Chương 10
Tác giả: Paul D’Ivoi
Aurett nhắm nghiền hai mắt, người nàng lảo đảo như muốn khuỵu xuống. Người nàng yêu không những bị xử trảm mà còn phải chịu cực hình đeo gông. Một cực hình quá tàn bạo!
Loại gông đó là một kiểu xích cổ được làm bằng một tấm ván gỗ rất nặng có khoét các lỗ để cho đầu và tay tù nhân vào. Lavarède bất hạnh sẽ phải đeo cái gông nặng trịch đó suốt dọc đường đi. Nó không chỉ làm người đeo khó chịu khi đi lại mà còn làm trầy da, chảy máu cổ và cổ tay.
Cô gái thấy Armand bị lôi đi, bị hành hạ suốt các chặng đường mịt mù bụi bặm của vùng Petch-Li. Trong suốt năm ngày trời, chắc chàng sẽ phải chết đi, sống lại, người ngợm bầm tím, đớn đau để có thể vượt qua những con đường dài thăm thẳm dẫn đến Bắc Kinh. Vậy đấy!
Chuyện đó thật khủng khiếp! Và cuối cùng của những đớn đau ấy là cái chết đau thương, tàn bạo. Khi lưỡi hái của đao phủ hạ xuống, đầu.chàng sẽ lìa khỏi cổ cùng với ánh mắt nồng nàn sẽ ra đi mãi mãi.
Tiểu thư Aurett đã hồi tâm trở lại và nàng nói:
- Thưa cha, con có dũng khí và cũng có một điều thỉnh cầu cha.
- Nói đi, con gái yêu của cha.
- Con đã mơ ước trở thành vợ của ngài Lavarède. Đã từ lâu lắm rồi, con đã nhận ra rằng con yêu chàng. Số phận cũng như cuộc thách đố đã buộc con phải câm lặng. Song hôm nay, số phận đã lên tiếng và con cũng không thể giữ kín chuyện này mãi được. Chàng sắp chết và con muốn ở đó, bên cạnh chàng, bảo vệ thi thể chàng chống lại những lời chửi rủa độc địa của lũ người khát máu, lo liệu tang lễ cho chàng rồi sau đó...
Chưa nói hết câu, giọng nàng đã nghẹn lại.
Nàng khóc nấc lên và ngã vào trong vòng tay cha. Không cần nói gì thêm nữa, ngài Murlyton bắt tay ngay vào tìm cách nhanh chóng tới Bắc Kinh.
Một ngày mới của Lavarède bắt đầu với sự có mặt của Chun-Tzé, đi theo sau là Diamba và một nhân vật nữa mặc đồng phục xanh da trời và xanh lá cây.
Ông giám đốc nhà tù đưa tay lên quệt mồ hôi trán. Đứng cúi mặt, hai mí mắt đỏ mọng vì khóc quá nhiều, Diamba thông báo chàng sẽ được chuyển tới Bắc Kinh để thi hành án.
Ban đầu, chàng vui mừng đón nhận tin đó bởi chàng cảm thấy trong tù quá ngột ngạt. Song khi xuống tới sân, bị đeo gông vào cổ và hai tay, chàng mới hiểu ra rằng chuyến đi này chắc chắn lành ít, dữ nhiều.
Lát sau cả nhóm người áp giải và phạm nhân đã ra khỏi thành phố và đi vào nông thôn.
Khoảng 10 giờ, hai người đàn ông trong đoàn dừng lại nghỉ ăn trưa. Mệt mỏi, cổ và hai cổ tay tím bầm do bị cọ xát vào gông, Lavarède cố lựa tư thế ngồi để giảm sức nặng đang đè lên cổ cho bớt đau.
Chàng lặng lẽ ngồi một mình. Tay cầm một chiếc gông khác, một viên cảnh sát tiến lại gần Lavarède. Anh ta đưa tay lên môi, ra hiệu cho chàng giữ im lặng và khéo léo tháo chiếc gông chàng nhà báo đang đeo, thay vào chiếc anh ta đang cầm vừa nhẹ vừa thoải mái hơn rất nhiều.
Lavarède nhìn thấy trên cánh tay của anh ta có xăm hình bông sen. Chàng thầm nghĩ chắc tay cảnh sát này tưởng chàng là người của "Bạch Liên" phái nên mới đối xử tốt với chàng như vậy...
