NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH
Chương 10(hết)
Tác giả: NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH
Bây giờ lại quay về với bác sĩ Trương Vĩnh Cần đang nằm co ro thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn nửa mê nửa tỉnh trong căn nhà nhỏ sơ sài như cái vọng gác ở ngay bên bờ con suối cạn. Hình như là trong giấc mơ bác sĩ Cần lại nhìn thấy người lạ mặt đội mũ xùm xụp gù lưng. Nhưng lần này người đó không đi vào nhà mà chỉ đứng ở ngoài sân ngả ngón nghiêng nghiêng nhìn vào. Trong cái ánh sáng mờ ảo vàng đục đang sôi lên ong ong. Thứ ánh sáng chỉ thấy có trong những giấc mơ. Lần này bác sĩ Cần còn nhìn thấy rõ mặt người gù lưng. Ðầy là một người đàn ông không thể đoán nổi tuổi da mặt nhăn nheo tóc xơ xơ xõa xuống tận vai râu ria lởm chởm hai con mắt hình tam giác lúc nào cũng xụp xuống vì lo sợ thất vọng. Diện mạo người đó thật thảm hại đê tiện như một thằng ăn cắp nhát gan một thằng cờ bạc bịp ươn hèn nếu người đó không có đôi hàm vuông vức bảo hiểm cho một tính cách ngang bướng quả quyết thu lại ẩn náu bên trong cái hình hài thảm hại đó. Bác sĩ Cần nhìn rõ mặt mũi người gù lưng và đã ba lần ông bác sĩ già kêu lên vẫy vẫy tay ra hiệu mời mà người lạ mặt cũng chỉ nghiêng ngó đứng ở ngoài sân chứ nhất định không chịu bước vào nhà. Dường như ông ta có chuyện gì đó định nói với bác sĩ Cần nhưng ông ta còn ngại ngùng còn đề phòng. Hoặc là do có một cái gì bí mật ẩn náu ở đâu đấy ngay quanh ngôi nhà này thôi đang đe dọa ông cấm đoán ông ta vậy. Có thể ông bác sĩ già sẽ còn nằm co quắp như thế mãi chập chờn mãi và cũng cứ nhìn mãi thấy người lạ mặt gù lưng và cũng chỉ nhìn thấy thôi chứ không sao mời được ông ta vào nhà nếu như không có những tiếng cồng trầm hùng nặng nề âm âm u u vang lên từ trong rừng sâu. Tiếng cồng giống như ngọn gió mù lòa đang chầm chậm lan tỏa xột xoạt trong cây rừng. Chính tiếng cồng đó đã đánh thức bác sĩ Trương Vĩnh Cần thức dậy.
Ông bác sĩ già mơ mắt ra lúc này bên ngoài trời đất đã tối đen. Một ngọn bấc cháy leo lét trên cái bàn gỗ què chân cạnh cửa ra vào. Trơng nhà có tiếng cười rúc rích như tiếng chuột rúc, có bóng người đen xì méo mó to tướng đang động đậy trên vách. Rồi cái mặt thơm phức mùi nước hoa và mùi lá cây dương xỉ bị vò nát của cô Kim Thoa ở dâu bỗng xà xuống ghé sát mặt bác sĩ Cần. Cô gái nũng nịu:
- Gớm! Ông bác ngủ say thế. Ngáy o o như là thằng cu bờm lên mười.
ở một góc nhà bác sĩ Chiểu đang lục cục xờ xoạng như thằng ăn trộm. Thỉnh thoảng lại nghe đánh xoang một cái. Thấy cô Kim Thoa xóc nách đỡ ông bác sĩ Cần ngồi dậy. Bác sĩ Chiểu ngoái lại vui vẻ:
- Mời ông bác đi dự lễ bỏ mả với đồng bào trại cùi An Nan.
Bác sĩ Cần vâng dạ lập cập đứng lên. Bụng ông réo ông ọc như có ai đang xúc miệng ở trong. Bác sĩ Chiểu phá lên cười.
- Ông bác chịu khó nhịn đói. Tý nữa ra nhà mồ thì tha hồ ăn hút. Thịt chất như núi. Rượu rót tràn như suối.
Rồi anh bác sĩ bỗng đứng thẳng người lên cao hứng ông ổng đọc to lời cúng bằng tiếng Bana Konkơđch: Haok atâu pá dây pơm đơtrơng anâu nai tuk atâu ne păth hin hơn tuk atâu xâng biơi di. Này chúng tôi bỏ ma đây. Làm mọi thứ cho ma đây. Xin ma đừng ghét bô đừng làm hại chúng tôi. Ðọc xong anh bác sĩ lại hú lên. Xem chừng bác sĩ Chiểu có vẻ sảng khoái khác thường.
*
Trại cùi An Nan ở thung lũng An Nan bạt ngàn cỏ moóc chó lá sắc như dao gai nhọn như kim là một xứ sở quanh năm ngày tháng bao trùm một làn không khí thê lương bí ẩn. Hơn hai ngàn người bệnh cùi cùng với thân nhân cha mẹ anh em vợ con của họ thuộc gần mười sắc tộc có tiếng nói khác nhau kéo về thung lũng này lập bản làng quần tụ chung quanh cái nhà ba gian vừa là hội trường cũng vừa là phòng khám bệnh và cũng vừa là phòng ngủ của bác sĩ Chiểu vừa là giám đốc và cũng là viên chức duy nhất của trại. Mặc dù đều là bệnh nhân do trại quản lý nghĩa là được khám bệnh chạy chữa thuốc men. nhưng do phong tục tập quán tiếng nói khác nhau nên các người bệnh không ở lẫn lộn chung chạ mà họp thành từng bản cất nhà ở riêng rẽ cách biệt nhau và cũng chẳng mấy khi họ qua lại giao lưu. Có lẽ chỉ có bầy trẻ con hơn ba trăm đứa là thường xuyên phá rào chơi đùa với nhau mặc dù chúng cũng họp thành từng tốp theo sắc tộc riêng của chúng nó. Nếu bây giờ có một gã du lịch ba lô tò mòi nào đó tình cờ lạc rừng vào tới trại cùi An Nan ắt hẳn gã sẽ vô cùng ngơ ngáo kinh ngạc. Gã có thể vứt oạch ba lô xuống ngồi bệt lên thảm cỏ chờ đợi suốt một ngày dưới ánh nắng như thiêu đốt mà chẳng hề nhìn thấy một bóng người xuất hiện. Khát cháy họng người mệt lả phổi khô rang gã muốn uống một hớp nước mà chẳng thể tìm được ở đâu. Con suối sau lưng gã đã cạn khô chỉ còn thấy trồi lên những tảng đá xám xịt nóng rẫy và cứ bóng loáng lên mỗi khi ánh nặng rọi qua. Càng về chiều trời càng nóng không khí ngột ngạt oi bức như trong lò hầm đốt than. Thung lũng An Nan chỉ thừa thãi cỏ moóc chó gớm ghiếc chứ rất thiếu những cơn gió mát mẻ vì quang cảnh nơi đây đã bị cây rừng vách đá ba bề bốn bên bao phủ. ấy là về mùa nắng. Còn vào mùa mưa mà mò vào đây thì khách bộ hành chỉ nhìn thấy hơi rừng bốc lên ngùn ngụt dưới một bầu trời thấp lè tè cuồn cuộn mây màu ốc biêu từ sáng tinh mơ tới lúc chiều tà không lúc nào ngớt rả rích rắc xuống màn mưa vô hồn lạnh lẽo khiến cho cảnh vật càng thêm u sầu cô đơn ảm đạm.
Khách bộ hành du lịch ba lô rét run cầm cập môi thâm xì quần áo ẩm ướt đôi giầy ba ta giầy bêtit giầy đi rừng thể thao Adidas bị biến dạng méo mó vì dính cồm cộp hàng tảng bùn nặng như đá và bẩn đến nỗi không dám tụt ra khỏi chân nữa. Kiệt sức run lên vì lạnh khách bộ hành liều mạng mò từng bước đến gần ngôi nhà lụp xụp xiêu vẹo lấp ló trốn trong bụi mây um tùm ướt xũng nước. Lòng khách bộ hành khấp khới nghĩ tới một ca nước nóng một bếp lửa bập bùng ấm cúng nhưng than ôi càng bước lại gần ngôi nhà thì cái sự khấp khới đó càng mau tan biến đi nhường chỗ cho sự nghi ngờ e ngại kinh ngạc bởi vì cái vẻ im lặng rất khác thường toát ra từ ngôi nhà đó. Chẳng có tiếng reo lép bép của bếp lửa. Cũng chẳng có tiếng chó sửa tiếng mèo kêu tiếng ho lụ khụ hoặc tiếng động lục cụ đồ đạc dao thớt va chạm. Nếu khách bộ hành du lịch ba lô cứ liều dấn thêm vài bước nữa thì họ sẽ ngưi ngay thấy một thứ mùi tanh tươi hôi hám rất kỳ dị. Một thứ mùi ghê tởm mà chắc chắn đời họ chưa bao giờ ngửi. Ðó là mùi của những xó nhà tối tăm mốc meo trộn với mùi lưu cữu của những cái thân người lâu ngày không tắm trộn lẫn mùi của những vết cùi lở loét sưng tấy đỏ và rỏ ra thứ nước đục như nước gạo hôi và tanh đến nỗi có thể nôn oẹ phát mửa. Với định kiến ngu xuẩn độc ác từ ngàn đời để lại người ta vẫn coi người cùi là những con người nguy hiểm ghê tởm và phải tống khứ càng nhanh càng tốt càng thẳng tay càng tốt ra khỏi gia đình chòm xóm và cộng đồng xã hội. Họ còn bị đối xử khinh bỉ tệ hại hơn cả những người điên. Than ôi đã bao nhiêu đời nay người cùi bị hắt hủi ruồng bỏ cuộc đời của họ khốn nạn tủi nhục tuyệt vọng hơn cả kiếp con vật bẩn thỉu. Hình hài của họ dúm dó. Quần áo họ tả tơi. Mặt mũi họ xần xùi tấy đỏ. Chân tay họ cong queo quấn rẻ rách xù xụ bẩn thỉu hôi hám lúc nào cũng rồi rỉ ứa ra nước mủ vàng. Họ lê la lang thang vạ vật ngoài bến tàu bến xe kêu la van xin. Ban ngày ngồi bốc cơm nguội ăn cạnh đống rác ruồi nhặng bay vù vù. Ban đêm rúc vào những xó xỉnh cống rãnh đắp lên người bao bố tải cố nhắm mắt qua đêm dưới trời sương lạnh vô tình. Nếu có kẻ nào động tâm thì cũng chỉ đứng từ xa quăng vội cho đồng tiền rồi cũng ù té bỏ chạy như bị ma đuổi. Họ đã cố che mặt quấn chân quấn tay trà trộn lẫn vào đám người điên đám người ăn mày ăn xin nhưng mỗi khi bị phát hiện ra thì chỉ còn cách ôm đầu tập tễnh bỏ chạy vì bị chính ngay cái lũ ăn mày ăn xin và bọn người mất trí đó ghê tơm đánh đuổi. Ðời sống đô thị văn minh cho đến các tục lệ cô hủ ở chốn thôn dã tĩnh mịch và ngay cả cuộc sống thật thà chất phác ngây thơ nơi xoóc buôn làng bán ở chốn rừng xanh cũng nhất loạt chối bỏ tẩy chay li dị người cùi đẩy họ vào bước đường cùng chỉ còn cách cuối cùng là bồng bế dắt díu nhau chạy trốn vào các trại cùi ở những eo biên khuất neo vắng vẻ hoặc ở sâu trong các khu rừng rậm nguyên thủy hoang dã. Có thể nói tất cả những người cùi ở trại An Nan đều đã nếm đủ mọi cảnh ngộ cay đắng túi nhục khốn khổ khốn nạn khi bị xua đuổi hắt húi như vậy. Vì vậy cái thung lũng An Nan bạt ngàn cỏ moóc chó lá sắc như dao gai nhọn như kim này là hòn đảo cuối cùng là mảnh đất hứa cuối cùng còn lại trên đời này để họ bấu víu vật lộn níu giữ lấy cuộc sống trước khi tan thành từng bầy đàn lang thang mấy hút vĩnh viễn vào trong rừng thâm.
Hồi mới theo đội y tế đặc nhiệm về trại cùi An Nan bác sĩ Chiểu còn có hai người đồng nghiệp cùng chung lưng chia xẻ gánh vác công việc. Ðó là một anh y tá tên là Bảo quê ở miền Trung vốn là một người bệnh cùi đã tình nguyện ở lại trại làm việc sau khi khỏi bệnh. Và người thứ hai là ông y sĩ giám đốc của trại tên là Nhiêu quê ở ngay thị xã Buôn Nát. Hình như ông Nhiêu là người tộc Giárai Mthur. Ðó là một người đàn ông mặt mũi đen xì tóc dài xõa vai mới ngoài năm mươi nhưng trông như ông lão bảy mươi rất tốt bụng cả ngày lầm lì chẳng nói một câu. Bác sĩ Chiểu về trại cùi An Nan được hơn một năm thì y sĩ Nhiêu chết vì bị rắn hổ mang bành đớp vào gáy. Một năm sau anh y tá Bảo xin nghỉ phép về quê lấy vợ rồi cũng lặn luôn không quay lên trại nữa. Tất nhiên là anh Bảo cũng viết cho bác sĩ Chiểu một lá thư từ biệt lời lẽ rất cảm động. Cũng may năm đó có hai thanh niên người tộc Rơmăm sau khi khỏi bệnh thấy bác sĩ Chiểu một mình xoay xở vất vả quá nên bảo nhau ở lại giúp anh. Thoạt đầu họ cũng chỉ định ở lại một thời gian ngắn thôi nhưng sau khi được bác sĩ Chiểu dạy cho thành y tá biết băng bó biết tiêm thuốc thế là họ ở lại luôn không về bản nữa. Sau khi đoàn cán bộ đặc nhiệm y tế tan rã hầu hết các trung tâm điều trị bệnh phong ở vùng Buôn Nát cũng tan rã theo vì các y sĩ bác sĩ y tá ở đó đều bỏ trốn về đồng bằng và không thể tìm được ngưồn cung cấp thuốc men cũng như kinh phí tiền bạc. Ðấy cũng là thời gian bắt đầu khủng hoảng kinh tế khắp nước. Ðể cứu lấy trại cùi An Nan bác sĩ Chiểu đã phải xả thân giống hệt một tín đồ tử vì đạo. Anh lùng xục khắp giải rừng già Buôn Nát thu gom những đội tàn binh người bệnh cùi vỡ trại đang chạy dạt trong rừng đem họ về An Nan chia đất giúp họ dựng thành những bản nhỏ theo từng sắc tộc. Dần dần tạo thành một quần thể người cùi đa sắc tộc sống xúm sít nương tựa vào nhau trong khu thung lũng An Nan bạt ngàn cỏ moóc chó. Và mặc dù chỉ còn trơ lại một mình là bác sĩ với hai anh chàng y tá chui gà què người Rơmăm nói tiếng Kinh mà nghe ríu rít líu lô cong queo như tiếng Rơmăm, bác sĩ Chiểu vẫn tổ chức phòng khám bệnh và duy trì đều đặn một tháng hai lần tự mình đi khắp mọi nhà thăm bệnh cho người bệnh. Tháng nào cũng vậy cứ vào ngày mồng hai đầu tháng là bác sĩ Chiểu lại đeo túi thô cấm chống gậy đi đường tắt xuyên rừng ra thị xã Buôn Nát xông đến phòng y tế thị xã và văn phòng đại diện cơ quan dân tộc để đòi tiền lương của mình và kinh phí cũng như thuốc men cho trại cùi An Nan. Cũng phải công bằng mà nói phòng y tế thị xã và văn phòng đại diện cơ quan dân tộc ở Buôn Nát đã xoay xở cật lực giúp bác sĩ Chiểu nhưng kết quả rất khiêm tốn bởi vì ngay cả phòng y tế và văn phòng đại diện cơ quan dân tộc cũng bị cắt kinh phí hoạt động cán bộ nhân viên hai cơ quan đó cũng bị thả nổi không có lương. Hay nói chính xác là cơ quan xin khất nợ vì chưa có tiền phát lương cho họ. Cũng chính trong một chuyến đi "đòi nợ" này ở Buôn Nát mà bác sĩ Chiểu đã gặp cha Tạc trong một lần cha Tạc đang dẫn mấy bà xơ nhân danh giáo hội chạy khắp thị xã Buôn Nát hô hào các con chiên giúp đỡ cho qũy bảo trợ đồng bào cùi Tây Nguyên do chính cha sáng lập nên. Các đồng nghiệp của bác sĩ Chiểu ở Buôn Nát vẫn gọi đùa anh là hiệp sĩ Ðông ki sốt. Mỗi khi thấy anh đeo cái túi thố câm chống gậy đi vào thị xã là họ lại ngả mũ vui vẻ chào to: "Xin chào Ðông ki sốt lại ra lĩnh lương có phâi không". Lâu ngày mặc nhiên bác sĩ Chiểu có cái tên là Chiêu Ðông ki sốt trong sự vui đùa vừa mến mộ lại vừa hơi thương hại của các bạn đồng nghiệp ở ngoài thị xã. Nhưng đồng bào cùi ở thung lũng An Nan thì lại coi bác sĩ Chiểu như một ông Thánh sống. Có thể nói uy quyền của bác sĩ Chiểu ở thung lũng An Nan chẳng thua kém gì uy quyền của một ông cha cố ở một vùng giáo dân do ông cai quản. Nếu như ông linh mục là sứ giả của đức chúa trời coi sóc phần hồn của các con chiên nơi nước chúa thì bác sĩ Chiêu lại là một đại diện duy nhất cho cái xã hội loài người còn lành lặn đã không hắt hủi kinh tởm ruồng bỏ họ mà còn xả thân không nề hà gì hàng ngày lau chùi tẩy rửa băng bó những vết húi lở loét tanh khắm trên thân thể họ rồi an ủi họ cho họ uống những viên thuốc xanh xanh đỏ đỏ làm dịu đi những cơn đau tấy nhức nhối trên thân thể họ mỗi mùa trăng sáng vằng vặc trên trời. Lòng sùng mộ bác sĩ Chiểu không chỉ dậy lên ở cái xã hội mấy ngàn người cùi ở vùng rừng núi Buôn Nát mà còn lan tỏa tới những bản làng các bộ tộc người Brâu người Bru người Chứt người Cơho người Cờlao người Coống người Giara chor người Bano Roth, Bana Tơ lô và hàng chục các bộ tộc người Thượng khác sống rải rác trong khắp vùng rừng núi Tây Nguyên đại ngàn quanh vùng Buôn Nát. Có thể nói không ngoa là nếu bác sĩ Chiểu có tham vọng làm vua thì anh chỉ cần gắng lên dăm năm nữa là sẽ được một bộ tộc nào đó suy tôn làm vua na ná như trường hợp một anh thầy giáo Tây thuộc địa mũi lõ cách đây hơn trăm năm đã mò lên xứ Thượng rồi trở thành vua Lửa của một bộ tộc Xơ đăng hay bộ tộc Bđu nào đó. Không hiểu vì sao bác sĩ Chiểu luôn đặc biệt được các lão ông già làng thương mến chiều chuộng. Cũng có thể vì các già làng là những người từng trải việc đời hơn cả nên trong sự sùng kính một ông bác sĩ người Kinh dám sống hết mình cho các bộ tộc người Thượng ở rừng sâu các bô lão già làng còn thông cảm chia sẻ thân phận một gã trai khỏe mạnh đẹp đẽ hơ hớ mà lại phải sống độc thân cô quạnh không gia đình vợ con giữa rừng xanh núi đỏ. Chả thế mà có người nói rằng việc hàng năm vào mùa xuân mùa của muôn loài thú rừng động đực mùa của cây cỏ nảy nở sinh sản các già làng vẫn ra lệnh cho các cô gái đêm đêm xuyên rừng tới trại cùi An Nan dắt tay bác sĩ Chiểu đi chơi rồi chui vào các ổ lá cây dương xỉ để chăm nom đời sống tình dục cho bác sĩ Chiểu. Tất nhiên đó chỉ là lời đồn đại vu vơ nhưng cũng có một lần một cô gái Bana Konkơ- đến sau một đêm mây mưa thỏa sức với bác sĩ Chiểu trong cái ổ dương xỉ ngay sau ngôi nhà khám bệnh giống cái vọng gác đã ôm chầm lấy bác sĩ Chiểu rên rỉ kêu lên: Giàng ơi! tao thích ngủ với mày lắm nhưng tối ngày mai già làng lại cho con Hơ Nhú tới dắt mày vào rừng chơi trăng rồi. Giàng ơi là giàng ơi! Tất nhiên đây cũng là chỉ câu chuyện được kể từ mồm một người khác chứ không phải từ mồm bác sĩ Chiểu nên cũng chẳng hiểu hư thực như thế nào. Cả ngàn con bệnh cùi và thân nhân cha mẹ vợ chồng con cái họ ở trại cùi An Nam đều yêu quí bác sĩ Chiểu và đều vui lòng cho phép anh tham dự vào đời sống tinh thần sâu kín bí ẩn riêng biệt của bộ tộc họ như là tham dự tục gọi hồn tục ăn cơm mới tục cúng giàng tục gã trống đồng tục cúng thần lửa tục cúng máng nước luật tục nuôi dạy con và các lễ hội như lễ hội đâm trâu lễ hội cả răng căng tai lễ hội ok om bok lễ hội Mbăng-katê v. v... và rất nhiều tập tục lễ hội khác. Và cái lễ bỏ mả mà bác sĩ Chiểu mời ông bác sĩ Cần và cô Kim Thoa đi dự chính là một cái lễ bỏ mả của một bản nhỏ 8 gia đình tộc người Giarai Mthur bị bệnh cùi hiện đang sinh sống ở thung lũng An Nan.
