Chương 17
Tác giả: Ngô Viết Trọng
S au ngày An Sinh vương mất, tình hình nước Đại Việt bắt đầu chớm lên cơn sốt đao binh. Quân đội Mông Cổ hùng mạnh và hung tàn từ phương Bắc đã vượt Vạn Lý Trường Thành diệt được hai nước Kim, Tây Hạ rồi tấn công nhà Nam Tống dữ dội. Các nước lân cận của nhà Nam Tống đều phải rúng động run sợ. Triều đình nhà Trần lo xa liền ráo riết chuẩn bị chiến tranh. Các vương hầu đều được phép tuyển mộ binh sĩ riêng, tập luyện cho tinh thục để phòng khi hữu sự. Lúc bấy giờ Trần Quốc Tuấn đã được phong tước Hưng Đạo vương, Trần Doãn được phong tước Vũ Thành vương.
Cái lệnh cho phép các vương hầu được tùy tiện tuyển mộ binh sĩ để phòng lúc nguy biến làm Vũ Thành vương Trần Doãn hết sức vui mừng. Ông đã bỏ ra rất nhiều của cải dùng vào công việc ấy. Ngày nào ông cũng chuyên chú luyện tập cho quân sĩ. Chẳng bao lâu ông có một đạo quân khá thuần thục.
Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn thấy em mình khổ công như vậy thì hiểu ý ngay. Là anh em, ông biết khá rõ tài năng của Vũ Thành vương. Bình sinh Vũ Thành vương rất yêu thương cha, ít khi làm gì trái ý cha mình. Ông rất lo sợ nếu Vũ Thành vương vì lời dặn của cha mà gây ra một biến cố. Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết, câu tục ngữ ấy mang ý nghĩa thiết thực nhất trong giai đoạn này. Một hôm ông đến thăm Trần Doãn tại tư thất. Khi anh em cùng ngồi uống trà, Trần Doãn hãnh diện hỏi anh:
- Vương huynh thấy đệ tập luyện chuyên cần như vậy liệu có giúp vương huynh làm nên việc lớn không?
Hưng đạo vương Tuấn nghiêm nghị nói:
- Tập luyện như vậy thì tuyệt lắm. Nhưng vấn đề làm nên việc lớn hay không thì phải tùy. Vương đệ có bao giờ tiết lộ ý định mình với thuộc hạ chưa? Chớ bao giờ đem tâm sự mà phó thác cho ai nhé! Khó lắm.
- Vương huynh khỏi lo. Em chưa từng tiết lộ lòng mong muốn của cha với ai hết. Thế vương huynh nói vấn đề làm nên việc lớn hay không thì còn tùy nghĩa là thế nào? Đây không phải là cơ hội trời giúp ta sao?
- Tùy thuộc nhiều yếu tố, nhiều trường hợp. Trong trường hợp hiện tại, vương đệ chỉ có thể hợp tác chặt chẽ với triều đình mới phát huy được tối đa khả năng của đạo quân này. Bằng ngược lại, huynh e rằng...
Vũ Thành vương nôn nóng không để anh mình nói hết lời:
- Vương huynh đã rõ, cha đã hết lòng trông cậy ở chúng ta. Vương huynh cũng đã từng hứa với cha, cớ sao bây giờ vương huynh có vẻ đổi thay như vậy? Em nghĩ chắc vương huynh không nỡ phụ lòng cha!
Hưng Đạo vương ôn tồn:
- Em đừng nóng, để anh lý giải sự việc cho em nghe. Hiện giờ quân Mông Cổ là giống giặc tàn bạo nhất đang đe dọa ngoài biên. Dân chúng mỗi ngày giật mình không biết mấy lần. Tất cả đều trông cậy vào sự che chở của triều đình. Nếu chúng ta đi ngược lại triều đình tức chúng ta đi ngược sự trông cậy của toàn dân. Như thế là chúng ta tự cô lập mình vậy. Hơn thế nữa, chúng ta có thể làm tan cái thế đoàn kết của quốc dân. Tạo cơ hội cho kẻ thù tiêu diệt dân tộc Đại Việt, đưa dân Đại Việt vào gông cùm nô lệ. Nếu không may xảy ra chuyện như vậy, chúng ta sẽ trở thành kẻ có tội rất lớn với dân tộc...
