- 5 -
Tác giả: Nguyễn Khải
Bữa cơm đã gần tàn. Rượu hết, các món nhắm cũng hết, cơm xới ra người ăn người không, riêng anh Đại vẫn xới một bát cơm thật đầy, anh ăn không nhiều, nhưng nhai chậm, nuốt chậm, nên cũng ngượng nghịu vì cả bàn ăn phải chờ mình. Anh đặt đũa nói múm mím:
- Xin lỗi cả nhà nhé. Bữa nay mình ăn ngon miệng quá. Khi nãy nghe các vị nói chuyện về một chú Tàu nào đó, tôi cũng có một chuyện về anh Ba Tàu. Chuyện ly kỳ lắm, có tài văn chương như cậu Việt là viết được một roman phiêu lưu tuyệt hay. Cái năm Pháp nó đưa tôi đi an trí ở Mã Đảo...
Chị Hoàng thét lên:
- Vứt mẹ cái Mã Đảo của anh đi! Bốn chục năm nay vẫn chưa kể hết chuyện Mã Đảo, hả? Bà Bơ ơi! Cho cà phê nhá!
Anh Đại vẫn cười hiền lành:
- Một ngày trong tù dài bằng một năm ngoài tự do. Bảy năm ở tù phải sống thêm cả trăm năm vẫn kể chưa hết chuyện. Các vị chắc đều biết cái eo biển Mozambique chứ? Bên này là Mã Đảo, bên kia là xứ Mozambique. Thời ấy quân Đức đang đánh nhau với quân Anh ở Bắc Phi, tàu buôn, tàu khách đi lại trong Đại Tây Dương bị tàu ngầm Đức đánh chìm vô số. Một buổi sáng chúng tôi nhìn thấy có một chiếc xuồng lờ lững táp vào chân đảo. Trong xuồng chỉ có một người nằm mê man như sắp chết. Một bộ xương người thì đúng hơn, tóc râu che kín mặt, tóc đen râu đen, là người châu á, nhưng đã là người cùng một châu cũng coi như người cùng một nước. Bọn tôi bế anh ta lên, pha sữa cho anh nhắp từng chút một, dần dần cũng tỉnh lại. Thì ra anh ta là người Tàu, nói tiếng Pháp khá lắm, đã từng ở Đông Dương ít năm, rồi sang Pháp, chiến tranh châu Âu bùng nổ, mất sạch cả gia sản lại tìm đường qua châu Phi, ở Côte d'Ivoire, làm ăn khó khăn quá mới theo bè bạn đi Mozambique bằng đường biển, dọc đường bị thủy lôi Đức đánh đắm, có hăm bốn người nhảy được xuống xuồng cấp cứu, lênh đênh trên mặt biển Đại Tây Dương đã non một tháng trời...
Chị Hoàng kêu lên:
- Một tháng trên biển! Họ chịu được đói, được khát, hả?
Anh Quý nhăn mặt:
- Bà này nghe chuyện rõ hay, có hăm bốn người nhảy xuống xuồng chỉ còn một người sống sót tức là đã có hăm ba cái xác vứt xuống biển rồi.
Chị Hoàng vênh mặt, hỏi anh Đại:
- Toi khoe câu chuyện ly kỳ có thể viết tiểu thuyết được mà chỉ có thế thôi à? Già rồi bố ạ, chuyện ông già mỗi ngày mỗi nhạt. Chỉ có đớp thôi!
Tôi nhìn anh Chương cười mỉm, quả nhiên anh Đại đã già thật, thì cái người sống sót ấy có thể là người Tàu mà cũng có thể là người Anh, người Pháp hoặc người Đức, chuyện quốc tịch của người bị nạn có gì là quan hệ. Hoàn toàn giống với cách viết của một nhà văn đã quá già. Mở đầu cuốn sách nghĩ rằng sẽ có chuyện động trời, gấp cuốn sách lại như người bị mắc lỡm, vừa mất tiền lại mất cả cái công hồi hộp chờ đợi sự kết thúc bất ngờ ở chương cuối. Cả mọi người nhìn anh Đại ái ngại cho một tuổi già, kể cả mấy ông già ngót nghét bảy chục cũng cảm thấy như trẻ hẳn lại, thông minh hơn lên vì được xót xa cho một người khác già hơn, đáng thương hơn. Nhưng cái ông già đáng thương hại ấy lại đung đưa con mắt một cách tinh quái, miệng mủm mỉm đầy hóm hỉnh, e hèm, dặng hắng, rồi mới tiếp tục câu chuyện chắc hẳn sẽ rất tức cười vì cái nhạt nhẽo, cái vô duyên của nó.
- Tất nhiên đã có hăm ba người chết, chỉ có một người sống nhưng họ không chết một lúc mà đã chết lần lượt.
Chị Hoàng cười gập người trên bàn, nước mắt chảy giàn cả ra má:
- Thôi, thôi, con xin bố, lú lẫn vừa vừa chứ!
Anh Đại vẫn nói ngớ ngẩn:
- Lần lượt không phải từng người, nói thế nào cho các vị hiểu được nhỉ, mà từng nửa một.
Không ai cười nữa, đưa mắt nhìn nhau, cái gì từng nửa?
- Vâng, chết từng mẻ một, mỗi mẻ là một nửa. Tôi nói rõ hơn nhé. Mẻ đầu chết mười hai người, mẻ sau chết sáu người, rồi chết ba người, ba người sau cùng thì chết lần lượt từng người một. Tất nhiên trong ba người ấy có một người không chết, đó là anh Ba Tàu chúng tôi đã cứu được.
Không phải là một chuyện nhạt nữa rồi, một chuyện đã bắt đầu có cái tầm vóc riêng của nó, cái huyền bí riêng của nó. Mà ông lão biết kể chuyện lắm, chưa lẫn, hoàn toàn chưa có lẫn.
- Vâng, những người chết đầu tiên rất thanh thản vì tấm lòng hỉ xả. Những người chết sau tuy có đau đớn hơn, nhưng vẫn còn là tự nguyện. Duy có ba anh sau cùng thì phải vật lộn,
phải chống chọi với cái chết, nói cho rõ hơn, phải chống lại những mưu mô, những thủ đoạn của người cùng thuyền để giành lấy cái sống, dẫu rằng cái sự sống ấy là hết sức mong manh.