*
Lại nói về bác sĩ Chiểu sau, khi đứng thăng người lên cao hứng đọc ông ổng lời cúng bằng tiếng Ba Na Konkơđch rồi lại hú lên như một gã người Thượng. Bác sĩ Chiểu vui vẻ nói với ông bác sĩ già đang nhăn nhó ôm cái bụng sôi òng ọc:
- Ðám ma ở dưới xuôi ta thì thổi kèn tí te tò te khóc lóc thảm thiết đau đớn lắm. Nhưng đám ma ở trên này thì lại vui như hội. Tha hồ nhảy múa ăn uống vui chơi thỏa sức.
Cô Kim Thoa hỏi có vẻ như hờn mát:
- Tý nữa đến lễ bỏ mả cúng em có phải làm những thu tục gì hả anh.
Bác sĩ Chiêu âu yếm vuốt tóc cô gái:
- Thoải mái tự do. Có thể đeo mặt nạ nhẩy múa hò hét cho đến khi mệt lử. Có thể uống rượu say bí tỉ rồi lăn ra cạnh đống lửa ngủ cho đến sáng. Có thể lần ra sau những mô đất búi cỏ nào đó tất nhiên là cũng phâi hơi khuất một tí tha hô ôm ấp hôn hít hoặc làm tình với người mình thích. Tóm lại em muốn làm gì thì làm.
Cô Kim Thoa cười rúc rích bấu vào vai bác sĩ Cần. Cô giả nai vờ hỏi như vậy chứ thật ra mới cách đây vài tiếng ở trong cái ổ dương xỉ bác sĩ Chiêu đã kẻ cho cô nghe rất tỉ mỉ về cái lễ bỏ mả đêm nay mà cô sắp đến dự là lễ bỏ mả cho một ông người Gia rai Mthur gốc Kinh tên là Phan Văn Cồn lấy một cô gái rất trẻ kém ông tới 40 tuổi tên là Hờ Nú là con gái một trong 8 gia đình người bệnh cùi thuộc tộc người Giarai Mthur lập bản ở trong cái thung lũng An Nan này. Không biết đùa hay thật mà bác sĩ Chiểu lại vỗ vào vai bác sĩ Cần rồi nói:
- Ông bác chịu khó nhịn đói lúc nữa tha hồ ăn nhậu. Nhiều món ăn lạ miệng lắm. Sáng mai nếu ông bác còn chưa xỉn thì tôi sẽ báo bà góa Hờ Nú dẫn ông bác vào rừng chơi. Thoâi mái mà. Bà góa Hờ Nú đã làm lễ tắm lễ chải đầu nên được giải phóng rồi không còn phải ràng buộc gì nữa với ông Phạm Văn Cồn nữa. Tục lệ của người Giarai Mthur như thế mà.
Nghe anh bác sĩ Chiểu ân cần nói như vậy cô Kim Thoa cười như nắc nẻ. Còn bác sĩ Cần thì tất nhiên lại chỉ biết gật đầu im lặng bèn lẽn. Khi bác sĩ Chiểu dẫn hai vị khách quí ra khỏi ngôi nhà nhỏ thì trăng cũng đang lên. Mặt trăng trong vành vạnh chênh chếch ở cửa rừng. ánh trăng nhờn nhợt ướt loang loáng trên những bụi moóc chó um tùm đen xì. Thỉnh thoảng lại nghe có tiếng cồng rung lên nặng nề lần trong tiếng gió ngùn ào ào như lũ đang đổ về. Bác sĩ Chiểu đi trước một tay xách cái bao bố tải lồng phồng không biết nhét những thứ gì bên trong mà cứ đi vài bước lại thấy cái bao vặn vẹo kêu lạch xạch như tiếng va chạm của nồi niêu bát đĩa. Một tay kia anh bác sĩ dắt tay cô Kim Thoa líu ríu đi bên cạnh vừa đi vừa nhẩy vừa giả nai kêu nũng nịu: "úi gời ơi có con gì nó nấp trong bụi cây kia hả anh. Em sợ lắm". Bác sĩ Cần tập tễnh đi sau. Cứ ba bước thì vấp một cái. Bụng ông bác sĩ già liên tục réo lên ông ọc đòi ăn. Ông đói lắm. Ðói đến hoa cả mắt bủn rủn chân tay. Ðêm qua sĩ diện nên nhịn đói đi ngủ. Sáng nay cũng nhịn. Buổi trưa được gói mì hai tôm rồi lại ôm bụng lên giường đi ngủ nhịn đến bây giờ. Bác sĩ Chiểu vừa bảo cố nhịn để dành bụng tí nữa ra nhà mồ tha hồ ăn uống thỏa sức. Bác sĩ Chiểu bảo vậy thì bác sĩ Cần cũng biết vậy. Ðời ông đã đi ăn biết bao nhiêu bữa cỗ nhưng chưa bao giờ ông được mời đi ăn cỗ với ma ở nghĩa địa. Kể ra thì bác sĩ Cần cũng đã có nghe loáng thoáng về những cái lễ bỏ mả của đồng bà o Thượng ở trên này rồi. Nhưng nghe loáng thoáng thôi chứ thực sự ông đã biết nó nếp tẻ như thế nào. Ðường rừng vòng vèo lổn nhổn đất đá chẳng chịt dây nhợ cứ như rúc vào thiên la địa võng ấy vậy mà bác sĩ Chiểu cứ đi thoăn thoắt. Nhiều lúc anh bác sĩ còn lôi cô Kim Thoa chạy tế lên như ngựa hoang khiến ông bác sĩ già hoảng hốt cũng phải vắt chân lên cô đuổi theo kịch liệt chứ không thì đã bị quăng lại lạc giữa rừng rồi. Loanh quanh một lúc thì ba người xồ xuống một con suối cạn lổn nhổn toàn đá đầu sư. ánh trăng vằng vặc trong lòng suối trống trải. Lúc này đã nghe tiếng cồng rung lên nặng nề ở ngay đâu đó rất gần. Lại nghe có tiếng chiêng u u lẫn tiếng người cười nói léo nhéo tiếng hú và hình như có cá tiếng lửa nồ lép bép. Bác sĩ Chiểu móc ra mấy miếng da lẽo nhẽo có buộc dây rồi bảo: "Mời hai vị đeo vào". Cô Thoa lại cười rúc rích nũng nịu hỏi:
"Cái gì đấy hâ anh".
Bác sĩ Chiểu cười.
"Mặt nạ đấy". Hơi nặng mùi một tý nhưng chịu khó đeo vào. Phong tục của người ta như thế".
Bác sĩ Cần đeo cái mặt nạ da lên mặt. Quả là cái mặt nạ nặng mùi thật. Nó hơi thối lại vừa hơi khắm. Ðúng là thứ mùi da thuộc không kỹ. Ba người đeo ba cái mặt nạ rồi trèo lên bờ suối. Ðúng lúc này có hai người cầm đuốc xồng xộc xông ra từ một bụi moóc chó cao lút đầu. Một người cởi trần đóng khố. Người kia chẳng phải ai khác mà lại chính là cha Tạc. Ðêm nay cha Tạc mặc quần áo cố đạo đen xì, vạt áo dài tha thướt. Tay cha dơ cao ngọn đuốc cháy rần rật. Cha kêu lên:
- Ðây rồi. Ðón được họ đây rồi.
Bác sĩ Cần lễ phép cúi đầu lí nhí chào ông cha đạo trong khi đó thì cô Kim Thoa cứ nhầy cẫng lên ríu rít như trẻ được quà:
- Chào cha. Cả ngày hôm nay cha đi đâu mà chúng con tìm mãi.
Bác sĩ Chiểu cười cười quay sang nói tiếng dân tộc líu lô với người vấn khố cầm đuốc đứng sau cha Tạc. Hai ngọn đuốc cháy rất to trong gió tung tàn lửa bay tán loạn. Mặt cha Tạc lúc này cũng bừng bừng như ngọn lửa. Nom cha trẻ trung hăm hở chứ chẳng còn vẻ gì đạo mạo trang nghiêm và bí ẩn nữa. Cha chào bác sĩ Cần rồi nắm lấy tay cô Kim Thoa tự nhiên như nắm lấy tay một con chiên ngoan đạo. Cha nói: Mời các vị tới dự lễ kẻo bà góa Hờ Nú đang mong các vị mỏi mắt rồi. Người ta ăn xôi uống rượu nhảy múa suốt hai ngày nay rồi. Nói xong cha Tạc giơ cao ngọn đuốc phăm phăm đi đầu tiên. Cô Kim Thoa bám sát ngay sau lưng cha rồi đến bác sĩ Chiểu và tiếp sau là bác sĩ Cần vừa đi vừa chạy tập tễnh. Còn người dân tộc cởi trần thì đi sau cùng tay cũng giơ cao ngọn đuốc. Ðoàn người nối nhau đi vòng vèo như đang chơi trò rồng rắn lên mây. Ðã nhìn thấy ánh lửa thấp thoáng sau những tàn lá cây ở ngay trước mặt. Cô Kim Thoa mấy lần ngoái lại líu ríu nói điều gì đó với bác sĩ Chiểu và bác sĩ Cần nhưng không nghe rõ cô nói gì vì giờ đây cây cỏ rừng đêm đang như bị nhấn chìm trong những hồi cồng chiêng trầm lắng nặng nề âm âm u u nghe choáng óc ù đặc tai. Lễ bỏ mả của 8 gia đình tộc người Giarai Mthur tổ chức trên một bãi đất rừng bằng phẳng. Một ngôi nhà mả mái dốc dựng đứng được cất lên chính giữa bãi đất rộng. Chung quanh có hàng rào gỗ ngay ngắn và có trồng mấy cây nêu cao ngất ngưởng kết trên đỉnh cột những hình thù lạ mắt màu sắc sặc sỡ mà vì đêm tối vì ánh lửa nhoang nhoáng vì ánh trăng đục lờ đờ như khói nên bác sĩ Cần và cô Kim Thoa chỉ thấy nó sáng loang loáng chứ chẳng nhận được màu sắc gì. Và bác sĩ Cần cũng như cô Kim Thoa cũng đâu có biết được ngôi nhà mồ này đều được dựng bằng gỗ cây Cơ Nia gỗ cây Gòn to là những loại gỗ rất khó tìm trong rừng đại ngàn Buôn Nát. Khi cha Tạc dẫn đoàn người rồng rắn chui qua bụi cây chó đẻ hôi xì, xộc ra bãi đất thì cái người dân tộc cới trần đóng khố cầm đuốc đi sau cũng bỗng hú lên một tiếng rồi cắm đầu chạy tọt ngay vào nhập bọn với một tốp người Gia rai Mthur mặc váy thổ cẩm cởi trần phơi vú thỗn thệ hoặc đóng khố đang mê mải nối đuôi nhau kết thành vòng tròn nhẩy múa quanh một đống lửa to tướng cháy phửng phửng đang tung lên muôn vàn tàn hoa lửa ngời ngời trên bãi đất rộng tràn ngập ánh trăng ánh lửa và như đang rung lên vì những hồi cồng hồi chiêng dữ dội. Cái ánh lửa đó ánh trăng đó rồi thì ngôi nhà mồ những cây nêu ngất ngưởng ngả nghiêng trong tiếng lửa réo phừng phừng và tiếng cồng chiêng inh tai nhức óc với những bóng người nhấp nhô la hú quây tròn nhẩy múa đã tạo nên một quang cảnh kỳ dị vừa lạ mắt lại vừa huyền bí ma quái khiến bác sĩ Cần và cô Kim Thoa vừa nhìn thấy đã vội chùn ngay lại. Không có ai chạy ra đón. Cũng không có ai ngoái lại nhìn. Cũng không có ai vẫy hoặc hú gọi. Bác sĩ Chiểu dúi cái bao tải vào tay cha Tạc rồi ghé tai cha Tạc nói điều gì đó thế là cha Tạc bèn khoác ngay vai ông bác sĩ già rồi cha gào lên:
"Mời ông bác sĩ đi theo tôi uống rượu ăn thịt!".