Buổi tối, Lavarède được tháo gông và bị nhốt vào nhà giam. Cực hình đeo gông chỉ áp dụng khi đi đường, gây ấn tượng cho đám đông. Chàng.nhà báo vươn người cho đỡ mỏi. Dù đã được tháo gông, cổ và người chàng vẫn đau nhừ, hai cổ tay phồng rộp rớm máu. Vậy mà phải qua bốn chặng đường nữa mới tới Bắc Kinh.
Cánh cửa phòng giam hé mở. Viên cảnh sát tay có xăm hình bông sen lách vào, tay cầm một chiếc hộp đựng thuốc mỡ màu đo đỏ. Lavarède nhớ lại một câu chuyện chàng đã đọc, trong đó có nói về loại thuốc mỡ này. Nó không nguy hiểm và cũng không gây đau đớn song lại gây nên những biểu hiện trông có vẻ như bị viêm rất nặng. Lavarède chỉ việc bôi thứ thuốc đó vào hai bàn chân và giả vờ không thể đi được.
Sáng hôm sau, khi cảnh sát đến giải chàng đi tiếp, chàng giơ hai bàn chân sưng phồng, với những khoảng đỏ gớm ghiếc cho họ xem và bảo không thể đi tiếp được nữa. Armand được đặt lên cáng, rồi sau đó được đưa lên một chiếc ghe.
Gông xiềng cũng được tháo luôn. Những chặng đường còn lại nói chung khá thoải mái, Armand nhủ lòng thầm cám ơn "những người bạn" quý...
Song cái đích không êm ái như chàng tưởng...
Cảnh sát đẩy chàng vào nhà giam cuối cùng.
Thời gian trôi qua thật chậm chạp và nặng nề.
Sau đó, Armand, được dẫn tới trước một viên quan. Hắn lạnh lùng đến tàn nhẫn thông báo ngày mai chàng sẽ được đi chầu Diêm Vương, đầu lìa khỏi cổ.
Cùng vài lời động viên, an ủi, cảnh sát đưa chàng nhà báo trở lại phòng giam. Chàng cảm thấy kiệt sức và vô cùng chán nản. Chàng không sợ chết song chàng thấy tim mình đang rỉ máu.
Kiếp người có sinh có tử, chàng chỉ tiếc giấc mơ hồng của mình sẽ chẳng bao giờ trở thành hiện thực. ánh sáng xanh lợt lưỡi hái của đao phủ đã chia lìa chàng với Aurett.
Chàng không sao ngủ được, thỉnh thoảng lại giật mình thức giấc bởi những âm thanh hoang tưởng. Buổi sáng, khi cảnh sát đến đưa Lavarède đi xử trảm, chàng đã hoàn toàn kiệt quệ song vẫn buộc phải đeo gông. Một ý nghĩ kỳ lạ đến với chàng: "Nếu sang thế giới bên kia gặp lại bác Richard yêu quý, chắc chắn bác ấy sẽ rất hài lòng vì đã chơi cho mình một vố nhớ đời!" Đám đông kéo theo đoàn người áp giải tù nhân mỗi lúc một đông. Song phải chăng chỉ vì việc xử trảm một tội nhân lại làm đám đông kia tò mò đến vậy? Nằm trên một bãi đất với một góc bãi có dựng rào chắn, có một vật lớn màu vàng nhạt hình giống như một điếu xì gà khổng lồ. Một quả bóng có thể điều khiển được... Herr Kasper, một người Đức đã mang nó tới đây với dự định sẽ giới thiệu cho người Trung Quốc thấy những điều kỳ diệu của khoa học và kỹ thuật khi được bay vài ngày trên bầu trời Trung Quốc.
Cảnh tượng đó chỉ làm cho người phạm nhân quên đi hoàn cảnh của mình trong giây lát. Ngay.sau đó, chàng đã thấm thía hơn lúc nào hết thực trạng bi thảm của mình. Trên bục, tên đao phủ và lũ phụ tá đang đợi lúc "hành quyết". Ngay sát chúng có kê một chiếc ghế gỗ dùng để đặt phạm nhân lên đó với những chiếc lồng gỗ để đựng đầu tử tội. Lavarède thoáng run rẩy, song ngay lập tức chàng đã ngửng cao đầu kiêu hãnh.