Lại văn chương nữa! Thì ra khi đã có một cốt truyện quan trọng, với những chi tiết tuyệt vời, lời văn tự nó đến, đến thật mềm mại, thật uyển chuyển và trong trẻo như không có tí cố gắng nào.
- Họ không đói mà chỉ khát, cái khát hành hạ con người còn cay độc hơn cái đói, các vị ngồi đây chưa biết đói, cũng chưa biết khát nên khó mà hiểu được. Xin lỗi, có lẽ Việt nó có biết chút ít, lính văn nghệ thì chỉ được biết có chút ít thôi. Tôi cũng biết được chút ít, tù chính trị nhưng Tây còn muốn dùng nên không nỡ để đói hẳn, để khát hẳn như tù cộng sản. Này, mình nói năng lảm nhảm đã ra người lẫn chưa thế, tám chục tuổi, minh mẫn mãi thế nào được. Có lúc lẫn, nhưng không phải lúc nào cũng lẫn, có phải không?
Viết được một câu chuyện hay, chinh phục được lòng người thì người viết lại có cả quyền đôi lúc được giỡn mặt bạn đọc tí chút. Là nhà văn có tài nghĩ cũng sướng thật, viết như đùa, triết lý như đùa, nhân vật như đùa, mà vẫn quyến rũ biết bao.
- Sống nhiều ngày trên biển lại không có một giọt nước dự trữ, tức là cầm chắc cái chết, một cái chết rất khổ, vì xung quanh là nước, nước mênh mông, nước xanh rờn mà không uống được. Cái nghịch cảnh ấy làm người ta khô cháy hơn, cào cấu gan ruột hơn, dễ cuồng điên hơn. Lúc ấy chết được là cách giải thoát sung sướng nhất. Cái chết không đáng sợ bằng cái khát, nên mười hai người đã tình nguyện chịu chết, nghĩa là cho phép mười hai người kia giết mình lấy máu uống thay nước.
Chị Hoàng bưng lấy mặt, rên rỉ:
- Thôi, không nói nữa, ghê quá, câu chuyện của anh ghê quá!
Anh Chương cười nhạt:
- Cái bà này miệng hùm gan sứa thật. Muốn làm loạn mà sợ máu người à?
Chị Hoàng nửa nhăn nửa cười:
- Mình chỉ thích có người khác làm thôi, còn mình thì sợ lắm.
Anh Quý:
- Tiếc rằng bà đã già quá và cũng xấu quá, nên khó có chàng hiệp sĩ nào muốn xả thân vì bà!
Chị Hoàng cầm một chiếc đũa lao về phía ông bạn cố tri:
- Thối! Làm nghề ngoại giao mà ăn nói đến thô tục!
Anh Đại vẫn kể tiếp, câu chữ lung linh, ào ạt như chính anh đã có một lần trải qua. Cái giây phút này giống như cái giây phút của một nhà văn có tài viết được những trang lý thú nhất. Ngòi bút tự lia trên trang giấy với bao ý tưởng, hình tượng lạ lùng, như không còn thuộc về mình, mình đâu có những cái đó, mà thuộc về một thế giới kỳ ảo, phiêu diêu, hiện ra trong phút chốc và cũng sẽ tiêu tan trong phút chốc. Cái phút đó người trong nghề gọi là phút nhập thần, phút nhập đồng, chẳng rõ hình dạng nó ra sao, phải mời mọc nó tới bằng cách nào, nó đến thì được, nó đi thì mất, có khi phải chịu mất mãi mãi. Có người được nó đến thấp thoáng một đôi lần, có người ve vãn một đời chỉ đạt tới một cảm giác gần giống như thế, nhưng không phải thế, là những tác phẩm gần giống với văn chương nhưng chưa hẳn là văn chương, là do người làm, có thể do một người hết sức thông minh và khéo léo làm, chứ chưa phải do cái phần ngoài con người làm, do "thần" làm. Hình như anh Đại sắp xa cách chúng tôi rồi đây. Tết này anh cười đùa với chúng tôi, nhưng Tết sau có khi anh đã dong chơi đùa bỡn tận cái thế giới xa xăm nào. Người đã tám mươi tuổi, bỗng chốc minh mẫn, uyển chuyển, tinh tế trên sự bình thường là đáng ngại lắm, là rất đáng ngại.
- Một số đông cầm dao giết một số đông, cái việc giết ấy đỡ run tay hơn. Còn lại sáu người cầm dao giết sáu người tuy vẫn còn là tự nguyện, cái sự giết ấy đã đòi nhiều nhẫn tâm lắm, nhiều tàn bạo lắm. Đến lúc sáu người phải giết lẫn nhau để cướp lấy cái sống thì ta có thể hình dung họ phải vật lộn, cấu xé nhau man rợ đến mức nào? Nhưng tôi kinh hãi nhất là cái pha sau cùng. Ba người buộc phải loại trừ nhau để chỉ còn một người được quyền sống. Lúc này không thể dùng sức mà phải dùng mẹo, mẹo thật nguy hiểm, thật bất ngờ. Mẹo thật hiểm thì Âu phải thua á, và cả thế giới này phải thua anh Ba Tàu. Anh Ba Tàu chúng tôi đã cứu sống là người đã thắng cuộc, thắng bằng cái lừa lọc, cái lắt léo, cái khó ngờ. Chuyện vẫn chưa kết thúc đâu, còn một hồi cuối lý thú lắm. Trước khi có anh Tàu thì tôi là cái thằng làm ra tiền nhiều nhất trong đám tù. Tôi khỏe, tôi chịu khó, lại biết được võ vẽ đôi tiếng của dân Hovas và Mérinas, nên đi vào các làng bản thật xa mua rượu nấu bằng ngô, đem về bán lại cho các vị ở nhà. Cho ông Truyền, ông Tắc, một vốn mười lời. Đến khi cái anh Tàu kia khỏe mạnh rồi thì chính hắn đi mua rượu về bán, bán rẻ hơn tôi, mà rượu cất cũng ngon hơn, nên tôi phải bỏ nghề. Về sau hắn mở một cửa hàng chạp phô nho nhỏ buôn rượu, cà phê, và lấy một cô vợ người bản xứ, da đen, gốc Mã Lai. Khi tôi mãn hạn tù thì vợ chồng hắn đã có bốn đứa con trai, đứa đầu sáu tuổi, vào trong nhà có bàn thờ Phật bà Quan Âm và đức Thánh Quan, góc nhà có bát hương thờ Thần Tài. Tế bào đầu tiên của một Chợ Lớn - Mã Đảo, bang chủ đầu tiên của một bang, một hội, ông tổ đầu tiên của một dòng họ có thể sinh sôi nảy nở tới chục ngàn người trong khoảng một thế kỷ. Có thể lắm chứ, rất có thể! Ơ hay, tách cà phê của tôi đâu? Quên mất tôi hả, bà Bơ? à, đây, xin lỗi cả nhà nhé, cũng lẫn rồi, không lẫn hoàn toàn nhưng đã có lúc hơi lẫn!
