watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Vũ điệu quỷ-Chương 23 - tác giả Jonathan Kellerman Jonathan Kellerman

Jonathan Kellerman

Chương 23

Tác giả: Jonathan Kellerman

Tôi ôm Robin đặt lên giường và ra ngoài phòng khách chờ. Milo gõ cửa nhẹ nhàng ngay trước lúc nửa đêm. Anh mặc áokhoác bên ngoài áo len cao cổ, quần vải chéo và có cả áo gió. Tất cả đều màu đen. Trông anh giống hệt tay mê nhạc jazz lập dị của Los Angeles.

Tôi nói:

- Để lẩn vào bóng đêm à, Zorro?

Milo không trả lời câu nói đùa của tôi mà vào việc luôn:

- Chúng ta sẽ đi xe của anh. Tôi không mang chiếc Porsche đến đây.

Tôi lái con Seville ra, Milo đưa túi đồ vào cốp xe và nói:

- Đi thôi.

Tôi theo hướng dẫn của anh, đi vào đường Sunset về phía Tây xuống đường 405 phía Nam, hoà vào dòng xe tải và xe khách đang hướng ra sân bay. Tới ngã tư giao với đường Santa Monica, tôi chuyển hướng đi về Los Angeles và rẽ sang phần đường cao tốc. Đêm đã về khuya nên đường vắng vẻ hơn và thoáng chút hơi ẩm.

Milo hạ kính cửa sổ xuống, châm một điếu xì gà nhỏ và nhả khói ra thành phố. Anh có vẻ mệt mỏi như thể cuộc nói chuyện qua điện thoại với tôi làm cho anh đứt ohiư. Tôi cũng thấy hơi mệt và cả hai cùng không nói gì với nhau. Tới gần La Brea, một chiếc xe hơi thể thao dáng dấp bám đuôi chúng tôi, xi nhan và vượt qua với tốc độ chóng mặt. Milo ngồi bật dậy như phản xạ của một tay cớm, nhìn chiếc xe biến mất trước khi ngả người trở lại và lơ đãng nhìn qua kính chắn gió.

Tôi nói để phá vỡ sự im lặng:

- Đã ba phần tư đêm rồi đấy.

- Bảy phần tám mới đúng. Giờ này thì những kẻ điên đã ra đường hết rồi. Cứ đi theo đường số 10 qua chỗ giao nhau và rẽ vào đường Santa Fe.

Anh tiếp tục chỉ đường cho tôi bằng giọng khàn khàn như càu nhàu đến một khu rộng rãi yên ắng toàn nhà kho và các cửa hàng đại lý. Không có đèn đường, không có người đi lại, phương tiện duy nhất chúng tôi nhận ra đó là một chiếc xe đỗ tít bên trong hàng rào cơ quan an ninh. Bây giờ chân trời đã quang đãng hơn và có chút ánh sáng. Chắc là do chúng tôi đã ở cách xa biển hơn.

Milo hướng dẫn tôi liên tục rẽ vào các khúc cua gấp và hẹp của những con phố và hẻm như lạc vào ma trận mà tôi chưa từng chứng kiến trong đời. Anh đã dập tắt điếu xì gà nhưng mùi vị của nó thì vẫn còn phảng phất trong xe. Milo kéo kính xe lên và tôi cũng kịp nhận ra có mùi gì đó rất nặng như mùi khét của quần áo bị cháy xộc vào xe của chúng tôi. Mặc dù cửa kính đã được kéo lên nhưng thứ mùi đó vẫn xuyên vào xe cùng với những tiếng ồn ào nghe lạnh và chát chúa như những bàn tay thép khổng lồ vỗ vào nhau.

- Hướng nhà chế biến và đóng gói thịt hộp phía đông Los Angeles đường đi Vernon - Anh nói - Ngày đầu tiên vào ngành, tôi lái một chiếc Cruiser xuông khu vực này tuần tra ban đêm. Hồi đó người ta hay làm thịt lợn và ban đêm và co thể nghe thấy rất rõ tiếng chúng kêu eng éc. Bây giờ thì tôi nghĩ họ thịt lợn mà không làm chúng kêu nữa. Mà, đây rồi, rẽ phải sau đó rẽ trái luôn. Đi qua một khối nhà và anh có thể dừng ở bất cứ đâu cũng được.

Khu phố chúng tôi đến nhẵn nhụi và được bọc rào hai bên. Cỏ mọc trùm lên những đoạn đường trải nhựa như tóc trên đầu người ta vậy. Xe hơi đỗ dọc theo hai bên phố sát với bờ rào.

Tôi cho xe táp vào khoảng trống đầu tiên mà tôi nhận ra ngay trước một chiếc BMW cũ. Chúng tôi ra khỏi xe, không khí đã mát mẻ trở lại nhưng mùi lò mổ ban nãy thì vẫn còn phảng phất. Có thể gió đã đổi hướng nhưng tôi không nhận ra. Có thể gió đã đổi hướng nhưng tôi không nhận ra. Tiếng kêu của động cơ không còn mà thay vào đó là tiếng nhạc pha lẫn giữa đàn organ điện tử, tiếng bass trầm và đàn guitar.

- Đang diễn ra dạ tiệc à? Điệu khiêu vũ của tuần là gì? - Tôi hỏi Milo.