Nói rồi cha Tạc xềnh xệch lôi bác sĩ Cần đi thảng về phía ngôi nhà mồ ở chính giữa bãi đất là nơi có hơn chục cái bóng người đang ngồi nằm ngả nghiêng say sưa. Ông bác sĩ già cứ phó mặc số phận mình cho ông cha cố trẻ tuổi. Chân ông đạp bừa trên đất rừng nóng hầm hập thmh thoáng lại dẫm phải một cái gốc cây cụt đau nhói. Trong lúc đó thì bác sĩ Chiểu cầm cả hai tay cô Kim Thoa lôi thốc cô chạy tọt ngay vào nhập bọn với tốp người đang quay cuồng nhảy múa quanh đống lửa. Bác sĩ Chiểu hét lên: Nhẩy múa nhé. tiếng cồng chiêng gầm lên như tiếng sấm đổ khiến cô Thoa chẳng nghe thấy anh bác sĩ nói gì cả. Nhưng nhìn mồm anh mấp máy cô Kim Thoa lại hiểu ngay anh nói gì thế là cô cũng hét lên: Nhưng mà em không biết nhẩy múa. Mồm bác sĩ Chiểu lại mấp máy: "Ai cũng biết nhảy múa. Hãy ôm lấy anh dậm chân đập tay như tất cả mọi người". Cô Kim Thoa rú lên cười vì hai bàn tay anh bác sĩ đang lập bập bóp hai vú cô mà cô cũng rú lên cười vì tự dưng cô muốn rú lên cười cứ y như là con ngựa cái đang lắc đầu đập vó giẫy giụa đôi mông đòi động đực. Mùi khói mùi lửa mùi đất mùi lá rừng bị vò nát và mùi mồ hôi tháo ra ở cô ở nách ở bụng ở rốn ở háng ở bẹn của những người đang quay cuồng quanh đống lửa đang hú lên gào lên si cuồng khiến cô Kim Thoa sặc sụa ngột thở ngay lập tức khi cô vừa dấn mình thả mình cuốn theo cái nhịp múa đầu tiên rậm rịch. Tiếng cồng như búa tạ nện xuống đỉnh đầu cô gái. Tiếng chiêng như sợi dây chão xiết chặt cổ họng cô kéo căng chân tay cô. Lửa nóng hầm hập táp vào mặt vào cổ vào vú vào đùi và xát mạnh lên đôi mông to tướng căng mẩy của cô gái. Ngọn lửa như có ma lực cuốn thốc cô gái xô đẩy cô quyến rũ cô dền dứ cô quay cuồng hòa nhập cùng với đoàn người đang xuất thần hồn xiêu phách lạc trình diễn điệu múa nguyên thủy của núi rừng không thể cắt nghĩa nôi. Mắt cô gái hoa lên bơi những nào vú nào mông nào gáy và những làn tóc xõa xược. Người cô muốn vỡ tung ra bởi những bàn chân dữ tợn đập mạnh xuống đất làm phụt lên những trận mưa tàn lửa bay toán loạn. Tai cô ong ong như có ngàn con ong đang bay vào trong giẫy giụa quay cuồng. Cô chẳng còn nhìn rõ mặt ai chẳng còn nghe thấy gì chẳng còn ngửi thấy mùi gì. Cô có cảm giác là hồn cô đang bay vọt lên thoát khỏi xác cô xòe đôi cánh trắng lốp quay cuồng trên ngọn lửa. Cứ tuần tự năm lần dẫm chân năm lần đập tay năm lần lắc mông là lại có một bàn tay đàn ông thô cứng nào đó bất chợt phát nhẹ vào chỗ kín cô gái khiến cô chỉ muốn nhẩy thách lên rú lên cười sằng sặc rồi lao luôn người vào đống lửa đang cháy rần rật... cứ như vậy chẳng còn biết đến thời gian chỉ còn như mê như điên như say như tĩnh quay cuồng hỗn độn cho đến khi có một ai đó bế thốc cô gái lên - dốc đầu xuống mặc hai chân cô chổng ngược lên trời đạp loạn xạ. Loáng một cái cô gái thấy mình bị dằn xuống sau một mô đất ướt nhoét. Một thân hình đàn ông trần truồng nhễ nhại mồ hôi nóng hầm hập đổ sập lên người cô. Mắt gã lóe sáng như mắt chó sói bị đèn pha rọi vào. Miệng gã bập vào miệng cô gái. Gã dằn mạnh khiến cô đau nhói rồi cả người cô bỗng mềm oặt ra như lá khoai héo. Trong cơn đau đê mê cô gái nghe loáng thoáng tiếng gã đàn ông thì thào: Nằm im. Anh Chiêu đây mà... Trong khi cô Kim Thoa và bác sĩ Chiêu đang quay cuồng trong điệu soang grong bơxat rồi lôi nhau ra sau mô đất ướt nhoét thì bác sĩ Cần và cha Tạc đang gật gừ ngồi đánh chén ngay sát cạnh cái mả mới đắp to lù lù ở giữa ngôi nhà mồ la liệt rượu và thịt. Chung quanh cha Tạc và bác sĩ Cần có khoảng hơn hai chục người Giarai Mthur đàn bà mặc váy thồ cẩm cởi trần hai vú thỗn thệ đàn ông đóng khố chân tay gầy đen như que củi cũng đang ngồi gật gù uống rượu ăn thịt. Có người còn nằm quay ra đất ngáy khò khò. Khắc hẳn cái không khí cuồng si mê sảng của bầy người đeo mặt nạ đang hò hét nhẩy múa quay tròn quanh đống lửa ở ngoài kia. Trong nhà mồ lại rất yên lặng không ai cười to nói to. Có chuyện gì muốn nói thì họ ghé vào tai nhau thì thào còn thì mọi người chỉ mải uống mải nhai mải nuốt và dỏng tai lắng nghe bà góa đang ngồi xếp bằng tròn sát cạnh cái mả kể lể điều gì đó với người chồng vừa chết. Ban nãy lúc dắt bác sĩ Cần chui vào trong nhà mồ cha Tạc đã đặt cái bao tải lồng phồng xuống cạnh cái mả rồi quay lại kéo bác sĩ Cần ngồi xuống sát ngay sau lưng bà góa đang xõa tóc lầm bầm kể lể. Thấy bác sĩ Cần luống cuống líu lưỡi ngoái trước ngoái sau chắp tay chào hết người này đến người khác cha Tạc cười nói:
- Uống rượu ăn thịt đi. Không phải chào hôi như dưới xuôi đâu. Phong tục của người Giarai Mthur là như thế mà. Cứ tự nhiên như người trong nhà thôi.
Quả nhiên đúng như lời cha Tạc nói mặc dù biết thừa cha Tạc và bác sĩ Cần là hai ông khách lạ người Kinh nhưng đám đàn ông đàn bà đang nằm ngồi vật vạ uống rượu chung quanh chẳng ai chào hỏi đê ý gì đến hai vị khách lạ này gì cả. Không những thế họ còn ngồi xích lại nhường chỗ cho bác sĩ Cần. Một người đàn ông còn đẩy tới trước mặt bác sĩ Cần một cái máng gỗ lổn nhổn đầy thịt bập bẹ tiếng Kinh thân mật như đã quen từ lâu rồi:
- Ăn với ta đi. Nhăm đinh ngon nhiều nhiều mà...
Cha Tạc gật gù với người đàn ông rồi quay lại giới thiệu với bác sĩ Cần.
- Nhăm đinh là món ăn rất ngon của người Giarai Mthur gồm có thịt trộn với gan với ruột già với ruột non. Khách quí mới được mời đấy. Mời ông bác dùng.
Nói rồi cha Tạc dón ba ngón tay nhón một miếng Nhăm Ðinh đỏ lòm bỏ vào mồm. Bác sĩ Cần cũng thò ba ngón tay vào cái máng dón một nhúm cái món ăn rất ngon đó bỏ tọt ngay vào mồm. Nhưng ông bác sĩ già bỗng lạnh người khi nhận ra là ông đang nhai một nhúm thịt sống lèo phèo lạnh ngắt. Cha Tạc thản nhiên ghé vào tai ông bác sĩ già.
- Nhổ ra bây giờ là rầy rà lắm đấy ông bác ạ. Cố mà ăn uống mấy miếng cho gia chủ hài lòng.
Bác sĩ Cần rên rỉ như bị bóp cổ:
- Thịt sống à?
Cha Tạc lạnh lùng gật đầu.
- Thịt sống gan sống ruột già ruột non chưa luộc. Tất cả băm nhỏ trộn lẫn môt chút muối ớt cố mà nuốt...
Bác sĩ Cần nghẹn ngào:
- Thưa cha, tôi có tiên sử viêm đại tràng mãn... Tôi không thể ăn được các món gỏi.
Cha Tạc điềm nhiên:
- Hôm nay là ngày narpchah của lễ bỏ mả chỉ ăn toàn các món chế biến từ thịt không cần nấu nướng. Nào là món nhăm tăh gồm thịt băm trộn với tiết và phèo. Món nhăm pơra thịt phèo băm lẫn gói vào trong lá. Món nhăm Pa thịt mỡ trộn tiết phèo thêm chút muối ớt... Toàn món sống món gỏi thôi. Ông bác cố xơi một món. Ông thích món nào tôi bảo đồng bào họ dọn riêng cho món đó.
Bác sĩ Cần ứa nước mắt:
- Tôi đang đói lắm nhưng trình cha quả thật là tôi không thể ăn được thịt sống. Tôi ăn vào bị đi té re ngay tức thì. Cha Tạc vẫn điềm nhiên ông bác cứ uống nhiều rượu vào là hết đi tháo tỏng.
Bác sĩ Cần run rẩy
- Vâng... Xin cha cho uống rượu. Uống thật nhiều rượu trước đã. Xin cha cho uống rượu.
Bác sĩ Cần run run đỡ qua bầu rượu nơi tay cha Tạc. Ông ngửa cổ tu một hơi. Rượu cháy họng. Rượu vào trong người tới đâu là biết tới đó. Có rượu chảy vào người làm ông bác sĩ già vững lòng hắn lên. Ðôi mắt cha Tạc vẫn đăm đăm nhìn ông bác sĩ già như muốn bảo: "Uống đi rồi cố ăn lấy vài miếng món nhăm Ðinh nhăm tăh cho gia chủ họ vừa lòng". Bác sĩ Cần ngửa cổ làm một hơi nữa rồi ông nín thở nhét một nhúm nhăm pa gì đó vào mồm và nhai nuốt như vô hồn rồi ông lại tu nốt một hớp rượu rồi ông lại nhón một nhúm nhăm tăh gì đó đỏ lòm bỏ vào mồm. Rồi ông nhai nhai nuốt nuốt... nhưng mà lạ thay miếng nhăm tăh đó bỗng nhiên bùi bùi cay cay và ngọt đến lạ lùng. Cha Tạc gần như rú lên vỗ vai bác sĩ Cần:
- Ngon rồi hả. Ăn được rồi há. Ông bác tuyệt qúa. Nào ăn đi uống đi thoải mái đi. Măng-dê bố cu xin mời ông bác.
Bác sĩ Cần đã thấy bắt đầu say rồi. Ông uống ông nhai ông nuốt hùng hục hăm hở như con hổ đang xơi bữa tiệc nửa đêm chí tử của nó. Ông nhìn những bộ vú thỗn thệ. Ông nhìn những ống chân bóng nhẫy như ống đồng. Ông nhìn những cái mặt người lạ hiền từ đang đỏ lự lên vì rượu thịt. Có những cái mặt lành lặn lại có những cái mặt nối cộm sần sùi vì con bệnh hủi đang hành hạ. Bác sĩ Cần ngả nghiêng. Cha Tạc ngồi bên cạnh cũng ngả nghiêng. Suốt từ nãy đến giờ chưa lúc nào bà góa quay mặt lại. Quá bầu rượu trong tay bác sĩ Cần đã nhẹ bỗng. Có ai đấy ghé lại gần vỗ vai bác sĩ Cần rồi dúi vào tay ông một bầu rượu khác. Và thế là bác sĩ Cần lại uống. Ông uống mềm môi. Rượu chẩy vào người ông như nước lã được rót vào một cái ống. Rồi ông ngồi xổm lên chống hai tay xuống đát dông tai nghe bà góa đang rì rầm đọc bài cúng tiễn biệt người chết nằm trong mả. Mặc dù tiếng cồng tiếng chiêng tiếng la hú của bầy người đeo mặt nạ đang nhẩy múa quanh đống lửa bên ngoài dội vào trong nhà mồ ầm ĩ nhưng bác sĩ Cần vẫn nghe rất rõ từng lời cúng líu lô như tiếng chim của bà góa mà ông không sao hiểu nôi: Hoă ]ui kui konf phong dêu bok de pô chông fioonf đê chôk boh tlơi đê pô poai mơi hdip hoă asơi đô dai hoă asơi yang ih long phuya lă phuya mrahi h ve... Thấy bác sĩ Cần cứ há hốc mồm trố mắt ra cha Tạc bèn vít cổ ông xuống cười hùng hục:
- Không hiểu có phải không. Ðể tôi dịch cho ông bác nghe nhé. Lời cúng đấy. Hay lắm. Khác dưới vùng xuôi lắm. Bà góa đang khấn là lễ bỏ mả đã đến ngay sau lưng rồi. Từ nay người sống ăn cơm trắng người chết ăn cơm đỏ ăn hoa tím ăn hoa đo của các thần rồi... Lạy chúa! ông bác nghe có thấy lạ lùng không có thấy hay không. Hay quá đi chứ. Ðể tôi đọc thuộc lòng bài cúng cho ông nghe nhé. Nào... " Và chẳng cần bác sĩ Cần có muốn nghe hay không cha Tạc lại vít cổ ông bác sĩ già xuống. Cha Tạc cũng say rồi. Mắt cha long lanh. Giọng cha sang sảng như đang giáng kinh ở thánh đường: - Thôi từ nay thế là hết thật rồi. Hết thật rồi. Từ nay thế là hết như lá mơ nang đã lìa cành như lá mơ teo đã tàn úa. Từ nay không còn đào lỗ không còn làm nhà chòi không còn than khóc nữa. Sẽ không đem thịt đem rau đem xôi đến mả nữa. Sẽ không còn để tang không còn kiêng cữ nữa. Ché rượu cúng Ngok Bu đã đổ xuống mả rồi. Cây chuối cây khoai đã được trồng lên mả rồi. Con gà con chim Tlang Hê A đã được thả bay đi rồi. Thế là hết rồi nhé. Từ nay ma đừng quấy rầy ta nữa. Thế là hết rồi. Ta đã đi tắm đi gội đầu rồi. Ta đã thay váy áo mới rồi. Từ nay ta không còn dính líu gì với nhà mả nữa. Nụ cười đã nở trên môi ta đẹp như đóa hoa kơnia. Ta lại được quyền nhảy múa ăn uống vui chơi với mọi người trong bah. Nước sông đã rửa sạch ngày tang trên vú trên mông trên đầu ta rồi. Ta lại có quyền đi cưới một người chồng mới cho ta rồi... Giàng ơi...
Bác sĩ Cần ngã đập mặt xuống đất. Mồm ông vục vào một máng gỗ lổn nhổn món tiết phèo nào đó lạnh ngắt. Ðầu óc ông bác sĩ già lơ mơ. Và cũng giống hệt như cô Kim Thoa lúc đang quay cuồng quanh đống lửa đột nhiên ông bác sĩ già cũng nhìn thấy hồn ông bay vọt lên thoát khỏi cái xác già nua rách rưới bẩn thỉu của ông xòe rộng đôi cánh trắng lượn vòng tròn trong ngôi nhà mồ nồng nặc mùi rượu mạnh mùi những tảng thịt trâu tươi roi rói mùi những chậu tiết chậu phèo tanh nồng. Bác sĩ Cần nhìn thấy rất rõ cha Tạc lúc này cũng đang quì gối giơ hai tay lên trời lảm nhảm như một người loạn trí sau lưng bà góa xõa tóc. Rồi bỗng nhiên bà góa quay phắt lại nhe răng ra cười. Mặt bà nhăn nhúm hai hàm răng bị cả sát đến lợi đỏ lòm nom như răng ma. Bác sĩ Cần sợ quá thét lên một tiếng rồi vật ra ngất xỉu không hay biết gì nữa. Thật ra thì bác sĩ Cần đã nằm sóng soài đầu gối lên cái mả ngáy o o từ rất lâu rồi. Ông đã say thực sự rồi. Một người đàn bà vú thộn thện cẩn thận đỡ đầu ông bác sĩ già lên rồi luồn xuống sau gáy ông một khúc gỗ. Bà góa xõa tóc cũng quay lại chậm rãi đặt lên mặt ông một mảnh lá chuốì để cho không cho những con bọ đêm đang bay loạn xạ trong nhà mồ đậu xuống mặt mũi ông. Bà góa không phải là một bà già mà là một cô gái Giarai Mthur còn rất trẻ. Da mặt cô căng như da trống. Hai mắt cô sáng hơn cả ánh lửa. Hai hàm răng của cô đều tăm tắp trắng lóa như ngọc chưa hề bị cả lần nào. Tên cô là Hờ Nú. Và cô cũng là vợ của ông già người Kinh tên là Phạm Văn Cồn đang nằm trong cái mả lù lù giữa ngôi nhà mồ này. Chính nhờ có mảnh lá chuối đậỵ trên mặt mà ông bác sĩ Cần đã ngủ một giấc rất ngon lành không còn hay biết gì cha Tạc vẫn cứ quì xụp xuống đất giơ hai tay lên trời lảm nhảm điều gì đó. Có thể là cha đang đọc kinh xám hối cho chính cha đã bồng bột tự cho phép mình quên đi một chút thoải mái uống rượu ăn thit sống như một gã Giarai Mthur h hởi thật thà ngây dại. Và bác sĩ Cần cũng chẳng còn biết sau khi chậm rãi đắp mảnh lá chuối lên mặt ông bác sĩ già thì cô góa Hờ Nú bỗng mỉm cười rồi kêu lên hồn nhiên: Giàng ơi! Sao cái mặt của ông già người Kinh đây lại giống hệt cái mặt ông chồng của ta như thế này. Ngày mai ta sẽ bảo mẹ ta giết một con trâu để cưới chồng mới cho ta thôi. Giàng ơi. Lại nói bác sĩ Cần đã gối đầu lên khúc gỗ giấu mặt dưới mảnh lá chuối ngủ một giấc rất say cho tới tờ mờ sáng ông mới từ từ thức dậy. Lúc này nhà mồ đã vắng tanh vắng ngắt. Trên nền nhà còn vất lại ngổn ngang hàng chục cái máng gỗ đựng thức ăn đã bị vét sạch như chùi. Ðống lửa ở ngoài $ân cũng đã tắt ngấm biến đi đâu hết cả rồi. Bác sĩ Cần lồm cồm bò dậy chui ra khỏi ngôi nhàm mái nhọn được cất bằng gỗ gòn gỗ cây Kơnia rất khó tìm ở trong rừng Buôn Nát mà ông bác sĩ không hề biết. Ðống lửa ngoài nghĩa địa cũng đã tắt ngấm chỉ còn thấy vài sợi khói xanh lè bay lên leo lét. Bác sĩ Cần gọi to cha Tạc gọi to bác sĩ Chiểu và cô Kim Thoa nhưng gọi mấy lần mà chẳng thấy ai trả lời và cũng chẳng thấy bóng dáng họ ở đâu. Trăng lúc này đã lặn nhưng mặt trời vẫn chưa lên. Rừng núi chìm trong ánh sáng đục lờn lợt lùng bùng vừa đặc lại vừa lỏng. Thứ ánh sáng gần như chỉ thấy trong những giấc mơ. Không khí chung quanh im lặng đến rợn người. Ðứng đờ ra một lúc bác sĩ Cần thở dài lại chui vào ngôi nhà mồ mái nhọn. Và ông nhìn thấy có một người đội mũ xùm xụp gù lưng đang ngồi trên cái sừng trâu vất cạnh đầu mả. Người đó ngẩng lên cái mũ rơi xuống đất. Bác sĩ Cần nhận ngay ra đó là người đàn ông có hai con mắt hình tam giác lúc nào cũng đầy vẻ lo sợ tuyệt vọng mà ông đã nhìn thấy trong giấc ngủ lúc chiều. Thấy bác sĩ Cần có vẻ e ngại người đàn ông mắt tam giác vồn vã chìa cả hại tay về phía ông bác sĩ già:
- Ban chiều tôi về thăm nhà định lấy mấy thứ ồ dùng vặt thấy ông bác nằm ngủ ngáy o o như kéo bễ trên chõng. Tôi đã định vào ngồi nói chuyện mấy lần mà không thể nào bước nổi qua bậc cửa. Cô vợ trẻ Hờ Nú của tôi nói chẳng sai. Ðúng là chưa qua ngày nuôi mả rong bỏ xác thì tôi chưa đến gần được với ai.