- Em đồng ý với anh điểm đó nhưng làm ngược lại lời cha thì em không chịu được. Thế thì chúng ta phải làm thế nào?
- Em có tin chắc nếu thi hành ý muốn của cha là rửa nhục được cho cha không? Anh không hoàn toàn dám nghĩ như thế. Kẻ trí hành động phải nghĩ kỹ đường tiến thoái. Nếu hành động mà thất bại, tất nhiên con cháu bị tru lục hết. Khi đã hết người để hương khói cho tổ tiên thì cái tội bất hiếu ai gánh cho đây? Bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại, trong trường hợp đó mình có dám hãnh diện vì đã hiếu với cha hay không? Hay mình mang tiếng làm điếm nhục tổ tiên?
Vũ Thành vương im lặng cúi đầu suy nghĩ. Hưng Đạo vương nói tiếp:
- Thôi được, anh xin kể cho em nghe câu chuyện một người xưa đã làm trái lời trăng trối của cha già mà vẫn được người đời ca tụng là có hiếu nhé:
Ngụy Thù là một danh tướng nước Tấn thời Đông Châu. Khi đã trọng tuổi, Ngụy Thù tuyển được một người thiếp rất đẹp, tên nàng là Tổ Cơ. Nàng Tổ Cơ ngoài sắc đẹp, còn biết cách ăn ở, tâm đầu ý hiệp với Ngụy Thù nên Ngụy Thù thương quí lắm. Thấy mình đã già, lại hay đi trận mạc, sợ lỡ một mai bất ngờ không về thì tội nghiệp Tổ Cơ nên Ngụy Thù thường dặn con là Ngụy Khỏa:
"Khi ta mất rồi, con hãy tìm một người tốt mà gả Tổ Cơ để nàng có nơi nương tựa!".
Ngụy Khỏa hứa xin tuân mệnh.
Nhưng Ngụy Thù không chết trận. Về sau, ông đau liệt giường một thời gian. Khi sắp mất, ông gọi Ngụy Khỏa đến dặn:
"Khi ta chết, con hãy đem Tổ Cơ chôn chung xuống huyệt với ta cho có bạn!".
Ngụy Khỏa nghe cha dặn tuy ý ngược lại mấy lần dặn trước nhưng cũng cúi đầu vâng chịu.
Thế nhưng khi Ngụy Thù mất, Ngụy Khỏa không đem Tổ Cơ chôn theo cha như di mệnh. Người em Ngụy Khỏa là Ngụy Kỳ thắc mắc:
"Tại sao anh không đem Tổ Cơ chôn như lời cha dặn?"
Ngụy Khỏa giải thích:
"Bình thời cha vẫn dặn anh khi người khuất núi, hãy đem Tổ Cơ gả cho một người tốt để nàng có nơi nương tựa. Đó là lời lúc trí óc người đang sáng suốt. Khi cha gần mất, người lại dặn phải đem chôn Tổ Cơ theo người, chẳng qua là lời nói lúc người trí óc đã hôn ám, không nên tin cậy".
Sau đó, Ngụy Khỏa đã gả Tổ Cơ cho một người đàn ông tốt có chút danh phận.
Khi chiến tranh giữa hai nước Tấn và Tần tái diễn, Ngụy Khỏa đã gặp phải tướng của nước Tần là Đỗ Hồi có sức mạnh vô cùng, người Tấn không ai địch nổi. Một hôm Ngụy Khỏa đang khốn đốn vì chạm mặt Đỗ Hồi giữa trận tiền thì con ngựa Đỗ Hồi cỡi đột nhiên chân bị vướng cỏ ngã lăn làm Đỗ Hồi văng xuống đất. Ngụy Khỏa nhân đó chém được Đỗ Hồi. Đêm đó Ngụy Khỏa mộng thấy một ông già xưng là cha của Tổ Cơ đến viếng. Ông nói vì cảm nghĩa Ngụy Khỏa không chôn sống con gái mình nên ông kết cỏ làm cho ngựa Đỗ Hồi vấp ngã, giúp Ngụy Khỏa trừ được Đỗ Hồi để đền ơn. Việc đó đã chuyển họa thành phúc cho gia đình Ngụy Khỏa và cho cả nước Tấn. Em nghĩ cái kết quả ấy có thống khoái không? Đó cũng là sự giải thích cái điển tích "Kết Cỏ" vậy!