- Felony lambada. Đi nhẹ nhàng theo tôi - Milo nói, cho tay vào túi áo và tiến về phía trước.

Chúng tôi bắt đầu đi dọc theo con phố đến chỗ toà nhà không có cửa sổ ở cuối đường. Tường của ngôi nhà không được sơn cẩn thận để lộ phần gạch bên trong đã chuyển thành màu hồng dưới ánh sáng đèn. Cửa chính của toà nhà ba tầng làm bằng thép và có các cửa chớp. Khi gần đến toà nhà tôi nhìn thấy dòng chữ: "Công ty phân bón và kali Baker".

Tiếng nhạc nghe rõ hơn. Một giọng hát trầm, khoẻ vang lên. Bây giờ tôi đã có thể nghe được giọng hát xen lẫn trong tiếng nhạc. Tôi nhìn thấy một nhóm người đang xếp hàng trước cửa ra vào.

Chúng tôi đi qua hàng người đó, những khuôn mặt lạ lẫm quay sang nhìn chúng tôi không ngớt như nhìn người ngoài hành tinh. Nhóm người này mặc đồng phục đen, mặt rầu rĩ như đưa đám. Ánh sáng đèn từ ngôi nhà mờ mờ như ánh trăng. Một giọng phê bình thô thiển nổi lên giữa tiếng đàn organ và tiếng ai đó cười. Nghe giọng tôi đoán người này khoảng mười tám đến hai mươi tuổi.

Cánh cửa mà nhóm người kia chờ phía trước bám đầy bụi, và đang cài then. Một thanh niên mặc áo len cao cổ không tay, đi ủng cao đang đứng trước cửa. Anh ta khoảng ngoài hai mươi, trông có vẻ đần độn, mắt mơ màng. Tôi nhận ra trên mặt anh ta còn sót vài vết lấm tấm, hậu quả của một đợt điều trị hoá học trị liệu.

Mấy đứa trẻ ở phía trước hàng người đang nói chuyện với anh ta. Anh ta không trả lời bọn trẻ và cũng không nhận ra chúng tôi đang đến hoặc cố tình lờ đi.

Milo đến sát anh ta và nói:

- Chào anh.

Anh ta vẫn tiếp tục nhìn đi nơi khác.

Milo nhắc lại. Lần này thì anh tau quay mặt lại và càu nhàu với dáng vẻ rất tức cười. Mấy người ở phía trước hàng để ý đến chúng tôi và có ai đó nói:

- Đúng là kung-fu hảo hạng.

Gã thanh niên mỉm cười khoanh tay quay đi chỗ khác và ngáp. Milo tiến đến sát anh ta, giơ cái phù hiệu cảnh sát vào bộ mặt đầy thịt. Không biết anh lấy cái phù hiệu từ trong túi ra lúc nào.

Gã thanh niên vẫn càu nhàu nhưng có vẻ chịu nhún. Tôi ngoái sang bên cạnh, một cô gái tóc đỏ hung đang nhìn về phía tôi, tay đung đưa bím tóc. Tay thanh niên đang xoa ngực cô ta nhổ bãi nước bọt và nhìn tôi hằn học.

Milo xoay tấm phù hiệu ra trước mặt gã thanh niên. Gã đó nhìn theo nó như bị thôi miên. Milo vẫn giơ tấm phù hiệu, gã đó chăm chú đọc.

Có tiếng ai đó chửi đổng. Người khác lại hú lên như chó sói trong tiểu thuyết của Jack London.
Milo nói:

- Mở cửa ra Spike, nếu không tôi sẽ kiểm tra giấy tờ.

Tiếng hát đồn thanh vang át cả tiếng nhạc. Gã thanh niên cau mày nhăn mặt như bị đau. Cuối cùng gã ta cười và lùi lại phía sau.

- Ông mở cửa đi.

- Chìa khoá đâu?

Milo lùi lại một chút để lấy chỗ cho gã to lớn và quan sát gã ta. Gã thanh niên lấy chìa khoá ra, nhấc ổ khóa lên mở cửa và rút thanh chốt.

Cửa hé mở. Hơi ấm, tiếng ồn và ánh sáng từ trong ùa ra.

Gã thanh niên đi lên phía trước. Đám đông phía sau lùi lại nhưng một số người la lên phản đối. Gã thanh niên giơ tay lên cao khua khua vài động tác. Ánh sáng từ bên trên rọi xuống khiến tròng mắt của anh ta biến thành màu đỏ.

- Chó má! - Anh ta chửi đổng.

Milo nói:

- Ấn tượng đấy, Spike.

Gã thanh niên vẫn nhìn hàng người phía sau, miệng thở hổn hển. Tiếng ồn vẫn phát ra từ khe cửa đã hé.

Milo đặt tay lên cái chốt cửa khiến gã thanh niên chú ý.

Có tiếng ai đó chửi bới phía sau.

Milo nói:

- Chúng ta sẽ đi vào, cứ để bọn người đó ở ngoài.

Gã thanh niên đã ngậm miệng lại và thở bằng mũi.

Một bên mũi của anh ta sủi cả bọt.

- Tôi không phải là Spike, tôi là James - Anh ta giải thích.