Chúng tôi ngồi nín lặng, câu chuyện vừa huyền hoặc lại vừa thật quá. Một cuốn tiểu thuyết thu ngắn. Trong cái đầu sắp được nghỉ ngơi hoàn toàn kia còn có bao nhiêu câu chuyện kỳ thú về con người, mãi mãi cái mà nhân loại được biết chẳng thấm thía gì với những cái mà triệu triệu con người vô danh mang theo vào lòng đất.
Anh Quý nhồi một mồi thuốc và nói với tôi:
- Hồi trước, ngồi ở đây thấy dân Tàu họ làm ăn, họ sinh sôi nảy nở mà sốt ruột quá. Họ là khách trú, là dân ngụ, nhưng tổng thống, thủ tướng cho đến các bộ trưởng trong chính phủ đều ở trong tay họ. Không một hoạt động nào của xã hội thoát khỏi cái bàn tay điều khiển của người Tàu. Anh ham đánh bạc thì tôi là sếp sòng, anh thích chơi gái thì tôi là chủ điếm, anh là người Việt Nam nên có quyền nhập hành với khối lượng lớn nhưng chính tôi mới là ông trùm các dịch vụ chia nó ra thành nhỏ. Uy danh như Diệm, lúc lâm nguy cũng phải trốn nấp vào nhà một anh Ba Tàu. Tôi là thế đấy, anh làm gì được tôi nào! Vậy mà thằng Kỳ dám làm. Mới nhận chức thủ tướng, nó lôi Tạ Vinh, một thằng đầu cơ gạo, ra bắn chơi giữa Sài Gòn, chiếu đèn pha mà bắn cho dân xem.
Quân mủm mỉm cười:
- Kỳ nó làm cái trò giật gân ấy để lấy le với mấy ông trí thức đó thôi. Nó cũng có chủ của nó, chủ cho làm để kiếm vốn chính trị nó mới dám làm.
Chị Hoàng hỏi:
- Chủ của Kỳ là thằng Mỹ nào thế?
- Mỹ là chủ xa, Tàu mới là chủ gần. Chủ gần của nó là Trần Thành, một tín đồ của ông Mao Trạch Đông. Cũng như chủ của Dương Văn Minh là Dương Duy Nhạc, giám đốc Bank of China (Trung Hoa ngân hàng), chủ của Nguyễn Văn Thiệu là Lý Long Thân, giám đốc hãng Vicasa làm dây kẽm gai quân sự. Trong ba anh, anh nào làm tổng thống, Chợ Lớn đều ủng hộ cả.
Chị Hoàng nói cau có:
- Vứt mẹ nó chuyện thằng Tàu đi. Nó là gì ở cái nhà này mà nói nhiều về nó thế!
Anh Chương được dịp nói chọc:
- Nó là ân nhân của bà chứ còn gì?
Chị Hoàng gắt to:
- Tôi vay chứ không xin. Trả xong nợ là coi như không quen biết.
Quân hỏi:
- Chị trả thế nào được mấy chục lượng vàng?
Chị Hoàng đã dịu giọng:
- Thằng Tuấn sẽ phải trả cho em nó.
Quân tính toán:
- Một lạng khoảng năm trăm đôn. Năm mươi lạng là hai vạn rưỡi đôn. Một viên chức của Liên hợp quốc dầu lương rất cao, nhưng không đi làm, lại hai con, tiêu tốn lắm, không nợ là may còn tiền đâu để trả nợ cho bà.
Chị Hảo cũng tính toán:
- Vàng ở Việt Nam có sáu ngàn, ở ngoại quốc là năm trăm đô la. Tiền đô la bán ở đây một ăn hai mươi, năm trăm là mười ngàn. Một lượng lãi bốn ngàn đồng! Thảo nào nhiều người mấy năm nay làm giàu nhanh thế. Con cháu người ta ở nước ngoài đông nên buôn bán theo kiểu này được. Mà nhàn quá. Một bức điện đánh đi, một bức điện đánh lại thế là đã lãi cả chục ngàn đồng.
Chị Hoàng nghiêng mặt về phía anh Chương hỏi nhỏ:
- Chẳng lẽ thằng cha ấy còn muốn cái gì khác?
Anh Chương chép miệng ra vẻ rất thản nhiên:
- Bà đến mau tin người. Người ta tốt quá thì mình cũng phải tự hỏi: Mình có cái gì để người ta phải tốt đến thế?
Chị Hoàng gắt ầm lên:
- Mình sắp chết ngụp, có người giơ tay ra, có là con khùng mới không nắm lấy. Hãy cứ sống đã rồi sau sẽ hay!
Quân nói đầy bí ẩn:
- Cái hồi sau đã đến rồi. Phải tính nhanh nhanh lên, không thì kẹt.
- Họ muốn gì ở tôi nào? Khi cho vay chú Phùng không ra điều kiện. Bao giờ có thì trả, chỉ thế thôi.
- Cũng có nhiều cách trả, chẳng cứ bằng tiền.