Vũ Thành vương nghe chuyện xong nêu ý kiến:
- Chuyện nghe được nhưng đoạn kết có vẻ hoang đường!
Hưng Đạo vương nói:
- Có thể em nói đúng. Nhưng điều thực tế chắc chắn là không ai chê trách hành động của Ngụy Khỏa được. Trường hợp chúng ta, anh không dám nghĩ cha trăng trối lúc cha không bình thường đâu nhé. Anh chỉ cho rằng lúc ấy đất nước đang thái bình nên cha nghĩ thế. Nhưng bây giờ tình hình đã khác. Nước ta có câu ngạn ngữ "Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết!". Mình không thể vì ý riêng mà vô tình tiếp tay cho giặc. Em có đồng ý như thế không? Vậy, tạm thời mình khất nợ với cha để tránh chuyện có thể dìm cả dân tộc mình xuống hố diệt vong vậy!
Vũ Thành vương buồn rầu thưa:
- Vương huynh vì nước nghĩ như vậy thì thật là cao thượng. Nhưng hai anh em mình đã trót hứa với cha, nhất là em đã thề độc không đội trời chung với tên giặc già Trần Thủ Độ, không lý bây giờ em lại tiếp tay củng cố cho bạo quyền của y! Vậy, em xin giao lại vương huynh cái đạo binh mà em đã dày công huấn luyện thuần thục đó để vương huynh sử dụng. Em sẽ tính đường khác.
Hưng Đạo vương ái ngại nhìn em:
- Em giao đạo binh em đã dày công đào tạo đó cho anh à? Vậy em sẽ làm gì?
Vũ Thành vương nghiêm nghị nói:
- Vương huynh, ý định của em khi tuyển mộ một đạo binh riêng thật sự chỉ vì muốn thực hiện lời hứa với cha. Bây giờ vương huynh đã dạy cho em thấy được lẽ lợi hại và trách nhiệm trong việc làm của mình, em rút lui ý định ấy. Nhưng phải tuân phục mệnh lệnh kẻ thù thì em không chịu nổi, mà không tuân phục tức phải dễ dàng đi đến làm phản, cho nên em đã có chủ ý riêng.
Hưng Đạo vương thấy em mình nét mặt có vẻ căng thẳng thì nói lảng sang chuyện khác. Vũ Thành vương Trần Doãn đã bỏ ý định chống lại triều đình là ông mừng rồi. Ông tin chắc một cuộc nổi dậy giữa lúc này chỉ là một vụ thiêu thân. Thái sư Trần Thủ Độ tuy độc tài, hung bạo, nhưng ông rất giỏi cầm quân. Vả lại, vua Trần Thái Tôn rất được lòng quan quân lẫn dân chúng. Áp lực của kẻ thù hung hãn bên ngoài lại càng làm cho mọi người cần xích lại gần nhau. Bất cứ một vụ nổi dậy nào cũng chỉ làm cho tiềm lực quốc gia suy yếu đi, đưa quốc gia tới chỗ làm miếng mồi ngon cho lũ ngoại xâm thôi. Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết, đây là lúc câu châm ngôn này biểu lộ ý nghĩa rõ rệt nhất. Hưng Đạo vương không muốn để một nhân tài đứng ra ngoài cuộc chiến tranh chống ngoại xâm sắp tới. Ông vẫn mong Vũ Thành vương trở thành một cột trụ của nước nhà. Nhưng lúc này chưa tiện thuyết phục Vũ Thành vương được. Vương nghĩ phải đợi một cơ hội khác.
Sau một hồi chuyện vãn loanh quanh, Hưng Đạo vương nói với Vũ Thành vương:
- Về đạo binh của vương đệ, anh sẽ suy nghĩ và bàn lại cùng em sau. Em nên tiếp tục công việc hàng ngày như không có gì xảy ra. Anh rất mừng vì em đã chịu nghe lời anh. Đó cũng là một điều phúc cho quốc gia vậy!
Vũ Thành vương nhìn anh bằng đôi mắt nhuốm buồn:
- Em đã có lời thề độc không thể cải, nhưng em nghe lời anh. Đội quân của em sẽ lần lượt gia nhập vào đội quân của anh. Em đã có chủ định rồi.
