
Merkin chỉnh lại vành mũ, hỏi : “Tên điên đó đã hồi phục chưa?”
Max thấp tha thấp thỏm đáp : “Vâng ạ, bên Mỹ nói, chủ yếu là do khó trao đổi quá, trong quá trình điều trị cho người mắc bệnh tâm thần, trao đổi và điều trị tâm lý là rất quan trọng. Còn tên phiên dịch mà chúng ta kiếm được ở Lhasa đó, hắn cũng không giỏi tiếng Qua Ba lắm, lúc phiên dịch … giống như … như là tôi nói tiếng Trung Hoa không được thuận miệng vậy.”
“Tiếng trung Hoa của mày ? Ý mày nói tiếng Trung Hoa của tao cũng tệ như vậy phải không ? Hả !”
“ Không … không phải, không … tôi đâu dám.”
Merkin đốt thuốc, bực dọc thở ra một làn khói trắng, lẩm bẩm nói : “Có ai giỏi tiếng Qua Ba không nhỉ?”
“Có ạ.”
“ Vậy sao mày còn không mau đi mời về đi !”
Max chỉ xuống dưới lẩn bẩm : “Chính … chính là ở dưới kia.”
“Hử ?” Merkin nói : “Mày nói người đó cũng đang tham gia huấn luyện ?”
Max gật đầu nói : “Vâng, tên hắn là, phát âm nghe quái dị, gọi là Tước Ban Giả La gì gì đó”
Merkin trừng mắt lên nhìn Max một cái, quát : “Khốn nạn”. Đi được hai bước, lại quay đầu chửi : “Đồ ăn hại !”
Đột nhiên y chợt nảy ra một ý nghĩ, nói : “Bọn nó huấn luyện, chúng ta cũng huấn luyện ! Max, đi sắp xếp đi, để tao huấn luyện mấy thằng ở Khả Khả Tây Lý mới đến, có chết thì cũng phải chết oanh liệt một chút mới được.”
Max tỏ ý sẽ đi làm ngay, rồi sau đó lại rụt rè sợ hãi hỏi : “Ông chủ, thằng cha Soares đó nhốt mình cả ngày trong phòng, vác về đủ thứ lọ lọ chai chai làm thí nghiệm, dân Tạng quanh đây phản ứng rất dữ, không biết có làm chúng ta bị lộ không ?”
Merkin thoáng trầm ngâm giây lát, rít một hơi thuốc nói : “Tạm thời kệ hắn, dù hắn cần cái gì, cũng cố gắng thỏa mãn cho hắn đi. Chúng ta có thể thành công hay không ? sau này còn phải dựa vào mấy con vật nhỏ của thằng cha ấy đó.” Max và Merkin đều đã bỏ đi, khu rừng lại trở về với sự tĩnh lặng vốn có, cơ hồ như chưa tưừg xảy ra chuyện gì vậy.
Giai đoạn huấn luyện cơ bản đã kết thúc, từ giờ trở đi họ bắt đầu tiến hành huấn luyện thích ứng với các môi trường khác nhau trên phạm vi toàn thế giới.