Rồi ông ta cười, miệng méo xệch đi nom rất tội nghiệp:
- Tôi hóa thành ma người Giarai Mthur rồi. Mấy ngày hôm nay hồn tôi còn quanh quẩn ở nhà mả ở cái trại cùi An Nan này. Nhưng hết ngày lễ bỏ mả thì hồn ma của tôi phải đi xuống sống ở thế giới ma khu lân ở dưới lòng đất rất sâu do hai chị em bà Jung bà Jai cai quản. Rồi đây tới một ngày nào đó năm nào đó tôi không biết. Hồn ma của tôi sẽ biến thành con nhện Vak vai. Bà Jung bà Jai sẽ thả con nhện Vak vai lên măt đất cho nó bò đi lang thang trong rừng. Rồi khi con nhện chết sẽ biến thành giọt sương ia ngom tan vào hòn đất. Bà Jung bà Jai sẽ nhặt hòn đất đó nặn thành thằng người rồi cho nhảy vào một người đàn bà Giarai Mthur đang có chửa. Và khi người đàn bà Giarai Mthur đó sinh con thì hồn tôi sẽ nhập vào đứa bé. Và từ đó trở đi tôi đã chính thức trở thành một người Giarai Mthur mang dòng máu người Giarai Mthur vĩnh viễn đời đời kiếp kiếp hòa nhập vào bộ tộc Giarai Mthur. Ông Cồn lại méo miệng cười. Từ trong đôi mắt tam giác đầy vẻ lo âu tuyệt vọng của ông bỗng rỏ ra mấy giọt nước mắt đùng đục trăng trắng như cặn nước đái của người mắc bệnh viên cầu thận:
- Ông bác đừng có trố mắt lên ngạc nhiên. Ông bác đừng có lùi lại như thế để đề phòng tôi Cồn tôi đây đâu có phải là thằng dở người thằng sát nhân. Tôi chỉ là một thằng khốn nạn cả đời bị lừa đảo thậm tệ. Ðời tôi nhục nhã cay đắng thua thiệt trăm bề. Ban chiều đứng ở bên ngoài cửa nhìn vào trong nhà thấy bác co ro rên rỉ vật vã trong giấc ngủ. Nhưng cũng có lẽ vì thế mà tự dưng tôi lại muốn trò chuyện cùng ông mặc dù bao năm nay tôi vốn là một kẻ sống lặng lẽ luôn thu mình lại chẳng muốn san sẻ tâm sự với ai. Cho đến hôm nay chưa hết ngày rửa nồi Săch go của lễ bỏ mả nên hồn ma tôi vẫn chưa được chui xuống thế giới ma của bà Jung và Jai. Hồn ma tôi vẫn còn vật vờ lang thang một mình trên mặt đất chẳng thuộc thế giới loài người cũng chẳng thuộc thế giới ma quỷ. Thưa ông cám ơn ông đã lến dự lễ bỏ mả cho tôi. Ðáng tiếc giờ đây tôi chỉ là một hồn ma nên không thể cạn cốc với ông. Cứ nhìn mấy quả bầu khô lăn lóc cạnh cái mả kia mà tôi thèm rượu quá. Khi còn sống tôi cũng là một con sâu rượu đấy. Tôi uống rượu không phải tìm cái sự khoái trá say sưa mà chỉ muốn quên đi nỗi sầu muộn cay đắng mà thôi. Chúa ơi tại sao tôi cứ nói mãi tới nỗi buồn nhỉ. Có khi tôi đang quấy rầy ông làm hỏng đêm uống rượu trong nhàm của ông. Nhưng xin ông tha lỗi bởi vì đời tôi chỉ toàn nỗi buồn. Mấy năm nay lên chữa bệnh ở trại cùi An Nan tôi lấy cô Hờ Nú làm vợ. Chính bác sĩ Chiểu đã làm mối gả cô Hờ Nú cho tôi cũng mong tôi tìm được một niềm vui để sống mà chữa bệnh. Nhưng ông ơi với ai thì không biết nhưng với tôi một thằng già tội đồ sáu mươi tuổi đã tàn tạ vì bị phản bội vì bị tù tội vì bệnh cùi thì mông vú môi lưỡi và cả những đám lông loăn xoãn phía dưới bụng của cô gái người Glarai Mthur mười sáu tuổi mà mỗi khi làm tình cô ấy vẫn có thói quen cứ thét lên na na na cũng chẳng làm nguôi đi nỗi buồn tuyệt vọng đã đổ bê tông đông cứng tâm hồn tôi rồi. Ông ơi! Cuộc đời tôi buồn quá. Buồn đến nỗi chết đi rồi mà không thể nhắm mắt được.
Người đàn ông mắt tam giác tự xưng là Cồn cứ chờn vờn rên rỉ miên man như vậy. Thỉnh thoảng ông ta lại hức lên như bị hóc xương cá rô. Bác sĩ Cần ngồi im lặng lắng nghe. Ðã hai lần ông lén cấu vào mặt vào mông đít của mình và cả hai lần ông chẳng có cảm giác gì cả và ông bác sĩ già bỗng hiểu ngay là ông nằm mơ. Và người đàn ông mắt tam giác kia có thể là một hồn ma nhưng cũng có thể chỉ là một ảo giác do giấc mơ của ông bày đặt ra. Tuy biết rất rõ là mình đang nằm mơ nhưng bác sĩ Cần không hề hét lên để tỉnh dậy. Dù sao đi nữa những lời than thở rên rỉ của ông Cồn lại làm cho bác sĩ Cần bỗng nhớ lại cái ngày nào ông bỏ trốn khỏi nhà xác của bệnh viện tỉnh rồi ghé xuống cái ga xép Thuận Thiên của bà trưởng ga Phạm Thị Nhàn tội nghiệp. Và mặc dù ông Cồn đây mới kể huyên thuyên lảm nhảm nhưng bác sĩ Cần đã linh cảm rằng cái người đàn ông mắt tam giác này cũng có một cuộc đời vô cùng oan trái đau khồ như bà trưởng ga Phạm Thi Nhàn. Bây giờ khi chết đi rồi thể xác tiêu dao cùng cây cỏ nhưng hồn vẫn còn gánh nặng chĩu nỗi đau đó không thể mang xuống thuyền đài ở dưới đất sâu do bà Jung và Jai cai quản. Và bỗng dưng ông bác sĩ già lại như nghe thấy lời bà trưởng ga văng vẳng khóc than "Ông ơi, nỗi đau này còn nặng nề hơn đá tảng. Lâu nay tôi chỉ cắn răng chịu một mình. Tôi vẫn tự nhủ thầm thôi thì cứ ráng chịu khi nào chết thì sẽ mang nó theo xuống mồ. Nhưng khi chết đi thì tôi bỗng hiểu rằng tôi đã lầm rồi. Tôi không thể nào mang nổi nỗi đau nỗi nhục này xuống dưới mồ vì ông ơi hồn người ta mỏng manh như khói như sương mà sương khói thì làm sao cõng được đá tảng ngàn cân hả ông. Khốn nạn cho cái kiếp làm người của tôi...".
Bác sĩ Cần cứ ngồi im lặng lắng nghe và miên man nghĩ ngợi trong giấc mơ của ông. Thật ra thì lúc này ông đang nằm thẳng cẳng trong nhà mồ đầu gối lên khúc gỗ và mặt được đậy một mảnh lá chuối bóng loáng. Ông bác sĩ già đang say mèm. Ông ngủ kịch liệt như một kẻ đã bị hút mất hồn. Thỉnh thoảng chân tay ông lại giật nhè nhẹ y như con chó già đang nằm mê. Ông không hề hay biết là cô góa Hờ Nú xõa tóc đã thôi không còn rầm bầm khấn ông chồng Phạm Văn Cồn người Kinh của cô nữa mà giờ đây cô cầm một cành lá Kơ Nia quạt nhè nhẹ ru cho ông ngủ. Bộ tộc Giarai Mthur là một bộ tộc ít người thuộc đại gia đình sắc tộc Giarai. Người Giarai Mthur sống rải rác trong cánh rừng đại ngàn Buôn Nát ngày xưa ngày xưa có rất nhiều cây gỗ Gòn và cây gỗ Kơ Nia. Người Giarai Mthur cùng thuộc ngữ hệ Malaiô - Pôlinêdi. Mthur có nghĩa là nghèo khó. Gialai Mthur có nghĩa là người Giarai nghèo khó. Giống như các nhóm người Giarai Chor Giarai Aráp người Giarai Mthur tin rằng khi chết đi thì hồn người chết M'ngắt dei sẽ biến thành ma àtầu. Và vì thế phải làm lễ bỏ mả thì hồn ma àtầu mới đi tới được thế giới ma ở dưới đất để rồi sau này hồn ma đó mới lại có dịp đầu thai trở lại kiếp người. Chính vì vậy tục làm lễ bỏ mả là một tập tục quan trọng bậc nhất của người Giarai Mthur. Tại trại cùi An Nan có một bản nhỏ Giarai Mthur. Và tất nhiên ở cái bản Giarai Mthur này vẫn duy trì mọi tục lệ lâu đời của bộ tộc họ trong đó có lễ bỏ mả. Ðúng ra thì người Giarai Mthur thường chọn những ngày trăng sáng nhất để làm lễ bỏ mả Hoa lui bơxát. Nhưng vì những ngày trăng sáng nhất lại là những ngày con bệnh cùi bị hành hạ đau đớn nhát nên những người Giarai Mthur ở trại cùi An Nan phải chọn những ngày trăng lu trăng khuyết để làm lễ bỏ mâ. Ðó cũng là lý do vì sao bác sĩ Cần và cô Kim Thoa lại được mời đi dự lễ bỏ mả không vào tuần trăng tròn của tháng. Cũng cần nói thêm là cái đêm bác sĩ Cần và cô Kim Thoa đi đến nhà mồ uống rượu nháy múa thì cũng là đêm rửa nồi Săchgo - Nghĩa là đêm cuối cùng của cái lễ bỏ mả 3 ngày đêm ăn nhậu nhảy múa vui chơi si cuồng của lễ bỏ mả. Cũng vì thế mà mờ sáng hôm sau ngày Săchgo huyền bí vui nhộn đó tổ chức tại nhà mồ của ông Phạm Văn Cốn tất cả mọi người trong 8 gia đình Giarai Mthur đều lần lượt dắt nhau về trại cùi An Nan bỏ lại phía sau cái nghĩa địa mới được phát quang ở giữa có dựng một ngôi nhà mồ mái nhọn xinh đẹp và cũng theo tập tục của họ sau ngày Săchgo đó người sống không bao giờ quay lại khu nghĩa địa đó nữa. Bởi vì phần việc cuối cùng đối với người chết đã làm xong. Từ nay trở đi họ để mặc cho mưa nắng thời gian triền miên phá hủy dần ngôi nhà mồ cùng cây cối đua nhau mọc lên um tùm tươi tốt cho đến một ngày xóa sạch mọi dấu vết của cái nghĩa địa mà đã có những ngày họ kéo đến tụ tập đốt lửa nhảy múa ca hát uống rượu say bí tý để tiễn biệt người bà con họ hàng đi về thế giới của ông bà tố tiên. Tuy nhiên sau cái đêm Săchgo đó vẫn còn có hai người nằm lại cái nghĩa địa dựng nhà mồ của ông Phạm Văn Cồn là chồng cửa cô Hờ Nú đồng thời cũng là rể của bản Giarai Mthur ở trại cùi An Nan. Hai người đó là cha Tạc và bác sĩ Trương Vĩnh Cần. Lại nói bác sĩ Cần cứ nằm sõng soài gối đầu lên khúc gỗ mặt đậy mảnh lá chuối ngủ mê mệt. Ông bác sĩ già say quá. Ông cứ nằm thẳng cẳng như thế ngáy o o một mạch cho tới sáng bảnh mắt ra cha Tạc lay ông mấy lần và cô Kim Thoa đổ cả rượu vào mũi ông mà ông vẫn không thức dậy. Lúc này bà con người Giarai Mthur cũng đã bỏ về hết rồi. Cô goa Hờ Nú cũng vứt cành Kơnia xuống đất bỏ về theo bố mẹ cô rồi. Bác sĩ Chiểu cũng phải về trại cùi An Nan vì sáng nay là ngày khám bệnh. Tất nhiên cô Kim Thoa đi theo bác sĩ Chiểu. Thế là chỉ có mình cha Tạc ngồi lại ngôi nhà mồ để trông ông ấy bác sĩ già. lă nói về cha Tạc rồi nhưng cũng cần nói tlêm về cha thêm chút nữa vì cha Tạc thuộc típ "cán bộ" cách tân của thiên chúa giáo. Trẻ tuổi. Có học vấn vững chắc. Nói tiếng Mỹ nhanh như người Mỹ. Sùng đạo nhưng không mù quáng. Rất nhiệt huyết nhưng cũng rất thực tế. Siêng năng việc đạo những cúng rất hăm hở việc đời. Chính vì vậy mà tuy chỉ mới thành lập được hơn hai năm nhưng quĩ "cứu trợ ông bào cùi ở Tây Nguyên" do cha Tạc sáng lập hoạt động rất có hiệu quả. Phải nói rằng hơn một năm nay trại cùi An Nan nhận được khá nhiều thuốc men quần áo và lương thực từ quĩ "Cứu trợ đồng bào cùi Tây Ngưyên" của cha Tạc. Ðiều đó cũng giải thích một phần nào cái lý do vì sao là một kẻ vô thần mà bác sĩ Chiêu lại rất gần gũi và kính trọng cha Tạc. Về phần cha Tạc thì cũng rất kính trọng nể phục bác sĩ Chiểu. Ông cha trẻ tuổi nhìn thấy ở ông bác sĩ trẻ tuổi có cái tố chất của một kẻ từ vì đạo. Tất nhiên đạo đây là đạo hi sinh vì sự đau khổ của người cùi chứ không phải là đạo cơ đốc giáo hoặc đạo tin lành. Tuy vậy càng gần gũi bác sĩ Chiểu thì cha Tạc càng nảy nở cái ý định muốn cảm hóa bác sĩ Chiêu thành một con chiên của nước chúa. Có lẽ cũng vì thế mà cha Tạc ngày càng bám sâu vào trại cùi An Nan và cha đang vận động cho một chương trình cụ thể cứu trợ khẩn cấp cho trại cùi An Nan một máy phát diện xách tay của Nhật và hai cô tu sĩ trẻ đẹp tình nguyện lên làm y tá hộ lý phụ giúp cho bác sĩ Chiểu. Lại nói buổi sáng hôm đó ngôi lại nhà mồ để canh bác sĩ Cần. Cha lay gọi bốn năm lần mà ông bác sĩ già vẫn cứ ngủ lì bì như người bị đánh thuốc mê qúa liều. Ngồi mãi vô vị cha Tạc đứng lên đi ra ngoài vẩn vơ ngắm cây cỏ đất trời. Sau một đêm uống như trùng lại ăn vã toàn những tim gan phèo tiết sống sít nên miệng cha đắng ngăn ngắt mà bụng thì lại đau ngâm ngẩm. Cha Tạc có lẻn ra sau một bụi moóc chó tranh thủ làm cái việc mà không ai có thể làm hộ nhưng cố mãi mà vẫn không thể làm được. Ngơ ngáo một lúc cha Tạc lại chui vào nhà mồ tới ngồi bên cạnh bác sĩ Cần, phe phẩy đuổi ruồi cho ông bác sĩ. Và chính lúc này, cha Tạc nhìn thấy trong đống dồ đạc vặt vãnh của người chết như ống điếu, cuốc thuồng, mũ cát, đôi giầy há mõm vất lung túng quanh ngôi mả có lẫn một quyển vở cũ, góc xoăn tít, bìa ố vàng dính tro than lem nhem. Nom quyển vở thật lạc lõng giữa đống đồ vật vô hồn. Không hào hứng lắm. Cha Tạc nhặt quyển vở lên, thờ ơ lật vài trang. Những hàng chữ run rẩy, nghuệch ngoạc, loằng ngoằng như tâm trạng hoảng loạn của một kẻ sám hối. Chắc đây là bút tích của người đang nằm dưới mộ. Với con người này, cha Tạc không thú vị lắm và cha cũng chẳng biết nhiều nhặn gì hơn về ông ta ngoài cái tên Phạm Văn Cồn và ông ta là một người Gia Rai Mthur gốc Kinh đã bỏ đạo. Là một con chiên ghẻ của chúa. Lúc này mặt trời đã lên. Nắng xiên rọi vào ngôi nhà mồ làm bốc lên một thứ mùi rữa nát hố lốn tanh tưởi đến phát mửa. Bác sĩ Cần vẫn nằm ngáy o o thoải mái như một đứa trẻ lên ba. Cha tạc ngắm nhìn ông bác sĩ già hồi lâu rồi thở dài dựa lưng vào cây cột gỗ Kơ Nia và lẩn mẩn giở quyển vở ra đọc. Cha cũng chỉ có ý đọc chơi chơi giết thời gian để đợi ông bác sĩ già thức dậy. Nhưng cha có ngờ đâu... Những dòng chữ nghệch ngoạc hoang loạn này đã phơi bày ra trước mắt cha một thế giới bí mật và thê thảm của tám hồn một con người. Thật là kinh hoàng sửng sốt. Kinh hoàng sửng sốt đến không thể tưởng tượng nổi. Chao ôi! Cho đến mãi sau này mỗi khi nhớ lại cái buổi sáng oi ả sau ngày rửa nồi Săchgo ở trong ngôi nhà mồ nồng nặc thứ mùi rữa nát hổ lốn tanh tưởi ấy để rồi tình cờ nhặt được quyển vở cũ nát bí ẩn này. Cha Tạc chỉ còn biết quì xuống làm dấu Thánh và kêu lên: Tạ ơn chúa. Con lại càng hiểu rằng trên đời này ngay cả những điều tưởng rằng không thể xảy ra được thì vẫn cứ xảy ra. Và chỉ có tình thương yêu đồng loại lòng đam mê muốn sống và sự thật thà sám hối mới có thể cứu chuộc được tâm hồn con người mà thôi. A men!...