Hưng Đạo vương biết ý Vũ Thành vương đã quyết, không muốn làm cho đầu óc em mình căng thẳng thêm nữa. Ông giã từ ra về với hi vọng một ngày nào đó có thể trở lại bàn tiếp vấn đề với em mình.
*
Một thời gian sau, phần đông lực lượng võ trang của Vũ Thành vương lần lượt đến xin tự đặt dưới quyền chỉ huy của Hưng Đạo vương. Họ cho ông biết Vũ Thành vương đã quyết định giải tán lực lượng của ông ta. Hưng Đạo vương biết ý em mình đã quyết, lại thấy chuyện phát triển lực lượng lúc này là cần thiết, bèn thâu nhận họ.
Tuy thế, Hưng Đạo vương vẫn thấy khó nghĩ vì trong lúc tình thế đất nước khá căng thẳng mà Vũ Thành vương lại giải tán lực lượng võ trang của mình. Ông lại thân hành đến phủ Vũ Thành vương thăm em. Vương nói:
- Vương đệ giải tán lực lượng võ trang của mình đi, nếu chiến tranh xảy ra vương đệ tính làm sao?
- Em đã cương quyết đứng ngoài cuộc chiến. Em nghĩ quên thù nhà mà lo việc nước như anh là đúng. Em rất khâm phục tấm lòng cao cả của anh. Nhưng nếu em cũng làm như anh, em sợ linh hồn cha sẽ tủi vì cả hai đứa con đều không nghe lời dặn của mình. Khi nào Trần Thủ Độ không còn nữa, sẽ có em dưới bóng cờ của tổ quốc Đại Việt!
Hưng Đạo vương phân vân:
- Nếu em là một kẻ tầm thường thì không nói làm gì. Nhưng đây em là người đã nổi tiếng có tài thao lược. Trường hợp có chiến tranh xảy ra ta thật khó giải thích với triều đình cũng như quốc dân. Em nên suy nghĩ lại.
- Thưa vương huynh, em không thể làm khác được. Chắc anh còn nhớ chuyện anh em Ngũ Viên, Ngũ Thượng, ai có chí nấy. Nhưng anh yên chí, em sẽ không bao giờ phản bội tổ quốc đâu!
Thấy chưa thể thuyết phục em mình được, Hưng Đạo vương không nói chuyện đó nữa.
*
Một hôm vào tháng 7 năm Bính Thìn*, Hưng Đạo vương đang huấn luyện quân sĩ ở thao trường thì vua Thái Tôn cho người đến triệu. Hưng Đạo vương gọi vua Thái Tôn bằng chú ruột. Thái Tôn biết tài Hưng Đạo vương và rất thương mến cháu. Trong thời gian gia đình Trần Liễu gặp cảnh khốn đốn dưới tay Thái sư Trần Thủ Độ, chính vua Thái Tôn là người che chở, bảo vệ gia đình này hết mình. Nhà vua cũng đặc biệt lưu tâm, khuyến khích việc học hành của Tuấn và Doãn. Mặc dầu bấy lâu nay, sự giao thiệp giữa hai gia đình vua Thái Tôn và An Sinh vương có phần lấn cấn nhưng với Tuấn, vua vẫn thấy gần gũi, vua coi Tuấn chẳng khác gì con của ngài.
Hưng Đạo vương vừa bái kiến xong thì vua Thái Tôn hỏi:
- Vương điệt có biết bây giờ Vũ Thành vương và gia đình ở đâu không?
Hưng Đạo vương sửng sốt không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Thời gian này ông tập trung mọi nỗ lực vào việc luyện tập quân đội nên ít chú ý đến những chuyện khác. Hầu hết các đội quân của các vương hầu đều có qua tay ông huấn luyện. Hưng đạo vương đang ngẩn ngơ lo ngại đã có một biến cố gì xảy ra thì vua Thái Tôn nói:
- Hắn đã đem cả gia đình trốn sang Tàu. Vương phủ của Doãn hiện nay đã bị niêm phong. Tước Vũ Thành vương đã bị triều đình truất bỏ. Ta đã cấp thời cử người sang Tàu yêu cầu đưa hắn trở về. Ta báo cho vương điệt biết như thế!
