watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Sống nhờ-Chương 2 - tác giả Mạnh Phú Tư Mạnh Phú Tư

Mạnh Phú Tư

Chương 2

Tác giả: Mạnh Phú Tư

Người cô thứ ba tôi đã chết. Lại thêm cho tôi một nỗi khổ. Từ khi tôi mới lớn lên cho tới khi mẹ tôi đã đi lấy chồng, trừ mẹ tôi và bà tôi, có lẽ trong nhà chỉ còn có người cô thứ ba ấy là thương yêu tôi, tất cả sự trìu mến, tất cả cái hương vị của tình quyến luyến và lòng tha thiết với gia đình, chính người cô này đã gây cho tôi một phần lớn. Mẹ tôi yêu tôi, đó là một điều dĩ nhiên nhưng cô tôi mà lại luôn luôn vuốt ve nghĩ tới sự che chở săn sóc tôi, thực là một điều có lẽ suốt đời tôi không thể nào quên được. Trong hồi thơ ấu ấy, bao nhiêu cái không may xảy ra cho tôi. Từ khi mẹ tôi không còn ở lại để ấp ủ đứa con côi nữa, tôi chỉ biết vơ bám lấy người cô đó. Cái khổ vì không có mẹ tôi đã tưởng có thể nguôi bớt đi được bằng cách nấp náu bên người cô. Nào ngờ cô tôi lại sớm qua đời. Trong ba người cô, người thứ ba này gần gụi tôi hơn cả. Khi qua đời cô tôi mới mười chín tuổi.
Cô tôi được bà tôi yêu lắm, vì là con út. Trái hẳn với mọi người khác trong nhà, cô tôi rất dịu dàng, không hề gắt gỏng bao giờ. Lại được cái tính dễ bảo nên rất ít khi bị bà tôi chửi mắng. Tôi thấy bà tôi nói bố tôi giống hệt cô tôi, tôi lại càng quấn quít cô tôi hơn. Những lúc cô tôi ốm, tôi bên người, tôi chỉ đăm đăm nhìn mặt cô tôi để cố tưởng tượng xem cha tôi hình dung ra sao. Có khi tôi hình dung cha tôi cũng nhỏ bé, hiền hiền và cũng mặc quần áo như cô tôi. Nhưng chẳng hiểu vì lẽ gì, một đôi khi trái hẳn, tôi lại tin rằng cha tôi cũng giống chú lớn, hoặc chú hai tôi và cũng hung ác; giá có còn sống cũng chỉ đến đánh, chửi tôi suốt ngày như hai chú tôi. Nhắc lại hai người chú, tôi càng nhớ tiếc cô tôi. Những lúc hai chú hành hạ tôi, cô tôi vẫn tìm cách che chở tôi. Tôi nhớ mãi cái buổi chiều đông tôi bỏ nhà đi chơi quanh làng. Lúc trở về, trời đã tối trông không rõ mặt người. Tôi sợ quá phải chờ cho tới cái lúc đó mới dám về nhà. Tôi lấm lét lẩn vào gian nhà trên, rồi sờ mó trèo lên chiếc giường tre nằm co người ở một góc. Tiếng nan giường kêu lên răng rắc, có ngay tiếng người hỏi:
-Ai thế? Rõ ràng là tiếng chú hai tôi mà tôi không biết chú tôi ở đâu. Tôi giật mình ngồi hẳn dậy không nói gì, trừng trừng nhìn về phía có tiếng nói. Lúc đó tôi mới nhận thấy cái bóng người ngồi bó gối trên chiếc ghế con ngay gần cửa ra vào, không hề cựa quậy. Tôi sợ quá, cảm giác lúc ấy thực giống như lúc tôi thấy bóng bà tôi từ từ tiến đến gần giường mẹ tôi khi trước. Chú tôi lại hỏi:
-Ai thế? Tôi không dám nói gì, lại khè khẽ lẻn ra; mắt tôi không bao giờ rời khỏi cái bóng ngồi thu hình, tôi vấp phải một cây cột. Đầu tôi choáng váng. Hai mắt hoa lên, không còn nhìn rõ cái bóng nữa. Bỗng
“xòe” một cái, ngọn lửa bùng lên. Cùng một lúc với tiếng xòe tôi giật mình đánh thót. Chú tôi chồm dậy, nhảy xổ lại gần tôi. Ngọn lửa đã tắt, nhưng cái tàn diêm còn lập lòe đỏ trong tay chú tôi. Tôi vừa sợ chú tôi lại vừa sợ cái tàn diêm, đứng ôm lấy cây cột. Chú tôi đã nắm được tôi, phát tôi mấy cái liền, cầm đầu tôi giập vào thân cây cột. Tôi khóc thét lên rồi ù té chạy ra. Nhưng vừa tới mép hè, tôi ngã quỵ xuống. Chú tôi vẫn ra sức đánh tôi. Cô tôi ở nhà dưới vội vàng chạy lên bế xốc tôi dậy. Chú tôi ngừng tay, túm lấy vai áo cô tôi rồi hăm hở tát:
-Mày lại bênh nó à! Cái con ranh con này. Cô tôi đau quá cũng khóc. Tôi cứ ôm chặt lấy cô tôi. Chú tôi vẫn đấm, vẫn tát. Cô tôi kêu lên:
-ối hàng xóm ơi! Người ta đánh chết cô cháu tôi rồi! Lúc ấy hình như bà tôi đang niệm Phật trong gian nhà thờ, vội chạy ra mắng to:
-Cái gì mà ầm cửa ầm nhà lên thế? Nghe thấy tiếng hai cô cháu tôi khóc, bà tôi sụt sùi:
-Thôi, trời thí cho được mấy người đấy, cứ giết chết hết cả đi rồi mà ăn cả cho nó sướng cái lỗ mồm! Chú tôi buông hai cô cháu tôi ra vừa vào nhà trong vừa cãi lại:
-Chẳng giết cũng chẳng để làm gì những cái của nợ ấy. Cô tôi đã nín khóc. Tôi cũng nín khóc. Cô tôi đưa tôi ra cầu ao rửa chân. Cô tôi bảo tôi:
-Sao cô đã dặn cháu ở nhà cháu lại cứ đi lêu têu thế. Tôi không trả lời, cô tôi lại nói tiếp:
-Cứ mỗi ngày một trận đòn thế này thì sống làm sao được hẩu cháu? Rõ khổ... Bồ côi bồ cút mà còn không biết thân! Cô tôi vừa nói dứt lời, tôi lại òa lên khóc.
-Thôi nín đi. Bà biết rồi lại mắng chết. Tôi nghe lời cô tôi ngay. Rửa chân cho tôi xong, cô tôi đưa tôi về giường cô tôi, mặc cho tôi chiếc áo cộc bông của cô tôi, phủ kín gần đến hết đầu gối tôi và dài khỏi bàn tay tôi tới một gang tay. Cô tôi sờ hai bên má tôi, thấy tôi lạnh quá, cởi liền chiếc thắt lưng vải trùm qua đầu, xuống hai mang tai tôi, quấn tròn quanh cổ tôi. Cô tôi bảo tôi nằm xuống, đắp lên mình tôi hai chiếc chiếu cói. Cô tôi dặn tôi:
-Nằm yên đấy mà ngủ. Cô còn đi xay thóc; rồi chốc nữa cô vào cô ngủ với. Trước khi ra khỏi gian nhà, cô tôi còn nói thêm:
-Nằm hẳn vào giữa giường ấy, kẻo rồi ngủ say, giở mình lại ngã. Từ ngày mẹ tôi đi lấy chồng tôi vẫn thường ngủ với cô tôi. Mùa nực cô tôi quạt cho tôi suốt đêm. Khi giá rét cô tôi lại ấp ủ cho tôi. Được cô tôi yêu mến tôi không thấy sự vắng mẹ là khổ lắm. Những lúc tôi đi chơi quá bữa, cô tôi không bao giờ quên nén cho tôi một bát cơm với mấy con tôm hay miếng cá kho cất trong một góc chạn bát. Hễ thấy tôi thập thò về, cô tôi lại sẽ vẫy vẫy tôi lại gần rồi bảo thầm tôi:
-Cơm cô để phần ở góc chạn ấy. ăn rồi ở nhà. Cứ đi suốt ngày rồi lại phải đòn khổ thân. Từ đấy thành một thói quen, hễ tôi đi đâu về quá bữa cơm tôi lại vội tìm trong góc chạn. Một bát cơm nén với thức ăn đã có sẵn sàng ở đó. Giữa lúc tôi đang cần có cô tôi để khỏi khổ vì xa mẹ thì cô tôi chết. Cô tôi chết về một chứng bệnh gì không ai biết rõ. Tôi chỉ nhớ rằng cô tôi đã ốm ròng rã ba tháng. Tới tháng thứ ba không còn thể đi lại được, đành phải nằm liệt trên chiếc giường nan rải hai chiếc chiếu gianh cói. Khi cô tôi mới ốm, tôi vẫn luôn luôn quanh quẩn bên giường bệnh. Lấy cho cô tôi chiếc khăn tay, rót chén nước hoặc ngồi quạt cho cô tôi. Thỉnh thoảng cô tôi lại cho tôi ăn những thức mà bà tôi đã dành mua cho cô tôi ăn kiêng. Hôm nào không thấy tôi quanh quẩn bên mình, cô tôi lại bảo bà tôi bắt tôi vào. Cô tôi sờ chân tay tôi:
-Đi đâu về mà lấm láp thế này?
-Cháu ở ngoài kia.
-Kia là đâu? Bao giờ hỏi cháu, cháu cũng ở ngoài kia mà cứ mất hút cả ngày... Đưa bát thuốc đây cho cô. Tôi đưa bát thuốc cho cô tôi bằng cả hai tay. Uống hết bát thuốc, cô tôi súc miệng rồi ngọt giọng bảo tôi:
-Cô ốm thì ở nhà với cô. Đừng có lang thang đi đâu. Bồ côi bồ cút rồi đứa nào nó bắt nạt thì ai bênh. Có cô, cô đã ốm nằm đây rồi.
Rồi từ cái lần ấy, tôi ít khi xa cô tôi. Nhưng tới khi cô tôi bị ốm nặng cả ngày nói mê thỉnh thoảng lại trợn ngược mắt đưa hai tay quờ quạng hết bên phải sang bên trái, tôi không còn dám bén mảng tới giường cô tôi nữa. Tôi chỉ thập thò ngoài cửa nhìn trộm vào. Hễ thấy cô tôi trông ra, tôi lại chạy trốn. Cũng có khi cô tôi tỉnh hẳn. Vào những lúc ấy mà thấy tôi nhô ra nhô vào ngoài cửa cô tôi lại cố lấy sức gọi:
-Dần ơi vào đây với cô. Nghe cái giọng nói tuy có êm êm nhưng yếu ớt, tôi sờ sợ đứng nép mình vào một cánh cửa. Cô tôi vẫn nói:
-Cháu với chắt gì cái đồ ấy. Lúc khỏe thì trông nom nó cả ngày, mà bây giờ ốm nằm đây thì nó chẳng thèm nhìn gì tới mình. Yêu với thương làm gì cái đồ ấy. Cứ để cho nó đi với mẹ nó lại xong. Cô tôi nói những câu đó lúc to, lúc nhỏ rồi dần dần im hẳn, nằm ngủ.
