KẾT LUẬN
Tác giả: Nguyễn Duy Chính
Chúng ta không thể phủ nhận việc Bùi Viện chịu một số ảnh hưởng của đương thời, kể cả việc tiếp nhận những tư tưởng mà sĩ phu Trung Hoa hay Nhật Bản đang đề cao. Không thể không đặt ra giả thuyết ông tự đi tìm cơ hội tiếp xúc, tìm đọc và tham khảo những tư tưởng canh tân của Tàu và Nhật, cộng thêm sự quan sát tại chỗ về sự cường thịnh của nước ngoài để đem về áp dụng trong xứ mình. Vấn đề quan trọng là những ứng dụng của ông có hợp thời nghi và khả thi hay không?
Trong bối cảnh lịch sử nước ta ở thế kỷ 19, việc canh tân đất nước đòi hỏi những nhận thức độc đáo và triệt để. Hình thể dài và hẹp của Việt Nam khiến cho sự đi lại khó khăn, hệ thống đường sá chưa mở mang, việc tổ chức và xây dựng lực lượng hải quân phải được coi như ưu tiên số một.
Một lực lượng hải quân có ba tác dụng chính:
1/ Bảo vệ và phát triển hệ thống thương thuyền, chuyên chở và giao dịch từ Nam ra Bắc và ngược lại khiến cho hệ thống kinh tế của Việt Nam được điều hòa.
2/ Xác định chủ quyền lãnh hải và mở rộng tầm kiểm soát của triều đình Việt Nam, tránh được thế bị động chỉ cố thủ chờ người khác đến tấn công.
3/ Làm nền tảng cho việc canh tân đất nước nhất là Việt Nam có nhiều hải cảng thích hợp cho việc tàu buôn qua lại như Saigon, Vũng Tàu, Đà Nẵng, Hải Phòng.
Nếu cải tổ kịp thời, hải quân đã giúp cho Việt Nam làm chủ biển Đông dễ dàng vì thời kỳ đó chưa có những tranh chấp chủ quyền về khu vực này và Việt Nam gần như lực lượng duy nhất hiện diện, không những vì địa thế gần gũi mà còn được mọi quốc gia công nhận. Hơn thế nữa, Việt Nam cũng có thể khai thác vị trí chiến lược của mình để mở rộng giao thương ngỡ hầu canh tân đất nước. Nhiều quốc gia đã muốn giao thiệp với Việt Nam để sử dụng như những căn cứ quân sự và tiếp liệu cho thương thuyền và chiến hạm của họ, không phải chỉ Anh, Pháp mà cả Mỹ, Đức, Nga và nhiều nước châu Âu khác.
Nhìn lại thực trạng nước ta vào giữa thế kỷ 19, về phương diện quân sự quả không thay đổi bao nhiêu từ nhiều thế kỷ. Vũ khí cũng vẫn dùng cung tên, giáo mác là chính. Tổ chức so với thời Lý, thời Trần không có gì đặc biệt hơn và các cấp chỉ huy đều không được huấn luyện về quân sự cho chu đáo. Những quan võ thì ít học, chỉ là võ biền không có kiến văn. Còn quan văn thì là những nhà nho không biết gì về binh nhung, có chăng là những mẹo vặt đọc được trong tiểu thuyết. Ngay cả nhà vua cũng chỉ muốn cầu an không muốn đánh. Vũ Duy Tuân đã phải dâng sớ mỉa mai: “…yến tước xử đường, mẫu tử tương bộ, hú hú nhiên kỳ tương lạc, tự dĩ vi an …” (nhà cháy đến nơi mà mẹ con chim én, chim sẻ ở góc đầu nhà vẫn mớm cho nhau, ra chiều vui vẻ tự cho là yên ổn lắm). Về sau khi thấy thế giặc quá mạnh, vua Tự Đức cũng phải than:
Võ tướng tiêu sầu duy hữu tửu,
Văn thần thoái Lỗ cánh vô thi.
Tiêu sầu võ tướng thôi đành rượu,
Văn quan đuổi giặc chẳng thành thơ.