Hưng Đạo vương hoảng hốt quì xuống lạy:
- Em của hạ thần làm bậy mà thần không biết để ngăn chận được. Cúi xin bệ hạ cho bắt giam hạ thần để xử tội!
Vua Thái Tôn ôn tồn nói:
- Không. Anh khác, em khác, ai có bụng nấy. Ta không có ý bắt tội vương điệt. Ta chỉ muốn bảo cho vương điệt biết ta và Thái sư không hề nghĩ rằng việc này có liên hệ đến vương điệt. Vương điệt cứ yên tâm trở về lo huấn luyện quân đội.
Hưng Đạo vương đau khổ tạ ơn ra về.
*
Từ khi thành lập đội võ trang, Vũ Thành vương lúc nào cũng bận rộn việc quân. Ngoài những lần vào triều chầu vua, ông đều thức dậy sớm để đến thao trường. Ông làm việc không biết mệt mỏi. Có lẽ sở học qua sách vở bây giờ có cơ hội đem thực hành áp dụng đã làm cho ông vui thích. Vẻ mặt ông lúc nào cũng phấn khởi, hăng hái. Sau những giờ phút hăng say ở thao trường, ông lại mang theo niềm phấn khởi đó về với vợ con. Phu nhân Lê thị chăm sóc cho chồng từng miếng ăn miếng uống. Hằng đêm, hai con nhỏ là Huân, Hải, đứa lên bốn, đứa lên ba đều cứ quấn quít bên cha bắt kể chuyện Tào Tháo, Vân Trường hay Nhạc Phi, Tần Cối. Vũ Thành vương thì lúc nào cũng sẵn chuyện để ru chúng vào giấc ngủ dễ dàng.
Cuộc sống trong phủ Vũ Thành vương đang đều nhịp như thế, không ngờ một hôm vương bỗng cho giải tán hết lực lượng võ trang của mình. Thật sự lúc đầu thấy Vũ Thành vương tuyển mộ và huấn luyện quân sĩ quá ráo riết vua Thái Tôn và Thái sư cũng hơi nghi ngờ. Giờ thấy Vũ Thành vương giải tán lực lượng võ trang của mình, hai vị cảm thấy yên tâm hơn nên cũng chẳng hỏi đến.
Sau việc đổi thay đó, Vũ Thành vương rất ít tiếp xúc với ai. Ở nhà vương cũng không còn vui vẻ với vợ con như trước. Nét mặt vương bấy giờ lúc nào cũng có vẻ đăm chiêu suy nghĩ. Ngoài những lúc ăn uống, vương cứ đóng cửa ở miết trong phòng riêng. Ngay cả Lê phu nhân hằng ngày cũng ít khi được gặp vương. Bà hết sức lo lắng về thái độ của chồng nhưng không dám hỏi.
Một hôm, Vũ Thành vương mời phu nhân vào phòng riêng. Phu nhân hồi hộp đoán rằng sẽ có một điều gì quan trọng xảy ra.
- Phu quân gọi thiếp có việc gì chăng?
Vũ Thành vương nghiêm trang nói:
- Ta báo cho phu nhân một chuyện hết sức quan trọng. Chúng ta sắp đi xa và có thể không trở lại chốn này nữa. Nhưng chuyện không thể để lộ cho người ngoài biết. Vậy, xin phu nhân kín đáo thu xếp hành trang. Chừng năm ngày nữa chúng ta lên đường.
Phu nhân hoảng hốt:
- Nhưng phu quân chưa cho thiếp biết đi đâu và vì sao phải đi? Vì lẽ gì mà không thể công khai chuẩn bị cho chuyến đi? Thiếp cũng cần biết những điều đó để yên tâm lo công việc chứ.