Hết
Bây giờ lại quay về với bác sĩ Trương Vĩnh Cần đang nằm co ro thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn nửa mê nửa tỉnh trong căn nhà nhỏ sơ sài như cái vọng gác ở ngay bên bờ con suối cạn. Hình như là trong giấc mơ bác sĩ Cần lại nhìn thấy người lạ mặt đội mũ xùm xụp gù lưng. Nhưng lần này người đó không đi vào nhà mà chỉ đứng ở ngoài sân ngả ngón nghiêng nghiêng nhìn vào. Trong cái ánh sáng mờ ảo vàng đục đang sôi lên ong ong. Thứ ánh sáng chỉ thấy có trong những giấc mơ. Lần này bác sĩ Cần còn nhìn thấy rõ mặt người gù lưng. Ðầy là một người đàn ông không thể đoán nổi tuổi da mặt nhăn nheo tóc xơ xơ xõa xuống tận vai râu ria lởm chởm hai con mắt hình tam giác lúc nào cũng xụp xuống vì lo sợ thất vọng. Diện mạo người đó thật thảm hại đê tiện như một thằng ăn cắp nhát gan một thằng cờ bạc bịp ươn hèn nếu người đó không có đôi hàm vuông vức bảo hiểm cho một tính cách ngang bướng quả quyết thu lại ẩn náu bên trong cái hình hài thảm hại đó. Bác sĩ Cần nhìn rõ mặt mũi người gù lưng và đã ba lần ông bác sĩ già kêu lên vẫy vẫy tay ra hiệu mời mà người lạ mặt cũng chỉ nghiêng ngó đứng ở ngoài sân chứ nhất định không chịu bước vào nhà. Dường như ông ta có chuyện gì đó định nói với bác sĩ Cần nhưng ông ta còn ngại ngùng còn đề phòng. Hoặc là do có một cái gì bí mật ẩn náu ở đâu đấy ngay quanh ngôi nhà này thôi đang đe dọa ông cấm đoán ông ta vậy. Có thể ông bác sĩ già sẽ còn nằm co quắp như thế mãi chập chờn mãi và cũng cứ nhìn mãi thấy người lạ mặt gù lưng và cũng chỉ nhìn thấy thôi chứ không sao mời được ông ta vào nhà nếu như không có những tiếng cồng trầm hùng nặng nề âm âm u u vang lên từ trong rừng sâu. Tiếng cồng giống như ngọn gió mù lòa đang chầm chậm lan tỏa xột xoạt trong cây rừng. Chính tiếng cồng đó đã đánh thức bác sĩ Trương Vĩnh Cần thức dậy.
Ông bác sĩ già mơ mắt ra lúc này bên ngoài trời đất đã tối đen. Một ngọn bấc cháy leo lét trên cái bàn gỗ què chân cạnh cửa ra vào. Trơng nhà có tiếng cười rúc rích như tiếng chuột rúc, có bóng người đen xì méo mó to tướng đang động đậy trên vách. Rồi cái mặt thơm phức mùi nước hoa và mùi lá cây dương xỉ bị vò nát của cô Kim Thoa ở dâu bỗng xà xuống ghé sát mặt bác sĩ Cần. Cô gái nũng nịu:
- Gớm! Ông bác ngủ say thế. Ngáy o o như là thằng cu bờm lên mười.
ở một góc nhà bác sĩ Chiểu đang lục cục xờ xoạng như thằng ăn trộm. Thỉnh thoảng lại nghe đánh xoang một cái. Thấy cô Kim Thoa xóc nách đỡ ông bác sĩ Cần ngồi dậy. Bác sĩ Chiểu ngoái lại vui vẻ:
- Mời ông bác đi dự lễ bỏ mả với đồng bào trại cùi An Nan.
Bác sĩ Cần vâng dạ lập cập đứng lên. Bụng ông réo ông ọc như có ai đang xúc miệng ở trong. Bác sĩ Chiểu phá lên cười.
- Ông bác chịu khó nhịn đói. Tý nữa ra nhà mồ thì tha hồ ăn hút. Thịt chất như núi. Rượu rót tràn như suối.
Rồi anh bác sĩ bỗng đứng thẳng người lên cao hứng ông ổng đọc to lời cúng bằng tiếng Bana Konkơđch: Haok atâu pá dây pơm đơtrơng anâu nai tuk atâu ne păth hin hơn tuk atâu xâng biơi di. Này chúng tôi bỏ ma đây. Làm mọi thứ cho ma đây. Xin ma đừng ghét bô đừng làm hại chúng tôi. Ðọc xong anh bác sĩ lại hú lên. Xem chừng bác sĩ Chiểu có vẻ sảng khoái khác thường.
*
Trại cùi An Nan ở thung lũng An Nan bạt ngàn cỏ moóc chó lá sắc như dao gai nhọn như kim là một xứ sở quanh năm ngày tháng bao trùm một làn không khí thê lương bí ẩn. Hơn hai ngàn người bệnh cùi cùng với thân nhân cha mẹ anh em vợ con của họ thuộc gần mười sắc tộc có tiếng nói khác nhau kéo về thung lũng này lập bản làng quần tụ chung quanh cái nhà ba gian vừa là hội trường cũng vừa là phòng khám bệnh và cũng vừa là phòng ngủ của bác sĩ Chiểu vừa là giám đốc và cũng là viên chức duy nhất của trại. Mặc dù đều là bệnh nhân do trại quản lý nghĩa là được khám bệnh chạy chữa thuốc men. nhưng do phong tục tập quán tiếng nói khác nhau nên các người bệnh không ở lẫn lộn chung chạ mà họp thành từng bản cất nhà ở riêng rẽ cách biệt nhau và cũng chẳng mấy khi họ qua lại giao lưu. Có lẽ chỉ có bầy trẻ con hơn ba trăm đứa là thường xuyên phá rào chơi đùa với nhau mặc dù chúng cũng họp thành từng tốp theo sắc tộc riêng của chúng nó. Nếu bây giờ có một gã du lịch ba lô tò mòi nào đó tình cờ lạc rừng vào tới trại cùi An Nan ắt hẳn gã sẽ vô cùng ngơ ngáo kinh ngạc. Gã có thể vứt oạch ba lô xuống ngồi bệt lên thảm cỏ chờ đợi suốt một ngày dưới ánh nắng như thiêu đốt mà chẳng hề nhìn thấy một bóng người xuất hiện. Khát cháy họng người mệt lả phổi khô rang gã muốn uống một hớp nước mà chẳng thể tìm được ở đâu. Con suối sau lưng gã đã cạn khô chỉ còn thấy trồi lên những tảng đá xám xịt nóng rẫy và cứ bóng loáng lên mỗi khi ánh nặng rọi qua. Càng về chiều trời càng nóng không khí ngột ngạt oi bức như trong lò hầm đốt than. Thung lũng An Nan chỉ thừa thãi cỏ moóc chó gớm ghiếc chứ rất thiếu những cơn gió mát mẻ vì quang cảnh nơi đây đã bị cây rừng vách đá ba bề bốn bên bao phủ. ấy là về mùa nắng. Còn vào mùa mưa mà mò vào đây thì khách bộ hành chỉ nhìn thấy hơi rừng bốc lên ngùn ngụt dưới một bầu trời thấp lè tè cuồn cuộn mây màu ốc biêu từ sáng tinh mơ tới lúc chiều tà không lúc nào ngớt rả rích rắc xuống màn mưa vô hồn lạnh lẽo khiến cho cảnh vật càng thêm u sầu cô đơn ảm đạm.
Khách bộ hành du lịch ba lô rét run cầm cập môi thâm xì quần áo ẩm ướt đôi giầy ba ta giầy bêtit giầy đi rừng thể thao Adidas bị biến dạng méo mó vì dính cồm cộp hàng tảng bùn nặng như đá và bẩn đến nỗi không dám tụt ra khỏi chân nữa. Kiệt sức run lên vì lạnh khách bộ hành liều mạng mò từng bước đến gần ngôi nhà lụp xụp xiêu vẹo lấp ló trốn trong bụi mây um tùm ướt xũng nước. Lòng khách bộ hành khấp khới nghĩ tới một ca nước nóng một bếp lửa bập bùng ấm cúng nhưng than ôi càng bước lại gần ngôi nhà thì cái sự khấp khới đó càng mau tan biến đi nhường chỗ cho sự nghi ngờ e ngại kinh ngạc bởi vì cái vẻ im lặng rất khác thường toát ra từ ngôi nhà đó. Chẳng có tiếng reo lép bép của bếp lửa. Cũng chẳng có tiếng chó sửa tiếng mèo kêu tiếng ho lụ khụ hoặc tiếng động lục cụ đồ đạc dao thớt va chạm. Nếu khách bộ hành du lịch ba lô cứ liều dấn thêm vài bước nữa thì họ sẽ ngưi ngay thấy một thứ mùi tanh tươi hôi hám rất kỳ dị. Một thứ mùi ghê tởm mà chắc chắn đời họ chưa bao giờ ngửi. Ðó là mùi của những xó nhà tối tăm mốc meo trộn với mùi lưu cữu của những cái thân người lâu ngày không tắm trộn lẫn mùi của những vết cùi lở loét sưng tấy đỏ và rỏ ra thứ nước đục như nước gạo hôi và tanh đến nỗi có thể nôn oẹ phát mửa. Với định kiến ngu xuẩn độc ác từ ngàn đời để lại người ta vẫn coi người cùi là những con người nguy hiểm ghê tởm và phải tống khứ càng nhanh càng tốt càng thẳng tay càng tốt ra khỏi gia đình chòm xóm và cộng đồng xã hội. Họ còn bị đối xử khinh bỉ tệ hại hơn cả những người điên. Than ôi đã bao nhiêu đời nay người cùi bị hắt hủi ruồng bỏ cuộc đời của họ khốn nạn tủi nhục tuyệt vọng hơn cả kiếp con vật bẩn thỉu. Hình hài của họ dúm dó. Quần áo họ tả tơi. Mặt mũi họ xần xùi tấy đỏ. Chân tay họ cong queo quấn rẻ rách xù xụ bẩn thỉu hôi hám lúc nào cũng rồi rỉ ứa ra nước mủ vàng. Họ lê la lang thang vạ vật ngoài bến tàu bến xe kêu la van xin. Ban ngày ngồi bốc cơm nguội ăn cạnh đống rác ruồi nhặng bay vù vù. Ban đêm rúc vào những xó xỉnh cống rãnh đắp lên người bao bố tải cố nhắm mắt qua đêm dưới trời sương lạnh vô tình. Nếu có kẻ nào động tâm thì cũng chỉ đứng từ xa quăng vội cho đồng tiền rồi cũng ù té bỏ chạy như bị ma đuổi. Họ đã cố che mặt quấn chân quấn tay trà trộn lẫn vào đám người điên đám người ăn mày ăn xin nhưng mỗi khi bị phát hiện ra thì chỉ còn cách ôm đầu tập tễnh bỏ chạy vì bị chính ngay cái lũ ăn mày ăn xin và bọn người mất trí đó ghê tơm đánh đuổi. Ðời sống đô thị văn minh cho đến các tục lệ cô hủ ở chốn thôn dã tĩnh mịch và ngay cả cuộc sống thật thà chất phác ngây thơ nơi xoóc buôn làng bán ở chốn rừng xanh cũng nhất loạt chối bỏ tẩy chay li dị người cùi đẩy họ vào bước đường cùng chỉ còn cách cuối cùng là bồng bế dắt díu nhau chạy trốn vào các trại cùi ở những eo biên khuất neo vắng vẻ hoặc ở sâu trong các khu rừng rậm nguyên thủy hoang dã. Có thể nói tất cả những người cùi ở trại An Nan đều đã nếm đủ mọi cảnh ngộ cay đắng túi nhục khốn khổ khốn nạn khi bị xua đuổi hắt húi như vậy. Vì vậy cái thung lũng An Nan bạt ngàn cỏ moóc chó lá sắc như dao gai nhọn như kim này là hòn đảo cuối cùng là mảnh đất hứa cuối cùng còn lại trên đời này để họ bấu víu vật lộn níu giữ lấy cuộc sống trước khi tan thành từng bầy đàn lang thang mấy hút vĩnh viễn vào trong rừng thâm.
Hồi mới theo đội y tế đặc nhiệm về trại cùi An Nan bác sĩ Chiểu còn có hai người đồng nghiệp cùng chung lưng chia xẻ gánh vác công việc. Ðó là một anh y tá tên là Bảo quê ở miền Trung vốn là một người bệnh cùi đã tình nguyện ở lại trại làm việc sau khi khỏi bệnh. Và người thứ hai là ông y sĩ giám đốc của trại tên là Nhiêu quê ở ngay thị xã Buôn Nát. Hình như ông Nhiêu là người tộc Giárai Mthur. Ðó là một người đàn ông mặt mũi đen xì tóc dài xõa vai mới ngoài năm mươi nhưng trông như ông lão bảy mươi rất tốt bụng cả ngày lầm lì chẳng nói một câu. Bác sĩ Chiểu về trại cùi An Nan được hơn một năm thì y sĩ Nhiêu chết vì bị rắn hổ mang bành đớp vào gáy. Một năm sau anh y tá Bảo xin nghỉ phép về quê lấy vợ rồi cũng lặn luôn không quay lên trại nữa. Tất nhiên là anh Bảo cũng viết cho bác sĩ Chiểu một lá thư từ biệt lời lẽ rất cảm động. Cũng may năm đó có hai thanh niên người tộc Rơmăm sau khi khỏi bệnh thấy bác sĩ Chiểu một mình xoay xở vất vả quá nên bảo nhau ở lại giúp anh. Thoạt đầu họ cũng chỉ định ở lại một thời gian ngắn thôi nhưng sau khi được bác sĩ Chiểu dạy cho thành y tá biết băng bó biết tiêm thuốc thế là họ ở lại luôn không về bản nữa. Sau khi đoàn cán bộ đặc nhiệm y tế tan rã hầu hết các trung tâm điều trị bệnh phong ở vùng Buôn Nát cũng tan rã theo vì các y sĩ bác sĩ y tá ở đó đều bỏ trốn về đồng bằng và không thể tìm được ngưồn cung cấp thuốc men cũng như kinh phí tiền bạc. Ðấy cũng là thời gian bắt đầu khủng hoảng kinh tế khắp nước. Ðể cứu lấy trại cùi An Nan bác sĩ Chiểu đã phải xả thân giống hệt một tín đồ tử vì đạo. Anh lùng xục khắp giải rừng già Buôn Nát thu gom những đội tàn binh người bệnh cùi vỡ trại đang chạy dạt trong rừng đem họ về An Nan chia đất giúp họ dựng thành những bản nhỏ theo từng sắc tộc. Dần dần tạo thành một quần thể người cùi đa sắc tộc sống xúm sít nương tựa vào nhau trong khu thung lũng An Nan bạt ngàn cỏ moóc chó. Và mặc dù chỉ còn trơ lại một mình là bác sĩ với hai anh chàng y tá chui gà què người Rơmăm nói tiếng Kinh mà nghe ríu rít líu lô cong queo như tiếng Rơmăm, bác sĩ Chiểu vẫn tổ chức phòng khám bệnh và duy trì đều đặn một tháng hai lần tự mình đi khắp mọi nhà thăm bệnh cho người bệnh. Tháng nào cũng vậy cứ vào ngày mồng hai đầu tháng là bác sĩ Chiểu lại đeo túi thô cấm chống gậy đi đường tắt xuyên rừng ra thị xã Buôn Nát xông đến phòng y tế thị xã và văn phòng đại diện cơ quan dân tộc để đòi tiền lương của mình và kinh phí cũng như thuốc men cho trại cùi An Nan. Cũng phải công bằng mà nói phòng y tế thị xã và văn phòng đại diện cơ quan dân tộc ở Buôn Nát đã xoay xở cật lực giúp bác sĩ Chiểu nhưng kết quả rất khiêm tốn bởi vì ngay cả phòng y tế và văn phòng đại diện cơ quan dân tộc cũng bị cắt kinh phí hoạt động cán bộ nhân viên hai cơ quan đó cũng bị thả nổi không có lương. Hay nói chính xác là cơ quan xin khất nợ vì chưa có tiền phát lương cho họ. Cũng chính trong một chuyến đi "đòi nợ" này ở Buôn Nát mà bác sĩ Chiểu đã gặp cha Tạc trong một lần cha Tạc đang dẫn mấy bà xơ nhân danh giáo hội chạy khắp thị xã Buôn Nát hô hào các con chiên giúp đỡ cho qũy bảo trợ đồng bào cùi Tây Nguyên do chính cha sáng lập nên. Các đồng nghiệp của bác sĩ Chiểu ở Buôn Nát vẫn gọi đùa anh là hiệp sĩ Ðông ki sốt. Mỗi khi thấy anh đeo cái túi thố câm chống gậy đi vào thị xã là họ lại ngả mũ vui vẻ chào to: "Xin chào Ðông ki sốt lại ra lĩnh lương có phâi không". Lâu ngày mặc nhiên bác sĩ Chiểu có cái tên là Chiêu Ðông ki sốt trong sự vui đùa vừa mến mộ lại vừa hơi thương hại của các bạn đồng nghiệp ở ngoài thị xã. Nhưng đồng bào cùi ở thung lũng An Nan thì lại coi bác sĩ Chiểu như một ông Thánh sống. Có thể nói uy quyền của bác sĩ Chiểu ở thung lũng An Nan chẳng thua kém gì uy quyền của một ông cha cố ở một vùng giáo dân do ông cai quản. Nếu như ông linh mục là sứ giả của đức chúa trời coi sóc phần hồn của các con chiên nơi nước chúa thì bác sĩ Chiêu lại là một đại diện duy nhất cho cái xã hội loài người còn lành lặn đã không hắt hủi kinh tởm ruồng bỏ họ mà còn xả thân không nề hà gì hàng ngày lau chùi tẩy rửa băng bó những vết húi lở loét tanh khắm trên thân thể họ rồi an ủi họ cho họ uống những viên thuốc xanh xanh đỏ đỏ làm dịu đi những cơn đau tấy nhức nhối trên thân thể họ mỗi mùa trăng sáng vằng vặc trên trời. Lòng sùng mộ bác sĩ Chiểu không chỉ dậy lên ở cái xã hội mấy ngàn người cùi ở vùng rừng núi Buôn Nát mà còn lan tỏa tới những bản làng các bộ tộc người Brâu người Bru người Chứt người Cơho người Cờlao người Coống người Giara chor người Bano Roth, Bana Tơ lô và hàng chục các bộ tộc người Thượng khác sống rải rác trong khắp vùng rừng núi Tây Nguyên đại ngàn quanh vùng Buôn Nát. Có thể nói không ngoa là nếu bác sĩ Chiểu có tham vọng làm vua thì anh chỉ cần gắng lên dăm năm nữa là sẽ được một bộ tộc nào đó suy tôn làm vua na ná như trường hợp một anh thầy giáo Tây thuộc địa mũi lõ cách đây hơn trăm năm đã mò lên xứ Thượng rồi trở thành vua Lửa của một bộ tộc Xơ đăng hay bộ tộc Bđu nào đó. Không hiểu vì sao bác sĩ Chiểu luôn đặc biệt được các lão ông già làng thương mến chiều chuộng. Cũng có thể vì các già làng là những người từng trải việc đời hơn cả nên trong sự sùng kính một ông bác sĩ người Kinh dám sống hết mình cho các bộ tộc người Thượng ở rừng sâu các bô lão già làng còn thông cảm chia sẻ thân phận một gã trai khỏe mạnh đẹp đẽ hơ hớ mà lại phải sống độc thân cô quạnh không gia đình vợ con giữa rừng xanh núi đỏ. Chả thế mà có người nói rằng việc hàng năm vào mùa xuân mùa của muôn loài thú rừng động đực mùa của cây cỏ nảy nở sinh sản các già làng vẫn ra lệnh cho các cô gái đêm đêm xuyên rừng tới trại cùi An Nan dắt tay bác sĩ Chiểu đi chơi rồi chui vào các ổ lá cây dương xỉ để chăm nom đời sống tình dục cho bác sĩ Chiểu. Tất nhiên đó chỉ là lời đồn đại vu vơ nhưng cũng có một lần một cô gái Bana Konkơ- đến sau một đêm mây mưa thỏa sức với bác sĩ Chiểu trong cái ổ dương xỉ ngay sau ngôi nhà khám bệnh giống cái vọng gác đã ôm chầm lấy bác sĩ Chiểu rên rỉ kêu lên: Giàng ơi! tao thích ngủ với mày lắm nhưng tối ngày mai già làng lại cho con Hơ Nhú tới dắt mày vào rừng chơi trăng rồi. Giàng ơi là giàng ơi! Tất nhiên đây cũng là chỉ câu chuyện được kể từ mồm một người khác chứ không phải từ mồm bác sĩ Chiểu nên cũng chẳng hiểu hư thực như thế nào. Cả ngàn con bệnh cùi và thân nhân cha mẹ vợ chồng con cái họ ở trại cùi An Nam đều yêu quí bác sĩ Chiểu và đều vui lòng cho phép anh tham dự vào đời sống tinh thần sâu kín bí ẩn riêng biệt của bộ tộc họ như là tham dự tục gọi hồn tục ăn cơm mới tục cúng giàng tục gã trống đồng tục cúng thần lửa tục cúng máng nước luật tục nuôi dạy con và các lễ hội như lễ hội đâm trâu lễ hội cả răng căng tai lễ hội ok om bok lễ hội Mbăng-katê v. v... và rất nhiều tập tục lễ hội khác. Và cái lễ bỏ mả mà bác sĩ Chiểu mời ông bác sĩ Cần và cô Kim Thoa đi dự chính là một cái lễ bỏ mả của một bản nhỏ 8 gia đình tộc người Giarai Mthur bị bệnh cùi hiện đang sinh sống ở thung lũng An Nan.