Milo cười nhẹ:

- Được, anh làm tốt đấy James. Đã bao giờ làm việc tại hiệu cầm đồ Mayan chưa?

Gã thanh niên dùng tay gạt nước mũi.

- Hả? - Gã có vẻ suy nghĩ.

- Thôi, coi như tôi chưa nói gì - Milo nói.

Gã thanh niên có vẻ bị tổn thương:

- Ông định nói gì thế? Đề nghị ông nghiêm túc cho.

- Tôi nói cho anh có tương lai tươi sáng James ạ. Anh có thể ra ứng cử chức phó tổng thống.



Căn phòng bên trong rộng, ánh sáng lờ mờ, nền láng xi măng, những chỗ tường mà tôi có thể nhìn thấy được sơn màu gạch. Trần nhà đầy những đường điện, đường ống nước và các thiết bị.

Phía xa, bên trái là quầy bar đầy chai lọ, đồ uống, nắp chai. Trên giá vẫn còn lưng xô đá.

Hai người đàn ông phục vụ liên tục lau những tấm kính bám đầy nước.

Phần còn lại của gian phòng là sàn nhảy với những đọi trai gái đang quấn chặt vào nhau uốn lượn.

Milo đi qua những cặp đang khiêu vũ hướng về phía quầy bar. Tôi cũng đi theo anh. Chúng tôi đi thẳng ra phía sau quầy. Cả hai người chủ quầy đều gầy, đen, râu quai nón. Người ở gần phía Milo đầu hói.

Milo đi đến chỗ người hói. Anh này tưởng chúng tôi đến uống rượu, tự động rót côca pha với rượu Rum. Milo tóm cổ tay anh ta. Người phục vụ kinh ngạc vội đặt can côca xuống và cố giằng tay ra.

Milo giữ chặt và đưa tấm phù hiệu ra một cách bí mật không để người khác nhận ra ai trên tấm phù hiệu và thì thầm với người phục vụ quầy. Hai bên trao đổi qua lại gì đó và cuối cùng người phục vụ chỉ vào người còn lại. Milo thả tay anh ta ra. Người hói đi đến chỗ bạn mình hỏi gì đó với rồi quay lại chỗ Milo tỏ vẻ đồng ý.

Tôi theo hai người vào lối đi trơn trượt đầy nước quanh sàn nhảy tới cuối căn phòng và đi qua cánh cửa gỗ bên trên ghi "Nhà vệ sinh". Phía bên trong nữa là một phòng dài vắng vẻ nền cũng làm bằng xi măng. Chỉ có vài đôi đang tình tự trong bóng tối. Cuối căn phòng này lại có một cánh cửa khác làm bằng kim loại như cánh cửa bên ngoài mà gã thanh niên to lớn đứng gác.

Người phục vụ hói đầu hỏi bằng giọng the thé:

- Bên ngoài ấy đấy, các ông tự ra được chứ?

- Phía ngoài ấy là gì thế, Robert?

Người phục vụ gãi cằm:

- Là khu hậu.

Milo đẩy cánh cửa ra ngoài và tóm lấy cánh tay của người phục vụ. Cả ba chúng tôi đi ra khu đỗ xe nhỏ có hàng rào ở bên ngoài. Chỉ có một chiếc xe tải nhỏ cùng với ba chiếc xe hơi đậu ở đó. Milo đưa người phục vụ đến một chỗ khá sạch sẽ ở giữa bãi.

Anh nói với tôi:

- Đây là Robert Gabray, người pha cocktail xuất chúng.

Quay sang Robert:

- Anh có đôi bàn tay thật tài tình, Robert.

Robert lắc ngón tay và nói:

- Tôi đang phải làm việc.

- Nguyên tắc cũ của người Tin lành hả?

Vẻ mặt anh ta lơ đễnh:

- Anh thích làm việc lắm à, Robert?

- Buộc phải làm thôi. Họ ghi chép mọi thứ.

- Họ là ai?

- Những người chủ.

- Họ ở đó giám sát anh à?

- Không, nhưng họ có người giám sát.

- Cứ như CIA ấy nhỉ.

Robert im lặng.

- Ai trả lương cho anh, Robert?

- Vài người.

- Người đó là ai?

- Họ là chủ ngôi nhà.

- Tên họ ghi trên séc trả lương cho anh là gì?

- Tôi không được trả bằng séc.

- Họ trả anh bằng tiền mặt à?

Anh ta gật đầu:

- Hãy nói đi, đừng chối quanh. Họ là ai?

- Là một vài người A rập.

- Tên?

- Fahrizad, Nahrizhad, Nahrishit.

- Nghe như là người I ran ấy chứ không phải là người A rập.

- Gì thì gì, tôi không biết.

- Anh làm việc ở đây bao lâu rồi?

- Vài tháng.
Milo lắc đầu:

- Tôi không nghĩ vậy, Robert. Anh có thể nói lại được không?

- Cái gì? - Gabray có vẻ ngạc nhiên.

- Nghĩ xem vài tháng trước anh thực sự ở đâu?

Gabray khẽ nhún vai.

- Anh lạnh à?

- Không sao, không sao, vậy thì tôi mới làm ở đây được vài tuần thôi.

- A... như thế tốt hơn rồi đó.