Cuộc thi đấu đối kháng đầu tiên giữa hai tổ là thi những kỳ năng sinh tồn nơi hoang dã đơn giãn nhất, môn đầu tiên là nhóm lửa, các loại công cụ bày chung một chỗ, sau đó thành viên hai tổ tự tới chọn lấy thứ mình cần, tổ nào đốt cháy được mồi lửa trước coi như thắng. Tiếng còi của Lữ Cánh Nam vang lên, bốn người đàn ông to khoẻ là Trác Mộc Cường Ba, Ba tang, Trương Lập và Nhạc Dương lợi dụng ưu thế về hình thể chạy trước tới chỗ để đồ đạc, bọn họ nhặt một thanh gỗ khô nhất, thô ráp nhất, sau đó khoan trên thanh gỗ ấy một lỗ nhỏ, vun mạt gỗ lấp đầy trong đó, rồi dùng một que nhỏ vót nhọn đầu, chọc đầu nhọn vào trong lỗ, bắt đầu dùng hai tay xoay mạnh cái que đó. Bốn đại lực sĩ lần lượt xông trận, không để que gỗ ngừng lại, năm phút sau, mạt gỗ trong lỗ đã bắt đầu bốc khói. Bọn Trác Mộc Cường mừng rỡ, mặc kệ mồ hôi túa ra đầy mặt, càng xoay cái que mạnh hơn. Nửa tiếng sau, nhúm lửa đầu tiên đã bắt đầu nhảy múa, mặt mũi bốn người bên tổ Trác Mộc Cường Ba đều bị khói ám cho đen thui, mồ hôi chảy xuống làm mặt ai nấy đều vằn vện chẳng khác gì bộ đồ ngụy trang của quân đặc chủng đang mặc trên người cả. Nhưng khi họ quay đầu lại nhìn sang phía bên tổ của giáo sư Phương Tân, cả mấy người liền lập tức đờ ra, bốn người tổ kia đã cầm một cây đuốc cháy phừng phừng từ lúc nảo lúc nào, đang nhìn bọn Trác Mộc Cường Ba như nhìn một đám người nguyên thủy.
Trác Mộc Cường Ba trợn tròn mắt nhìn bọn họ, cảm giác mấy người phía giáo sư Phương Tân vừa ung dung lại vừa thoải mái, dường như không hề tốn chút sức lực nào vậy, Ba Tang và Nhạc Dương cũng ngẩn ra, chỉ có Trương Lập vẫn còn đang thổi phì phì vào cái lỗ kia cho ngọn lửa to hơn, mừng rỡ reo vang : “Cháy rồi, cháy rồi, ha ha, cháy lên rồi !”
Mấy người bên tổ giáo sư Phương Tân cầm đuốc đi tới, nhìn bốn người đàn ông mặt lem luốc thở phì phò như trâu, đều không khỏi bật cười. Trác Mộc Cường Ba không cam tâm kêu lên : “Thầy giáo, sao mọi người làm được nhanh vậy ?”
Giáo sư Phương Tân xòe tay trái ra, cố gắng nhịn cười, cố gắng làm ra vẻ nghiêm túc giải thích : “ Bật lửa hiệu Raymond, ở ngay bên dưới thanh gỗ các anh lấy đi …” nói xong, ông không nhịn nổi bật cười hai tiếng, nhưng vẫn cố nín lại, nói như quảng cáo trên ti vi : “Sử dụng hỗn hợp acetylen nén, ngăn gió ngăn nước, ở mức phun khí cao nhất, ngọn lửa có thể đạt tới ba nghìn độ, đủ để nung chảy sắt thép bình thường, có điều rất tốn nguyên liệu, một bình khí hóa lỏng chỉ có thể duy trì ngọn lửa mạnh nhất được năm phút. Toàn thân được đúc bằng hợp kim, có thể chống lại đạn súng 8 li bắn trực tiếp vào, sử dụng phương thức nút tiếp xúc để đánh lửa, mục đích là để trong tình trạng hai tay không thể thao tác cũng có thể dùng miệng đánh lửa. Thiết kế hợp lý, các đường cong đều tuân theo đúng cấu tạo sinh lý của con người, chất liệu cứng rắn, không hổ là thiết bị đánh lửa hàng đầu của bộ đội đặc chủng.”
Trác Mộc Cường Ba muốn khóc mà không thể rơi được nước mắt, quay lại hỏi Lữ Cánh Nam : “Sắp xếp như vậy có phải hơi quá đáng không?”