Lúc ấy tôi mới rón rén tìm đường lảng xa. Cô tôi cũng cứ mỗi ngày một ốm nặng. Dần dần nước cháo cũng không thể ăn được, cố đổ vào lại nhả ra. Rồi cô tôi chết. Khi sờ mình cô tôi thấy lạnh toát và biết rằng cái chết đã đến, bà tôi vừa khóc vừa kêu:
-ới con ơi là con ơi! Tiếng kêu đó, khi đã mai táng cô tôi rồi, ngày nào cũng vậy, cứ buổi chiều tới, chuông chùa trong làng bắt đầu nổi lên, ngân nga qua xóm này sang xóm khác, bà tôi lại ngồi trên ngưỡng cửa hoặc ở một góc sân nức nở khóc mà thốt ra. Tôi nghe thấy buồn rời rợi trong lòng. Tôi nhớ lại người cô tôi và cũng cùng ngay lúc đó tôi nghĩ tới mẹ tôi ở xa mà tôi tưởng như cũng đã chết như cô tôi. Trông thấy bà tôi buồn rầu ủ rũ khóc, tôi chẳng biết làm thế nào chỉ yên lặng lởn vởn xa xa bà tôi.
-ới con ơi là con ơi! ới cháu ơi là cháu ơi. Cháu khóc cô đi cháu ơi! Bà tôi cứ láy đi láy lại mãi cái câu đó, thế rồi tôi cũng òa lên khóc theo bà tôi:
-Cô ơi là cô ơi. Cái cảnh buồn thảm này cứ dằng dai cho tới mười chín hai mươi ngày. Bà tôi ăn rồi lại nằm thở dài.
Tôi không dám nghĩ tới sự nô đùa, cả ngày chỉ lủi thủi một mình ở đầu hè hay ngồi dựa lưng vào một góc cột nhà. Tôi nghĩ vơ vẩn, nhớ tới cô tôi rồi nhớ tới cả mẹ tôi. Nỗi nhớ nhung ấy thường hay đến tâm trí tôi vào lúc buổi chiều, mặt trời đã gần tắt hẳn. Tôi còn nhớ lúc cưới mẹ tôi, mọi người đều đi về phía tây, trên con đường thẳng xuống bến đò. Chiều nào nhớ mẹ tôi quá tôi lại ra cánh đồng nhìn về phía đó. Bao giờ cũng vậy, cứ đưa tầm con mắt về hướng ấy tôi lại nhìn ngay thấy trước nhất cái gác chuông nhà thờ của một làng xa, màu trắng xóa, đứng sừng sững, vượt hẳn lên trên ngọn một hàng cau đen đen. Nhiều khi phía tây còn ánh nắng, cái gác chuông đó rõ ràng từng nét như khắc trên nền trời. Chẳng bao lâu cái gác chuông ấy đã là cái đích của những cuộc trông ngóng của tôi. Và hễ bước chân ra khỏi nhà là tôi nhìn ngay cái gác chuông đó. Chẳng bao lâu, tôi thấy hình như ở tại cái nơi đó có một hương vị gì thân mật, lưu luyến với tôi. Và tôi tin rằng cái gác chuông ấy thuộc về nơi ngày ngày mẹ tôi sống với người chồng thứ hai. Vì vậy mà cứ buổi chiều nào trời u ám, cái gác chuông ấy bị xóa mờ, tôi lại quay về ngay, và tôi thấy buồn buồn, chẳng khác đứa trẻ đứng cổng chờ mẹ đi chợ về mà mãi không thấy bóng mẹ. Cái chết của cô tôi có ảnh hưởng lớn tới gia đình bà tôi. Trong lúc bà tôi buồn bực về nỗi cô tôi chết, các chú, các thím tôi vẫn cãi cọ nhau và vẫn nói đến việc ra ở riêng. Bà tôi đành chiều ý để được yên nhà. Ba cái nhà -một nhà thờ và hai nhà ngang -bà tôi phân chia như sau đây: Nhà thờ để cho hai mẹ con bác tôi. Mỗi chú tôi chiếm được một cái nhà ngang.
Cũng vào dịp ấy bà tôi chia luôn cả cái gia tài của ông tôi để lại. Người anh con ông bác tôi là trưởng được bốn mẫu rưỡi. Mỗi chú tôi ba mẫu. Về phần tôi vì không được nhà và chỗ ở, bà tôi chhia cho ba mẫu và thêm hai sào vườn để làm nhà. Các cô tôi mỗi người một mẫu. Mẫu ruộng của cô thứ ba tôi bà tôi giữ lại để mua hậu cho cô tôi. Bắt đầu từ đó cái gia đình mà bà tôi ra công giữ gìn để được đoàn tụ đã bị chia rẽ. Bà tôi và tôi ở chung với người chú lớn. Chú tôi được cấy thuế ruộng của tôi, cô tôi và sáu sào dưỡng lão của bà tôi. Năm ấy tôi đã lên tám. Tuy trong làng có mấy thầy đồ dạy chữ nho và một trường dạy các trẻ học chữ quốc ngữ nhưng cũng không một ai nghĩ tới sự cho tôi đi học. Bắt đầu từ ngày cùng bà tôi ra ở riêng với chú lớn tôi, tôi phải đi chăn trâu cho chú tôi ngay. Cái buổi đầu phải dắt trâu ra đồng, chú tôi đội cho tôi một chiếc nón chóp, rách chóp và sờn cạp; chú tôi đặt chiếc thừng trâu vào tay tôi rồi dặn:
-Bao giờ mỏi tay này thì trao dây thừng sang tay kia. Đừng có đi sát vào ngà trâu, lúc nó lắc đầu xua muỗi ngà nó húc vào người. Mà cũng không được kéo căng dây thừng quá, sứt mũi trâu rồi bán cả nghiệp cũng không tậu được con khác.
Chú tôi dặn tôi tới mấy lần, và lần nào nói xong cũng nhắc lại câu:
-Đã nhớ kỹ chưa? Tôi lững thững dắt trâu ra đồng. Lúc mới đầu con vật như khinh tôi quá bé bỏng, tôi lôi kéo thế nào cũng không chịu đi. Chú tôi phải phát mạnh nó một cái trên mông nó mới chịu theo tôi. Bà tôi trông theo tôi, bảo khẽ:
-Chịu khó tập lam tập làm đi để ngày sau lớn kiếm bát cơm mà ăn con ạ. Tôi cầm chiếc thừng rất vụng về, không còn biết liệu chừng thế nào cho khỏi thòng quá hoặc căng quá.
Tôi không cho sự phải đi chăn trâu như thế là khổ. Trái lại, cái buổi đó tôi thấy rất sung sướng. Từ trước tới nay nào đã bao giờ tôi được tự do ra hẳn ngoài cánh đồng rộng để nô đùa, chạy nhảy. Những lúc ngó qua hàng rào sau nhà, thấy những đứa trẻ chăn trâu trở về ngất ngưởng trên mình trâu hát, tôi không ao ước gì hơn là được như chúng. Con trâu ngoan ngoãn theo tôi, gậm cỏ hai bên bờ đường. Hết một cái bờ con, hết một đoạn đường cái thì ra tới cổng. Lũ trẻ chăn trâu ngơ ngác nhìn tôi và hỏi nhau:
-Đứa nào ấy nhỉ?
-ừ, trông là lạ. Nó chưa đi chăn trâu bao giờ thì phải.
-Trâu nhà ai thế chúng mày? Một đứa nhớn trong bọn nói:
-A, tao biết rồi. Trâu của nhà ông xã G. Thế rồi nó liến thoắng kể lại:
-Cái thằng ấy là cháu gọi ông xã G. bằng chú. Mẹ nó đi lấy chồng xa, năm ngoái năm kia thì phải. Đứa thứ hai ngồi trên mình trâu nói:
-Sao nó dại thế nhỉ, đi theo mẹ nó có hơn không. Việc gì phải ở với chú để phải đi chăn trâu. Chăn trâu thì sung sướng chó gì! Cái câu nói cuối cùng của nó đã làm tôi phải ngạc nhiên; nhưng tôi cũng không nói năng gì, cứ lẳng lặng nhìn con trâu gặm cỏ.
-Thả trâu đấy rồi lại đây chơi với chúng tao mày ạ. Tôi lắc đầu. Một đứa dọa tôi:
-Dắt trâu ra đồng mà không thả nó ra rồi nó lại không húc lòi ruột ra ấy à. Tôi thành lo. Nhưng tôi không dám trái lời chú tôi, cứ bước một dắt con trâu trên đám cỏ. Chiều hôm ấy, khi tôi giong trâu về tới nhà, chú tôi ra vẻ bằng lòng lắm. Bà tôi nhìn bụng con trâu và khen tôi:
-Cháu tôi khéo đấy. Con trâu no căng bụng ra thế kia cơ mà. Tôi sung sướng quá và chỉ mong cho chóng đến ngày mai để lại được đội chiếc nón chóp rách, dắt trâu ra đồng.
Ba gia đình tuy ở riêng nhưng luôn luôn gần gụi nhau; chung sân, chung bếp, chung cổng đi thường cũng có chuyện bất hòa. Bác dâu tôi và người con từ ngày dọn về ở mấy gian nhà thờ, trong nhà lại thêm có sự xô xát. Xô xát nhau về những công việc hằng ngày, xô xát nhau vì các đồ ăn thức dùng. Bát đũa nhà này sang nhà khác rồi nghi ngờ lấy lẫn của nhau. Cãi nhau về một chén mắm, một đĩa rau. Có khi nào mà ở gần nhau đến như vậy lại từ chối nhau một bát gạo những lúc xảy ra có nhà chưa xay được thóc. Nhưng cũng có nhiều khi mọi người lại ra vẻ thân yêu nhau lắm. Những lúc đó thì thi nhau mà tử tế. Nhà này mang cho nhà kia bát riêu, nhà kia lại cho lại đĩa cá kho rồi khẩn khoản mời mọc nhau:
-Bát canh ngọt như chè đường, thím ăn với tôi một bát.
-Vâng. Xin bác. Cá kho này tôi kho với mật, có rau răm thơm lắm, bác ăn với tôi một khúc; chỗ chị em với nhau ấy mà! Nhưng cái cảnh luyến ái ấy chỉ được một hai ngày. Rồi lại đâu hoàn đấy. Lại cãi nhau, chửi bới nhau. Và lúc đó người ta lại càng có dịp kể những điều hay người ta đã làm lẫn cho nhau. Ai cũng tưởng mình hiền lành tử tế hơn người khác. Người này bảo mình cho nhiều hơn. Người khác chê cái món ăn thiu thối rồi mới gọi cho nhau ăn. Gay go nhất vẫn là sự xô xát giữa chú lớn và chú hai tôi. ông em ra vẻ ganh tỵ với anh. Nhưng ông chỉ tìm chuyện lôi thôi với bà tôi:
-Mẹ gì mẹ thế! Cũng là con cả mà lại con ghét con yêu. Bà tôi mắng:
-Con nào ghét con nào yêu? Tao ở với nó cho nó cấy thuế mấy mẫu ruộng của cái đứa bồ côi chứ tao chia sẻ gì cho nó. Rõ cái đồ chỉ khéo tham của bỏ người. Chú tôi không nể lời:
-Tôi không nói với bà. Tôi nói thiên hạ họ tham lam ấy. Người chú lớn can thiệp ngay:
-ái chà! ăn với nói, thế mà cũng mở mồm ra! Thiên hạ! Ai là thiên hạ. Tao có cấy của bà lão mấy sào, của thằng bé mấy mẫu tao cũng phải trả thóc thuế chứ có dễ ăn không được đấy!