Người Pháp đã chiến thắng Việt Nam bằng một lực lượng tấn công nhỏ hơn nhiều vì họ được trang bị đầy đủ và nhất là các cấp sĩ quan, binh sĩ được huấn luyện chu đáo. Nếu quả như Bùi Viện có thể xây dựng được một đội Tuần Dương Quân cho vững mạnh, tình hình nước ta có lẽ đã thay đổi và không gặp phải những bất hạnh về sau này.
Một điều đáng ghi nhận là Bùi Viện đã nhìn ra được cái đại thế của dân tộc Việt Nam và chìa khóa của việc canh tân. Mặc dù lúc đó đã có rất đông sĩ phu hô hào bãi bỏ chính sách bế quan tỏa cảng, thông thương với liệt cường trên một cơ sở bình đẳng nhưng phần lớn người Việt vẫn chưa có được một quan điểm độc lập mà chỉ bắt chước nước khác, điển hình là Trung Hoa để làm gương. Phải nói rằng trong nhiều năm qua – cho đến tận ngày hôm nay – nhà cầm quyền Việt Nam vẫn coi nước Tàu là khuôn vàng thước ngọc, chịu phận đàn em, đi sau một bước.
Vào thời kỳ đó, Trung Hoa đang lâm vào thể sống dở chết dở, ốc chẳng mang nổi mình ốc, huống hồ mang gộc cho rêu. Thế nhưng triều Nguyễn vẫn tiếp tục thần phục, ba năm một lần mang cống phẩm sang Bắc Kinh chịu đóng vai thuộc quốc. Sau hòa ước Giáp Tuất (1874) nước Pháp có tặng cho Việt Nam 5 chiếc tàu có đủ máy móc súng đạn, 100 khẩu đại bác, mỗi khẩu 200 viên đạn, 1000 khẩu súng tay và 5000 viên dạn (khoản 3) và cho người sang huấn luyện quân đội. Có lẽ Bùi Viện đã sử dụng một phần nào những vũ khí và chiến thuyền này để sử dụng vào việc canh cải và vì thế ông đã đề ra một chương trình xây dựng một hệ thống quân đội lấy thủy binh làm lực lượng chính.
Trước đây, khi hai bên Trịnh – Nguyễn còn phân tranh, các phủ chúa đều e ngại bên kia mạnh hơn mình nên tìm mọi cách để gia tăng sức mạnh quân sự. Chính vì thế thời kỳ đó nước ta có những đội chiến thuyền khá tinh nhuệ và hải phận Việt Nam được bảo đảm. Sau khi thống nhất đất nước, nhà Nguyễn một mặt không còn thấy bị đe đọa nên chỉ tập trung vào việc nội an, lại thêm cái học cử tử làm thui chột ý chí sáng tạo và năng động, thành thử càng ngày nước ta càng rơi vào vòng u tối. Bùi Viện đã tìm ra lối thoát và chắc chắn ông không phải chỉ ngừng lại ở việc cải cách Tuần Dương Quân mà có thể có cả những quan điểm cải cách chính trị khi có dịp so sánh thể chế của Hoa Kỳ và các nước châu Âu với các nước Á Đông.
Nương theo những điều khoản của hòa ước Giáp Tuất, ta phải bằng lòng mở cửa các thương cảng Qui Nhơn, Hải Phòng, ông đã tiến xa hơn một bước mở các chi điếm ở Thanh Hóa, Nghệ An, Đà Nẵng, Quảng Nam. Ngoài ra ông cũng muốn biến Thuận An thành một trung tâm thương mại để làm tăng thêm cái uy nghi của đất kinh đô nên tổ chức một Chiêu Thương Cục, vừa là đại bản doanh cho Tuần Dương Quân, vừa là nơi giao lưu hàng hóa có tính quốc tế mở đầu cho việc thu nhập văn minh trực tiếp vào đất đế đô.
Cho đến nay, việc bành trướng sức mạnh hải quân để gia tăng khả năng phòng thủ và quyền lực trên mặt bể vẫn còn là ưu tiên hàng đầu của đất nước. Chưa kiểm soát được biển đông, Việt Nam còn phải chịu những mũi dao thọc vào ngang hông, có thể bị chia cắt bất cứ lúc nào. Một khi bị tấn công vào mạn sườn thì con rồng Việt Nam chỉ còn là một con thuồng luồng bị săn đuổi không đường chạy.