- Mày bảo tao còn vốn liếng gì nữa ngoài đồng tiền?
- Còn hai đứa con trai, vốn của bà đó!
Chị Hoàng nhìn Quân sững sờ, rồi lại đưa mắt nhìn người em, miệng mím lại đanh đá:
- Không, tôi không có quyền gì với hai đứa con của tôi cả, chúng đã trưởng thành rồi.
Quân vẫn nói rất tàn nhẫn:
- Với họ đã vay là phải trả. Họ nhớ lâu và thù dai lắm.
Chị Hoàng không gầm thét nữa, chị trả lời rất lạnh lẽo:
- Họ có thể giết tôi, tôi đâu cần sống lâu hơn. Nhưng chớ có đụng đến các con tôi.
Tuấn, người con trai của chị, năm nay cũng xấp xỉ với tuổi tôi, vì chị lấy chồng rất sớm, năm mười sáu tuổi, mười bảy đã có con đầu lòng. Hiện nay Tuấn là một nhân viên cấp cao của tổ chức Liên hợp quốc, xu hướng chính trị hoàn toàn khác với mẹ và cậu, lấy vợ người Pháp, nhưng không nhập quốc tịch Pháp, biết ân hận, biết xấu hổ vì đã vắng mặt trong những năm tháng đầy gian truân của dân tộc. Người mẹ rất biết chí hướng của đứa con nhưng không chê trách. Chị bảo tôi: "Mình là người của một thời, nó là người của một thời, bắt nó phải giống mình thế nào được". Chị ghét cộng sản, nhưng tôn trọng niềm tin của con, chê bai Việt cộng, nhưng cũng chửi bới tuốt tuột các nhân vật chính trị của chế độ trước, một lũ học đòi, cắn hột cơm không vỡ thì làm gì nổi. Một chế độ lý tưởng chỉ có thể có, nếu "cậu Chương" là tổng thống, còn chị phải là bà cố vấn tối cao, chính chị mới là first lady, đệ nhất phu nhân, chứ không phải cô vợ quê mùa của ông tổng thống em ruột! Cả họ biết chuyện cứ cười lăn, ông bố tôi rất quý cô cháu cũng phải than thở: "Cái thân chị ấy từ sáng đến tối còn chẳng định được, huống hồ đòi định đoạt vận mệnh của toàn quốc!". Nếu chị được tham dự cầm quyền, ngay lập tức chị sẽ bỏ tù tất cả những người chị vốn ghét và mời làm bộ trưởng tất cả những ai đã được chị thương yêu. Sẽ là một chính phủ gồm những chàng trai thật trẻ đẹp, ăn mặc thật lịch sự, nói năng thật duyên dáng và phòng họp của nội các sẽ thơm tho, bóng láng như phòng nhảy. Những buổi rỗi rãi, chẳng có việc gì làm, tôi thường đến thăm chị để ngồi nghe chị chửi cộng sản, chửi tư sản và trình bày cái cương lĩnh chính trị của "nước Cộng hòa thơm phức và bóng láng". Thấy thằng em Việt cộng cứ ngồi nhăn răng ra cười, không giận, cũng chẳng buồn tranh cải, chị tức lắm: "Cả thế giới này chỉ có mấy ông cộng sản nhà mày làm chính trị vất vả, khổ sở đến thế chứ bọn tao trong này làm chính trị vui lắm, làm như tao vừa nói ấy, có điều họ thích nói chữ, mà tao thì diễn nôm thôi". Làm chính trị không cần chú ý đến kẻ thù (những người ghét vặt thì có), không cần dân chúng (chỉ có đám dân chúng mơ hồ trong các diễn văn), không cần đồng minh (chỉ có bạn xoa mạt chược, bạn ăn tiệc và người thân trong gia đình) thì nhất định là rất vui rồi. Trong năm năm qua, mỗi lần gặp tôi, chỉ lại trừng mắt, hỏi: "Làm sao lại thế?". Có giảng giải đến rách mép chị vẫn khăng khăng: "Việc gì phải thế!" Bây giờ thì tự chị phải cắt nghĩa lấy cho bao nhiêu cái làm sao, làm sao: "Làm sao chú Phùng lại thế?", "Nghĩ rằng chú ấy là người quân tử, làm sao lại...?", "Con chị là con chị, làm sao họ dám...?". Chỉ thương một nỗi chị không quen làm, cũng không quen nghĩ, từ bé đến già sống bằng sự nhờ vả, cung Nô là cung tốt nhất trong lá số của chị, chị khoe thế, bây giờ thời thế đổi thay nên lá số cũng đổi thay, tay chân chưa vất vả nhưng cái đầu đã muốn điên lên vì phả nghĩ ngợi xa gần. Bỗng dưng nét mặt chị như giãn ra, sáng lên, đã có niềm tin mới nào chăng?
- Quân này, cố đợi vài giờ nữa, gần tới giao thừa chị sẽ nói rõ với cậu cái ý định sắp tới của chị, hay lắm, thông minh lắm, chị mà bị kẹt hả, không đời nào, chị vẫn còn bảo bối tung ra lúc thật lâm nguy.