-Đây người ta cũng không thèm nói với cái hạng ấy.
-Hạng ấy là hạng nào? Chẳng ra gì tao cũng là anh mày, ăn nói thế mà nghe được à?
-úi chà! Anh với chẳng anh! Trước những cảnh bất hòa, bà tôi chẳng biết can ngăn ra sao chỉ thỉnh thoảng lại chêm vào một câu:
-Thôi tôi xin các anh.
Hai người chú vẫn không ngừng soi mói nhau, không thèm đếm xỉa gì đến lời nói của bà tôi. Bà tôi lại sụt sùi ngồi khóc:
-Các con ơi! Khổ lắm các con ơi! Các con chết đi bỏ lại một mình mẹ để người ta giày vò đến đận này. Các con dưới suối vàng có thấu cho mẹ không. Ngày nào người ta cũng đóng đám chửi bới nhau. Người chú lớn quát:
-Thôi đừng giở trò điếc tai hàng xóm. Từ vụ sau tôi giả ruộng bà, ruộng cháu bà, bà để cho ai cấy thì cấy rồi bà đưa cháu bà đi ở đâu thì ở, cho cái thân tôi được thoát nợ. Bà tôi nín hẳn khóc, sừng sộ thét lên:
-Mày không phải đuổi rồi bà cháu tao cũng đi. Rõ đồ bất nhân. Chao ôi! Con nào, cũng ruộng ruộng trâu trâu chia cho đấy mà không đứa nào nó nuôi được lấy một bữa. Thực ra mẹ nuôi con bằng giời bằng bể, con nuôi mẹ con kể từng ngày.
-Phải tôi chỉ có thế đấy thôi, ruộng với trâu của bà đấy, bà mang đi mà bán, tôi ăn mày nuôi thân. Bà tôi dịu giọng, ra ý mỉa mai:
-Thôi tôi biết rồi! Anh thì nhà nào anh chả thông tỏ ngõ tường! ở làng này ai giàu, ai nghèo anh đã thừa biết rồi thì làm gì đi ăn xin chẳng đủ nuôi thân. Đó là bà tôi muốn ám chỉ đến cái tính tò mò của chú lớn tôi. ông ta có cái tài khéo dò la biết được trong làng ai có tiền, có bao nhiêu và vì đâu mà có... Đến nỗi trong làng mỗi khi ai túng bấn muốn biết trong làng ai có tiền để vay giật đều tới hỏi chú tôi. Thấy bà tôi muốn nói bóng tới cái tính tò mò ấy của mình, chú tôi hung hăng cãi:
-Tôi thế nào kệ mẹ tôi! Không việc gì đến nhà bà. Nghe câu nói hỗn xược, bà tôi tủi thân, nức nở khóc:
-Hờ ông ơi là ông ơi, ông không sống mà dạy lấy con ông. ông đi vui thú những đâu đâu, ông để lại mình tôi khổ nhục đến đận này...
Những tiếng khóc của bà tôi, càng nhớn lên, tôi nghe càng thấy buồn thêm. Bà tôi mỗi ngày một già, cái tiếng khóc ấy cũng thay đổi đi. Cái giọng khàn khàn nho nhỏ nghe rờn rợn, thương thương như tiếng kèn ngân hạ thấp trong đám ma. Tôi thấy tất cả người tôi rung động một nỗi buồn như lúc đánh mất thứ đồ chơi quý khi tôi nghe cái tiếng khóc đó và lại nhìn thấy bộ mặt nhăn nhó, đau khổ đã thành vô hình -vì bà tôi méo sệch hẳn mồm đi mà khóc. Những lúc chú tôi đánh mắng tôi, tôi cũng không thấy đau khổ, buồn bực bằng khi thấy bà tôi ngồi thu hình một nơi mà khóc. Tôi tin rằng chỉ có trẻ con, bé nhỏ như tôi mới khóc, chứ một người già như bà tôi sao lại có thể khóc được. Những lúc các chú tôi làm bà tôi phải đến khóc là lúc tôi ghét các chú tôi hơn cả. Muốn trả thù lại cho bà tôi, ra đồng tôi buộc trâu vào rễ cây đa rồi ra công đánh hai bên mông con trâu. Còn đối với người chú hai, tôi dùng cái lối trả thù khác: Dập tắt bếp lửa ủ trấu, đuổi con gà mái xuống ao. Cũng có khi tôi xúc trộm thật nhiều gạo bọc kín ở dưới bụng. Lúc giong trâu ra đồng gặp ai cho người ấy, cũng có khi tôi đổ lẫn với tro trong bếp. Làm những việc ấy, tôi lấy làm đắc ý lắm. Muốn cho bà tôi biết là tôi thương bà tôi và thù ghét các chú tôi, tôi mang những chuyện ấy kể lại cho bà tôi nghe. Tôi thất vọng khi thấy bà tôi không những không khen ngợi tôi mà lại còn mắng tôi:
-Cha bố cái đồ ngu! Ai dạy mày những cái ấy. Lần sau thì dừ xương sớm thôi. ở với chú lớn được ít lâu tôi thành chán, tuy tôi cũng không phải làm lụng vất vả gì.
Chỉ quanh quẩn với con trâu. Nhà và sân bao giờ chú tôi cũng tự quét lấy. Năng lau đồ đạc và năng quét nhà hình như là một tật của chú tôi. Hễ rỗi rãi tôi chỉ thấy chú tôi buộc chổi, buộc rễ rồi quét. Quét hết mọi chỗ. Từ trong nhà ra tới sân, tới vườn. Khắp mọi nơi, không bao giờ có lấy một bụm cỏ mọc um tùm. Vào nhà ai chú tôi cũng để ý tới vườn và sân trước nhất. Khen chê ai chú tôi cũng chỉ nói nhà người ta nhiều bụi rác hay nhiều cỏ hoặc sạch sẽ nhẵn nhụi. Tuy có được sự nhàn hạ thực, nhưng tôi cũng không thấy sự ở với chú lớn là dễ chịu. Cái cảnh đi chăn trâu đối với tôi không còn là sướng nữa. Tôi đã thành chán con vật, và tôi cũng không nghe lời dặn của chú tôi nữa. Cứ ra tới đồng tôi thả trâu giữa đồng rồi đánh chắt, đánh thăng quan với mấy đứa trẻ khác. Đã một lần tôi mê man với những trò chơi đó đến nỗi trâu ăn lúa non của người khác rồi lạc đường đi sang hẳn làng bên cạnh mà tôi không biết. Buổi chiều hôm ấy tôi lững thững về nhà... một mình, không có trâu! Tôi cứ thập thò ngoài cổng mãi không dám về. Chú tôi bổ đi tìm. Vừa bước ra khỏi cổng bắt gặp ngay tôi:
-Trâu đâu mà bây giờ mới về? Tôi cúi gầm mặt không nói nửa lời. Chú tôi gắt:
-Trâu đâu! Đi chăn trâu về mà lại không có trâu? Sau câu nói ấy là một cái tát đến lệch mồm, hoa mắt. Tôi vừa ệu mồm khóc vừa trả lời gióng một:
-Trâu... trâu lạc đâu... mất rồi... Chú tôi hấp tấp chạy về nhà bảo mọi người biết rồi mỗi người đi mỗi ngả tìm trâu. Bà tôi ở nhà cứ nhắc đi nhắc lại:
-Chết mất cháu ạ. Mất trâu của nó thì bà cháu mình đến phải bán xới! Rõ khổ! Nghe bà tôi nói tôi cũng thấy sợ, nhưng tôi vẫn hơi mong cho chú tôi mất con trâu ấy để khỏi phải đi chăn. Nhưng con trâu ấy không mất. Chú tôi tìm thấy một cách rất dễ, vì cũng may, hôm ấy trước khi thả trâu tôi đã nghịch buộc chiếc nón chóp rách của tôi vào đuôi nó. Nhờ có cái nón ấy chú tôi đã nhận ngay được con trâu đang lội dưới cánh đồng bãi. Rồi từ cái ngày ấy, chú tôi thành khắc nghiệt với tôi hơn. Cứ buổi chiều tới, khi tôi dắt trâu ở đồng về, chú tôi lại giữ lại, không cho tôi dắt nó vào chuồng vội. Chú tôi đưa tay vỗ vỗ trên bụng con trâu. Có khi chú tôi búng búng như người thử quả mít chín. Hôm nào bụng con trâu kêu
“cưng cưng”, nghĩa là nó đã no thì tôi không bị mắng chửi. Nhưng bữa nào trâu đói vỗ bụng
“bộp bộp” chú tôi phát tôi ít nhất là năm, bảy cái trên lưng. Tôi lại lủi thủi đứng khóc ở đầu nhà. Bà tôi bênh tôi:
-Nó đã nhớn nhao gì! Nó bằng ngần nấy, làm được sao hay vậy.