- Thế nào cũng được.

- Nghĩa là tháng và tuần đối với anh đều như nhau cả à?

Gabray không trả lời.

- Có vẻ như là nhiều tháng rồi phải không?

- Thế nào cũng được.

- Khi rong chơi thì thời gian thường trôi qua nhanh phải vậy không?

- Tôi nghĩ thế.

Milo tiếp:

- Hai tuần có vẻ phù hợp hơn, Robert. Anh chỉ nhầm thôi chứ anh không định nói dối tôi, phải không?

- Đúng vậy.

- Anh quên là hai tháng trước anh không làm việc ở đâu cả vì anh đang ở trong nhà giam của hạt vì tội quấy rối.

Robert lại nhún vai.

- Rõ ràng rồi đó, Robert. Anh đã vượt đèn đỏ và trong xe chở con người đó.

- Nhưng đó không phải là lỗi của tôi.

- Vậy à.

- Đúng là như vậy đấy, thưa ông.

- Thế ra anh đã nhận tội thay cho ai đó à?

- Đúng.

- Anh quả là người tốt, người anh hùng thực sự đấy nhỉ.

Gabray lại nhún vai, tay đưa lên gãi gãi cái đầu hói.

- Anh ngứa à?

- Không, không sao.

- Anh không bị lạnh vì thèm thuốc đấy chứ?

- Không, thưa ông.

Milo nhìn tôi:

- Anh Robert đây vừa hoà chất bột và chất lỏng như một nhà hoá học nghiệp dư đấy. Co phải vậy không Robert?

Lại nhún vai.

- Anh làm việc ban ngày à?

Robert lại lắc đầu.

- Viên cảnh sát hỏi cung anh có biết anh làm việc ở đây không?

- Tại sao tôi lại không làm ở đây được?

Milo tiến lại gần hơn và mỉm cười lặng lẽ:

- Bởi vì anh nên tránh những ảnh hưởng không tốt và những người trong kia không có gì là tốt đẹp đâu.

Gabray cắn môi nhìn xuống:

- Ai nói với ông là tôi làm ở đây?

Milo nói:

- Tôi không thể trả lời câu hỏi đó.

- Có phải con chó đẻ đó không?

- Chó đẻ nào?

- Ông biết mà.

- Làm sao tôi biết được?

- Chắc hẳn ông phải biết mụ ta thì ông mới tìm được tôi ở đây chứ?

- Anh giận cô ấy lắm phải không?

- Hừ...

- Không à?

- Tôi chỉ không phát điên thôi.

- Không phát điên thì làm sao?

- Không sao thưa ông.

- Thế anh định trả thù à?

Gabray nói:

- Tôi có thể hút thuốc được không?

- Cô ta bảo lãnh cho anh. Và đối với tôi thì hành động đó rất đáng ghi nhận - Milo nói.

- Tôi sẽ lấy cô ta. Tôi có thể hút thuốc không?

- Chắc chắn rồi, anh là người tự do mà, ít nhất là đến lúc anh bị kết án. Và tự do vì con chó đẻ đó trả tiền bảo lãnh cho anh.

Gabray rút một bao Kools ra khỏi túi quần, Milo đã bật sẵn lửa.

- Thế ba tháng trước anh ở đâu Robert?

Robert hút thuốc với ánh mắt thờ ơ.

- Một tháng trước khi anh bị bắt ấy. Đó là tháng Ba.

- Ông muốn biết gì, thưa ông?

- Hãng cầm đồ Mayan.

Gabray hút thuốc và nhìn lên trời.

- Còn nhớ không, Robert?

- Cái gì cơ?

- Cái này - Milo lấy thứ gì đó trong túi áo sơ-mi ra. Đó là một chiếc bút bật lửa và một tấm ảnh màu. Anh giương tấm hình ra trước mắt Gabray và soi đèn. Tôi bước ra phía sau Gabray và nhìn qua vai anh ta.

Cùng một khuôn mặt như trong tấm hình chụp nhanh mà Murtaughs đã cho tôi xem. Trán người đó hẹp đến nỗi có cảm tưởng như nó không đủ để chứa bộ não ở trong. Trên da đầu chỉ còn một búi tóc pha giữa màu đen và đỏ. Màu da như màu vỏ trứng. Người đó đeo một chiếc vòng cổ cũng như màu đen và đỏ như màu tóc, đôi mắt đỏ tía như trứng đánh rượu.

Gabray hỏi:

- Thế là sao?

- Còn nhớ cô ta không?

- Tôi ư?

- Tên cô ta là Dawn Herbert. Cô ta bị sát hại gần hiệu cầm đồ Mayan và anh đã từng nói với cảnh sát là anh nhìn thấy cô ta cùng với một vài gã đàn ông khác.

Gabray nhướng mày và cười nhẹ:

- Chuyện chỉ có thế thôi sao? Vâng, có thể là tôi đã nói với họ như thế.

- Có thể ư?

- Vâng, đã lâu lắm rồi thưa ông.

- Ba tháng.

- Đó là khoảng thời gian dài, thưa ông.

Milo tiến gần hơn đến chỗ Gabray và nhìn trừng trừng gã đàn ông không hề nhỏ hơn anh.