Lữ Cánh Nam không hề ngần ngại nói : “Đã bảo là tự chọn công cụ nguyên liệu, các anh thấy có gỗ, liền chỉ nghĩ đến việc khoan lỗ nhen lửa, khả năng quan sát và phân biệt của các anh ở đâu rồi ? Tôi tuyên bố, trận thi đấu đối kháng đầu tiên này, tổ Trác Mộc Cường Ba thua cuộc, tổ giáo sư Phương Tân chiến thắng!” . Có điều không ai ngờ được rằng, đây lại chỉ là mở đầu cho một loạt những thất bại của tổ Trác Mộc Cường Ba mà thôi
Sau đó trong giai đoạn huấn luyện trên toàn thế giới, khi bọn họ đi xuyên qua Dakar, xe đường trường liên tục bị nổ lốp, lại vì lộ tuyến thực tế và trên bản đồ khác nhau đến kinh người, tới khi nhóm gã đến được điểm đích thì tổ của giáo sư Phương Tân đã đợi ở đó mấy tiếng đồng hồ rồi ; khi tập huấn vượt sa mạc ở Sahara, Nhạc Dương sơ hở để một con bò cạp chui vào quần, đốt cho một phát rõ đau đúng mông, kết quả là ba người bọn Trác Mộc Cường Ba phải thay nhau cõng anh ta lên đường, tất nhiên là không thể nhanh như người ta được ; ở Xisuangbana bốn người bị một đàn voi hoang dã đuổi cho chạy tung toé; còn lạc đường trong rừng nguyên sinh, phải tốn thêm bốn ngày so với kế hoạch mới ra được bên ngoài, truy cứu nguyên nhân, không ngờ do anh chàng Trương Lập lấy chuối tiêu ra nhử một con voi con, kết quả là bị mẹ nó phát hiện ; khi leo núi Witch ở Australia, đinh tán của Ba tang đóng không được chắc, còn Trác Mộc Cường Ba thì liên tục dẫn đường sai, thường xuyên trật tay làm cả bốn người cùng trượt xuống, treo lơ lửng trên vách đá sừng sững; khi vượt qua sa mạc Đen, lại Trác Mộc Cường Ba chỉ huy và phán đoán sai lầm, bốn người không may gặp phải bão cát, cũng may là tìm được một hang động ở núi Mã Tốc nấp một ngày, bằng không thì hậu quả quả khó lòng tưởng tượng nổi ; rồi sau đó bất kể là thảo nguyên, đầm lầy, hoang mạc, hay băng nguyên, tổ của Trác Mộc Cường Ba đều thất bại trước tổ của giáo sư Phương Tân, đến cả Lữ Cánh Nam cũng thường xuyên cằn nhằn, không hiểu sao cái tổ nhìn có vẻ mạnh mẽ này lại toàn là người đầu óc u tối như vậy
Lại thêm mấy tháng nữa, không biết có phải là những bài huấn luyện thể năng vượt quá quy tắc thông thường làm người ta tê liệt hay không, mỗi ngày mỗi người chỉ riêng chuyện nghiến răng gánh vác mọi áp lực từ các hạng mục huấn luyện thôi đã đủ tiêu hao hết toàn bộ tinh lực, khiến cho thời gian dành để suy nghĩ càng lúc càng ít đi, thời gian các thành viên đàm luận những chuyện kinh hiểm gặp trong quá trình huấn luyện mỗi lúc một nhiều lên, chỉ có Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân là lúc nào cũng nhớ kỹ mục đích của đợt huấn luyện đặc biệt này, trên đường huấn luyện, hai người vẫn thường hay đến tìm Lữ Cánh Nam thảo luận xem lúc nào thì thích hợp để đi tìm Bạc Ba La thần miếu. Mỗi ngày bọn họ lại dành ra hai giờ để lên mạng thu thập các tư liệu và đầu mối liên quan tới Bạc Ba La thần miếu
Tiểu đội vừa trở về sau đợt huấn luyện, đến trung tâm huấn luyện ở Lhasa để chỉnh đốn lại, bọn họ chỉ có hai ngày nghỉ ngơi, sau đó lại đợi điểm đến tiếp theo mà Lữ Cánh Nam đặt ra. Trác Mộc Cường Ba đã không đợi nổi nữa, gã lại tìm tới phòng Lữ Cánh Nam, gõ cửa một lúc lâu, Lữ Cánh Nam mới mở cửa hỏi gã có chuyện gì, Trác Mộc Cường Ba bày tỏ sự lo lắng của mình, cô liền chau mày nói: “Trình tự huấn luyện mới tiến hành được một nửa thôi, đồng thời trong quá trình huấn luyện Ba Tang vẫn luôn được trị liệu tâm lý, đến giờ trí nhớ của anh ta đang dần dần hồi phục, nếu lúc này nôn nóng bắt đầu công tác tìm kiếm, chỉ sợ hiệu quả không được lớn lắm.”