-Chăn con trâu còn chẳng được còn làm cái gì. Chỉ nuôi cho tốn cơm. Nó đi ngay đâu cho rảnh mắt. Bà tôi lớn tiếng:
-Anh đừng có giở cái giọng nói kháy ấy ra! Chẳng sớm thì muộn rồi bà cháu tôi cũng đưa nhau đi. Hễ bao giờ chú tôi lớn tiếng quá, bà tôi lại đành nhường lời và quay ra mắng tôi:
-Thế mày mới biết thân con ạ. Cái con mẹ mày mà không đi lấy chồng thì việc gì đến nỗi. Thằng ạ. nó chả sung sướng chán ra đấy à. Nó còn có mẹ nó. ạ. là tên người anh con bác tôi. Từ ngày anh tôi về ở với bà tôi, chúng tôi cũng không ra chiều thân yêu nhau. Bác tôi không ghét bỏ tôi, nhưng cũng không ra vẻ thương tôi lắm. Thỉnh thoảng bác tôi cho quà, cho ăn cơm. Cũng có khi vá hộ tôi chiếc áo rách. Thấy mẹ tôi đi lấy chồng và bác tôi cũng chưa lấy gì làm già, bà tôi thành ra lo lắng cho anh tôi rồi cũng sa vào cái cảnh xa mẹ như tôi: bà tôi bèn xui bác tôi quá chùa theo hẳn đạo Phật, ngày rằm mồng một ra chùa lễ. Bà tôi tin rằng đã thành một
“bà vãi” như thế thì chẳng còn dám nghĩ tới sự tái giá nữa. Bà tôi dỗ dành bác tôi:
-Quá chùa thì nào mất vốn mất lãi gì! Tháng tháng đóng góp chỉ độ bát gạo nếp, vài bao nến vài thẻ hương mà ngày rằm mồng một lễ Phật xong rồi lại ăn chứ đi đâu mà thiệt. Mấy lần bà tôi dỗ ngọt ngào như thế, rồi bác tôi ưng thuận quá chùa. Kể từ ngày đi quá, nghe giảng giải kinh kệ, bác tôi cũng có tỏ lòng thương yêu tôi hơn trước đôi chút. Nhưng mặc dầu, hai anh em chúng tôi vẫn không hề thuận hòa. Những lúc không có điều gì xô xát giữa hai chúng tôi, anh tôi và tôi chỉ rủ nhau đi chơi quanh. Khi thì chúng tôi đào khoai trộm ở vườn hàng xóm, khi thì chúng tôi đưa nhau ra tắm sông. Hai chúng tôi đã nhiều lần gây nên những chuyện rắc rối khiến nhiều người trong xóm phải tới tận nhà mách bà tôi hoặc chú tôi. Trong những lúc đó, bao giờ tôi cũng là đứa có tội, hay bày trò. Thường thường bà tôi chỉ mắng qua hai đứa, nhưng chú tôi thì không tha một trận đòn nào bao giờ. Những lúc anh tôi phải đòn đau hơn, anh tôi lại tìm cách đánh thêm tôi. Tôi cũng tìm cách đánh lại, nhưng anh tôi khỏe hơn bao giờ tôi cũng phải chịu thua. Thấy tôi khóc lóc, bác tôi chỉ lẩm bẩm:
-Những cái của quỷ này chỉ trêu ghẹo nhau suốt ngày. Rồi bác tôi khẽ mắng anh tôi:
-Mày cứ liệu! Đánh nó rồi bao giờ mẹ nó về nó mách mẹ nó thì lại giờ hồn sớm! Nhưng bà tôi lại khác; cứ mỗi khi tôi phải đánh nhiều bà tôi lại nói mát:
-Một ngày hai bữa cơm rau mà cứ tý tý lôi thằng bé ra mà đánh nó còn nhớn sao được. Chú tôi cãi lại ngay:
-Rõ khéo! Chúng nó chòng nhau thì chúng nó khóc chứ ai lại đánh đấm gì nó! Thôi, bà dắt nó đi đâu thì dắt! Thấy chú tôi to tiếng quá, bà tôi lại mắng anh tôi:
-Cái thằng ranh con kia, mày cậy có mẹ, mày chỉ bắt nạt nó suốt ngày. Cái con mẹ mày không biết bảo mày hay sao! Thế là bác tôi lại đối đáp ngay:
-Chúng nó bé chúng nó chòng giỡn nhau chứ ai xui. Không trách được!
-Không trách được làm sao! Có dễ bây giờ mày cũng vào hùa với những cái quân ấy mà chửi bới bà cháu tao đấy hẳn.
Cuộc cãi lộn tay ba bắt đầu. Chú tôi không nể lời, bác dâu tôi cũng gớm, bà tôi không chịu. Cái cảnh sống gần nhau mà bao giờ cũng như hắt hủi nhau, coi nhau như kẻ thù ấy khiến hết mọi người đều xa lạ cả. Cũng vì thế mà anh tôi và tôi xuýt xoát tuổi nhau, có thể thành một đôi bạn được mà hễ gần nhau là chỉ tìm miếng để đánh đấm nhau. Vào hồi đó, chú hai tôi không muốn sống gần người chị dâu và anh nữa, bán lại miếng đất ở cho chú lớn tôi rồi rỡ nhà mang đi làm ở một khu vườn cách nhà chú lớn tôi một cái ao. Lúc mới đầu bà tôi còn không bằng lòng, nhưng chú tôi quả quyết quá bà tôi đành chịu. Khi chú tôi đã đi rồi, vườn, sân trông cứ rộng thênh thang. Bà tôi thấy trống trải quá lại chửi thầm chú hai tôi là vô ơn, bỏ mẹ mà đi ở chỗ khác. Nghĩ đến cái cảnh hai người con giai xa hẳn nhau, bà tôi lại lo cho hai gia đình của hai chú tôi rồi đến ngày đổ nát. Chú lớn tôi cứ hành hạ tôi, giày vò bà tôi; bà tôi lại đem lòng thương người con thứ hai, chẳng biết xa bà tôi thì làm ăn ra sao. Bà tôi vẫn tưởng như không có bà tôi can thiệp tới mọi việc nhà, ắt gia đình chú hai tôi không thể vững vàng được. Bà tôi bèn thu dọn, bỏ chú lớn tôi rồi về ở với chú hai tôi. Từ đó những ruộng của bà tôi và tôi lại về phần chú hai tôi cấy thuế. Cái buổi hai bà cháu tôi đưa nhau về ở với chú hai tôi, hãy còn ghi khắc rõ ràng trong trí nhớ tôi: Bà tôi đi trước, một tay bưng một chiếc thúng đựng ít quần áo rách của hai bà cháu. Tôi lẹt đẹt theo sau, đầu trọc hếu, xách cho bà tôi đôi dép da trâu ba quai và một chiếc lọ thủy tinh đựng ít cau khô. Muốn tránh gặp nhiều người hỏi chuyện lôi thôi, bà tôi đã ra đi vào lúc tối khuya, trốn lẩn đủ hết mọi người trong nhà. Bà tôi rờ rẫm trong đêm tối. Tôi run run lo sợ nhìn những hình cây đen ngòm lù lù trước mặt. Từ cái buổi đó, hai bà cháu tôi đổi chủ
***
Chú hai tôi, lúc mới đầu, đối đãi với bà và tôi cũng khá tử tế. Ngày ấy, chú tôi đã sinh một gái. Cả ngày bà tôi chỉ quanh quẩn bế cháu, giặt quần áo rồi tắm cho cháu. Trong công việc đó bà tôi có vẻ bằng lòng lắm. Tôi không còn thấy bà tôi than phiền, khóc lóc như hồi còn ở với chú lớn tôi nữa. Lúc nào bà tôi cũng ra chiều vui vẻ. Nét mặt tươi tỉnh, ăn nói dịu dàng, dù nói với chú tôi, thím tôi hay tôi cũng vậy. Người khỏe mạnh, lại ăn được nhiều, bà tôi như trẻ lại được vài ba tuổi. Một cảnh sum họp đầm ấm. Chú tôi chăm chỉ ngày hai buổi đi làm ngoài đồng, thím tôi săn sóc các việc vặt, bà tôi đã có đứa cháu. Đã từ lâu bà tôi mơ ước có một đứa cháu gái. Bà tôi sung sướng bế đứa em tôi đi rong làng suốt ngày. Những lúc thím tôi đi làm vắng mà nó đói, bà tôi lại bế nó đi bú rình. Bà tôi lại nhà cả những người cùng đẻ một thời với thím tôi để so sánh đứa cháu với những đứa trẻ khác.
Chú tôi đã mướn riêng một thằng ở chăn trâu. Còn tôi, chú tôi cho đi học chữ nho tại một thầy đồ già, người trong họ. Nhưng tôi theo học vừa được đúng tám ngày. Buổi học thứ nhất, thày đồ cho tôi học chừng bốn năm câu Tam Tự, viết phóng một trang; buổi học thứ nhì lại học ôn lại bài cũ, và viết phóng thêm một trang nữa. Những công việc đó tôi chỉ làm trong một lúc là xong. Viết phóng thì chỉ độ mười phút đã hết, còn học lại bài càng chóng hơn. Thày đồ cứ nhắc cho tôi vài lần tôi nhẩm trong một lúc là thuộc. Tôi đưa sách lên đọc rất trơn tru. Nhưng tôi chẳng nhớ mặt chữ ra sao. Thày đồ chẳng biết vậy cứ tấm tắc khen tôi:
-Gớm cái thằng bé này sáng dạ thật. Họ Phạm nhà ta ngày sau tất phải có người làm nên to tát. Thày đồ tôi đã già, ngoài sáu mươi tuổi.
Cũng như nhiều thày đồ khác ông lại kèm thêm nghề thày lang để kiếm thêm đồng chi dụng. ông nghiện thuốc phiện. Lớp học là một cái chái nhà con, rải một chiếc chiếu cũ. Mấy đứa chúng tôi cứ nằm bò trên manh chiếu, hì hục viết hay quang quác học bài. Thày đồ nằm trên giường nạo sái, tiêm, hút. Cứ mỗi khi có đứa đọc sai, thầy lại cải chính:
-Tính bản thiện chứ, sao lại học là bảng! ít khi ông chịu ngồi dậy để dặn dò cẩn thận. ông chỉ nằm lì một chỗ phanh áo hở cả ngực, cả bụng, phe phẩy chiếc quạt cắt chéo bằng một mảnh mo cau. Cải chính tới ba bốn lần mà còn có sự nhầm lẫn ông mới chịu ngồi dậy. Mà ông đã phải chồm dậy, thế nào trong bọn chúng tôi cũng có đứa bị đánh. Khi ông giở sách để soát lại những chữ sai lầm hay để viết bài cho chúng tôi, ông cẩn thận rửa hai tay bằng nước rượu đốt cháy bốc ngọn trong chiếc chậu đồng con rồi mới trịnh trọng giở từng trang một. ông bảo chúng tôi:
-Chữ thánh hiền phải trọng mới được.
Trong nhà mỗi lần thấy mảnh giấy có chữ, ông bắt chúng tôi nhặt mang đốt trong một chiếc hỏa lò đất nung. Ra đường nhặt bất cứ ở một chỗ nào, trông thấy mảnh giấy có chữ hán ông cũng nhặt lấy, phủi bụi rồi buộc vào vạt áo dài mang về nhà đốt. Mỗi ngày ông chỉ dạy chúng tôi học một lúc buổi sáng. Khi đã viết phóng xong mỗi đứa phải làm một việc. Giặt quần áo, quét nhà, lau bàn, có khi lại giặt cả chiếu nữa. ông sai chúng tôi, rồi lại cả đến bà đồ cũng sai chúng tôi. Cứ thỉnh thoảng bà lại hớt hải từ dưới nhà chạy lên:
-ông ơi! Chúng nó đã học xong chưa để chúng nó xuống cho tôi nhờ một tý. Thày đồ chẳng ngần ngừ:
-Chúng mày xuống cho cô nhờ một tý đi. Chúng tôi thi nhau chạy ra khỏi lớp học. Nếu trúng vào những lúc chúng tôi đang phải nằm viết đến tức ngực, thì thực không còn gì sung sướng bằng. Có hôm chờ đợi mãi không thấy bà đồ lên, chúng tôi thì thầm bảo nhau:
-Mãi không thấy gì nhỉ?
-Còn sớm lắm!
-Chắc hôm nay hết việc rồi chúng mày ạ.