Tháng 12 năm 2002
Chúng ta không thể phủ nhận việc Bùi Viện chịu một số ảnh hưởng của đương thời, kể cả việc tiếp nhận những tư tưởng mà sĩ phu Trung Hoa hay Nhật Bản đang đề cao. Không thể không đặt ra giả thuyết ông tự đi tìm cơ hội tiếp xúc, tìm đọc và tham khảo những tư tưởng canh tân của Tàu và Nhật, cộng thêm sự quan sát tại chỗ về sự cường thịnh của nước ngoài để đem về áp dụng trong xứ mình. Vấn đề quan trọng là những ứng dụng của ông có hợp thời nghi và khả thi hay không?
Trong bối cảnh lịch sử nước ta ở thế kỷ 19, việc canh tân đất nước đòi hỏi những nhận thức độc đáo và triệt để. Hình thể dài và hẹp của Việt Nam khiến cho sự đi lại khó khăn, hệ thống đường sá chưa mở mang, việc tổ chức và xây dựng lực lượng hải quân phải được coi như ưu tiên số một.
Một lực lượng hải quân có ba tác dụng chính:
1/ Bảo vệ và phát triển hệ thống thương thuyền, chuyên chở và giao dịch từ Nam ra Bắc và ngược lại khiến cho hệ thống kinh tế của Việt Nam được điều hòa.
2/ Xác định chủ quyền lãnh hải và mở rộng tầm kiểm soát của triều đình Việt Nam, tránh được thế bị động chỉ cố thủ chờ người khác đến tấn công.
3/ Làm nền tảng cho việc canh tân đất nước nhất là Việt Nam có nhiều hải cảng thích hợp cho việc tàu buôn qua lại như Saigon, Vũng Tàu, Đà Nẵng, Hải Phòng.
Nếu cải tổ kịp thời, hải quân đã giúp cho Việt Nam làm chủ biển Đông dễ dàng vì thời kỳ đó chưa có những tranh chấp chủ quyền về khu vực này và Việt Nam gần như lực lượng duy nhất hiện diện, không những vì địa thế gần gũi mà còn được mọi quốc gia công nhận. Hơn thế nữa, Việt Nam cũng có thể khai thác vị trí chiến lược của mình để mở rộng giao thương ngỡ hầu canh tân đất nước. Nhiều quốc gia đã muốn giao thiệp với Việt Nam để sử dụng như những căn cứ quân sự và tiếp liệu cho thương thuyền và chiến hạm của họ, không phải chỉ Anh, Pháp mà cả Mỹ, Đức, Nga và nhiều nước châu Âu khác.
Nhìn lại thực trạng nước ta vào giữa thế kỷ 19, về phương diện quân sự quả không thay đổi bao nhiêu từ nhiều thế kỷ. Vũ khí cũng vẫn dùng cung tên, giáo mác là chính. Tổ chức so với thời Lý, thời Trần không có gì đặc biệt hơn và các cấp chỉ huy đều không được huấn luyện về quân sự cho chu đáo. Những quan võ thì ít học, chỉ là võ biền không có kiến văn. Còn quan văn thì là những nhà nho không biết gì về binh nhung, có chăng là những mẹo vặt đọc được trong tiểu thuyết. Ngay cả nhà vua cũng chỉ muốn cầu an không muốn đánh. Vũ Duy Tuân đã phải dâng sớ mỉa mai: “…yến tước xử đường, mẫu tử tương bộ, hú hú nhiên kỳ tương lạc, tự dĩ vi an …” (nhà cháy đến nơi mà mẹ con chim én, chim sẻ ở góc đầu nhà vẫn mớm cho nhau, ra chiều vui vẻ tự cho là yên ổn lắm). Về sau khi thấy thế giặc quá mạnh, vua Tự Đức cũng phải than:
Võ tướng tiêu sầu duy hữu tửu,
Văn thần thoái Lỗ cánh vô thi.
Tiêu sầu võ tướng thôi đành rượu,
Văn quan đuổi giặc chẳng thành thơ.