*
Bình nói với tôi:
- Chú đã biết chuyện một cán bộ khoa học của ta trốn chạy khỏi Tổ quốc của mình chưa? Chưa hả? Cái thằng ấy là bạn cháu, bạn chí thiết của cháu, nó tên là Dũng. Sau khi tốt nghiệp đại học nó về làm việc ở Viện nghiên cứu silicát, rồi đi nghiên cứu ở Đức, được các thầy khuyến khích làm luận án thi tiến sĩ. Dũng nước cuối năm 76, vào thành phố này làm ở phòng kỹ thuật của Sở công nghiệp. Ba mươi lăm tuổi vẫn sống độc thân, ở nhà tập thể. Người hắn nhìn ngoài thì nhỏ thấp, hiền lành, nhưng cực kỳ thông minh và quyết đoán. Khi ta cải tạo một nhà máy bột giặt, Sở liền đưa Dũng về phụ trách công tác kỹ thuật. Cách làm việc của Dũng cũng hay lắm, trách nhiệm phải rành rọt, của tôi, của anh, của nó cho phân minh, không có cái gọi là tập thể mù mờ hỗn độn, đến lúc hỏng trật không còn truy tìm được trách nhiệm thuộc về ai, thì "tất cả anh em chúng tôi" đều chịu mà. Cái "tinh thần tập thể" ấy chỉ khuyến khích kẻ bất tài, lười biếng, kẻ nhút nhát, và cả những thằng ăn cắp nữa. Giám đốc xí nghiệp vốn là thợ đúc ở Hải Phòng, nhưng thưa với chú, đây là một nhà máy hóa chất ạ. Có lần xí nghiệp bị kẹt ít ngày về cung ứng vật tư, ông giám đốc lập tức gào lên: "Nếu không có, tôi sẽ cho đóng cửa nhà máy"!. Rồi ông ta làm găng hơn, chẳng biết nghe đứa nào xúi giục, lập văn bản gửi lên ủy ban thành phố và Sở Công nghiệp tuyên bố tạm đóng cửa nhà máy thật. Cháu được giám đốc công ty cử xuống điều tra, chuyện bố láo cả, chỉ thiếu có một số vật tư dự trữ, chưa ảnh hưởng tới công việc trước mắt mà dám hạ lệnh cho công nhân nghỉ việc. Do dốt quá, quá dốt, nghe anh em họ kêu đã vội tin ngay là đúng. Lại tập thể! Tập thể phải có cái đầu chứ, anh ăn lương cao để làm một thành viên vô danh trong một tập thể lù mù sao? Ông này phải chuyển đi, xí nghiệp không có giám đốc mà chỉ có hai phó giám đốc, một là thằng Dũng mới được đề bạt và một ông cũng có biết qua nghề rèn dũa gì đó. Dũng chạy lên công ty, hỏi thẳng: "Tại sao các ông không cho tôi làm giám đốc? Hai phó giám đốc! Làm ăn gì mà kỳ thế!". Giám đốc công ty bảo: "Mày sơn đỏ mày đã rồi tao đề bạt cho". Nó nổi khùng lên: "Các anh muốn sơn đỏ tôi lúc nào mà chẳng được. Tôi là con liệt sĩ, từ bé đến lớn do cách mạng nuôi nấng, đào tạo còn chưa đủ tin à?". Có lần, Dũng nói với cháu: "Tao chán mấy cha ở chỗ tao làm việc quá. Họ thiếu sự thẳng thắn, thật thà lại không dám quyết đoán. Mày đừng ngồi trên công ty nữa, xuống xưởng với tao đi, chúng mình sẽ tổ chức lại cách làm việc theo một nề nếp mới". Cháu cũng bảo nó: "Làm việc với mấy ông trên đừng có nổi nóng mà hỏng cả. Rồi mày cũng phải phấn đấu vào Đảng đi, không là đảng viên sao đủ được tin để giao việc". Nó vẫn cười cợt: "Tao làm việc thật tốt, chẳng lẽ cấp trên cứ ngờ tao mãi". Hình như cháu bắt đầu nghĩ ngợi có giống chú chút ít thì phải, nghĩa là, nghĩa là... muốn khuyên nó nên nhân nhượng, nghĩa là đừng quyết đoán quá. Anh công nghiệp phải hạ mình xuống thành anh nông nghiệp, cái trách nhiệm cá nhân phải hòa tan trong cái lãnh đạm của tập thể, cái sắc sảo thì mài cùn đi thành cái mù mờ, cái tiên phong thì tụt lại một chút để khỏi bị xung quanh ganh ghét. Tự biến hóa thành kẻ vô danh, là tôi mà chẳng phải là tôi, công thì được hưởng mà tội lại không phải gánh lấy, tội của mọi người, tội của trên, của dưới, của tất cả, chứ không phải của riêng một ai, nhất là không phải của tôi. Thiệt, nhà nước chịu, cái đại tập thể chịu, chứ cái tiểu tập thể vẫn có thể yên tâm mà ngủ kỹ. Một năm sau Dũng được đề bạt làm giám đốc một xí nghiệp bột giặt, dẫu rằng nó vẫn chưa được sơn đỏ. Tức là trên đã khuyến khích nhân tài, đã phân công hợp lý, và sửa chữa như vậy cũng là nhanh. Cháu chưa kịp mừng cho nó, mừng cho chúng cháu, vì Đảng đã dám tin một người tức là dám tin một thế hệ, thì cái thằng ấy, chính cái thằng Dũng ấy là mắc sai lầm, một sai lầm cũng tầm thường như trăm ngàn người khác. Nó có yêu một cô là nghệ sĩ hát cải lương, hai bên đã hứa hôn và chuẩn bị làm lễ cưới. Lúc này anh chàng đang rất cần tiền. Nó liền ký một số giấy giới thiệu tới xí nghiệp giấy mua giấy quyến và giấy pơ-luya, loại khổ một mét vuông, khoảng năm trăm tờ. Là mua cho nó thôi, và việc mua bán này đã được một người trong ban giám đốc xí nghiệp giấy thỏa thuận. Nào ngờ cái người đã thỏa thuận lại giữ các giấy giới thiệu do Dũng ký, đưa lên trên báo cáo. Dũng tức giận đến phát điên, nó than thở với cháu: "Cái thằng chó đẻ, nó có thỏa thuận mình mới dám làm, ai ngờ chính nó lại ủn mình vào bẫy". Chú Tường, phó giám đốc công ty, là phó tiến sĩ về hóa chất cao phân tử, rất tin bọn trẻ chúng cháu, nên hoàn toàn bị bất ngờ trước sự lừa lọc của Dũng để kiếm ra đồng tiền. Nhưng chú vẫn tha thứ và tin dùng Dũng như trước đây. Chú Tường là một mẫu người rất hay, chú Việt ạ. Con người đó mới là nhân vật chính của văn học, vì cuộc đời của họ dầy lắm mà sự cống hiến của họ cho đến hôm nay vẫn còn rất to lớn và có ý nghĩa quyết định. Năm chục tuổi, nhưng rất trẻ, một người cháu tin rằng sẽ mãi mãi trẻ. Khi biết Dũng ký giấy tùm lum mua giấy cho riêng mình, chú Tường nói với cháu đầy lo lắng: "Người có tài mà hám tiền, hám danh là rất đáng ngại. Anh ta sẽ không nghĩ tới sự cống hiến nữa mà chỉ còn lo có chuyện kinh doanh sinh lợi mà thôi. ở đâu sinh được lợi, anh ta sẽ đặt vốn vào đó". Hai tháng sau, thằng Dũng và cô vợ chưa cưới trốn ra nước ngoài, theo đường dây tổ chức trong Chợ Lớn, nghe nói nó đi không phải mất tiền, nước ngoài họ đang cần mua chất xám, dầu phải tiêu cả vài chục lạng vàng để được một nhà khoa học cũng vẫn còn là quá rẻ.