Trác Mộc Cường Ba nghiêm túc nói: “Tôi cho rằng, chúng tôi đã thông qua được khảo hạch về thích ứng các loại môi trường, lẽ nào còn gì chưa huấn luyện hay sao? Cá nhân tôi cho rằng, tôi đã đủ thực lực xuất phát đi tìm địa điểm ấy rồi, hơn nữa, chúng ta cũng không hề biết nhóm người kia đã tiến hành tới đâu rồi nữa.”
Lữ Cánh Nam nói: “Về mặt này thì anh không cần phải lo, Bạc Ba La thần miếu đã được tìm kiếm từ mấy trăm năm nay, nếu dễ tìm như vậy, chúng ta cũng đâu cần phải tiếp tục tập huấn ở đây làm gì nữa.”
“Không cần lo lắng, không cần lo lắng, lần nào cô cũng nói vậy cả! Nên biết rằng, những tổ chức và nhóm người trước đây đi tìm Bạc Ba La thần miếu thất bại là vì đầu mối của họ không chính xác, nhưng hiện nay, người bộ tộc Qua Ba đã xuất hiện ở thế giới bên ngoài, hơn nữa lại bị đám người kia bắt đi mất rồi, cô nói tôi có thể không lo lắng được hay sao! Tất nhiên, thần miếu có tổn thất gì hay không cũng chẳng ảnh hưởng tới tôi nhiều lắm, à, tôi không nên bận tâm quá nhiều làm gì, nhưng mà tôi nôn nóng, phải biết đám người kia là một bọn hung ác vô cùng, còn dám mang cả vũ khí phi pháp trong lãnh thổ Trung Quốc, nếu bọn chúng tìm đến được nơi ấy, sinh vật ở đó nhất định sẽ bị tổn hại.” Trác Mộc Cường Ba càng nói càng nhanh.
Lữ Cánh Nam ừm một tiếng: “Tôi biết, anh sợ Tử Kỳ Lân của anh bị người ta bắn chết phải không…”
Trác Mộc Cường Ba quyết liệt nói: “Tất nhiên, cô nói thẳng ra đi, rốt cuộc chúng tôi phải đạt tới trình độ nào thì mới có thể xuất phát, cô cũng không thể bắt chúng tôi cứ huấn luyện rồi lại huấn luyện, còn chuyện tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu thì chúng tôi chẳng làm gì hết, không điều tra nghiên cứu! Không đi tìm kiếm bằng chứng! Không phân tích đầu mối! Huấn luyện như vậy thì được cái rắm đếch gì!” Trác Mộc Cường Ba nói một câu, lại đập mạnh xuống bàn một cái, giấy tờ và ly nước trên bàn đều nảy tưng lên, ngữ khí cũng tương đối nặng, nói xong hai tay gã ấn xuống mặt bàn, mắt trợn trừng trừng nhìn Lữ Cánh Nam .
Lữ Cánh Nam vỗ bàn đứng lên, cũng cao giọng nói: “Anh…anh thì biết gì? Xuất phát xuất phát, cả ngày anh chỉ biết gào lên thế! Anh thì có đầu mối gì!”
Trác Mộc Cường Ba nói: “Tấm ảnh đó, không phải tôi đã đưa cho các người tấm ảnh đó rồi sao?”
Lữ Cánh Nam lại ngồi xuống, bắt tréo chân vào nhau, ngước mắt lên nhìn Trác Mộc Cường Ba: “Còn nữa không?”