*
Lại nói về bác sĩ Chiểu sau, khi đứng thăng người lên cao hứng đọc ông ổng lời cúng bằng tiếng Ba Na Konkơđch rồi lại hú lên như một gã người Thượng. Bác sĩ Chiểu vui vẻ nói với ông bác sĩ già đang nhăn nhó ôm cái bụng sôi òng ọc:
- Ðám ma ở dưới xuôi ta thì thổi kèn tí te tò te khóc lóc thảm thiết đau đớn lắm. Nhưng đám ma ở trên này thì lại vui như hội. Tha hồ nhảy múa ăn uống vui chơi thỏa sức.
Cô Kim Thoa hỏi có vẻ như hờn mát:
- Tý nữa đến lễ bỏ mả cúng em có phải làm những thu tục gì hả anh.
Bác sĩ Chiêu âu yếm vuốt tóc cô gái:
- Thoải mái tự do. Có thể đeo mặt nạ nhẩy múa hò hét cho đến khi mệt lử. Có thể uống rượu say bí tỉ rồi lăn ra cạnh đống lửa ngủ cho đến sáng. Có thể lần ra sau những mô đất búi cỏ nào đó tất nhiên là cũng phâi hơi khuất một tí tha hô ôm ấp hôn hít hoặc làm tình với người mình thích. Tóm lại em muốn làm gì thì làm.
Cô Kim Thoa cười rúc rích bấu vào vai bác sĩ Cần. Cô giả nai vờ hỏi như vậy chứ thật ra mới cách đây vài tiếng ở trong cái ổ dương xỉ bác sĩ Chiêu đã kẻ cho cô nghe rất tỉ mỉ về cái lễ bỏ mả đêm nay mà cô sắp đến dự là lễ bỏ mả cho một ông người Gia rai Mthur gốc Kinh tên là Phan Văn Cồn lấy một cô gái rất trẻ kém ông tới 40 tuổi tên là Hờ Nú là con gái một trong 8 gia đình người bệnh cùi thuộc tộc người Giarai Mthur lập bản ở trong cái thung lũng An Nan này. Không biết đùa hay thật mà bác sĩ Chiểu lại vỗ vào vai bác sĩ Cần rồi nói:
- Ông bác chịu khó nhịn đói lúc nữa tha hồ ăn nhậu. Nhiều món ăn lạ miệng lắm. Sáng mai nếu ông bác còn chưa xỉn thì tôi sẽ báo bà góa Hờ Nú dẫn ông bác vào rừng chơi. Thoâi mái mà. Bà góa Hờ Nú đã làm lễ tắm lễ chải đầu nên được giải phóng rồi không còn phải ràng buộc gì nữa với ông Phạm Văn Cồn nữa. Tục lệ của người Giarai Mthur như thế mà.
Nghe anh bác sĩ Chiểu ân cần nói như vậy cô Kim Thoa cười như nắc nẻ. Còn bác sĩ Cần thì tất nhiên lại chỉ biết gật đầu im lặng bèn lẽn. Khi bác sĩ Chiểu dẫn hai vị khách quí ra khỏi ngôi nhà nhỏ thì trăng cũng đang lên. Mặt trăng trong vành vạnh chênh chếch ở cửa rừng. ánh trăng nhờn nhợt ướt loang loáng trên những bụi moóc chó um tùm đen xì. Thỉnh thoảng lại nghe có tiếng cồng rung lên nặng nề lần trong tiếng gió ngùn ào ào như lũ đang đổ về. Bác sĩ Chiểu đi trước một tay xách cái bao bố tải lồng phồng không biết nhét những thứ gì bên trong mà cứ đi vài bước lại thấy cái bao vặn vẹo kêu lạch xạch như tiếng va chạm của nồi niêu bát đĩa. Một tay kia anh bác sĩ dắt tay cô Kim Thoa líu ríu đi bên cạnh vừa đi vừa nhẩy vừa giả nai kêu nũng nịu: "úi gời ơi có con gì nó nấp trong bụi cây kia hả anh. Em sợ lắm". Bác sĩ Cần tập tễnh đi sau. Cứ ba bước thì vấp một cái. Bụng ông bác sĩ già liên tục réo lên ông ọc đòi ăn. Ông đói lắm. Ðói đến hoa cả mắt bủn rủn chân tay. Ðêm qua sĩ diện nên nhịn đói đi ngủ. Sáng nay cũng nhịn. Buổi trưa được gói mì hai tôm rồi lại ôm bụng lên giường đi ngủ nhịn đến bây giờ. Bác sĩ Chiểu vừa bảo cố nhịn để dành bụng tí nữa ra nhà mồ tha hồ ăn uống thỏa sức. Bác sĩ Chiểu bảo vậy thì bác sĩ Cần cũng biết vậy. Ðời ông đã đi ăn biết bao nhiêu bữa cỗ nhưng chưa bao giờ ông được mời đi ăn cỗ với ma ở nghĩa địa. Kể ra thì bác sĩ Cần cũng đã có nghe loáng thoáng về những cái lễ bỏ mả của đồng bà o Thượng ở trên này rồi. Nhưng nghe loáng thoáng thôi chứ thực sự ông đã biết nó nếp tẻ như thế nào. Ðường rừng vòng vèo lổn nhổn đất đá chẳng chịt dây nhợ cứ như rúc vào thiên la địa võng ấy vậy mà bác sĩ Chiểu cứ đi thoăn thoắt. Nhiều lúc anh bác sĩ còn lôi cô Kim Thoa chạy tế lên như ngựa hoang khiến ông bác sĩ già hoảng hốt cũng phải vắt chân lên cô đuổi theo kịch liệt chứ không thì đã bị quăng lại lạc giữa rừng rồi. Loanh quanh một lúc thì ba người xồ xuống một con suối cạn lổn nhổn toàn đá đầu sư. ánh trăng vằng vặc trong lòng suối trống trải. Lúc này đã nghe tiếng cồng rung lên nặng nề ở ngay đâu đó rất gần. Lại nghe có tiếng chiêng u u lẫn tiếng người cười nói léo nhéo tiếng hú và hình như có cá tiếng lửa nồ lép bép. Bác sĩ Chiểu móc ra mấy miếng da lẽo nhẽo có buộc dây rồi bảo: "Mời hai vị đeo vào". Cô Thoa lại cười rúc rích nũng nịu hỏi:
"Cái gì đấy hâ anh".
Bác sĩ Chiểu cười.
"Mặt nạ đấy". Hơi nặng mùi một tý nhưng chịu khó đeo vào. Phong tục của người ta như thế".
Bác sĩ Cần đeo cái mặt nạ da lên mặt. Quả là cái mặt nạ nặng mùi thật. Nó hơi thối lại vừa hơi khắm. Ðúng là thứ mùi da thuộc không kỹ. Ba người đeo ba cái mặt nạ rồi trèo lên bờ suối. Ðúng lúc này có hai người cầm đuốc xồng xộc xông ra từ một bụi moóc chó cao lút đầu. Một người cởi trần đóng khố. Người kia chẳng phải ai khác mà lại chính là cha Tạc. Ðêm nay cha Tạc mặc quần áo cố đạo đen xì, vạt áo dài tha thướt. Tay cha dơ cao ngọn đuốc cháy rần rật. Cha kêu lên:
- Ðây rồi. Ðón được họ đây rồi.
Bác sĩ Cần lễ phép cúi đầu lí nhí chào ông cha đạo trong khi đó thì cô Kim Thoa cứ nhầy cẫng lên ríu rít như trẻ được quà:
- Chào cha. Cả ngày hôm nay cha đi đâu mà chúng con tìm mãi.
Bác sĩ Chiểu cười cười quay sang nói tiếng dân tộc líu lô với người vấn khố cầm đuốc đứng sau cha Tạc. Hai ngọn đuốc cháy rất to trong gió tung tàn lửa bay tán loạn. Mặt cha Tạc lúc này cũng bừng bừng như ngọn lửa. Nom cha trẻ trung hăm hở chứ chẳng còn vẻ gì đạo mạo trang nghiêm và bí ẩn nữa. Cha chào bác sĩ Cần rồi nắm lấy tay cô Kim Thoa tự nhiên như nắm lấy tay một con chiên ngoan đạo. Cha nói: Mời các vị tới dự lễ kẻo bà góa Hờ Nú đang mong các vị mỏi mắt rồi. Người ta ăn xôi uống rượu nhảy múa suốt hai ngày nay rồi. Nói xong cha Tạc giơ cao ngọn đuốc phăm phăm đi đầu tiên. Cô Kim Thoa bám sát ngay sau lưng cha rồi đến bác sĩ Chiểu và tiếp sau là bác sĩ Cần vừa đi vừa chạy tập tễnh. Còn người dân tộc cởi trần thì đi sau cùng tay cũng giơ cao ngọn đuốc. Ðoàn người nối nhau đi vòng vèo như đang chơi trò rồng rắn lên mây. Ðã nhìn thấy ánh lửa thấp thoáng sau những tàn lá cây ở ngay trước mặt. Cô Kim Thoa mấy lần ngoái lại líu ríu nói điều gì đó với bác sĩ Chiểu và bác sĩ Cần nhưng không nghe rõ cô nói gì vì giờ đây cây cỏ rừng đêm đang như bị nhấn chìm trong những hồi cồng chiêng trầm lắng nặng nề âm âm u u nghe choáng óc ù đặc tai. Lễ bỏ mả của 8 gia đình tộc người Giarai Mthur tổ chức trên một bãi đất rừng bằng phẳng. Một ngôi nhà mả mái dốc dựng đứng được cất lên chính giữa bãi đất rộng. Chung quanh có hàng rào gỗ ngay ngắn và có trồng mấy cây nêu cao ngất ngưởng kết trên đỉnh cột những hình thù lạ mắt màu sắc sặc sỡ mà vì đêm tối vì ánh lửa nhoang nhoáng vì ánh trăng đục lờ đờ như khói nên bác sĩ Cần và cô Kim Thoa chỉ thấy nó sáng loang loáng chứ chẳng nhận được màu sắc gì. Và bác sĩ Cần cũng như cô Kim Thoa cũng đâu có biết được ngôi nhà mồ này đều được dựng bằng gỗ cây Cơ Nia gỗ cây Gòn to là những loại gỗ rất khó tìm trong rừng đại ngàn Buôn Nát. Khi cha Tạc dẫn đoàn người rồng rắn chui qua bụi cây chó đẻ hôi xì, xộc ra bãi đất thì cái người dân tộc cới trần đóng khố cầm đuốc đi sau cũng bỗng hú lên một tiếng rồi cắm đầu chạy tọt ngay vào nhập bọn với một tốp người Gia rai Mthur mặc váy thổ cẩm cởi trần phơi vú thỗn thệ hoặc đóng khố đang mê mải nối đuôi nhau kết thành vòng tròn nhẩy múa quanh một đống lửa to tướng cháy phửng phửng đang tung lên muôn vàn tàn hoa lửa ngời ngời trên bãi đất rộng tràn ngập ánh trăng ánh lửa và như đang rung lên vì những hồi cồng hồi chiêng dữ dội. Cái ánh lửa đó ánh trăng đó rồi thì ngôi nhà mồ những cây nêu ngất ngưởng ngả nghiêng trong tiếng lửa réo phừng phừng và tiếng cồng chiêng inh tai nhức óc với những bóng người nhấp nhô la hú quây tròn nhẩy múa đã tạo nên một quang cảnh kỳ dị vừa lạ mắt lại vừa huyền bí ma quái khiến bác sĩ Cần và cô Kim Thoa vừa nhìn thấy đã vội chùn ngay lại. Không có ai chạy ra đón. Cũng không có ai ngoái lại nhìn. Cũng không có ai vẫy hoặc hú gọi. Bác sĩ Chiểu dúi cái bao tải vào tay cha Tạc rồi ghé tai cha Tạc nói điều gì đó thế là cha Tạc bèn khoác ngay vai ông bác sĩ già rồi cha gào lên:
"Mời ông bác sĩ đi theo tôi uống rượu ăn thịt!".