Người Pháp đã chiến thắng Việt Nam bằng một lực lượng tấn công nhỏ hơn nhiều vì họ được trang bị đầy đủ và nhất là các cấp sĩ quan, binh sĩ được huấn luyện chu đáo. Nếu quả như Bùi Viện có thể xây dựng được một đội Tuần Dương Quân cho vững mạnh, tình hình nước ta có lẽ đã thay đổi và không gặp phải những bất hạnh về sau này.
Một điều đáng ghi nhận là Bùi Viện đã nhìn ra được cái đại thế của dân tộc Việt Nam và chìa khóa của việc canh tân. Mặc dù lúc đó đã có rất đông sĩ phu hô hào bãi bỏ chính sách bế quan tỏa cảng, thông thương với liệt cường trên một cơ sở bình đẳng nhưng phần lớn người Việt vẫn chưa có được một quan điểm độc lập mà chỉ bắt chước nước khác, điển hình là Trung Hoa để làm gương. Phải nói rằng trong nhiều năm qua – cho đến tận ngày hôm nay – nhà cầm quyền Việt Nam vẫn coi nước Tàu là khuôn vàng thước ngọc, chịu phận đàn em, đi sau một bước.
Vào thời kỳ đó, Trung Hoa đang lâm vào thể sống dở chết dở, ốc chẳng mang nổi mình ốc, huống hồ mang gộc cho rêu. Thế nhưng triều Nguyễn vẫn tiếp tục thần phục, ba năm một lần mang cống phẩm sang Bắc Kinh chịu đóng vai thuộc quốc. Sau hòa ước Giáp Tuất (1874) nước Pháp có tặng cho Việt Nam 5 chiếc tàu có đủ máy móc súng đạn, 100 khẩu đại bác, mỗi khẩu 200 viên đạn, 1000 khẩu súng tay và 5000 viên dạn (khoản 3) và cho người sang huấn luyện quân đội. Có lẽ Bùi Viện đã sử dụng một phần nào những vũ khí và chiến thuyền này để sử dụng vào việc canh cải và vì thế ông đã đề ra một chương trình xây dựng một hệ thống quân đội lấy thủy binh làm lực lượng chính.
Trước đây, khi hai bên Trịnh – Nguyễn còn phân tranh, các phủ chúa đều e ngại bên kia mạnh hơn mình nên tìm mọi cách để gia tăng sức mạnh quân sự. Chính vì thế thời kỳ đó nước ta có những đội chiến thuyền khá tinh nhuệ và hải phận Việt Nam được bảo đảm. Sau khi thống nhất đất nước, nhà Nguyễn một mặt không còn thấy bị đe đọa nên chỉ tập trung vào việc nội an, lại thêm cái học cử tử làm thui chột ý chí sáng tạo và năng động, thành thử càng ngày nước ta càng rơi vào vòng u tối. Bùi Viện đã tìm ra lối thoát và chắc chắn ông không phải chỉ ngừng lại ở việc cải cách Tuần Dương Quân mà có thể có cả những quan điểm cải cách chính trị khi có dịp so sánh thể chế của Hoa Kỳ và các nước châu Âu với các nước Á Đông.
Nương theo những điều khoản của hòa ước Giáp Tuất, ta phải bằng lòng mở cửa các thương cảng Qui Nhơn, Hải Phòng, ông đã tiến xa hơn một bước mở các chi điếm ở Thanh Hóa, Nghệ An, Đà Nẵng, Quảng Nam. Ngoài ra ông cũng muốn biến Thuận An thành một trung tâm thương mại để làm tăng thêm cái uy nghi của đất kinh đô nên tổ chức một Chiêu Thương Cục, vừa là đại bản doanh cho Tuần Dương Quân, vừa là nơi giao lưu hàng hóa có tính quốc tế mở đầu cho việc thu nhập văn minh trực tiếp vào đất đế đô.
Cho đến nay, việc bành trướng sức mạnh hải quân để gia tăng khả năng phòng thủ và quyền lực trên mặt bể vẫn còn là ưu tiên hàng đầu của đất nước. Chưa kiểm soát được biển đông, Việt Nam còn phải chịu những mũi dao thọc vào ngang hông, có thể bị chia cắt bất cứ lúc nào. Một khi bị tấn công vào mạn sườn thì con rồng Việt Nam chỉ còn là một con thuồng luồng bị săn đuổi không đường chạy.
Tháng 12 năm 2002