Trác Mộc Cường Ba lục tìm trong ký ức, nói: “Còn…” từ đầu gã chỉ có một tấm ảnh, sau đó bọn họ tìm được người điên ở Mông Hà, nhưng người điên đó đã bị bắt có, đến giờ vẫn chưa biết ở nơi nào; tiếp sau nữa bọn gã biết đến Ba Tang, nhưng trí nhớ của Ba Tang đến giờ vẫn chưa thể hồi phục; sau nữa lại nghe nói Đường Thọ có nhật ký, nhưng đến giờ cuốn nhật ký ấy cũng không có tăm hơi, nếu thật sự phải nói ra xem có thông tin gì khẳng định chắc chắn không, tới phút này gã cũng chỉ có một tấm ảnh ấy…một tấm ảnh mờ mịt, bên trong là một sinh vật có vẻ giống như loài ngao Tây Tạng.
“Anh cho rằng tấm ảnh này của anh có thể cung cấp bao nhiêu thông tin hả?” Lữ Cánh Nam nhìn Trác Mộc Cường Ba với ánh mắt thương hại, rồi nói tiếp: “Tất cả tư liệu của các anh đều ở trong tay tôi cả, tôi nắm rất rõ những thông tin của các anh có được. Tấm ảnh đó, căn cứ theo thông tin tham khảo mà bạn giáo sư Phương Tân cung cấp, có thể vạch một đường elip bán kính tới cả nghìn ki lô mét, đó là diện tích trên mười nghìn ki lô mét vuông đấy, Cường Ba thiếu gia của tôi ạ! Một khu vực không người diện tích trên mười nghìn ki lô mét vuông, còn bao gồm gần như cả dãy Himalaya nữa…” Lữ Cánh Nam cao giọng, rồi lại ủ rũ nói: “Chỉ sợ đến khi cháu nội tôi làm tổng thư ký Liên Hợp Quốc anh cũng chưa tìm thấy nơi đó ở đâu nữa.”
Trác Mộc Cường Ba lập tức tắc tị, nhưng vẫn không cam tâm, lớn tiếng chất vấn tiếp: “Không có đầu mối thì có thể đi tìm đầu mối, không có điều kiện thì có thể tạo ra điều kiện, cơ hội sẽ nảy sinh trong lúc hành động, còn như bây giờ, chúng ta đâu có làm gì! Chúng ta không thể chỉ huấn luyện không mà chẳng nghe chẳng hỏi gì đến Bạc Ba La thần miếu kia cả, vậy rốt cuộc là chúng ta ở đây làm cái quái gì hả?”
Lữ Cánh Nam lại vỗ bàn đứng bật dậy: “Ai nói với anh là chúng ta không nghe không hỏi hả! Anh làm sao biết…” Vừa nói tới đây, cô liền nhận ra mình đã lỡ lời, vội vàng ngưng lại.
Nhưng Trác Mộc Cường Ba đã nghe thấy, gã vội hỏi: “Gì hả? Sĩ quan Lữ, cô vừa nói gì, có thể nhắc lại được không?
Lữ Cánh Nam do dự giây lát, cuối cùng thở dài một tiếng: “Được rồi, nếu anh đã nôn nóng muốn biết như vậy, tôi sẽ cho anh biết, để anh hiểu mình vô tri thế nào!”
Cô dúng dậy mở chiếc tủ sắt sau lưng, ôm ra một đống tài liệu dày cộp, đặt huỵch một cái xuống trước mặt Trác Mộc Cường Ba, nói: “Đây, toàn là những thứ các anh chưa hề biết đến.”