- Anh có giúp chúng tôi chuyện này hay không? - Milo hăm doạ và phe phẩy tấm hình trước mặt Gabray.

- Thế có chuyện gì đã xảy ra với mấy tay cớm kia à? Tôi nghĩ một trong số họ là tay tống tiền.

- Họ đã nghỉ hưu sớm rồi.
Gabray cười:

- Ở đâu? Ở Tia Wanna à?

- Hãy nói chuyện với tôi đi, Robert.

- Tôi không biết gì cả.

- Anh nhìn thấy cô ta cùng với một gã đàn ông?

Nhún vai.

- Thế anh đã nói dối những cảnh sát tội nghiệp, tận tuỵ với công việc đó à?

- Tôi ư? Không bao giờ.

- Cho tôi biết những gì anh đã nói với họ.

- Thế họ không ghi cuộc nói chuyện đó lại hay sao?

- Dù sao thì tôi cũng muốn anh nói lại cho tôi nghe.

- Lâu lắm rồi.

- Ba tháng.

- Đó là khoảng thời gian dài, thưa ông.

- Có thể thế. Tổng số là chín mươi ngày và tôi nghĩ thế này: Trí nhớ của anh dù có tồi tệ đến đâu thì cũng có thể nhớ được mọi chuyện xảy ra cách đây thậm chí đến cả chín tháng.

Gabray nhìn tấm ảnh rồi quay đi và lại hút thuốc.

- Đó không phải là tôi.

Milo cười:

- Đó có phải là sự chống chế của anh không?

Gabray cau mày vo vo điếu thuốc và hút:

- Ông nói ông có thể giúp tôi phải không?

- Điều đó còn tuỳ thuộc và anh.

- Tôi đã nhìn thấy cô ta.

- Với một người đàn ông?

Gật đầu.

- Kể cho tôi nghe toàn bộ câu chuyện đi Robert.

- Chỉ có vậy thôi.

- Hãy kể như một câu chuyện có mở đầu có kết thúc.

Gabray cười khẩy:

- Ồ được thôi. Một hôm... tôi nhìn thấy cô ta cùng với một người đàn ông. Hết.

- Ở trong câu lạc bộ?

- Ở ngoài.

- Chỗ nào ở ngoài?

- Cách đó khoảng một dãy nhà.

- Đó là lần duy nhất anh nhìn thấy cô ta?

Gabray trầm ngâm:

-Có thể tôi có nhìn thấy cô ta một lần nữa ở trong câu lạc bộ.

- Cô ta có thường xuyên đến đó không?

- Tôi cũng không rõ.

Milo thở dài và vỗ vai người phục vụ.

Gabray chùn vai mỗi lần Milo vỗ vào anh ta.

- Robert ơi là Robert.

Mỗi lần nghe gọi đến tên mình, Robert lại giật mình đánh thót một cái:

- Chuyện gì vậy?

- Đó không giống như một câu chuyện chút nào.

Gabray châm một điếu thuốc khác. Anh ta chờ Milo châm lửa cho nhưng khi thấy Milo không đưa bật lửa ra, anh ta lấy bao diêm trong túi và tự châm cho mình.

- Tôi có nhìn thấy cô ta một lần nữa. Vậy thôi, tôi mới chỉ làm việc ở đây có vài tuần.

- Anh có gặp khó khăn để duy trì công việc ở đây không, Robert?

- Tôi thích di chuyển.

- Quả là con người thích ngao du.

- Thế nào cũng được.

- Hai lần đến câu lạc bộ trong vài tuần. Có vẻ cô ta cũng thích chỗ đó.

- Mẹ kiếp! Tất cả bọn họ chỉ đến chơi bời đàn đúm rồi cuốn gói lên xe của mình.

- Dawn Herbert xuất hiện ở đây như một người giàu có?

- Tất cả bọn họ đều như vậy, thưa ông.

- Anh đã bao giờ nói chuyện với cô ta chưa?

Có vẻ gì đó hoảng hốt trong con mắt người đứng quầy bar:

- Không, tôi nói tôi chỉ nhìn thấy cô ta một hai lần gì đó thôi. Tôi không thân quen cô ta. Tôi cũng chẳng liên quan gì đến cô ta và chuyện đó cả.

- Anh có chắc không?

- Chắc chắn rồi, đó đâu phải là chuyện của tôi.

- Thế anh nhìn thấy cô ta cùng với một người đàn ông như thế nào?

- Như tôi đã nói, có một lần tôi đang hút thuốc và có một lần tôi đi lấy thuốc lá thì nhìn thấy cô ta. Lý do duy nhất mà tôi nhớ đó là người đàn ông. Ông ta không phải là một trong số họ.

- Trong số những người nào?

- Những tay chơi bời. Cô ta là người như vậy nhưng ông ta thì không. Ông ta dường như khác hẳn.

- Khác hẳn thế nào?

- Nghiêm nghị.
- Ông ta là doanh nhân à?

- Không.

- Thế thì là cái gì?

Gabray nhún vai không nói gì.

- Ông ta có mặc com-lê không?

Gabray rít mạnh điếu thuốc và nói:

- Không, ông ấy mặc gần giống như ông hôm nay, áo jacket của hãng Sears Roebuck.

- Ông ta có mặc áo gió à?

- Vâng.