Một câu chuyện hơi buồn chú nhỉ, người bất tài mà ở cương vị phụ trách thì tất cả sẽ rối tung, người có tài nhưng hám danh hám lợi thì dễ mất cả Cách mạng lẫn Tổ quốc. Nhưng các chú vẫn cứ nên tin ở bọn cháu đi, dẫu có bực, có ghét vẫn cứ phải tin, vừa giao vừa dạy vậy, phải mất công tí chút chứ biết làm sao.
*
Lại tranh luận về Thiền. Diễn giả mê say nhất luôn luôn là anh Chương.
- Nói về Thiền tức không còn là Thiền nữa. Đạo mà nói ra được không còn là đạo nữa. Tinh hoa của Thiền theo tôi là nghệ thuật tập trung tư tưởng ở mức tuyệt đối. Một tờ giấy cầm lỏng lẻo ngón tay không thể đâm thủng được, nhưng mũi kim có thể đâm thủng, vì nó nhỏ hơn nên bén hơn. Tập trung sự suy nghĩ của mình cho thật nhỏ lại, cho cực kỳ nhỏ thì không có sự bí mật nào của tạo hóa không bị khám phá. Vĩ nhân hơn người thường chẳng qua họ biết cách tập trung sức suy nghĩ của họ ở mức cao nhất. Các cụ xưa thường nói: Tâm viên ý mã, cái tâm của con người chạy nhảy như vượn như ngựa, nên tạp ý nhiều, cái tinh túy bị che lấp. Thiền là lọc bùn cho viên kim cương được lòi ra cho Phật tính được hiện ra.
Tôi hỏi:
- Người đã Thiền đầu óc có sáng suốt hơn người chưa biết Thiền không?
- Tất nhiên là tỉnh táo, sáng suốt hơn bọn ta rồi. ở Mỹ, có một người Thiền tới mức nhìn thấu cả nghiệp trước của người khác. Người ta đưa tới cho ông ta coi một cô gái mắc tật nắm chặt bàn tay mặt, thuốc men đã nhiều nhưng không khỏi, bàn tay chỉ mở ra được ít ngày lại từ từ co ngón nắm lại như cũ. Ông ấy bảo ngay bàn tay oan nghiệt kia kiếp trước đã giết nhiều người quá, nay sám hối đi thì có thể lành khỏi. Quả nhiên như thế thật, sau khi mở được bàn tay cô gái liền quy Phật. Bên Mỹ đạo Phật cũng phát triển lắm.
Tôi nói:
- Một thế kỷ nữa nước Mỹ sẽ có thêm vài triệu tín đồ theo đạo Phật vì đức Phật đã giúp họ mở được một bàn tay.
Anh Chương cười xòa:
- Cũng có thể, có thể lắm chứ.
Anh Quý:
- Tôi có biết một triệu phú Mỹ hằng năm sang Nhật giam mình trong Thiền viện một tháng. Trước đây ông ta chỉ là triệu phú, sau khi học Thiền ông trở thành tỷ phú, không khéo bây giờ thành tỷ tỷ phú cũng nên.
Tôi kêu to:
- Đức Phật bất công quá!
Anh Quý:
- Về sau thằng cha có viết sách thú nhận nhờ có Thiền tạo được cho hắn sự cân bằng trong tâm não, nên đầu óc thông minh hẳn lên, các ngón tẩy của đối phương trên thương trường hắn nhìn thấu cả, quyết định các việc không hề sai trật một ly.
Mặc anh Chương thoáng đỏ:
- Thằng Mỹ dẫu có theo Lão, theo Trang vẫn cứ kiếm được ra tiền. Cái đầu óc thực dụng của nó nhìn ra đồng tiền tinh lắm.
Tôi nói với anh Hảo:
- Anh ở cùng với anh Chương mà không học Thiền để di dưỡng tính tình?
Anh Hảo cười nhẹ:
- Tôi vẫn Thiền đấy chứ, nhưng theo cách của tôi, mà cũng chẳng nghĩ rằng đó là Thiền. Không biết Thiền là siêu đẳng lắm. Thế nào là hi ngôn, tự nhiên, ít nói, để cho tự nhiên. Cậu Chương lý luận nhiều quá tôi e rằng khó mà đạt được cái đào của Thiền.
- Tôi không đạt tới cái huyền nhiệm của Thiền thì đã chết rũ xương ngoài kia rồi.
- Tôi không nhằm đạt tới cái gì cả, không nghĩ mình sẽ thu được cái lợi gì cả, kiến tố, bão phác tôi chỉ cốt giữ cái giản dị, cái tự nhiên thôi.
Anh Quý nghe đã có vẻ chăm chú:
- Nhưng theo được cái cách Thiền của anh thì khó quá!
- Không khó, khó quá lại không phải là đạo nữa. Tôi sống như nước, thượng thiện nhược thủy bậc thượng thiện sống như nước. Nước luôn luôn có khuynh hướng nhập vào dòng lớn chảy ra đại dương. Mà tự nhiên, mà thanh thản.
- Xin lỗi, sắp sang năm mới không nên nói đến chuyện chết, nhưng nếu phải chết anh sẽ di ngôn cho con cháu điều gì?
- Tri túc chi túc biết đủ trong cái đủ. Nhưng mà khó, người ta chỉ hiểu được khi đã trong ngoài bảy mươi thôi.