Nói rồi cha Tạc xềnh xệch lôi bác sĩ Cần đi thảng về phía ngôi nhà mồ ở chính giữa bãi đất là nơi có hơn chục cái bóng người đang ngồi nằm ngả nghiêng say sưa. Ông bác sĩ già cứ phó mặc số phận mình cho ông cha cố trẻ tuổi. Chân ông đạp bừa trên đất rừng nóng hầm hập thmh thoáng lại dẫm phải một cái gốc cây cụt đau nhói. Trong lúc đó thì bác sĩ Chiểu cầm cả hai tay cô Kim Thoa lôi thốc cô chạy tọt ngay vào nhập bọn với tốp người đang quay cuồng nhảy múa quanh đống lửa. Bác sĩ Chiểu hét lên: Nhẩy múa nhé. tiếng cồng chiêng gầm lên như tiếng sấm đổ khiến cô Thoa chẳng nghe thấy anh bác sĩ nói gì cả. Nhưng nhìn mồm anh mấp máy cô Kim Thoa lại hiểu ngay anh nói gì thế là cô cũng hét lên: Nhưng mà em không biết nhẩy múa. Mồm bác sĩ Chiểu lại mấp máy: "Ai cũng biết nhảy múa. Hãy ôm lấy anh dậm chân đập tay như tất cả mọi người". Cô Kim Thoa rú lên cười vì hai bàn tay anh bác sĩ đang lập bập bóp hai vú cô mà cô cũng rú lên cười vì tự dưng cô muốn rú lên cười cứ y như là con ngựa cái đang lắc đầu đập vó giẫy giụa đôi mông đòi động đực. Mùi khói mùi lửa mùi đất mùi lá rừng bị vò nát và mùi mồ hôi tháo ra ở cô ở nách ở bụng ở rốn ở háng ở bẹn của những người đang quay cuồng quanh đống lửa đang hú lên gào lên si cuồng khiến cô Kim Thoa sặc sụa ngột thở ngay lập tức khi cô vừa dấn mình thả mình cuốn theo cái nhịp múa đầu tiên rậm rịch. Tiếng cồng như búa tạ nện xuống đỉnh đầu cô gái. Tiếng chiêng như sợi dây chão xiết chặt cổ họng cô kéo căng chân tay cô. Lửa nóng hầm hập táp vào mặt vào cổ vào vú vào đùi và xát mạnh lên đôi mông to tướng căng mẩy của cô gái. Ngọn lửa như có ma lực cuốn thốc cô gái xô đẩy cô quyến rũ cô dền dứ cô quay cuồng hòa nhập cùng với đoàn người đang xuất thần hồn xiêu phách lạc trình diễn điệu múa nguyên thủy của núi rừng không thể cắt nghĩa nôi. Mắt cô gái hoa lên bơi những nào vú nào mông nào gáy và những làn tóc xõa xược. Người cô muốn vỡ tung ra bởi những bàn chân dữ tợn đập mạnh xuống đất làm phụt lên những trận mưa tàn lửa bay toán loạn. Tai cô ong ong như có ngàn con ong đang bay vào trong giẫy giụa quay cuồng. Cô chẳng còn nhìn rõ mặt ai chẳng còn nghe thấy gì chẳng còn ngửi thấy mùi gì. Cô có cảm giác là hồn cô đang bay vọt lên thoát khỏi xác cô xòe đôi cánh trắng lốp quay cuồng trên ngọn lửa. Cứ tuần tự năm lần dẫm chân năm lần đập tay năm lần lắc mông là lại có một bàn tay đàn ông thô cứng nào đó bất chợt phát nhẹ vào chỗ kín cô gái khiến cô chỉ muốn nhẩy thách lên rú lên cười sằng sặc rồi lao luôn người vào đống lửa đang cháy rần rật... cứ như vậy chẳng còn biết đến thời gian chỉ còn như mê như điên như say như tĩnh quay cuồng hỗn độn cho đến khi có một ai đó bế thốc cô gái lên - dốc đầu xuống mặc hai chân cô chổng ngược lên trời đạp loạn xạ. Loáng một cái cô gái thấy mình bị dằn xuống sau một mô đất ướt nhoét. Một thân hình đàn ông trần truồng nhễ nhại mồ hôi nóng hầm hập đổ sập lên người cô. Mắt gã lóe sáng như mắt chó sói bị đèn pha rọi vào. Miệng gã bập vào miệng cô gái. Gã dằn mạnh khiến cô đau nhói rồi cả người cô bỗng mềm oặt ra như lá khoai héo. Trong cơn đau đê mê cô gái nghe loáng thoáng tiếng gã đàn ông thì thào: Nằm im. Anh Chiêu đây mà... Trong khi cô Kim Thoa và bác sĩ Chiêu đang quay cuồng trong điệu soang grong bơxat rồi lôi nhau ra sau mô đất ướt nhoét thì bác sĩ Cần và cha Tạc đang gật gừ ngồi đánh chén ngay sát cạnh cái mả mới đắp to lù lù ở giữa ngôi nhà mồ la liệt rượu và thịt. Chung quanh cha Tạc và bác sĩ Cần có khoảng hơn hai chục người Giarai Mthur đàn bà mặc váy thồ cẩm cởi trần hai vú thỗn thệ đàn ông đóng khố chân tay gầy đen như que củi cũng đang ngồi gật gù uống rượu ăn thịt. Có người còn nằm quay ra đất ngáy khò khò. Khắc hẳn cái không khí cuồng si mê sảng của bầy người đeo mặt nạ đang hò hét nhẩy múa quay tròn quanh đống lửa ở ngoài kia. Trong nhà mồ lại rất yên lặng không ai cười to nói to. Có chuyện gì muốn nói thì họ ghé vào tai nhau thì thào còn thì mọi người chỉ mải uống mải nhai mải nuốt và dỏng tai lắng nghe bà góa đang ngồi xếp bằng tròn sát cạnh cái mả kể lể điều gì đó với người chồng vừa chết. Ban nãy lúc dắt bác sĩ Cần chui vào trong nhà mồ cha Tạc đã đặt cái bao tải lồng phồng xuống cạnh cái mả rồi quay lại kéo bác sĩ Cần ngồi xuống sát ngay sau lưng bà góa đang xõa tóc lầm bầm kể lể. Thấy bác sĩ Cần luống cuống líu lưỡi ngoái trước ngoái sau chắp tay chào hết người này đến người khác cha Tạc cười nói:
- Uống rượu ăn thịt đi. Không phải chào hôi như dưới xuôi đâu. Phong tục của người Giarai Mthur là như thế mà. Cứ tự nhiên như người trong nhà thôi.
Quả nhiên đúng như lời cha Tạc nói mặc dù biết thừa cha Tạc và bác sĩ Cần là hai ông khách lạ người Kinh nhưng đám đàn ông đàn bà đang nằm ngồi vật vạ uống rượu chung quanh chẳng ai chào hỏi đê ý gì đến hai vị khách lạ này gì cả. Không những thế họ còn ngồi xích lại nhường chỗ cho bác sĩ Cần. Một người đàn ông còn đẩy tới trước mặt bác sĩ Cần một cái máng gỗ lổn nhổn đầy thịt bập bẹ tiếng Kinh thân mật như đã quen từ lâu rồi:
- Ăn với ta đi. Nhăm đinh ngon nhiều nhiều mà...
Cha Tạc gật gù với người đàn ông rồi quay lại giới thiệu với bác sĩ Cần.
- Nhăm đinh là món ăn rất ngon của người Giarai Mthur gồm có thịt trộn với gan với ruột già với ruột non. Khách quí mới được mời đấy. Mời ông bác dùng.
Nói rồi cha Tạc dón ba ngón tay nhón một miếng Nhăm Ðinh đỏ lòm bỏ vào mồm. Bác sĩ Cần cũng thò ba ngón tay vào cái máng dón một nhúm cái món ăn rất ngon đó bỏ tọt ngay vào mồm. Nhưng ông bác sĩ già bỗng lạnh người khi nhận ra là ông đang nhai một nhúm thịt sống lèo phèo lạnh ngắt. Cha Tạc thản nhiên ghé vào tai ông bác sĩ già.
- Nhổ ra bây giờ là rầy rà lắm đấy ông bác ạ. Cố mà ăn uống mấy miếng cho gia chủ hài lòng.
Bác sĩ Cần rên rỉ như bị bóp cổ:
- Thịt sống à?
Cha Tạc lạnh lùng gật đầu.
- Thịt sống gan sống ruột già ruột non chưa luộc. Tất cả băm nhỏ trộn lẫn môt chút muối ớt cố mà nuốt...
Bác sĩ Cần nghẹn ngào:
- Thưa cha, tôi có tiên sử viêm đại tràng mãn... Tôi không thể ăn được các món gỏi.
Cha Tạc điềm nhiên:
- Hôm nay là ngày narpchah của lễ bỏ mả chỉ ăn toàn các món chế biến từ thịt không cần nấu nướng. Nào là món nhăm tăh gồm thịt băm trộn với tiết và phèo. Món nhăm pơra thịt phèo băm lẫn gói vào trong lá. Món nhăm Pa thịt mỡ trộn tiết phèo thêm chút muối ớt... Toàn món sống món gỏi thôi. Ông bác cố xơi một món. Ông thích món nào tôi bảo đồng bào họ dọn riêng cho món đó.
Bác sĩ Cần ứa nước mắt:
- Tôi đang đói lắm nhưng trình cha quả thật là tôi không thể ăn được thịt sống. Tôi ăn vào bị đi té re ngay tức thì. Cha Tạc vẫn điềm nhiên ông bác cứ uống nhiều rượu vào là hết đi tháo tỏng.
Bác sĩ Cần run rẩy
- Vâng... Xin cha cho uống rượu. Uống thật nhiều rượu trước đã. Xin cha cho uống rượu.
Bác sĩ Cần run run đỡ qua bầu rượu nơi tay cha Tạc. Ông ngửa cổ tu một hơi. Rượu cháy họng. Rượu vào trong người tới đâu là biết tới đó. Có rượu chảy vào người làm ông bác sĩ già vững lòng hắn lên. Ðôi mắt cha Tạc vẫn đăm đăm nhìn ông bác sĩ già như muốn bảo: "Uống đi rồi cố ăn lấy vài miếng món nhăm Ðinh nhăm tăh cho gia chủ họ vừa lòng". Bác sĩ Cần ngửa cổ làm một hơi nữa rồi ông nín thở nhét một nhúm nhăm pa gì đó vào mồm và nhai nuốt như vô hồn rồi ông lại tu nốt một hớp rượu rồi ông lại nhón một nhúm nhăm tăh gì đó đỏ lòm bỏ vào mồm. Rồi ông nhai nhai nuốt nuốt... nhưng mà lạ thay miếng nhăm tăh đó bỗng nhiên bùi bùi cay cay và ngọt đến lạ lùng. Cha Tạc gần như rú lên vỗ vai bác sĩ Cần:
- Ngon rồi hả. Ăn được rồi há. Ông bác tuyệt qúa. Nào ăn đi uống đi thoải mái đi. Măng-dê bố cu xin mời ông bác.
Bác sĩ Cần đã thấy bắt đầu say rồi. Ông uống ông nhai ông nuốt hùng hục hăm hở như con hổ đang xơi bữa tiệc nửa đêm chí tử của nó. Ông nhìn những bộ vú thỗn thệ. Ông nhìn những ống chân bóng nhẫy như ống đồng. Ông nhìn những cái mặt người lạ hiền từ đang đỏ lự lên vì rượu thịt. Có những cái mặt lành lặn lại có những cái mặt nối cộm sần sùi vì con bệnh hủi đang hành hạ. Bác sĩ Cần ngả nghiêng. Cha Tạc ngồi bên cạnh cũng ngả nghiêng. Suốt từ nãy đến giờ chưa lúc nào bà góa quay mặt lại. Quá bầu rượu trong tay bác sĩ Cần đã nhẹ bỗng. Có ai đấy ghé lại gần vỗ vai bác sĩ Cần rồi dúi vào tay ông một bầu rượu khác. Và thế là bác sĩ Cần lại uống. Ông uống mềm môi. Rượu chẩy vào người ông như nước lã được rót vào một cái ống. Rồi ông ngồi xổm lên chống hai tay xuống đát dông tai nghe bà góa đang rì rầm đọc bài cúng tiễn biệt người chết nằm trong mả. Mặc dù tiếng cồng tiếng chiêng tiếng la hú của bầy người đeo mặt nạ đang nhẩy múa quanh đống lửa bên ngoài dội vào trong nhà mồ ầm ĩ nhưng bác sĩ Cần vẫn nghe rất rõ từng lời cúng líu lô như tiếng chim của bà góa mà ông không sao hiểu nôi: Hoă ]ui kui konf phong dêu bok de pô chông fioonf đê chôk boh tlơi đê pô poai mơi hdip hoă asơi đô dai hoă asơi yang ih long phuya lă phuya mrahi h ve... Thấy bác sĩ Cần cứ há hốc mồm trố mắt ra cha Tạc bèn vít cổ ông xuống cười hùng hục:
- Không hiểu có phải không. Ðể tôi dịch cho ông bác nghe nhé. Lời cúng đấy. Hay lắm. Khác dưới vùng xuôi lắm. Bà góa đang khấn là lễ bỏ mả đã đến ngay sau lưng rồi. Từ nay người sống ăn cơm trắng người chết ăn cơm đỏ ăn hoa tím ăn hoa đo của các thần rồi... Lạy chúa! ông bác nghe có thấy lạ lùng không có thấy hay không. Hay quá đi chứ. Ðể tôi đọc thuộc lòng bài cúng cho ông nghe nhé. Nào... " Và chẳng cần bác sĩ Cần có muốn nghe hay không cha Tạc lại vít cổ ông bác sĩ già xuống. Cha Tạc cũng say rồi. Mắt cha long lanh. Giọng cha sang sảng như đang giáng kinh ở thánh đường: - Thôi từ nay thế là hết thật rồi. Hết thật rồi. Từ nay thế là hết như lá mơ nang đã lìa cành như lá mơ teo đã tàn úa. Từ nay không còn đào lỗ không còn làm nhà chòi không còn than khóc nữa. Sẽ không đem thịt đem rau đem xôi đến mả nữa. Sẽ không còn để tang không còn kiêng cữ nữa. Ché rượu cúng Ngok Bu đã đổ xuống mả rồi. Cây chuối cây khoai đã được trồng lên mả rồi. Con gà con chim Tlang Hê A đã được thả bay đi rồi. Thế là hết rồi nhé. Từ nay ma đừng quấy rầy ta nữa. Thế là hết rồi. Ta đã đi tắm đi gội đầu rồi. Ta đã thay váy áo mới rồi. Từ nay ta không còn dính líu gì với nhà mả nữa. Nụ cười đã nở trên môi ta đẹp như đóa hoa kơnia. Ta lại được quyền nhảy múa ăn uống vui chơi với mọi người trong bah. Nước sông đã rửa sạch ngày tang trên vú trên mông trên đầu ta rồi. Ta lại có quyền đi cưới một người chồng mới cho ta rồi... Giàng ơi...
Bác sĩ Cần ngã đập mặt xuống đất. Mồm ông vục vào một máng gỗ lổn nhổn món tiết phèo nào đó lạnh ngắt. Ðầu óc ông bác sĩ già lơ mơ. Và cũng giống hệt như cô Kim Thoa lúc đang quay cuồng quanh đống lửa đột nhiên ông bác sĩ già cũng nhìn thấy hồn ông bay vọt lên thoát khỏi cái xác già nua rách rưới bẩn thỉu của ông xòe rộng đôi cánh trắng lượn vòng tròn trong ngôi nhà mồ nồng nặc mùi rượu mạnh mùi những tảng thịt trâu tươi roi rói mùi những chậu tiết chậu phèo tanh nồng. Bác sĩ Cần nhìn thấy rất rõ cha Tạc lúc này cũng đang quì gối giơ hai tay lên trời lảm nhảm như một người loạn trí sau lưng bà góa xõa tóc. Rồi bỗng nhiên bà góa quay phắt lại nhe răng ra cười. Mặt bà nhăn nhúm hai hàm răng bị cả sát đến lợi đỏ lòm nom như răng ma. Bác sĩ Cần sợ quá thét lên một tiếng rồi vật ra ngất xỉu không hay biết gì nữa. Thật ra thì bác sĩ Cần đã nằm sóng soài đầu gối lên cái mả ngáy o o từ rất lâu rồi. Ông đã say thực sự rồi. Một người đàn bà vú thộn thện cẩn thận đỡ đầu ông bác sĩ già lên rồi luồn xuống sau gáy ông một khúc gỗ. Bà góa xõa tóc cũng quay lại chậm rãi đặt lên mặt ông một mảnh lá chuốì để cho không cho những con bọ đêm đang bay loạn xạ trong nhà mồ đậu xuống mặt mũi ông. Bà góa không phải là một bà già mà là một cô gái Giarai Mthur còn rất trẻ. Da mặt cô căng như da trống. Hai mắt cô sáng hơn cả ánh lửa. Hai hàm răng của cô đều tăm tắp trắng lóa như ngọc chưa hề bị cả lần nào. Tên cô là Hờ Nú. Và cô cũng là vợ của ông già người Kinh tên là Phạm Văn Cồn đang nằm trong cái mả lù lù giữa ngôi nhà mồ này. Chính nhờ có mảnh lá chuối đậỵ trên mặt mà ông bác sĩ Cần đã ngủ một giấc rất ngon lành không còn hay biết gì cha Tạc vẫn cứ quì xụp xuống đất giơ hai tay lên trời lảm nhảm điều gì đó. Có thể là cha đang đọc kinh xám hối cho chính cha đã bồng bột tự cho phép mình quên đi một chút thoải mái uống rượu ăn thit sống như một gã Giarai Mthur h hởi thật thà ngây dại. Và bác sĩ Cần cũng chẳng còn biết sau khi chậm rãi đắp mảnh lá chuối lên mặt ông bác sĩ già thì cô góa Hờ Nú bỗng mỉm cười rồi kêu lên hồn nhiên: Giàng ơi! Sao cái mặt của ông già người Kinh đây lại giống hệt cái mặt ông chồng của ta như thế này. Ngày mai ta sẽ bảo mẹ ta giết một con trâu để cưới chồng mới cho ta thôi. Giàng ơi. Lại nói bác sĩ Cần đã gối đầu lên khúc gỗ giấu mặt dưới mảnh lá chuối ngủ một giấc rất say cho tới tờ mờ sáng ông mới từ từ thức dậy. Lúc này nhà mồ đã vắng tanh vắng ngắt. Trên nền nhà còn vất lại ngổn ngang hàng chục cái máng gỗ đựng thức ăn đã bị vét sạch như chùi. Ðống lửa ở ngoài $ân cũng đã tắt ngấm biến đi đâu hết cả rồi. Bác sĩ Cần lồm cồm bò dậy chui ra khỏi ngôi nhàm mái nhọn được cất bằng gỗ gòn gỗ cây Kơnia rất khó tìm ở trong rừng Buôn Nát mà ông bác sĩ không hề biết. Ðống lửa ngoài nghĩa địa cũng đã tắt ngấm chỉ còn thấy vài sợi khói xanh lè bay lên leo lét. Bác sĩ Cần gọi to cha Tạc gọi to bác sĩ Chiểu và cô Kim Thoa nhưng gọi mấy lần mà chẳng thấy ai trả lời và cũng chẳng thấy bóng dáng họ ở đâu. Trăng lúc này đã lặn nhưng mặt trời vẫn chưa lên. Rừng núi chìm trong ánh sáng đục lờn lợt lùng bùng vừa đặc lại vừa lỏng. Thứ ánh sáng gần như chỉ thấy trong những giấc mơ. Không khí chung quanh im lặng đến rợn người. Ðứng đờ ra một lúc bác sĩ Cần thở dài lại chui vào ngôi nhà mồ mái nhọn. Và ông nhìn thấy có một người đội mũ xùm xụp gù lưng đang ngồi trên cái sừng trâu vất cạnh đầu mả. Người đó ngẩng lên cái mũ rơi xuống đất. Bác sĩ Cần nhận ngay ra đó là người đàn ông có hai con mắt hình tam giác lúc nào cũng đầy vẻ lo sợ tuyệt vọng mà ông đã nhìn thấy trong giấc ngủ lúc chiều. Thấy bác sĩ Cần có vẻ e ngại người đàn ông mắt tam giác vồn vã chìa cả hại tay về phía ông bác sĩ già:
- Ban chiều tôi về thăm nhà định lấy mấy thứ ồ dùng vặt thấy ông bác nằm ngủ ngáy o o như kéo bễ trên chõng. Tôi đã định vào ngồi nói chuyện mấy lần mà không thể nào bước nổi qua bậc cửa. Cô vợ trẻ Hờ Nú của tôi nói chẳng sai. Ðúng là chưa qua ngày nuôi mả rong bỏ xác thì tôi chưa đến gần được với ai.