Trác Mộc Cường Ba lắp bắp: “Đây là gì? Đây…” gã lật chồng tài liệu, không ngờ toàn là các tư liệu liên quan đến Bạc Ba La thần miếu, bên trong có các văn kiện tuyệt mật đóng dấu đen dấu đỏ, còn có cả thư hàm đóng ấn quan, đến cả những mẩu tin tức trên các tờ báo nhỏ cũng không bỏ qua, thứ làm Trác Mộc Cường Ba kinh ngạc nhất là một phong thư từ năm Tuyên Thống thứ 14 nhà Thanh ký tên Ung Nhã Giám Đài gửi cho một ông Warner nào đó, trong thư có nhắc đến khu vực dân tộc ở miền biên viễn Tây Tạng có một truyền thuyết thần bí, hỏi xem ông Warner có hứng thú cùng đi khảo sát với mình hay không, nội dung thư ngoại trừ đề cập tới Bạc Ba La thần miếu ra, còn ngấm ngầm nhắc tới truyền thuyết Tử Kỳ Lân nữa. Đống tư liệu này, sớm nhất là từ năm 1902, bao phủ bảy quốc gia, thời gian và mức độ rộng lớn của diện tích khiến Trác Mộc Cường Ba không khỏi trợn mắt le lưỡi, so về mức độ tường tận của nội dung thì tư liệu mà Trác Mộc Cường Ba thu thập được cũng không thể bì. Gã vô cùng kinh ngạc, nói: “Đây rốt cuộc là chuyện gì vậy?”
Lữ Cánh Nam giải thích trong ánh mắt đờ đẫn của Trác Mộc Cường Ba: “Thực ra, những chuyện liên quan đến Bạc Ba La thần miếu không đơn giản như anh tưởng tượng đâu, từ giai đoạn cuối Thanh đầu những năm Dân quốc, đến khi Quốc dân Đảng thành lập chính phủ, rồi nước Trung Hoa ra đời, nó luôn nhận được sự quan tâm của nhiều phía. Quốc gia sớm đã chú ý đến Bạc Ba La thần miếu rồi, vì nó chẳng những là phần bổ khuyết lớn cho Tạng truyền Phật giáo, mà cũng là minh chứng tốt nhất cho sự giao lưu dung hợp văn hóa Tạng Hán, những thứ ở đó phản ánh nội tình lịch sử, cuộc sống, tôn giáo và văn hóa của hai dân tộc Tạng Hán hơn một nghìn năm trước, và quan trọng hơn là, từ năm 1914 đến nay, các thế lực nước ngoài cũng càng lúc càng tỏ ra hứng thú với ngôi miếu thần trong truyền thuyết này, số lần thăm dò của họ liên tiếp tăng lên, mà nơi đó lại có một vùng rất lớn là khu vực không người chưa đặt đồn biên phòng, vì vậy chúng ta phải đến được Bạc Ba La thần miếu trước khi các thế lực bên ngoài tìm thấy nó, đồng thời tiến hành công tác khai quật ngay lập tức. Trước khi các anh đưa ra kế hoạch tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu này, đã có một tổ chức luôn nghiên cứu điều tra về Bạc Ba La thần miếu rồi, vì nhà nước không thể đầu tư quá nhiều tiền, vì vậy nên hầu hết các thành viên đều tự đảm trách kinh phí điều tra, cứ như vậy, bọn họ cũng thu thập được nhiều tư liệu hơn các anh rất nhiều. Lần này các anh đề nghị thành lập đội khảo sát chẳng qua chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên mà thôi, vừa hay lúc đó cũng có một nhóm thành viên hội nghiên cứu phát hiện và giải mã ý nghĩa ám thị trên một số trục cuộn tranh ở nước ngoài mang ngược trở về Trung Quốc, đồng thời nhà nước cũng cho rằng có thể tổ chức một đoàn khảo sát mang tính chất thăm dò. Vì vậy, mới có đợt huấn luyện đặc biệt lần này, nên biết rằng chỉ với một chút tư liệu của các anh, nhà nước sẽ không tùy tiện mà đồng ý thành lập đoàn khảo sát đâu, cho dù anh có tài trợ toàn bộ kinh phí cũng không được.”
“Trục cuộn tranh ở nước ngoài mang ngược trở về Trung Quốc?” Trác Mộc Cường Ba lật tìm đống tư liệu, nhưng không tìm được thứ nào trông giống trục cuộn tranh cả.