Tôi pha trò:
- Tạo hóa thật khéo, chỉ cho hiểu khi đã gần kề cái chết. Nếu còn trẻ đã hiểu thì cuộc đời mất mọi cái vui, ai nấy đều mực thước, đều siêu thoát thì em phải bỏ nghề.
Anh Quý:
- Thằng Việt là đại ích kỷ. Lúc nào nó cũng chỉ nghĩ có cái nghề của nó.
Tôi vẫn bông đùa:
- Anh mà không ích kỷ? Miễn là cái tài ngoại giao của mình thật là sáng chói là đủ, bất kể cái đích của nó là thiện hay ác.
- Nhưng tôi đã bắt đầu hiểu.
- Em nói có sai đâu. Người ta chỉ hiểu khi đã không thể tham được nữa.
Anh Hảo:
- Việt nó nói đúng. Người ta chỉ hiểu khi đã gạt bỏ được mọi tham vọng cá nhân. Còn vị kỷ là dễ lầm lắm.
Anh ngừng lại một chút rồi nhướng mắt hỏi tôi:
- Việt có tin rằng riêng anh thì đã hiểu từ năm còn rất trẻ không?
Tôi trả lời rất thành thật:
- Vâng, với anh thì em tin.
Anh Hảo tốt nghiệp trường luật ở Paris, về nước được chính chủ bảo hộ bổ nhiệm làm tri huyện, một chức quan cai trị vào loại cà mèng nhất. Ông bố tôi là dân tham biện chuyển sang ngạch quan lại, học vấn và uy danh tất nhiên không thể bằng ông cử nhân luật, nên cụ có vẻ thích thú cái chức vụ mới đó lắm, thì có cà mèng vẫn cứ là quan lớn và vợ quan lớn tức thị là bà lớn và bà lớn có thể kể với họ hàng: "Ông huyện nhà tôi...". Ông huyện nhà tôi thì sang hơn "ông tham, ông phán, ông ký nhà tôi" rồi. Cái năm chú vợ cháu rể gặp nhau tại huyện Kim Động cũng rất thú vị. Anh cháu thì chán nản, treo ấn từ quan để trở về cái ghế luật sư tự do của mình, ông chú thì hí hửng đến nhận huyện mới thay cháu, với hy vọng một hai năm nữa sẽ được quan trên thương mà thăng lên tri phủ, vì huyện Kim Động là huyện to, thường gọi là phủ Kim Động, có thể gọi ông huyện Kim Động là "tri phủ chờ" cũng được. Bốn mươi năm sau, hai chú cháu gặp nhau ở Sài Gòn và tôi là người được chứng kiến. Ông chú nói ngậm ngùi:
- Năm nay anh đã sáu chục chưa?
- Sáu mươi thế nào, sáu nhăm rồi chú ạ, chú hơn cháu mười tuổi, phải không?
- Nhưng anh còn khỏe quá, trẻ quá. Người cách mạng hình như trẻ lâu hơn bọn tôi.
- Biết đủ, hễ biết đủ thì sống thanh thản lắm.
- Anh dám chịu mất hết bây giờ lại được cả. Tôi cố giữ cái được của tôi, hóa ra lại mất hết.
Anh Hảo là người sướng từ trong trứng, bố tôi thì thế nào được. Cái đại gia đình ấy có cả hai vế: tân học thì có một tiến sĩ, một luật sư, cựu học thì có một phó vương và một khâm sai đại thần. Họ sang đến thế mà họ theo cách mạng được, cả ông phó vương lẫn ông khâm sai đại thần. Còn ông tri huyện khăng khăng bảo thủ chế độ cũ, muốn sống chết vì nó, từ chối mọi sự thay đổi. Thượng thư dám nói tục, đùa tục, họ có nói tục cũng không ai dám nghĩ cụ lớn là dân hèn, còn tri huyện, tri phủ lại thích nói chữ, thích mùi vị quan cách. Con cái những gia đình thật phú quý một đôi trường hợp lại thức thời, con gái những gia đình nửa quý nửa tiện có khi lại khó, do cách giáo dục trói buộc từ nhỏ. Những công dân - công tử theo cách mạng nửa đầu rất hăng hái, rất nết na, nghiêm trang như kẻ tân tòng một tôn giáo. Lấy vợ nông dân, ăn cơm giở đầu đũa, gọi nhau là đồng chí, gia đình có gửi vàng tiếp tế cũng không nhận mà còn viết thư mắng mỏ, vì sự săn sóc riêng tư ấy đã làm nhơ nhuốc cái tâm hồn trinh bạch của người chiến sĩ cách mạng. Nhưng cái nửa sau xem ra không được hồn nhiên như cái nửa đầu, có vẻ mệt, có vẻ chán, có vẻ thất vọng vì cái hôm nay không giống mấy những mơ mộng của hôm qua. Thì ra đã cách mạng rồi mà vẫn giữ còn giàu với nghèo, còn sang với hèn, còn sạch với bẩn, chưa có bình đẳng cho tất cả, cũng chưa có công bằng cho tất cả. Nhưng cách mạng là chuyện của lịch sử, của con người, chuyện của trần gian, với bao nỗi nhọc nhằn, cay đắng của trần gian. Chưa bao giờ và sẽ không bao giờ nó là chuyện của thượng giới, của tiên cảnh, ngoại trừ trong cái đầu đầy mộng tưởng của các công tử đi làm cách mạng. Anh Hảo là đại công tử đi làm cách mạng, nhưng thật may, anh vẫn giữ được cái nhìn đắm đuối, nụ cười hồn nhiên từ trẻ đến già. Chẳng phải vì anh từng trải quá mà hiểu được đời, chỉ vì trời đã cho anh cái tính chất phác, giản dị, tự nhiên. Mấy năm đầu đánh Pháp anh làm thứ trưởng một bộ trong chính phủ kháng chiến. Về sau bộ đó không còn, anh xuống làm vụ trưởng. Có thời anh được tin, có thời anh bị ngờ, rồi anh lại được tin. Được tin hay không được tin anh vẫn làm việc hết lòng, vẫn vui cười, và khi được tham dự các cuộc họp anh vẫn nói rất to những điều anh cho