- Màu gì?

- Tôi nghĩ là màu đen, lâu rồi.

- Thế ông ta còn mặc những gì nữa?

- Quần, giầy. Trông ông ta cũng như ông hôm nay vậy.

- Giống thế nào?

- Tôi không rõ.

- To cao chắc chắn?

- Vâng.

- Cùng tầm tuổi với tôi?

- Vâng.

- Cũng cao như tôi?

- Vâng.

- Màu tóc giống tôi?

- Vâng.

- Anh có hai "chim" à?

- Hả?

- Hãy thôi ngay cái trò vớ vẩn của anh đi. Tóc ông ta thế nào?

- Ngắn.

- Hói hay không hói?

Gabray cau mày sờ lên đầu mình nói miễn cưỡng:

- Ông ta có tóc.

- Ông ta có để râu hoặc ria không?

- Tôi không rõ, lúc đó tôi ở xa quá.

- Nhưng anh không nhớ chút gì về nét mặt ông ta à?

- Không.

- Ông ta khoảng bao nhiêu tuổi?

- Tôi không rõ, khoảng bốn mươi, năm mươi gì đó.

- Anh mới hai mươi chín tuổi và ông ta già hơn anh rất nhiều?

- Tôi hai mươi tám, tháng tới tôi mới sang tuổi hai mươi chín.

- Chúc mừng sinh nhật. Ông ta có già hơn anh không?

- Già hơn rất nhiều.

- Có đáng tuổi cha anh không?

- Có thể.

- Có thể sao?

- Không, ông ta không già đến thế, chỉ tầm bốn mươi hoặc bốn mươi lăm thôi.

- Tóc ông ta màu gì?

- Tôi không rõ, hình như màu nâu thì phải.

- Có chắc không?

- Có thể.

- Nâu nhạt hay nâu đậm?

- Tôi không rõ, lúc đó là ban đêm mà.

- Thế còn tóc của cô ta màu gì?

- Ông có ảnh ở đó rồi còn gì?

Milo chìa tấm ảnh ra cho anh ta xem và hỏi:

- Trông cô ta có giống như trong bức ảnh này không?

Gabray ngả người ra và liếm môi:

- Ơ... tóc của cô ta khác.

- Chắc chắn rồi. Lúc này đầu cô ta đâu có bị làm gì.

- Không. Tôi muốn nói màu tóc cơ. Tóc cô ta màu vàng, vàng thực sự như lòng trứng vậy. Ông rất dễ nhận ra dưới ánh sáng.

- Cô ta dứng dưới ánh sáng à?

- Vâng, tôi nghĩ thế. Hai người họ đứng dưới ánh đèn đường một thoáng và khi họ nghe thấy tiếng tôi đến thì họ tách ra.

- Anh không nói với các cảnh sát khác về chuyện ánh sáng?

- Họ không hỏi.

Milo cất bức ảnh đi. Gabray hút thuốc và nhìn đi nơi khác.

Milo hỏi tiếp:

- Cô Herbert và người đàn ông đẹp trai này làm gì dưới ánh sáng?

- Họ nói chuyện.

- Tóc của ông ta màu vàng à?

- Tôi nói với ông là tóc của cô ta mới màu vàng, ông có thể nhận ra được mà. Màu nó giống như màu vỏ chuối - Gabray bật cười trong họng.

- Còn tóc của ông ta màu nâu?

- Đúng vậy. Nếu điều quan trọng thì sao ông không ghi lại?

- Anh còn nhớ gì về ông ta không, Robert?

- Vậy thôi.

- Trạc tuổi trung niên, áo gió màu đen, tóc nâu đen. Như thế chưa đủ để trao đổi, Robert.

- Tôi đã kể cho ông những gì tôi thấy.

Milo quay sang nhìn tôi:

- Chúng ta đã cố giúp anh ta rồi.

Người trông quầy bar hỏi lại:

- Phải chăng ông đã bắt được kẻ nào đó?

Milo không quay lại và hỏi:

- Anh muốn nói gì?

- Muốn nói một gã tội phạm nào đó. Tôi không muốn nói với ông chuyện gì để rồi bị kẻ tội phạm nào đó tìm giết.

- Anh chưa nói gì nhiều với tôi cả, Robert ạ.

- Phải chăng ông đã bắt được một kẻ phạm tội?

Milo từ từ quay mặt về phía anh ta.
- Kẻ mà tôi bắt được chính là anh đấy, Robert ạ. Anh đang cố quanh co, lừa dối tôi, cố gắng che đậy những bằng chứng về cái gã anh đã chở trên xe. Tôi cứ nghĩ là sáu tháng - hoá ra lại không phải, anh nói với tôi toàn chuyện cách đây cả năm rồi.

Gabray chìa tay ra:

- Tôi chỉ không muốn có kẻ bám theo để giết tôi thôi. Người đàn ông này đúng là...

- Là gì?

Gabray im lặng.

- Người đàn ông ấy là gì, Robert?

- Một kẻ phạm tội - được chưa? Trông gã ta có vẻ nghiêm trọng. Một kẻ tàn nhẫn.

- Anh có thể nhận ra điều đó từ xa?

- Tôi có thể nhận ra điều đó. Cách ông ta đứng... giầy của ông ta cũng to và cũ như giầy của ông đang mang hôm nay.