-ơ! Hết việc! Không phơi rơm thì nhổ cỏ hay khiêng nước chứ lại hết được việc. Chúng tôi nóng lòng chờ đợi cái lúc bà đồ lên gọi, vì là lúc chúng tôi thấy được thoát thân. Chỉ kiếm cớ để có dịp nô đùa chạy nhảy với nhau. Có khi còn đánh nhau nữa. Được bảy buổi học như thế. Tới ngày thứ tám là ngày giỗ bố thày đồ. Cái buổi học ấy, thày cho chúng tôi nghỉ hẳn rồi bắt chúng tôi lau bàn thờ quét nhà, giúp các con thày. Mỗi đứa một việc. Tôi phải chân lau đài và bài vị. Tôi trèo hẳn ngay lên bàn thờ, lau đủ mọi vật rất kỹ lưỡng. Tới chiếc lọ độc bình. Cái lọ sâu lòng quá, tôi không biết làm thế nào mà lau được tới tận đáy lọ, vì thày đồ tôi đã dặn phải lau trong lau ngoài cho thật cẩn thận. Tôi cặp chiếc giẻ vào đầu ngón chân rồi đút chân vào trong lòng lọ mà ngoáy, nhưng vừa ngoáy được một hai cái thì mất thăng bằng, tôi nghiêng hẳn người đi. Tôi ôm được chiếc cột, còn chiếc lọ rơi xuống đất vỡ tan. Tôi mê hoảng bỏ cả sách vở, cắm đầu chạy trốn về nhà. Ngày hôm sau tôi nghỉ học. Ngày hôm sau nữa cũng vẫn lại nghỉ học. Bà tôi và chú tôi giục thế nào tôi cũng không chịu đi và hỏi tại sao tôi cứ nhất định giấu. Một hôm, ông đồ chống gậy dò tới nhà. Trời lại mưa. ông đi một đôi guốc đẽo bằng gộc tre cao tới gần một gang tay, có hai mũi cong tớn chắn bùn. Tôi đang nghịch đất ở đầu nhà. Trông thấy ông, tôi không còn hồn vía, cắm đầu chạy. Cả ngày hôm ấy tôi không dám lai vãng về nhà. Thày đồ tôi nói rõ sự thực với bà và chú tôi. Không ai đánh mắng tôi và cả hai người lại giục tôi đi học. Tôi nhất định cứ ở nhà. Bà tôi mắng:
-Không học thì ngày sau đi cắp bị.
-Cắp bị thì cắp. Tôi không học nữa. Mắng chán rồi bà tôi cứ bỏ mặc tôi. Một ngày hai bữa, ăn xong tôi lại theo thằng nhỏ đi lang thang suốt ngày trong làng. Hôm đi học chú tôi đã đưa tôi ra chợ, cho tôi cắt một bộ tóc “ca-lê” (carré)(*) và may cho tôi một bộ quần áo vải mới. Tuy bộ quần áo may phòng nhớn vừa rộng vừa dài, tựa như quần áo đi mượn, lúc mặc phải sắn lên, mà mấy ngày liền tôi không rời nó ra. Hai đầu gối và hai cánh tay đen ngòm những đất. Tôi đi theo thằng ở khắp làng. Hai túi áo tôi lúc nào cũng đầy những thị, ổi, hồng quân lấy trộm ở trong các vườn. ăn không hết lại còn phân phát cho những đứa trẻ cùng nhập bọn. Trèo cây chán, chúng tôi rủ nhau xuống đầm, ao tắm. Có khi giấu kín quần áo một nơi rồi thi nhau mò ốc. Cứ mỗi khi có người qua đường, chúng tôi lại lặn xuống tầng bèo. Đã một lần chủ ao vác sào đứng chờ trên bờ ao và vừa lúc tôi nhô đầu lên thì đánh trúng tôi. Trèo được lên bờ là tôi vội vàng ôm quần áo chạy tới một bụi tre nào rồi cứ để mình mẩy lấm láp mặc vội quần áo vào. Cái cảnh sống của tôi cứ gần như thế suốt trong vòng ba bốn tháng giời. Những bạn chăn trâu của tôi, có vẻ thèm muốn lắm. Mỗi lần gặp tôi lại có đứa nói:
-Sướng nhỉ, bây giờ mày không phải chăn trâu nữa à. Chúng nó khoe rối rít với tôi:
-Dạo này chúng tao chơi quần, không đánh chắt nữa.
-Hôm nào chúng tao cũng nướng ngô ăn với nhau, thích đáo để cơ. (*) Húi rất cao. Mặc dầu chúng nó khoe như vậy, tôi cũng vẫn không theo chúng. Lang thang trong làng tôi thấy được nhiều lợi, nhiều thú vị hơn. Mỗi lần về nhà, bà tôi thấy quần áo đầy bùn lại thở dài mắng:
-ông bố trẻ, ông bố trẻ đã đi đâu về thế? Thím tôi cũng mắng theo:
-Cả ngày chỉ ăn cho no rồi lại đi nô, bằng ngần nấy rồi chứ còn bé bỏng cho cam mà không được lấy một đốt ngón tay việc...
Cái thời kỳ đó tôi thấy nhiều nỗi đau khổ: Quanh tôi người nào cũng hắt hủi tôi. Cả đến bà tôi, tôi cũng thấy luôn luôn đánh mắng tôi. Tôi thành chán nản quá. Và tôi cũng đã sinh ghét hết mọi người trong nhà. Không còn một ai ra vẻ săn sóc tới tôi nữa. Năm ấy tôi đã biết suy nghĩ, đã hiểu đôi chút về hoàn cảnh của tôi trong gia đình chú tôi. Tôi lờ mờ biết rằng tôi chỉ là kẻ sống nhờ; sớm muộn rồi tôi cũng phải từ giã chú tôi. Cái ý nghĩ ấy lại càng khiến tôi thờ ơ với hết mọi người; tôi lại nhớ tới người cô thân yêu đã qua đời và cả mẹ tôi mà tôi không được tin tức gì, và cũng không được nghe ai nói tới. Mà ai cũng nhắc nhỏm đến mẹ tôi thì chỉ là những câu chê trách làm tôi đến phải bực tức:
-Người thế mà bỏ con đi lấy chồng đấy!
-Chỉ nghĩ đến sướng cái thân, con đẻ rứt ruột bỏ lay bỏ lắt.
-ấy, cũng con ông nọ bà kia đấy, thế mà cũng hư! Những câu chỉ trích như vậy, cứ mỗi lần lang thang đi chơi đâu, sa vào một đám đông, có chừng một hai người lớn là y như tôi phải nghe.
***
Thấy cái cảnh sống với chú hai tôi chẳng sung sướng gì, tôi nghĩ tới thằng ở cũ và tự nhiên tôi có ý muốn đi ở cho một nhà nào. Tôi đã mang thực hành cái ý nghĩ đó trong một hôm mải đi săn chuột đồng về nhà tối quá rồi bị chú tôi đuổi đi. Tôi tới nhà thằng ở ngủ nhờ một đêm rồi sáng sớm hôm sau tôi đi khắp làng. Nhà nào có một hai đống rơm ở sân tôi cho là đã khá giàu, tôi lại đánh bạo vào xin ở chăn trâu. Ai cũng cười mà bảo tôi:
-Một tý tuổi đầu thế này làm được việc gì mà mượn.
Cái câu nói ấy làm tôi phải suy nghĩ rất khó chịu. Tại sao mà chú tôi, thím tôi thường trách tôi đã nhớn không chịu làm lụng; vậy mà người ta còn chê tôi bé bỏng, không muốn mướn tôi. Cũng được một nhà nhận tôi vì tôi đã bạo gan khoe với người ta bằng một giọng người lớn học lỏm của bà tôi:
-ấy, nhà cháu biết chăn trâu, biết cắt cỏ. Nhà cháu lại biết đun bếp nữa ạ. Người ta buồn cười khi nghe cái giọng trịnh trọng đó rồi người ta nhận tôi với một câu khen:
-Con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh. Cháu bà lý có khác, ăn nói hóm hỉnh lễ phép gớm.
Nhưng tôi chỉ mới nếm cái cảnh đi ở đó được một ngày thì chú tôi tới đón tôi về. Tôi nói
“đón” vì cái ngày đó, dưới mắt người chủ nhà của tôi, chú tôi đã hết sức ngọt ngào dỗ dành tôi về. Tới nhà, chú tôi mới lôi tôi ra đánh đập. Bắt đầu từ ngày ấy, tôi lại phải chịu tất cả những cái khổ tôi đã phải chịu khi còn ở với chú lớn. Giữa bà tôi và chú hai tôi đã có sự xô xát. Không phải tại tôi. Tại những mẫu ruộng chú tôi nhận cấy thuế. Chú tôi đã ngỏ lời xin bà tôi cả sáu sào dưỡng lão của bà tôi. Chú tôi hứa sẽ nuôi nấng và may mặc cho được đầy đủ. Bà tôi không ưng thuận một điều nào. Bà tôi nói:
-Mày thử nghĩ xem. Đứa nào có phần của đứa ấy. Dù nó sống hay chết cũng không có thể cướp của nó được. Nó sống rồi nó lấy chồng, có con nó làm ăn với nhau, kiếm thêm đồng lợi nuôi nhau. Chẳng may nó thiệt phận chết đi, thì phải giữ lấy mà giỗ tết nó. Còn sáu sào của tao, tao cũng phải giữ lấy mà để sau này lúc nhắm mắt, kiếm kho ván đượng vải(*), chứ không thì bỏ thối ra đó à... Hòng ai! Tất cả cái hiền từ, cái biệt đãi của chú hai tôi đã mất hẳn khi nghe bà tôi nói những câu đó. Chú tôi cãi lại:
-Hòng ai! Thì bà hòng ai thì hòng. Hòng cháu giai bà ấy. Chú tôi lên giọng mỉa mai:
-Bà bảo cháu bà làm cửa làm nhà rồi nuôi lấy bà có được không. Việc gì lại phải về đây. Chú tôi thấp giọng như nói một mình:
-Đã vác thân đi ở biệt tịch một nơi mà cũng chẳng được yên. Còn theo rõi mãi rồi lại bắc cầu với bắc cống. Rõ lắm chuyện. Bà tôi quát lên:
-à, ra mày định đuổi khéo tao phải không. Mày không phải đuổi rồi bà cháu tao cũng đi. Bà tôi ngồi khóc nức nở. Vừa khóc bà tôi vừa than vãn:
-Cha mẹ ơi! Cũng là kiếp người sao mà cái thân tôi nó khổ đến thế. ông ơi là ông ơi!... Các con ơi! Sao các con lại bỏ mẹ các con ơi. Những câu than phiền ấy, cứ mỗi lần bị bạc đãi tủi thân bà tôi lại thổn thức nói ra. Hễ bà tôi lên tiếng khóc và than thân tôi lại như thấy tất cả những cái khổ đã qua dồn dập trở lại. Tựa như một chứng bệnh gì, cứ mỗi lần có dịp, lại hành người mang nó trong mình. Mà dù bà tôi đánh mắng tôi, tôi có ghét bà tôi tới bậc nào chăng nữa, những lúc bà tôi sụt sùi ngồi khóc than thân tôi cũng không thể không thương bà tôi được. Tôi muốn được có cách an ủi bà tôi. Nhưng tôi không biết dùng cách gì. Cũng như mọi lần khác, tôi chỉ biết mon men bên bà tôi, bao giờ bạo dạn lắm thì lại gần bá vai bà tôi. Tôi chỉ dám khẽ nói: (*) Tấm vải.