Lữ Cánh Nam nói: “Anh không tìm thấy ở đây đâu, chỗ này đều là tư liệu đã được dịch sang tiếng Hán, chỉ là những tư liệu cơ bản, đơn giản nhất mà thôi. Còn các tư liệu về lịch sử văn vật Tây Tạng cổ, đều do các nghiên cứu viên phụ trách điều tra nghiên cứu. Nhìn bề ngoài thì các anh vẫn luôn tiếp nhận huấn luyện đặc biệt, dường như không hề chuẩn bị bất cứ điều gì cho lần khảo sát này, thực ra đó chỉ là để làm nghi hoặc thế lực nước ngoài, ngầm bên dưới vẫn luôn có một tổ chức nghiên cứu rất lớn đang chuẩn bị kế hoạch toàn diện nhất cho lần xuất hành này của các anh, không ngừng thu thập và cập nhật các tư liệu liên quan suốt 24/24. Những công việc này, cũng chỉ có nhà nước mới làm được, nếu chỉ dựa vào cá nhân, có lẽ anh điều tra cả đời cũng không thể có được nhiều tư liệu đến vậy.” Lữ Cánh Nam ngưng lại một chút, rồi lại nói, “Trước mắt chúng ta vẫn còn chưa biết số trục cuộn tranh ấy xuất xứ từ đâu, theo dự đoán thì là văn vật quý giá bị các nhà thám hiểm nước ngoài phát hiện và mang đi từ đầu thế kỷ này, giống như văn vật Đôn Hoàng vậy. Vì nội dung trên trục cuộn toàn bộ đều dùng bột vàng để viết, nên các chuyên gia gọi nó là Cổ cách kim thư, cũng trở về với những cuộn trục này còn có đĩa hoa văn ba màu đời Tùy, kính vàng đời Tùy, tượng người đứng cầm qua (1), tất cả đều là văn vật hạng một cấp nhà nước. Giá trị của những cuộn trục này cực kỳ to lớn, quan trọng nhất là trong đó có nhắc đến một số nội dung bí mật, có tác dụng then chốt đối với việc tìm kiếm Bạc Ba La thần miếu, đây cũng là nguyên nhân đội các anh được thành lập đó.”
Trác Mộc Cường Ba tham lam lượt qua các đầu mối, các loại tư liệu ở khắp mọi nơi, lúc này gã mới biết thì ra có một đội chuyên gia đang làm công tác phân tích cho chuyến du hành của bọn gã, chẳng trách lần nào tìm Lữ Cánh Nam hỏi chuyện, cô cũng đều rất tự tin chắc chắn. Gã vừa đọc tài liệu, lại vừa hỏi tiếp: “Không ngờ nhiều như vậy, thì ra luôn có chuyên gia nghiên cứu về các đầu mối này, thế nhưng, tại sao không cho chúng tôi biết chứ?”
Lữ Cánh Nam ngăn không cho Trác Mộc Cường Ba tiếp tục ngấu nghiến đọc tài liệu, thu lại cất đi rồi nói: “Những nội dung này, đáng lẽ phải đợi đến khi mọi người hoàn thành đủ tiêu chuẩn huấn luyện tôi mới nói, giờ anh biết càng nhiều, lại càng không có lợi, các anh lúc này, cần nhất là toàn lực tập trung vào huấn luyện. Anh tự nhận là mình đã huấn luyện đủ rồi phải không? Vậy tôi cho anh một cơ hội, tôi và anh sẽ đơn độc đấu một trận bất chấp thủ đoạn, nếu anh thắng được tôi, tôi sẽ thừa nhận thành quả huấn luyện này của anh.”
Trác Mộc Cường Ba lắc đầu: “Không thể nói vậy được, thao trường chỉ là chết, chiến trường mới là sống, không thể mang chuyện ai đánh thắng ai ra làm tiêu chuẩn phán đoán, tình hình thực tế có thể xảy ra bất cứ thay đổi nào, còn tôi thì đang cho rằng, đội của chúng tôi đã có đủ năng lực ứng phó với những biến hóa đó rồi, vì vậy mới hết lượt này đến lượt khác đưa ra kế hoạch xuất phát, đồng thời tìm kiếm những dấu vết liên quan tới Bạc Ba La thần miếu. Tất nhiên, lúc ấy tôi hoàn toàn không biết còn có một nhóm chuyên gia đang giúp chúng ta tính toán chuẩn bị.”