- Anh có thể nhìn thấy giầy của ông ta sao?

- Không rõ lắm nhưng giầy của ông ta to, tôi chưa từng thấy đôi giầy nào to như thế bao giờ. Ông muốn gì ở tôi, tôi đang sẵn sàng giúp các ông đây.

- Đừng lo Robert. Hiện tôi chưa hề bắt giam ai cả.

-Chuyện gì xảy ra nếu như... - Gabray ấp úng.

- Nếu như cái gì?

- Nếu như tôi nói cho ông nghe và có thể ông bắt giữ ông ta. Nhưng biết đâu ông ta lại được thả ra khỏi nhà tù và tìm đến giết tôi thì sao?

Milo lại đưa tấm hình ra:

- Hayz nhìn xem ông ta đã làm gì, Robert. Chúng tôi có nên để ông ta tự do không?

- Điều đó chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi cả. Tôi không tin vào ngành của các ông.

- Vì sao?

- Vâng, tôi đã chứng kiến nhiều quý ông làm những điều tồi tệ mà vẫn nhởn nhơ bên ngoài đó thôi.

- Đừng bi quan quá, Robert. Một khi chúng tôi tìm thấy ông ta thì ông ta sẽ không trốn được nữa. Anh giúp chúng tôi tìm ra ông ta, anh cũng sẽ được tự do.

Gabray vẫn hút thuốc và chau mày.

- Thế nào, Robert?

- Tôi đang suy nghĩ.

- Ồ vậy thì ta nên giữ im lặng một lát nhỉ - Milo nói với tôi.

Robert nói tiếp:

- Tôi có nhìn thấy mặt của ông ta nhưng chỉ thoáng qua thôi.

- Thế hả? Ông ta có giận dữ hay có thái độ gì à?

- Không, chỉ nói chuyện với cô ta thôi.

- Thế cô ta làm gì?

- Nghe tôi nói đây. Lúc tôi nhìn thấy họ, tôi nghĩ: con điếm này lại nghe cái lão mặt lúc nào cũng nghiêm nghị kia nói chuyện thì thật vô lý quá.

- Gã trông giống như là tội phạm kia mà.

- Đúng thế, nhưng cũng vẫn không hợp cảnh. Tất cả những gì người ta có thể nhìn thấy lúc đó là những kẻ quái đản, bọn buôn ma tuý và cớm. Lúc đầu tôi nghĩ ông ta là một tay cớm nhưng sau đó tôi nhận ra lão ta đúng là một tên tội phạm.

- Họ nói về chuyện gì?

- Tôi không nghe rõ thưa ông, lúc đó...

- Ông ta có cầm cái gì đó không?

- Ví dụ như?

- Gì đó chẳng hạn.

- Ý ông là muốn nói cái gì có thể đánh cô ta phải không? Tôi không nhìn thấy gì ả. Ông cho rằng chính ông ta giết cô gái?

- Mặt ông ta như thế nào?

- Mặt hình chữ nhật... À không, hơi vuông - Gabray đưa điếu thuốc lên miệng và làm động tác miêu tả khuôn mặt của người đàn ông.

- Nước da ông ấy thế nào?

- Ông ấy da trắng.

- Có xanh xao hay ngăm đen không?

- Tôi không rõ, có lẽ là người da trắng.

- Cùng màu da với cô ta?

- Cô ta trang điểm nhưng có vẻ ông ta không trắng bằng cô ta.

- Mặt ông ta màu gì?

- Lúc đó tôi ở quá xa để có thể nhận ra điều đó, thưa ông.

- Bao xa?

- Tôi không rõ, khoảng một nửa dãy nhà.

- Thế mà anh có thể nhận ra giầy của ông ta?

- Có thể gần hơn... Tôi nhận ra giầy của ông ta nhưng không nhận ra màu mắt của ông ta.

- Ông ta cao bao nhiêu?

- Cao hơn cô ta.

- Có cao hơn anh không?

- Có thể nhưng không nhiều.

- Anh cao bao nhiêu?

- 1,75 mét.

- Vậy thì ông ta cao khoảng 1 mét 78 hay 1 mét 80 phải không?

- Khoảng đó.

- Ông ta có to lớn không?

- Có, nhưng không béo lắm, ông biết đấy.

- Nếu tôi biết thì tôi đã không làm phiền anh.

- Trông ông ta to khoẻ như dân lao động vậy.

- Có cơ bắp không?

- Có.

- Liệu anh có nhận ra ông ta nếu gặp lại không?

- Tất nhiên rồi. Tôi có trí nhớ tốt. Không tin ông cứ đưa ông ta vào một hàng người, tôi vẫn nhận ra.

- Anh thúc giục tôi à, Robert?

Gabray cười nhún vai:

- Chỉ quan tâm đến việc đó thôi.

Milo nói:

- Vậy thì hãy quan tâm đến người này xem sao.
Chúng tôi đưa Gabray đi qua một khu đất phía sau đầy mẩu cao su ở phía đông ngôi nhà và vòng ra đường. Đám đông ở phía trước ngôi nhà vẫn còn đó. Lần này thì gã thanh niên gác cửa nhận ra chúng tôi khi chúng tôi đi qua.