-Bà! Bà ơi! Có lẽ bà tôi cũng hiểu cái cử chỉ vỗ về đó của tôi. Bà tôi ôm tôi sát cạnh sườn. Tôi cảm động nhìn bà tôi, bà tôi lại khóc:
-Khổ lắm cháu ạ. Cũng có lúc tôi vừa lại gần bà tôi, bà tôi ra vẻ không bằng lòng:
-Thôi xê ra, chỉ tại mày mà tao khổ. Không có mày thì tao chết đường chết chợ đâu cho xong. Những khi bị hắt hủi như thế, tôi tủi lòng và lại khóc theo bà tôi. Vì không có thằng ở nên công việc trong nhà có bận rộn hơn nhiều. Chú tôi lại trách móc bà tôi về nỗi chỉ ăn mà không làm được việc gì. Bởi vậy, trừ việc bế cháu, bà tôi còn phải làm thêm nhiều việc khác nữa. Hái rau, quét nhà, thổi cơm... Thấy bà tôi phải cặm cụi suốt ngày như thế, tôi không bỏ nhà đi lang thang nữa. Cả ngày tôi chỉ loanh quanh bên bà tôi làm đỡ bà tôi những việc vặt. Hai bà cháu hì hục bận bịu cả ngày bên nhau. Mọi công việc trong nhà đều được trôi chảy, đâu ra đấy. Tuy vậy chú tôi và cả thím tôi cũng vẫn tìm cớ để có chuyện lôi thôi, giày vò bà tôi. Mà mỗi khi nói đến bà tôi, chú tôi lại nói chằng cả đến tôi. Những ý tưởng chán nản về gia đình và lòng ghét bỏ mọi người cùng có chung khí huyết với tôi cứ ăn sâu mãi vào trí não tôi. Hình ảnh người mẹ và người cô đã qua đời lại nổi lên trong trí nhớ tôi. Tất cả những vẻ yêu thương của hai người đó lại khiến tôi thấy rõ nỗi khổ phải sống bên người chú hai. Những lúc đó tôi thờ thẫn như đứa không hồn. Bà tôi lại sờ đầu tôi:
-Thằng này hôm nay làm sao mà đờ đẫn thế này.
Tôi cựa mạnh tay bà tôi ra rồi lảng xa. Vào cái thời kỳ này, tôi lại nảy ra cái ý nghĩ, muốn tìm cách tự sống lấy và hơn nữa nuôi lấy cả bà tôi. Tôi thấy những người quanh tôi thường nói muốn làm gì thì làm, phải có dấn có vốn, không tiền thì không nói mạnh được; tôi bèn tìm cách kiếm tiền. Đi ở không thể được, tôi tính cách khác. Mới bắt đầu, tôi nghĩ tới sự hà tiện, tuy tôi không có một xu trong túi. Tôi bắt chước người cô thứ ba tôi, lấy một sợi chỉ buộc vào cả hai cổ tay. Tôi vừa làm việc đó, vừa lẩm bẩm nói một mình, tựa như một ông thầy cúng đọc câu thần chú:
-Buộc chỉ cổ tay, khỏi hay ăn quà này. Buộc chỉ cổ tay để khỏi hay ăn quà này... Nhằm vào mùa gặt, tôi ra đồng mót. Tôi sắn quần lên tới bẹn, đeo một chiếc liềm sau lưng rồi lang thang đi khắp đồng, gặp ruộng nhà nào quen tôi mới xuống. Tôi nhặt độ vài bông vương vãi ở ngoài rồi lân la lấy liềm cắt lúa của người ta. Ai mắng chửi, tôi cũng cố nhịn, nói khéo.
-Tôi mót một nắm con con thôi. Đáp lại câu nói ấy, thường thường người ta bảo tôi:
-Thương hại bồ côi bồ cút tao cho mót một nắm rồi đi sang ruộng khác.
Tôi cắm đầu cắt lấy cắt để, nhờ người bó hộ đội về nhà rồi lại sang ruộng người khác. Người nào cũng sẵn lòng cho tôi mót ít nhiều. Cả cái vụ gặt ấy, tôi được tới hai bó lúa to. Bà tôi vò hộ tôi, phơi hộ tôi. Sảy trấu rồi, còn vừa được một thúng. Bà tôi bảo cho vay, một năm thì một thúng thành thúng rưỡi. Người vay lại chính là chú hai tôi. Chú tôi mang bán lấy tiền mua rượu. Và thúng thóc ấy rồi mất hẳn, vốn, lãi không đòi được một hột nào. Tôi khóc, bắt đền bà tôi. Bà tôi thủ thỉ bảo tôi:
-Chú ăn thì cháu nhịn. Lọt sàng xuống nia, đi đâu mà thiệt. Rồi tết đến bà mừng tuổi cho, lại khối tiền. Tôi vẫn không ưng lời. Cứ ăn xong tôi lại y ỷ theo sau bà tôi mà khóc. Bà tôi đành phải mua ở hàng xóm cho tôi hai con gà con. Bà tôi bảo tôi:
-Chăn gà có lời nhiều hơn là cho vay thóc. Một tiền gà là ba tiền thóc đấy chứ mày tưởng ít à. Cứ nuôi hai con gà này cho đến lúc ăn thịt được thì thúng rưỡi thóc của mày cũng không đủ. Tôi nhận hai con gà con của bà tôi mua cho. Tôi chặt cánh, chặt lông đuôi rồi nhuộm phẩm lục cho cả hai con để khỏi nhầm với gà hàng xóm. Tôi sung sướng khi thả hai con gà ra, thấy chúng có bộ lông màu xanh nổi hẳn lên, không giống một con gà nào trong xóm. Tôi chăm nom hai con gà rất cẩn thận. Dù chú thím tôi bắt tôi làm lụng vất vả và chửi mắng tôi thế nào chăng nữa, tôi cũng vẫn không bỏ được hai con gà ấy. Chúng bé gần bằng nắm tay, mỏ và hai chân trăng trắng, ra vẻ sạch sẽ lắm. Tôi thích nhất khi chúng lon ton chạy trong sân những bước chạy nhẹ và êm quá đi mất! Chúng chạy lên tầng rơm, tầng rạ cũng không có lấy một tiếng động. Tôi phải vỗ tay reo lên, khi thấy chúng kiễng hai chân, giương hai cái cánh con bị cắt gần hết lông khẽ vỗ vỗ trên hai cạnh sườn. Cứ sáng sớm dậy, chúng vừa ở trên chuồng xuống, tôi đã lẻn vào buồng thím tôi bốc một vốc tấm gọi chúng ra đầu nhà rắc cho ăn. Chúng liều lĩnh sán tận gần bên tôi. Tôi thò tay vuốt lưng chúng, con nào cũng kêu đánh “chiếp” rồi nhảy vọt lên, tựa như một trái ban nhỏ nẩy trên mặt đất. Hai con gà được tôi trông nom, lớn như thổi. Tôi nghe bà tôi, không cho ăn tấm nữa. Ngày hai bữa tôi cho ăn cơm. Bữa nào cũng vậy, cứ đến bát cơm cuối cùng là tôi dành lại rồi hăm hở mang gọi gà cho ăn. Hễ hai chú thím mắng, tôi cố cãi lại:
-Tôi không ăn thì tôi để phần lại cho gà. Về sau tôi phải dùng một cách khác để lấy cơm.
Tôi cố thong thả, ngồi lại cho tới cuối bữa, mọi người đã đứng dậy là tôi mang bát cơm cho gà. Hai con gà không bao giờ chịu đói. Chúng đã nhớn nhiều: lông đuôi, lông cánh đã mọc đủ và bây giờ không thể nào nhầm lẫn được với gà hàng xóm. Đến lúc ấy, tôi mới biết rằng một con trống, một con mái. Con trống đi lang thang suốt ngày, hết nhà này sang nhà khác. Bà tôi đã có lần mắng tôi:
-Rõ người làm sao thì của làm vậy. Cái đồ hay lêu têu nuôi được con gà cũng lêu têu cả ngày. Tôi nghiệm thấy rằng cứ nhà nào có nhiều mái là nó luôn luôn có ở đó. Nó lại gần con mái, ghẹ ghẹ mấy cái; co một chân lên, khẽ cọ chân kia. Con mái từ chối chạy đi nơi khác nó lại ra công đuổi theo và lại nhắc lại những điệu bộ trên đây. Cho tới khi con mái chịu cong đuôi mới thôi. Hễ hơi có tiếng động là nó nhớn nhác kêu la inh ỏi; trông cái dáng hốt hoảng và cái mào đỏ lắc lư trên đầu, tôi thấy nó ra vẻ siêng năng, cần mẫn lắm.
Con mái thì trái lại. Chỉ quanh quẩn ở nhà; hoặc có đi xa lắm cũng chỉ ra tới vườn, bụi tre. Khi nó gần đẻ, nó gạt ổ ở góc chuồng trâu. Nó cào đám đất lên rồi nằm xuống đấy. Bà tôi làm cho nó một cái ổ bằng một nắm rơm rải trong lòng chiếc sảo rách, rồi đặt vào chỗ nó đã cào lên. Mỗi ngày nó đẻ được một trứng; cứ ngày ngày không bao giờ tôi quên đếm những quả trứng ấy. Hôm nào đi chăn trâu về mà không thấy có thêm một quả trứng, tôi lại đứng sị mặt, ôm một gốc cột tỷ tê khóc. Chính chú tôi ăn đi mất, nhưng hễ thấy tôi khóc, chú tôi lại mắng:
-Gà nó tắt đẻ chứ ai ăn của nhà mày. ông thì lôi ra ông riệt cho một trận bây giờ chứ.
Cái lứa đầu con gà mái được sáu con. Bà tôi phải chờ cho tới nước cạn mới dám cho gà xuống ổ để cho nó sống lâu. Vậy mà cũng chết mất hai, quS tha mất một. Trông đàn gà không được đông như đàn gà khác tôi buồn quá và thành ghét con gà mái. Mỗi lần lấy tấm cho nó ăn, tôi lại lẩm bẩm một mình:
-Trông nom săn sóc là thế mà lại không đẻ được lấy hai chục con. Được ít lâu, con mái đã bỏ con. Nó kêu cả ngày. Và đàn gà con thì nháo nhác như lúc có quS sà xuống. Bà tôi bảo tôi:
-Con gà của mày lại sắp đẻ lứa khác rồi đấy. Tôi mơ tưởng ngay đến một đàn gà con chừng mười tám mười chín con chiêm chiếp suốt ngày tôi sắp có nay mai. Tôi thấy sung sướng quá; cứ hễ nghe gà kêu tìm trống tôi lại vỗ tay reo:
-Cộc te, cộc tác, bỏ con nháo nhác mà đi tìm chồng. Cộc te, cộc tác, bỏ con nháo nhác mà đi tìm chồng. Con gà trống hay đi lang thang, bà tôi sợ có người bắt mất, bà tôi bán cho bà lão hàng xóm được tám hào. Ba con gà con đã thành gà giò. Ba con này cũng không ngoan lắm. Cứ bao giờ thím tôi đi vắng nhà chúng rủ nhau len qua những chấn song cửa sổ vào trong buồng ăn vụng thóc.