Lữ Cánh Nam đứng dậy nhìn thẳng vào Trác Mộc Cường Ba, hỏi: “Anh cảm thấy, tôi huấn luyện các anh như vậy là vì cái gì hả?”
Trác Mộc Cường Ba đột nhiên gặp phải câu hỏi bất ngờ này, liền buột miệng đáp: “Tăng cường năng lực thực tiễn của chúng tôi, để bán mạng cho tổ chuyên gia phải không?”
Lữ Cánh Nam lộ vẻ thương hại, lắc đầu thở dài: “Anh hoàn toàn sai rồi…tôi huấn luyện mọi người như vậy, là vì muốn dạy các anh…sống! Tiến hành huấn luyện gian khổ như vậy, chỉ là để các anh học được cách sống sót trong các môi trường và điều kiện khác nhau, cần phải biết rằng, bất kể anh có bao nhiêu tiền, bao nhiêu trang bị, bao nhiêu kế hoạch, nhưng phải còn sống mới được, đó mới là điều kiện căn bản để anh có thể thực hiện tất cả mọi điều.”
Giọng Trác Mộc Cường Ba trở nên nhỏ dần: “Lẽ nào, cô cho rằng chúng tôi còn chưa thể sống sót trong các môi trường khác nhau sao?”
Lữ Cánh Nam cười cười: “Còn lâu mới đủ! Anh cho rằng đội ngũ này đã có đủ năng lực ứng phó với mọi thay đổi hay sao? Vừa khéo, trải qua một thời gian huấn luyện khá dài, tôi đang chuẩn bị tiến hành một lần khảo hạch có tính chất tổng hợp, coi như là kiểm tra giữa kỳ của các anh đi.” Cô giơ tập tư liệu trong tay lên, nói: “Muốn xem những tài liệu này, đợi khi nào anh vượt qua được bài thi kia rồi hãy nói.”
Mắt Trác Mộc Cường Ba sáng bừng lên: “Nội dung kiểm tra gồm những gì?”
Lữ Cánh Nam đáp: “Đến lúc đó tôi sẽ báo cho mọi người, anh đi nghỉ trước đi.”
Trác Mộc Cường Ba ôm đầy một bụng than van, lủi thủi đi ra, vừa tới cửa, Lữ Cánh Nam lại nhắc nhở: “Anh Trác Mộc Cường Ba, tôi cần phải nhắc nhở anh, hãy chú ý đến thân phận của anh lúc này, đội của các anh là một đội thử nghiệm ghép tạm thời mà thôi, nếu không vượt qua được khảo hạch, bất cứ lúc nào cũng có thể đối mặt với nguy cơ giải tán, càng không cần nhắc đến chuyện muốn có được số tài liệu của nhà nước này làm gì. Nhà nước cũng không thiếu một chút kinh phí thám hiểm kia của anh, vì vậy, xin anh đừng lúc nào cũng lên mặt ông chủ như thế, anh phải nhớ cho rõ, anh chỉ là một đội viên bình thường dưới quyền tôi mà thôi.”
Trác Mộc Cường Ba quay đầu đi, không trả lời, chỉ khẽ gật đầu rồi dập mạnh của lại phía sau. Khi gã đi rồi, Lữ Cánh Nam mới lẩm bẩm như nói với chính mình, lại như nói với ai đó: “Xem ra anh ta đã không đợi được nữa rồi.”
Sau tấm rèm không ngờ cũng có người cất tiếng: “Đó là điều tự nhiên thôi, bởi vì anh ta hoàn toàn không biết gì về công việc của chúng ta đang làm cả.”
Chú thích:
(1) Vũ khí cổ đại trông giống mũi giáo