Vũ Thành vương cười:
- Ừ, muốn biết cũng được thôi. Hiện chiến tranh giữa nước ta với Mông Cổ sắp xảy ra. Bậc đại trượng phu đáng lý nhân dịp này ra tay đền ơn nước, lập công danh với đời mới phải. Nhưng nhà ta gặp chuyện oan nghiệt. Người đang nắm vận mệnh đất nước hiện tại là kẻ thù không đội trời chung của tiên vương ta. Trước khi nhắm mắt, người đã di ngôn cho Hưng Đạo vương huynh và ta phải trả thù. Vì sự sống còn của dân tộc, Hưng Đạo vương huynh, với tấm lòng thánh thiện cao cả, đã tạm thời bỏ lơ thù riêng để lo việc nước. Hưng Đạo vương huynh làm rất đúng nhưng ta không thể làm theo được. Bởi lẽ ta không muốn linh hồn cha phải tủi hận nơi suối vàng khi cả hai đứa con trai người tin tưởng đều bỏ lơ lời trăng trối của người. Nếu ta còn ở đây, giặc đến nhà mà không ra giúp nước ta sẽ bị thiên hạ cười. Mà ra giúp nước tức là giúp Trần Thủ Độ và phải chịu tuân phục mệnh lệnh của ông ấy, đó là điều ta rất khổ tâm. Bởi vậy, ta quyết định phải ra đi. Ta muốn sang Trung Quốc tìm một nơi nào đó yên ổn làm ăn.
Lê thị thấy chồng đã quyết như vậy bèn trở ra chuẩn bị cho chuyến đi.
Cả gia đình cải trang thành những dân giả lưu lạc kiếm sống. Sau bao nhiêu ngày vất vả, họ đã tới được lãnh thổ Trung Quốc. Vì gặp lúc chiến tranh đang lan rộng, các cửa ải đều bị quan quân nhà Nam Tống kiểm soát chặt chẽ để đề phòng gian tế. Gia đình Trần Doãn bị quân Nam Tống giữ lại để điều tra. Khi bị giữ, vợ chồng Trần Doãn vẫn một mực khai là dân quê lưu lạc kiếm ăn. Không may cho Trần Doãn, gặp lúc quan giữ ải nhà Nam Tống là Hoàng Bính nhận được thông điệp của triều đình Đại Việt yêu cầu kiểm soát và bắt trả lại những kẻ vượt biên. Khi kiểm soát lại gia đình Trần Doãn, họ biết chắc đã bắt giữ đúng đối tượng. Muốn nhận số tiền thưởng, Hoàng Bính bèn cho giam cả gia đình Trần Doãn để chờ trao trả cho Đại Việt.
Nửa tháng sau thì triều đình Đại Việt nhận được thông điệp của Hoàng Bính yêu cầu cho một toán quân đặc nhiệm đến biên giới để áp giải gia đình Trần Doãn về.
Vua Thái Tôn lập tức cho người lên biên giới tiếp nhận. Vua Thái Tôn ban thưởng rất hậu cho Hoàng Bính. Đồng thời, vua ra lệnh tăng cường kiểm soát biên giới chặt chẽ hơn.
Thế là toán người vượt biên lớn nhỏ đều bị nhốt trong cũi để giải về kinh.
Về đến Thăng Long, khi mở cũi ra người ta người ta mới biết được Vũ Thành vương Trần Doãn chỉ còn là một cái xác không hồn. Ông đã dùng thuốc độc để tự tử. Trong người ông có giữù một vuông giấy đề rõ: "Kẻ có tội tự xử để tránh sự khó nghĩ cho Đức Kim Thượng và Hưng Đạo vương".
Vua Thái Tôn thấy xác Trần Doãn, xúc động nói:
- Trẫm nào muốn hại vương điệt đâu? Tại sao vương điệt lại tự làm khổ thân thế này!
Vua Thái Tôn cho phép Hưng Đạo vương chôn cất Trần Doãn đàng hoàng và thả hết vợ con Trần Doãn, lại cấp cho nhà cửa và tiền bạc để họ sinh sống.
Vụ Trần Doãn tự sát thật tình cũng làm giảm bớt phần nào sự lấn cấn khó xử của triều đình, giảm thiểu được sự nghi kị bất lợi trong đầu óc một số vương hầu.
Để Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn được yên tâm lo việc quân sự, vua Thái Tôn lại cho Thái tử Trần Hoảng cưới em ruột của Trần Quốc Tuấn và Trần Doãn là Thiên Cảm về làm vợ.
Sau này, khi Thái tử Hoảng lên ngôi vua tức Trần Thánh Tôn thì Thiên Cảm trở thành hoàng hậu. Hình như đó cũng là một hành động tỏ ý hàn gắn sự nứt rạn tình cảm giữa hai gia đình Trần Thái Tôn và An Sinh vương.
Chú thích:
*Bính Thìn: 1256