Khi chúng đã nhớn không thể lọt qua được những khe chấn song nữa, chúng cứ vơ vẩn ngoài bờ hè mà nhìn vào buồng thóc. Bà tôi giữ ba con này lại để thỉnh thoảng làm lễ ra đình hoặc ra chùa. Bà tôi giả tất cả ba con chín hào. Bà tôi tính toán với tôi:
-Tám hào con trống, chín hào ba con giò thế là tất cả đã được một đồng bảy rồi đấy. Còn con mái nó đẻ lứa này cũng may nổi được cái áo. Tôi nhất định đòi lấy đồng bảy bạc ấy. Tưởng tượng một đứa bé như tôi mà cầm món tiền ấy trong tay thì sung sướng biết chừng nào! Nhưng bà tôi không bằng lòng:
-Để bà giữ cho, mà làm vốn, kiếm manh quần tấm áo mà mặc chứ nhằm ai. Bố chẳng có mẹ thì không... Tôi đành để món tiền ấy cho bà tôi giữ. Nhưng chú tôi đã rình mò từ lâu. Chú tôi hỏi mượn khéo bà tôi, lấy tiền uống rượu. Bà tôi đòi thím tôi, thím tôi bảo:
-Ai vay mượn cứ người ấy mà đòi. Hỏi chú, chú mắng:
-Ai nuôi mày mà có hơn đồng bạc tiêu của mày, mày lại đòi với hỏi. Rõ cái đồ vô phúc, cái quân bạc bẽo vô mùi! Bà tôi mắng lại. Chú tôi không nể lời. Lại có chuyện cãi nhau và trong nhà lại có sự xô xát khiến người này hiềm thù người khác. Có khi cả ngày chẳng ai hỏi nhau nửa nhời. Tôi thú thực rằng tôi không thấy buồn về sự bất hòa ấy, tôi chỉ tiếc món tiền gà của tôi. Bà tôi thỉnh thoảng lại nói lửng:
-Không biết thế nào là nhục! ăn cả của cái đứa cháu bồ côi. Bòn hót từ dăm ba hào, một đồng! Thấy bà tôi than phiền mãi, thím tôi bèn gán giả tôi ba con chó con chưa mở mắt. Tôi thấy ba con chó cả ngày cứ oăng oẳng chui rúc hết gầm giường lại lăn ra sân, cứ phải bắt bỏ ổ cả ngày tôi ghét quá. Tôi không bằng lòng. Bà tôi dỗ tôi:
-Thôi, Dần ạ. Lấy vậy. Hỏng nồi vơ rế. Cố nuôi, chó bán đắt cũng lãi chán. Tôi bảo bà tôi:
-Nhưng chó mù thì nuôi làm sao! Bà tôi phì cười:
-Cha bố mày! Rõ trẻ con! Chó nào lúc mới đẻ mà mắt chẳng nhắm. Dần dần rồi nó mới mở mắt ra chứ.
Tôi lại nghe lời bà tôi. Và từ đấy tôi lại ra công săn sóc đến ba con chó con. Tôi lấy chiếc lá cót quây quanh cái ổ rơm để chúng khỏi lăn ra ngoài rồi xích ngay mẹ nó trong ổ để cả ba con cả ngày được bú no nê. Bà tôi bảo phải chăm cho con mẹ ăn nó mới có sữa, mỗi ngày tôi cho con chó cái ăn tới hai ba bát cơm đầy. Được ít lâu ba con chó con mở mắt. Chúng ra vào quanh nhà. Một con mình trắng, đốm vàng, một con đen tuyền và một con màu gio. Con nào cũng có bộ lông mượt, đặt tay vào rất êm. Tôi thích nhất con chó khoang. Hai cái mắt nó sáng và hai cái tai nó vểnh trông đến hay hay. Bà tôi đánh giá nó phải được tới tám chín hào. Nghĩ tới sự phải bán con chó ấy đi tôi thấy thế nào trong người! Chưa chi đã thành nhớ tiếc. Cũng vào cái hồi ấy con gà mái của tôi ấp lứa thứ hai nhưng bao nhiêu trứng đều bị ung cả. Bà tôi mang luộc ăn hai bữa liền mới hết. Bà tôi không cho tôi quả nào, bảo con giai mà ăn trứng ung đi học sẽ thành dốt nát. Bà tôi bán con gà mái mua cho tôi được đàn vịt năm con nhỏ. Tôi lại thành bận bịu hơn. Bao nhiêu công việc trong nhà như hái rau, cắt cỏ, chăn trâu, thổi cơm, tôi vẫn phải làm. Hai vợ chồng chú thím tôi vẫn luôn luôn gây chuyện với hai bà cháu. Và cứ độ một hai ngày tôi lại bị chú tôi cho một trận đòn.
Tôi nhẫn nại cam chịu tất cả những cái đau khổ ấy và bao giờ tôi cũng nuôi cái hy vọng sẽ có vốn để bỏ chú rồi đưa bà ra ở riêng. Cái ý định này tôi vẫn giữ kín không hề nói với ai. Vì vậy mà dù phải khó nhọc đến đâu chăng nữa tôi cũng vẫn không quên săn sóc đến năm con vịt và ba con chó con. Về đàn vịt thì bao giờ tôi đi chăn trâu cũng cho nó theo ra đồng. Tôi buộc mấy mảnh lá chuối khô vào đầu một cành rào rồi lùa chúng đi trước một tay cầm cờ chuối, một tay cầm thừng dắt trâu. Những con vịt ra đồng, tôi lùa xuống cái hồ làng ngay bên cạnh giếng, ở trước đình. Khi chúng đã no nê rồi, chúng thi nhau lặn, rồi đuổi nhau giữa hồ trông rất vui mắt. Mỏ và chân con nào cũng hồng hồng trông tươi lạ. Chúng rúc vào giàn bèo rồi lại lặn ra; có khi nô giỡn, tranh nhau một chiếc lá đa từ ngọn rơi xuống. Khi nào trâu đã no và cả đàn vịt cũng đã no tôi phất chiếc cờ lá chuối rồi cất lên tiếng gọi:
-Các cạc... cạc... cạc... Cúc... cục... cục... cục. Đàn vịt nhớn nhác một lúc rồi tụ nhau lại đưa nhau lên bờ. Đàn vịt lại đi trước và con trâu tôi lại dắt theo sau. Chẳng bao lâu tôi thấy vịt và trâu thành thân nhau. Cứ hễ tôi buộc con trâu vào cọc là mấy con vịt xúm bên con trâu. Có khi con trâu nằm, mấy con vịt cũng nằm ở cả lên mình nó hoặc lại lấy mỏ dũi lông nó, bắt rận cho nó. Thế rồi thành một thói quen.
***
Một cái tết qua, tôi đã thêm được một tuổi nhưng không cao lớn thêm được tý nào. Hãy còn bé mà đã phải làm bao nhiêu việc nhọc nhằn nên người tôi như bị cằn cỗi hẳn lại, không thể nở nang thêm được. Cuộc đời tôi không có gì thay đổi; tôi vẫn phải từ sáng đến chiều khó nhọc làm lụng. Chú tôi cũng thế. Hai bà cháu cứ dậm dựa vào nhau mà sống lẩn quất trong gia đình chú tôi, bao giờ cũng phải lấm lét, sợ hãi như hai kẻ ở nhờ. Mỗi lần có dịp, thím tôi lại tìm lời diếc móc:
-Cơm gạo ở bồ ở cót nhà mình xúc ra thế mà nó kiếm được đồng nào nó cứ giữ để làm vốn tây vốn riêng. Thím tôi cất cao giọng lên:
-Người ta còn thu vén cho nhau kia mà! Tôi lại càng chán nản hơn khi nhớ lại rằng tất cả cái vốn riêng tôi đã gây được đều đã bị tiêu tán hết. Tôi thấy sự tự sống lấy và nuôi lấy bà là một việc khó khăn, tôi còn bé quá chưa thể làm nổi được. Nhưng tôi vẫn tin rằng nếu tôi có tiền, có thóc ắt tôi sẽ đạt được ý định của tôi. Tôi vẫn không quên cái dự định kiếm vốn. Tôi sắm cả đến chiếc cần câu để đi câu rồi mang cá về thả trong một cái lỗ thùng tôi đã đào ở một góc vườn hẻo lánh để nuôi hy vọng sẽ bán được một món tiền chăng. Các bạn có thể tin được rằng tôi đã làm cái việc đó không? Những con cá tôi câu được ở ao làng mang về thả chỉ hai hôm là chết. Con nào sống dai lắm cũng chỉ được ba hay bốn ngày. Vì con nào cũng bị lưỡi câu làm rách mép, cứ thối ở nơi đã có vết thương rồi chết. Trong mấy ngày, vừa đi kiếm lá tre vừa câu cá mà cũng được kha khá. Những ao có thả cá, nó nổi lên từng đàn trên mặt nước, tôi lại lẩn lút ngồi trong một bụi rậm, giấu hẳn người chỉ thò chiếc cần câu nhỏ tý xuống ao. Những con cá chết trong lỗ thùng, bà tôi mang kho vừa một nồi to. Tôi chẳng còn cách gì để cố dành dụm kiếm đồng mua gà mua vịt nữa. Những lúc đi quanh làng, tôi thấy nhiều người bàn tán về tôi. Người ta bảo tôi cũng có ruộng, có thóc sao lại phải đi chăn trâu cắt cỏ như một đứa ở. Người ta trách thầm hai chú tôi và cả bà tôi. Nghĩ tới sự gây vốn, một lần tôi đã đánh bạo hỏi bà tôi:
-Ruộng và thóc của cháu đâu, hả bà?
-Ruộng nào?
-Ruộng của cháu ấy.