là đúng, là phải. Vì anh làm việc ở tòa án nhiều năm, nên anh luôn luôn nhắc nhở mọi người phải chú ý tới vai trò của tòa án, nó là một trong ba cơ quan bảo vệ và phát huy sức mạnh của luật pháp, luật pháp là cơ chế pháp lý của quyền làm chủ tập thể. Có lần tôi nói với anh rằng trong cái hiểu của tôi thì anh công an giống hệt anh bộ đội, là một chiến sĩ cầm súng chiến đấu trên một mặt trận không có chiến tuyến, không rõ kẻ thù, không có ngưng nghỉ và có thể bị đâm từ sau lưng bất cứ lúc nào. Còn anh kiểm sát và tòa án là những viên chức đeo kính trắng ngồi bàn giấy, thuộc lòng các điều luật, nghiệt ngã, chấp nhặt, bắt bẻ. Tôi nói bậy bạ đến thế mà anh không giận, anh vẫn trả lời từ tốn: "Trước mặt chúng tôi không chỉ có kẻ địch mà còn có những người vi phạm pháp luật, là cậu, là tôi, là các con tôi, thậm chí có cả cấp trên của chúng ta nữa. Với kẻ địch chắc chắn anh em ta không thể đầu hàng, nhưng với bạn bè và người thân có khi chúng ta phải buông vũ khí. Đã thấy khó chưa? Rất khó! Có cần phải can đảm không? Rất cần! Với chúng tôi, cái dũng khí của người cách mạng là tất cả". Một ông già đã bảy mươi, xuất thân từ một gia đình đại quý tộc, theo cách mạng đã non bốn chục năm, khi nói tới cái dũng khí của người cách mạng ánh mắt vẫn long lanh, nghe mà cảm động. Anh sống phảng phất như tín đồ Lão Trang, nhưng lại hoạt động mê say và đầy trách nhiệm, đã nghỉ hưu từ dăm năm nay, nhưng vẫn nhận đủ mọi thứ việc theo hợp đồng với cơ quan cũ, vẫn tham dự các hội nghị quốc tế về pháp luật, đầu óc vẫn minh mẫn, trí nhớ không suy giảm, ăn khỏe, ngủ ngon, dáng dấp nhanh nhẹn như còn đang tuổi cường tráng. Anh bảo tôi: "Lão tử sống một trăm sáu chục tuổi, tôi cho là có lý, vì ông già ấy sống khôn lắm. Sống thật thanh thản chẳng những sống được lâu mà làm việc cũng được lâu". Anh Hảo nhận xét về cậu em rất đúng. Anh Chương phải lý lẽ mới Thiền được. Thiền phải là một cái được của anh khi anh đã chịu mất bao nhiêu cái khác. Ông em đọc sách Thiền, tìm thầy học thiền, thích bàn bạc về Thiền, Thiền đối với anh đã là một tôn giáo mới, cần có giáo lý, có thầy giảng, có tín đồ, và cái không khí ủng hộ. Ông anh mỉm cười: "Thiền thuộc về tâm học, kẻ biết không nói, người nói không biết, nó là bất ngôn tri giáo (12)". Ông em muốn đạt tới sự ngộ đạo bằng nghị lực, bằng diễn văn, bằng sự tính toán trước như chương trình tranh cử vào thượng viện. Ông anh lắc đầu hoài nghi: "Thiền chủ trương không tranh, không muốn, đã muốn là có lòng tham thì Thiền làm sao?". Tôi biết cái ý tứ sâu xa của anh Hảo, anh không Thiền, cũng chẳng ham, anh là thế, như trời đất sinh ra, hồn nhiên và chất phác, làm việc cho cách mạng, tranh cãi cho chân lý vẫn là Thiền, ngồi nhà đọc sách, chơi với các cháu cũng là Thiền, mà anh đâu có để ý tới cái Thiền, không phản đối nhưng cũng chẳng có gì để mà tin. Tin làm gì nhiều thế? Tin rằng cuộc đời dẫu thế nào vẫn cứ là tốt đẹp, cách mạng dầu có chuyện gì cũng vẫn là phát triển, tiến bộ. Thế là đủ, đã rất đủ để làm việc, để vui chơi, để an nghỉ. Cuộc tranh luận thế nào là Thiền giữa hai anh em đã kéo dài một năm nay, từ lúc anh Chương ở ngoài Bắc về và định cư tại nhà anh chị Hảo.
Anh Chương nói với anh Hảo:
- Anh có thể chê tôi ngu vì tôi hay ham. Mọi sự khốn nạn của đời tôi là do cái lòng ham. Nhưng cứ xem, tướng quân muốn làm hoàng đế, thứ phi muốn lên chánh cung, nước giàu muốn thêm thuộc địa, đấy, đấy, đã muốn tức là có tham, đã tham là lắm sự khốn nạn lắm. Rút lại tướng quân bị rơi đầu, thứ phi bị thảm tử, nước giàu thành nước nghèo, không được cái gì hết, nhưng không ai rút kinh nghiệm cả, đời sau vẫn theo vết xe đổ của đời trước, người sau cứ theo cái kinh nghiệm thất bại của người xưa, tham cả, do cái tham nó xui khiến cả. Tôi sẽ còn lý luận về Thiền, vì tôi muốn đạt tới chỗ sâu thẳm của nó, tại sao người khác đắc đạo mà tôi lại không thể? Vô lý! Rất có thể tôi lại sẽ thất bại như làm giáo dục thất bại, hợp tác với Mỹ thất bại, liên minh với cộng sản thất bại. Thất bại dài dài, nhưng tôi không tiếc đời đâu, một đời người được tiêu vào những cái muốn của mình làm say mê lắm. Chỉ vì cái muốn của mình không thức thời, nói theo ngôn ngữ hôm nay, là một chướng ngại trong sự vận động chung, nên mình cam chịu thất bại. Nhưng tôi vẫn còn nhiều ham muốn lắm nhé! Luôn luôn ham muốn, chỉ cầu rằng cái ham của tôi không làm tổn hại đến một ai.