Gabray lí nhí câu nói tục gì đó với gã thanh niên.

Milo hỏi:

- Gã đàn ông ấy có to bằng James không?

- Không, không.

Milo đẩy anh ta lên phía trước và vẫn tiếp tục hỏi trong suốt quãng đường đến chỗ xe của chúng tôi.

- Xe đẹp quá nhỉ. Ông tịch thu được nó à? - Gabray hỏi khi chúng tôi đi đến chỗ chiếc Seville.

- Không, bằng lao động đấy. Đúng như nguyên tắc cổ của người theo đạo Tin lành.

- Tôi là người theo đạo Thiên chúa. Tôi cũng từng theo đạo Tin lành nhưng tất cả các loại tôn giáo đó chỉ là chuyện phù phiếm.

Milo nói:

- Đủ rồi Robert, lên xe đi.

Anh mở cửa xe và hai người cùng ngồi vào ghế sau, cửa sau vẫn mở cho sáng. Tôi đứng ở ngoài và quan sát anh mở chiếc vali trong đó có cuốn sách ghi Indentikit. Milo cho Gabray xem các mảnh ghép hình mặt người ở trong. Gabray chọn một số cái và đặt chúng lại với nhau. Khi anh ta hoàn thành công việc thì khuôn mặt của một người Cáp-ca điển trai hiện lên.

Milo nhìn kỹ khuôn mặt, viết cái gì đó và yêu cầu Gabray đánh dấu một vài điểm trên bản đồ thành phố. Sau vài câu hỏi, hai người ra khỏi xe.

- Xong chưa thưa ông?

- Hôm nay thì xong, Robert. Tôi không muốn nhắc anh điều này nhưng anh không nên đổi địa chỉ. Hãy ở nơi tôi có thể tìm anh.

- Không có gì - Gabray nói và bước đi.

Milo khoác vai anh ta và nói:

- Tôi sẽ viết ba lá thư, một lá cho viên cảnh sát cai quản anh nói anh đang làm việc ở đây mà không nói với ông ta, một lá cho ông Farizad và những người bạn của ông ta nói anh tố cáo họ và lá thứ ba cho cơ quan thu thuế địa phương nói anh đã nhận rất nhiều tiền mà không khai báo nộp thuế.

Gabray nhăn mặt vặn mình:

- Ôi... ông...!

- Và một bản báo cáo tới công tố viên về những tật xấu của anh, cho họ biết anh đã cản trở, không hợp tác. Tôi không thích viết thư chút nào, Robert, nhưng để quan tâm đến anh thì tôi không những sẽ viết mà còn đích thân đưa tận tay họ. Nếu anh biết điều thì tôi sẽ xé chúng đi, anh hiểu không?

- Ôi, làm thế thì thật ác độc. Tôi đã thành thực mà.

- Không sao, anh nên tự biết cách xử sự, Robert.

- Vâng, chắc chắn rồi.

- Anh sẽ thực hiện chứ?

- Vâng, vâng. Tôi có thể đi được chưa? Tôi phải làm việc.

- Anh có nghe tôi không đó, Robert?

- Tôi nghe rồi thưa ông. Không thay đổi địa chỉ, làm tay do thám bẩn th ỉu, không hé răng, không có ý đồ xấu gì. Tôi có thể đi được chưa?

- Còn một điều nữa, Robert, đó là người đàn bà của anh.

- Ồ, vâng, cô ấy thì sao? - Giọng của Gabray nặng trịch vẻ thất vọng.

- Cô ta chuồn rồi. Đừng nghĩ đến chuyện bám theo cô ta. Và quan trọng là không được làm tổn thương cô ta vì cô ta đã nói chuyện với tôi nếu không tôi sẽ lập tức đến tìm anh và anh cũng chẳng có gì để phàn nàn kêu ca với cô ta cả.

Mắt của Gabray mở trừng trừng:

- Chuồn rồi à? - Ý ông là gì?

- Chuồn rồi, Robert. Cô ta muốn thoát khỏi anh.

Milo tiếp:

- Lúc tôi đến nói chuyện với cô ta thì cô ta đang chuẩn bị hành lý. Cô ta có vẻ khá sợ hãi vì anh đấy.

Gabray không nói gì.

- Cô ấy chịu đựng thế là đủ rồi đó, Robert.

Gabray vứt mẩu thuốc lá xuống chân và di nát:

- Cô ta nói dối. Con chó đẻ đáng ghét.

- Cô ta bảo lãnh cho anh mà.

- Cô ta nợ tôi, cô ta vẫn còn nợ tôi.

- Bỏ qua chuyện đó đi. Robert, hãy nghĩ về những bức thư.

- Vâng, tôi biết chuyện đó rồi. Tôi biết sống như thế nào mà.
Vũ điệu quỷ
Lời tác giả
Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 9
Chương 10
Chương 11
Chương 12
Chương 13
Chương 14
Chương 15
Chương 16
Chương 17
Chương 18
Chương 19
Chương 20
Chương 21
Chương 22
Chương 23
Chương 24
Chương 25
Chương 26
Chương 27
Chương 28
Chương 29
Chương 30
Chương 31
Chương 32
Chương 33
Chương 34
Chương 35
Chương 36
Chương 37 (Kết)