Rồi ông ta cười, miệng méo xệch đi nom rất tội nghiệp:
- Tôi hóa thành ma người Giarai Mthur rồi. Mấy ngày hôm nay hồn tôi còn quanh quẩn ở nhà mả ở cái trại cùi An Nan này. Nhưng hết ngày lễ bỏ mả thì hồn ma của tôi phải đi xuống sống ở thế giới ma khu lân ở dưới lòng đất rất sâu do hai chị em bà Jung bà Jai cai quản. Rồi đây tới một ngày nào đó năm nào đó tôi không biết. Hồn ma của tôi sẽ biến thành con nhện Vak vai. Bà Jung bà Jai sẽ thả con nhện Vak vai lên măt đất cho nó bò đi lang thang trong rừng. Rồi khi con nhện chết sẽ biến thành giọt sương ia ngom tan vào hòn đất. Bà Jung bà Jai sẽ nhặt hòn đất đó nặn thành thằng người rồi cho nhảy vào một người đàn bà Giarai Mthur đang có chửa. Và khi người đàn bà Giarai Mthur đó sinh con thì hồn tôi sẽ nhập vào đứa bé. Và từ đó trở đi tôi đã chính thức trở thành một người Giarai Mthur mang dòng máu người Giarai Mthur vĩnh viễn đời đời kiếp kiếp hòa nhập vào bộ tộc Giarai Mthur. Ông Cồn lại méo miệng cười. Từ trong đôi mắt tam giác đầy vẻ lo âu tuyệt vọng của ông bỗng rỏ ra mấy giọt nước mắt đùng đục trăng trắng như cặn nước đái của người mắc bệnh viên cầu thận:
- Ông bác đừng có trố mắt lên ngạc nhiên. Ông bác đừng có lùi lại như thế để đề phòng tôi Cồn tôi đây đâu có phải là thằng dở người thằng sát nhân. Tôi chỉ là một thằng khốn nạn cả đời bị lừa đảo thậm tệ. Ðời tôi nhục nhã cay đắng thua thiệt trăm bề. Ban chiều đứng ở bên ngoài cửa nhìn vào trong nhà thấy bác co ro rên rỉ vật vã trong giấc ngủ. Nhưng cũng có lẽ vì thế mà tự dưng tôi lại muốn trò chuyện cùng ông mặc dù bao năm nay tôi vốn là một kẻ sống lặng lẽ luôn thu mình lại chẳng muốn san sẻ tâm sự với ai. Cho đến hôm nay chưa hết ngày rửa nồi Săch go của lễ bỏ mả nên hồn ma tôi vẫn chưa được chui xuống thế giới ma của bà Jung và Jai. Hồn ma tôi vẫn còn vật vờ lang thang một mình trên mặt đất chẳng thuộc thế giới loài người cũng chẳng thuộc thế giới ma quỷ. Thưa ông cám ơn ông đã lến dự lễ bỏ mả cho tôi. Ðáng tiếc giờ đây tôi chỉ là một hồn ma nên không thể cạn cốc với ông. Cứ nhìn mấy quả bầu khô lăn lóc cạnh cái mả kia mà tôi thèm rượu quá. Khi còn sống tôi cũng là một con sâu rượu đấy. Tôi uống rượu không phải tìm cái sự khoái trá say sưa mà chỉ muốn quên đi nỗi sầu muộn cay đắng mà thôi. Chúa ơi tại sao tôi cứ nói mãi tới nỗi buồn nhỉ. Có khi tôi đang quấy rầy ông làm hỏng đêm uống rượu trong nhàm của ông. Nhưng xin ông tha lỗi bởi vì đời tôi chỉ toàn nỗi buồn. Mấy năm nay lên chữa bệnh ở trại cùi An Nan tôi lấy cô Hờ Nú làm vợ. Chính bác sĩ Chiểu đã làm mối gả cô Hờ Nú cho tôi cũng mong tôi tìm được một niềm vui để sống mà chữa bệnh. Nhưng ông ơi với ai thì không biết nhưng với tôi một thằng già tội đồ sáu mươi tuổi đã tàn tạ vì bị phản bội vì bị tù tội vì bệnh cùi thì mông vú môi lưỡi và cả những đám lông loăn xoãn phía dưới bụng của cô gái người Glarai Mthur mười sáu tuổi mà mỗi khi làm tình cô ấy vẫn có thói quen cứ thét lên na na na cũng chẳng làm nguôi đi nỗi buồn tuyệt vọng đã đổ bê tông đông cứng tâm hồn tôi rồi. Ông ơi! Cuộc đời tôi buồn quá. Buồn đến nỗi chết đi rồi mà không thể nhắm mắt được.
Người đàn ông mắt tam giác tự xưng là Cồn cứ chờn vờn rên rỉ miên man như vậy. Thỉnh thoảng ông ta lại hức lên như bị hóc xương cá rô. Bác sĩ Cần ngồi im lặng lắng nghe. Ðã hai lần ông lén cấu vào mặt vào mông đít của mình và cả hai lần ông chẳng có cảm giác gì cả và ông bác sĩ già bỗng hiểu ngay là ông nằm mơ. Và người đàn ông mắt tam giác kia có thể là một hồn ma nhưng cũng có thể chỉ là một ảo giác do giấc mơ của ông bày đặt ra. Tuy biết rất rõ là mình đang nằm mơ nhưng bác sĩ Cần không hề hét lên để tỉnh dậy. Dù sao đi nữa những lời than thở rên rỉ của ông Cồn lại làm cho bác sĩ Cần bỗng nhớ lại cái ngày nào ông bỏ trốn khỏi nhà xác của bệnh viện tỉnh rồi ghé xuống cái ga xép Thuận Thiên của bà trưởng ga Phạm Thị Nhàn tội nghiệp. Và mặc dù ông Cồn đây mới kể huyên thuyên lảm nhảm nhưng bác sĩ Cần đã linh cảm rằng cái người đàn ông mắt tam giác này cũng có một cuộc đời vô cùng oan trái đau khồ như bà trưởng ga Phạm Thi Nhàn. Bây giờ khi chết đi rồi thể xác tiêu dao cùng cây cỏ nhưng hồn vẫn còn gánh nặng chĩu nỗi đau đó không thể mang xuống thuyền đài ở dưới đất sâu do bà Jung và Jai cai quản. Và bỗng dưng ông bác sĩ già lại như nghe thấy lời bà trưởng ga văng vẳng khóc than "Ông ơi, nỗi đau này còn nặng nề hơn đá tảng. Lâu nay tôi chỉ cắn răng chịu một mình. Tôi vẫn tự nhủ thầm thôi thì cứ ráng chịu khi nào chết thì sẽ mang nó theo xuống mồ. Nhưng khi chết đi thì tôi bỗng hiểu rằng tôi đã lầm rồi. Tôi không thể nào mang nổi nỗi đau nỗi nhục này xuống dưới mồ vì ông ơi hồn người ta mỏng manh như khói như sương mà sương khói thì làm sao cõng được đá tảng ngàn cân hả ông. Khốn nạn cho cái kiếp làm người của tôi...".
Bác sĩ Cần cứ ngồi im lặng lắng nghe và miên man nghĩ ngợi trong giấc mơ của ông. Thật ra thì lúc này ông đang nằm thẳng cẳng trong nhà mồ đầu gối lên khúc gỗ và mặt được đậy một mảnh lá chuối bóng loáng. Ông bác sĩ già đang say mèm. Ông ngủ kịch liệt như một kẻ đã bị hút mất hồn. Thỉnh thoảng chân tay ông lại giật nhè nhẹ y như con chó già đang nằm mê. Ông không hề hay biết là cô góa Hờ Nú xõa tóc đã thôi không còn rầm bầm khấn ông chồng Phạm Văn Cồn người Kinh của cô nữa mà giờ đây cô cầm một cành lá Kơ Nia quạt nhè nhẹ ru cho ông ngủ. Bộ tộc Giarai Mthur là một bộ tộc ít người thuộc đại gia đình sắc tộc Giarai. Người Giarai Mthur sống rải rác trong cánh rừng đại ngàn Buôn Nát ngày xưa ngày xưa có rất nhiều cây gỗ Gòn và cây gỗ Kơ Nia. Người Giarai Mthur cùng thuộc ngữ hệ Malaiô - Pôlinêdi. Mthur có nghĩa là nghèo khó. Gialai Mthur có nghĩa là người Giarai nghèo khó. Giống như các nhóm người Giarai Chor Giarai Aráp người Giarai Mthur tin rằng khi chết đi thì hồn người chết M'ngắt dei sẽ biến thành ma àtầu. Và vì thế phải làm lễ bỏ mả thì hồn ma àtầu mới đi tới được thế giới ma ở dưới đất để rồi sau này hồn ma đó mới lại có dịp đầu thai trở lại kiếp người. Chính vì vậy tục làm lễ bỏ mả là một tập tục quan trọng bậc nhất của người Giarai Mthur. Tại trại cùi An Nan có một bản nhỏ Giarai Mthur. Và tất nhiên ở cái bản Giarai Mthur này vẫn duy trì mọi tục lệ lâu đời của bộ tộc họ trong đó có lễ bỏ mả. Ðúng ra thì người Giarai Mthur thường chọn những ngày trăng sáng nhất để làm lễ bỏ mả Hoa lui bơxát. Nhưng vì những ngày trăng sáng nhất lại là những ngày con bệnh cùi bị hành hạ đau đớn nhát nên những người Giarai Mthur ở trại cùi An Nan phải chọn những ngày trăng lu trăng khuyết để làm lễ bỏ mâ. Ðó cũng là lý do vì sao bác sĩ Cần và cô Kim Thoa lại được mời đi dự lễ bỏ mả không vào tuần trăng tròn của tháng. Cũng cần nói thêm là cái đêm bác sĩ Cần và cô Kim Thoa đi đến nhà mồ uống rượu nháy múa thì cũng là đêm rửa nồi Săchgo - Nghĩa là đêm cuối cùng của cái lễ bỏ mả 3 ngày đêm ăn nhậu nhảy múa vui chơi si cuồng của lễ bỏ mả. Cũng vì thế mà mờ sáng hôm sau ngày Săchgo huyền bí vui nhộn đó tổ chức tại nhà mồ của ông Phạm Văn Cốn tất cả mọi người trong 8 gia đình Giarai Mthur đều lần lượt dắt nhau về trại cùi An Nan bỏ lại phía sau cái nghĩa địa mới được phát quang ở giữa có dựng một ngôi nhà mồ mái nhọn xinh đẹp và cũng theo tập tục của họ sau ngày Săchgo đó người sống không bao giờ quay lại khu nghĩa địa đó nữa. Bởi vì phần việc cuối cùng đối với người chết đã làm xong. Từ nay trở đi họ để mặc cho mưa nắng thời gian triền miên phá hủy dần ngôi nhà mồ cùng cây cối đua nhau mọc lên um tùm tươi tốt cho đến một ngày xóa sạch mọi dấu vết của cái nghĩa địa mà đã có những ngày họ kéo đến tụ tập đốt lửa nhảy múa ca hát uống rượu say bí tý để tiễn biệt người bà con họ hàng đi về thế giới của ông bà tố tiên. Tuy nhiên sau cái đêm Săchgo đó vẫn còn có hai người nằm lại cái nghĩa địa dựng nhà mồ của ông Phạm Văn Cồn là chồng cửa cô Hờ Nú đồng thời cũng là rể của bản Giarai Mthur ở trại cùi An Nan. Hai người đó là cha Tạc và bác sĩ Trương Vĩnh Cần. Lại nói bác sĩ Cần cứ nằm sõng soài gối đầu lên khúc gỗ mặt đậy mảnh lá chuối ngủ mê mệt. Ông bác sĩ già say quá. Ông cứ nằm thẳng cẳng như thế ngáy o o một mạch cho tới sáng bảnh mắt ra cha Tạc lay ông mấy lần và cô Kim Thoa đổ cả rượu vào mũi ông mà ông vẫn không thức dậy. Lúc này bà con người Giarai Mthur cũng đã bỏ về hết rồi. Cô goa Hờ Nú cũng vứt cành Kơnia xuống đất bỏ về theo bố mẹ cô rồi. Bác sĩ Chiểu cũng phải về trại cùi An Nan vì sáng nay là ngày khám bệnh. Tất nhiên cô Kim Thoa đi theo bác sĩ Chiểu. Thế là chỉ có mình cha Tạc ngồi lại ngôi nhà mồ để trông ông ấy bác sĩ già. lă nói về cha Tạc rồi nhưng cũng cần nói tlêm về cha thêm chút nữa vì cha Tạc thuộc típ "cán bộ" cách tân của thiên chúa giáo. Trẻ tuổi. Có học vấn vững chắc. Nói tiếng Mỹ nhanh như người Mỹ. Sùng đạo nhưng không mù quáng. Rất nhiệt huyết nhưng cũng rất thực tế. Siêng năng việc đạo những cúng rất hăm hở việc đời. Chính vì vậy mà tuy chỉ mới thành lập được hơn hai năm nhưng quĩ "cứu trợ ông bào cùi ở Tây Nguyên" do cha Tạc sáng lập hoạt động rất có hiệu quả. Phải nói rằng hơn một năm nay trại cùi An Nan nhận được khá nhiều thuốc men quần áo và lương thực từ quĩ "Cứu trợ đồng bào cùi Tây Ngưyên" của cha Tạc. Ðiều đó cũng giải thích một phần nào cái lý do vì sao là một kẻ vô thần mà bác sĩ Chiêu lại rất gần gũi và kính trọng cha Tạc. Về phần cha Tạc thì cũng rất kính trọng nể phục bác sĩ Chiểu. Ông cha trẻ tuổi nhìn thấy ở ông bác sĩ trẻ tuổi có cái tố chất của một kẻ từ vì đạo. Tất nhiên đạo đây là đạo hi sinh vì sự đau khổ của người cùi chứ không phải là đạo cơ đốc giáo hoặc đạo tin lành. Tuy vậy càng gần gũi bác sĩ Chiểu thì cha Tạc càng nảy nở cái ý định muốn cảm hóa bác sĩ Chiêu thành một con chiên của nước chúa. Có lẽ cũng vì thế mà cha Tạc ngày càng bám sâu vào trại cùi An Nan và cha đang vận động cho một chương trình cụ thể cứu trợ khẩn cấp cho trại cùi An Nan một máy phát diện xách tay của Nhật và hai cô tu sĩ trẻ đẹp tình nguyện lên làm y tá hộ lý phụ giúp cho bác sĩ Chiểu. Lại nói buổi sáng hôm đó ngôi lại nhà mồ để canh bác sĩ Cần. Cha lay gọi bốn năm lần mà ông bác sĩ già vẫn cứ ngủ lì bì như người bị đánh thuốc mê qúa liều. Ngồi mãi vô vị cha Tạc đứng lên đi ra ngoài vẩn vơ ngắm cây cỏ đất trời. Sau một đêm uống như trùng lại ăn vã toàn những tim gan phèo tiết sống sít nên miệng cha đắng ngăn ngắt mà bụng thì lại đau ngâm ngẩm. Cha Tạc có lẻn ra sau một bụi moóc chó tranh thủ làm cái việc mà không ai có thể làm hộ nhưng cố mãi mà vẫn không thể làm được. Ngơ ngáo một lúc cha Tạc lại chui vào nhà mồ tới ngồi bên cạnh bác sĩ Cần, phe phẩy đuổi ruồi cho ông bác sĩ. Và chính lúc này, cha Tạc nhìn thấy trong đống dồ đạc vặt vãnh của người chết như ống điếu, cuốc thuồng, mũ cát, đôi giầy há mõm vất lung túng quanh ngôi mả có lẫn một quyển vở cũ, góc xoăn tít, bìa ố vàng dính tro than lem nhem. Nom quyển vở thật lạc lõng giữa đống đồ vật vô hồn. Không hào hứng lắm. Cha Tạc nhặt quyển vở lên, thờ ơ lật vài trang. Những hàng chữ run rẩy, nghuệch ngoạc, loằng ngoằng như tâm trạng hoảng loạn của một kẻ sám hối. Chắc đây là bút tích của người đang nằm dưới mộ. Với con người này, cha Tạc không thú vị lắm và cha cũng chẳng biết nhiều nhặn gì hơn về ông ta ngoài cái tên Phạm Văn Cồn và ông ta là một người Gia Rai Mthur gốc Kinh đã bỏ đạo. Là một con chiên ghẻ của chúa. Lúc này mặt trời đã lên. Nắng xiên rọi vào ngôi nhà mồ làm bốc lên một thứ mùi rữa nát hố lốn tanh tưởi đến phát mửa. Bác sĩ Cần vẫn nằm ngáy o o thoải mái như một đứa trẻ lên ba. Cha tạc ngắm nhìn ông bác sĩ già hồi lâu rồi thở dài dựa lưng vào cây cột gỗ Kơ Nia và lẩn mẩn giở quyển vở ra đọc. Cha cũng chỉ có ý đọc chơi chơi giết thời gian để đợi ông bác sĩ già thức dậy. Nhưng cha có ngờ đâu... Những dòng chữ nghệch ngoạc hoang loạn này đã phơi bày ra trước mắt cha một thế giới bí mật và thê thảm của tám hồn một con người. Thật là kinh hoàng sửng sốt. Kinh hoàng sửng sốt đến không thể tưởng tượng nổi. Chao ôi! Cho đến mãi sau này mỗi khi nhớ lại cái buổi sáng oi ả sau ngày rửa nồi Săchgo ở trong ngôi nhà mồ nồng nặc thứ mùi rữa nát hổ lốn tanh tưởi ấy để rồi tình cờ nhặt được quyển vở cũ nát bí ẩn này. Cha Tạc chỉ còn biết quì xuống làm dấu Thánh và kêu lên: Tạ ơn chúa. Con lại càng hiểu rằng trên đời này ngay cả những điều tưởng rằng không thể xảy ra được thì vẫn cứ xảy ra. Và chỉ có tình thương yêu đồng loại lòng đam mê muốn sống và sự thật thà sám hối mới có thể cứu chuộc được tâm hồn con người mà thôi. A men!...
Hết