-Cha bố mày chứ! Ai bảo mày mà mày hỏi đến ruộng với thóc... Có mấy mẫu ruộng của bà chia cho mỗi năm chú mày giả được hai ba chục thóc thuế chứ mấy vạn! Có năm túng thiếu quá nó lại khất không trả. Còn ăn vào của nó chả lẽ nay đòi thóc mai đòi thóc được à... Mấy lại, nó có sòng phẳng giả đủ ra nữa thì bà cũng còn phải giữ lấy để cho vay cho giật, rồi sau này nhớn lên bà thêm cặm vào cho ít nhiều nữa rồi mà làm cái cửa cái nhà, lo lấy con vợ để nó trông nom cho chứ... Có dễ cứ dậm dựa mãi vào chú mày được ư. Ai thì nhớn lên cũng phải lo vợ con mà làm ăn chứ. Không dành dụm ngay từ bây giờ thì có dễ về sau lo công kia việc nọ rồi bán đình bán chùa đi hay sao. Lo mất tới hàng trăm hàng nghìn ấy chứ mỗi năm dăm ba chục thóc thì mày bảo đã ăn nhằm gì mà mày hỏi đến ruộng với thóc. Có dễ có ra đấy thì bà cháu cứ thi nhau mà ăn tiêu chắc! Rồi về sau ngửa tay xin ai. Bồ côi bồ cút, bố chẳng có, mẹ lại bỏ đi lấy chồng... Nói đến câu này, bà tôi như dơm dớm nước mắt không nói thêm gì nữa. Tôi yên lặng ngồi nghe. Khi bà tôi đã ngừng nói, tôi không còn biết nói gì với bà tôi nữa. Tôi lại kiên tâm chờ cho tới vụ tháng năm. Nuôi cái hy vọng đi mót được nhiều thóc, để làm vốn, tôi cũng quên được những nỗi vất vả hàng ngày. Cứ mỗi lần có ai đến chơi thăm hỏi bà tôi mà thấy tôi phải làm lụng nhiều quá lại nói với bà tôi:
-Chết nỗi! Ai lại thế! Nó mới bằng cái ngón tay này, bắt bế em quét nhà là quá. Bắt nó làm thế thì nó chịu sao được. Bà tôi chỉ thở dài:
-Nhưng bà tính, ăn của người ta mà không làm thì người ta diếc đến đổ máu mắt ra ấy chứ. Đến tôi đây gần hấp hé miệng lỗ mà cũng vẫn còn phải làm đến gù lưng bại xác nữa là. Những tiếng than phiền ấy đến tai chú tôi, chú tôi lại tìm cớ nói lôi thôi đến bà tôi:
-Bà làm gù lưng bại xác thì bà ấm vào thân bà chứ có dễ bà làm không cho tôi. Bà tôi không chịu được những lời đó, lại mắng lại:
-Mày đừng có láo, cái thằng vô phúc kia ạ! Thấy bà tôi to tiếng chú tôi không dám cãi lại nữa, nhưng chú tôi mắng chửi tôi:
-Cái thằng cu Dần rồi mày xéo đâu thì xéo! Không ai có gạo mà nuôi mày mãi. Cút đi với cái con mẹ mày. Bao giờ cũng vậy, hễ có điều gì không bằng lòng bà tôi mà chú tôi không thể giày vò bà tôi được thì tôi lại là cái bướu phải cam chịu lấy hết mọi điều tức bực với chú tôi. Vì vậy mà đã có lần chú tôi tức với bà tôi, gặp tôi trên chiếc cầu cau ở giữa ao, chú tôi không buồn tránh, cứ hăm hở bước, đến nỗi tôi trượt chân bị ngã xuống ao. Chú tôi vẫn thản nhiên đi, không hề thò tay nâng tôi lên. Tôi lục sục dưới tầng bèo mãi rồi may tay bám vào được cái chân cầu. Tôi về nhà ướt đầm đìa, sụt sịt khóc. Tôi nói chuyện lại cho bà tôi biết, bà tôi quát lên:
-Cha bố nó chứ con! Thế này thì ra cái quân nó tiểu nhân, nó chỉ giận cá chém thớt! Bà tôi nức nở khóc nói không ra tiếng:
-Thế này thì rồi có phen nó giết chết mất cháu tôi! Nghe bà tôi nói câu ấy, tôi lại bật lên khóc to. Lúc đó lại tới lượt thím tôi can thiệp:
-Hét nó vừa vừa chứ ông mãnh ạ. Ai làm tội ông mà ông khóc!
-Thôi tôi xin chị! Chị cũng vừa vừa chứ. Chồng chị tử tế, phúc đức lắm đấy! Rồi có giời cả đấy! Giời không mù đâu! Lại bắt đầu cuộc xô xát giữa bà tôi và thím tôi. Không mấy ngày là không xảy ra chuyện cãi chửi nhau ầm ỹ trong nhà. Cái cảnh sống ấy có lẽ cứ dằng dai mãi nếu không xảy ra câu chuyện dưới đây: Hôm ấy thím tôi đi chợ làng mua được một con cá chuối khá to. Thím tôi nấu riêu và rán. Mùi mỡ thơm ở bếp bốc ra đã làm chú tôi nghĩ tới sự uống rượu với các thức nhắm đó. Chú tôi đưa tôi hai hào và sai tôi đi mua rượu. Tôi cắp chai đi về mua được một chai rượu. Bữa cơm ấy, chú tôi ra chiều vui vẻ lắm. Một chén, hai chén, rồi hết tới nửa chai. Vừa uống chú tôi vừa khề khà nói với bà tôi:
-Hôm nay vui chén, tôi lại muốn nói lại với bà câu chuyện cũ. Thế nào bà cũng cấp cho tôi cái mẫu ruộng của cô dại(*) và mấy sào của bà. Chuyến này thì tôi nhất định ra làm trương tuần xem sao! ực, ực, hết một chén tống rượu, sau một tiếng
“khà” chú tôi lại tiếp lời:
-Chẳng lẽ lại cứ là bố cu mẹ đĩ mãi. Bà tôi hình như thấy con nói tới sự kiếm chức tước trong làng cũng vui vui, nhưng nghĩ tới sự tốn kém và phải bán đến mẫu ruộng của cô tôi, bà tôi đủng đỉnh đáp:
-Tiền đâu! Ruộng nương nào. Ai có phận người ấy. Anh có của, anh muốn làm gì thì làm tôi đây tay không, có gì mà cho anh... Chú tôi ngồi nghe nhưng vẫn không quên uống. Dần dần chai rượu đã cạn hẳn:
-Ruộng nương bà định giữ làm gì?
-Tôi làm gì thì làm. Bao giờ tôi chết đi hãy hay... Anh bảo vợ con anh lo toan cho. Ai đi lấy chồng mà chẳng vậy. Tôi đây ngày trước cũng phải lo liệu cho chồng con chứ có dễ tôi để cho chồng tôi phải nhờ lụy đến mẹ già chắc. Thím tôi ngồi bên, gõ đôi đũa đánh “cạch” vào cạnh bát, hầm hầm nét mặt:
-Bà ngày trước bà đảm đang, bà lo cho chồng được hẳn hoi... Chúng tôi đây con nhà thường dân, vụng về chỉ biết ăn hại đái khai chứ còn biết lo toan là cái gì. Bà tôi lườm thím tôi một cái thực dài:
-Nói thế mà không biết nhục! Cái hạng đàn bà ấy thì rồi cho voi nó giày! Chú tôi quát:
-Bà không thể nói thế được! Còn bà đây thì bà phải lo liệu cho tôi chứ. Hẳn ngay bà chết đi thì lúc đó mọi sự mặc tôi... Nhưng còn bà sống trờ trờ ra đây, có dễ... Bà tôi vội cướp lời:
-Có dễ làm sao? Vén hai tay áo lên, cởi phăng hàng cúc áo cộc ra rồi chú tôi nhìn thẳng vào mặt bà tôi. Bà tôi vứt bát đánh bịch xuống đất:
-Thì mày giết bà cháu tao đi mà cướp lấy ruộng.
-Tôi lại tha bà. Vừa nói chú tôi vừa vung mạnh chiếc chai vào một góc cột. Chiếc chai vỡ đánh soảng. Cả nhà giật mình. Tôi ôm chặt lấy cánh tay bà tôi và đứng dậy khỏi mâm cơm. Lúc đó thím tôi nói len một câu:
-Có một hớp rượu mà cũng đập với phá. Uống làm gì cho lắm vào. Người với ngợm... Chú tôi lại nhìn thẳng vào mặt thím tôi:
-Phải, ông đây là ngợm, còn cái thằng bố mày ở nhà thì là người!
-Thằng bố tôi chẳng trêu gì ai!
-Thôi im cái lỗ mồm đi! Người ta không muốn cho tao làm nên ở cái đất này; người ta cứ muốn tao phải đi đắp đê, quét đường làng mãi, mày có biết không? Ngu! Sao mà cái quân nó ngu!
-ông nọ bà kia thì đã làm gì ai!
-Không làm gì ai à! ông mà làm nên thì ông giết cả nhà nhà ông, cả nhà nhà mày, vợ với con gì cái hạng mày. Bà tôi mắng:
-Rõ cái giọng chưa đỗ ông nghè đã đe hàng xóm.
-Tôi không thèm đe ai. Dứt câu, chú tôi lại đập, đập bát, đập đĩa, đập nồi cơm, sanh riêu. Thím tôi mê mẩn bỏ chạy. Chú tôi trừng trừng hai mắt đỏ ngầu nhìn tôi:
-Dần! Mày lấy tao mồi lửa tao đốt cái nhà này cho bà mày biết tay tao. Tôi sợ quá chạy vội ra cổng. Tôi đứng đờ người ở đó, thỉnh thoảng còn nghe thấy tiếng đập phá và tiếng quát. Tôi lo cho bà tôi, nhưng tôi không dám trở vào. Tôi tưởng như bà tôi đã bị chú tôi giết chết. Tôi nghĩ vậy, rồi tôi thút thít khóc:
-Bà ơi, bà bỏ cháu bà ơi. Khóc chán rồi tôi ngồi xệp xuống đất, đào lỗ giun, quên khóc và quên cả bà.
Chú tôi vẫn thường hay có tính nát rượu như vậy. Cứ vài ngày lại uống hết một chai. Có khi không uống ở nhà thì lại đi uống đụng với người khác. Cái món nhắm chú tôi thích nhất là thịt chó. Hễ thấy nhà ai làm thịt chó là chú tôi cố nằn nì ăn đụng cho bằng được. Bà tôi vẫn thường chửi mắng chú tôi về cái tật say sưa và cố tìm cách ngăn ngừa không cho uống. Nhiều lần chú tôi phải ngâm rượu với thuốc bắc rồi rót vào một cái ấm chè con. Mỗi lần muốn uống chú tôi lại rót ra một chiếc chén trà con. Hễ bà tôi cất tiếng mắng, chú tôi lại cãi:
-Rõ khéo nói mò! Rượu ở đâu mà rượu! Nước chè pha từ tối hôm qua, còn một hớp uống nốt. Tôi còn đang mân mê trong tay một hòn đất không hiểu chú tôi còn đập phá những gì và bà tôi ở nhà ra sao thì bà tôi đã ra ngõ dắt tôi đi:
-Bây giờ mà mày về thì nó giết chết! Bà tôi đưa tôi sang một người láng giềng. Bà tôi ngỏ lời muốn xin sang ở nhờ người hàng xóm. Bà ta từ chối:
-Bà cũng có con nọ con kia, ai lại thế rồi người ta cười chết. Mấy lại để cho bà sang ở đây rồi hai bác ấy lại kỳ kèo tôi có phải là dại mặt không?
-Bà tính, hai con đã như thế thì nó còn thiết gì đến tôi!
-Thì bà về ở với con gái!
-Ai lại bỏ con giai đi ở với con gái bao giờ.
-Thì đi ở nhờ còn quá tội.
-Tôi cũng muốn tạm nhờ bà bên này dăm ba bữa nửa tháng cho cái thằng hai nó nguôi nguôi cái cơn giận nó đi rồi tôi lại về chứ con dại cái mang, đã đẻ nó ra thì hay dở cũng cắn răng chịu vậy chứ bỏ làm sao được con. Nhưng bà láng giềng vẫn không ưng thuận. Câu chuyện ở nhờ không xong, bà tôi lại dắt tôi về. Lúc đó chú tôi đã ngủ say trên giường, hơi rượu còn nồng nặc cả gian nhà. Thím tôi bế con nằm trong buồng. Bà tôi lấy chiếc thúng rách khẽ rón rén từ gian này sang gian khác nhặt nhạnh quần áo bỏ vào thúng rồi lại dắt tôi đi. Tôi ngơ ngác theo bà tôi. Ra tới cổng bà tôi bảo tôi:
-Thôi đi, lại về với chú lớn mày! Đánh thót, tôi giựt mạnh tay tôi ra khỏi tay bà tôi, và bước vội ra xa. Bà tôi kêu lên:
-Về với chú, mày đi đâu? Tôi chẳng nói gì, quàng hai bàn tay sau gáy, khẽ lắc đầu. Hai bà cháu cứ đứng im một chỗ nhìn nhau. Một lúc sau, khi bà tôi rời mắt khỏi tôi, tôi cắm đầu chạy.
Sống nhờ
Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5 (Chương kết)