Tội chết không thể tránh khỏi, chi bằng hãy hiên ngang đón nhận nó. Theo lệnh của kẻ đứng đầu của đoàn áp giải phạm nhân, chàng ngồi xuống chiếc ghế dành cho tử tội. Đeo chiếc gông nặng trịch trên vai, chàng ngồi đón đợi cái chết tàn khốc đang đến gần.
Đột nhiên, Lavarède run run đứng dậy.
Chàng vừa nhận ra tiểu thư Aurett đứng vịn tay cha nàng trong đám đông.
Cô gái cương quyết tiến lên phía trước dù trông nàng rất yếu, nước da xanh lợt. Đám người trước mặt nàng tự động giãn ra, miệng lẩm bẩm kinh ngạc:
- Lien-Koua!
Lien-Koua có nghĩa là đóa sen trắng. Được cài trên vạt áo, chiếc ghim mà đã có lần bảo vệ cha con nàng ở Takéou sáng lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Aurett tiến thẳng lên bục mà không bị bất kỳ ai ngăn cản. Mọi người tin đó là một đặc ân dành cho những người châu Âu.
Armand nhìn nàng không chớp mắt. Aurett nắm lấy hai bàn tay đang bị đeo gông của chàng.
Nàng nói:
- Chàng đang đợi em có phải không?
Lavarède rụt rè rồi trả lời:
- Vâng, ta đang đợi nàng, như giữa đêm tối ngóng đợi ánh bình minh. Ta đợi nàng bởi vì...
Lẽ ra ta không nên nói điều này với nàng song đao phủ đang đợi ta, môi ta sẽ phải câm lặng mãi mãi nên giờ ta có thể nói điều đó với nàng:
ta đợi nàng bởi vì ta yêu nàng.
Aurett thẹn thùng cúi mặt xuống, hai má nàng ửng hồng.
Murlyton lẩm bẩm:
- ôi! Đó chính là niềm hạnh phúc tuyệt vời nhất của con gái ta!
Aurett khẽ thì thầm chỉ đủ để mình Armand nghe thấy:
- Em cũng vậy, em yêu chàng.
Sắc mặt người tử tội hoàn toàn biến đổi.
Gương mặt chàng sáng bừng, mắt ánh lên niềm hạnh phúc vô bờ. Song niềm vui ấy chẳng kéo dài được bao lâu...
- Vĩnh biệt, Lien-Koua, vĩnh biệt bông sen trắng của tôi...
Một tiếng vọng khe khẽ lan tỏa trong đám đông:
- Lien-Koua, Lien-Koua!.Nhân có lúc đám đông đang hò reo lộn xộn, Aurett vớ luôn con dao găm giắt ở thắt lưng của một người đứng gần đó, cắt dây da buộc gông và lập cập kéo Lavarède bỏ chạy. Ngài Murlyton cũng vội đuổi theo họ. Đám đông cứ giãn ra nhường đường cho họ với một thái độ tôn kính hết sức kỳ lạ. Cảnh sát rượt ngay theo kẻ tử tội và bọn đồng lõa. Lavarède và hai cha con người Anh cứ nhằm thẳng phía trước chạy miết. Và như thể có một phép lạ, họ đã chạy tới chỗ để quả khinh khí cầu.
Chàng trai Paris reo lên mừng rỡ:
- Chúng ta thoát rồi!
Trong khi những người ủng hộ "Bạch Liên" phái tìm cách ngăn cảnh sát lại, Lavarède cùng những người bạn đồng hành đã trèo lên chiếc giỏ của khinh khí cầu và cắt dây buộc. Tuy nhiên nó không thể bay lên được. Có vật gì đó rất nặng đang giữ nó lại: đó chính là lão già Bouvreuil.
Phải nhanh chóng tìm cách bay lên. Lavarède khuân một chiếc hòm nặng trịch để trong giỏ khinh khí cầu và vứt xuống đất và quả khinh khí cầu đột ngột bay vọt lên, kéo theo "vị khách không mời" vẫn đang bám chặt vào dây neo.
Bouvreuil hét lên kinh hãi. Lavarède và ngài Murlyton thương tình kéo lão lên giỏ khinh khí cầu. Lão ta sợ quá, nằm ngất lịm.
Lavarède chống tay vào thành giỏ khinh khí cầu ngắm nhìn phong cảnh bên dưới chân chàng.
Gió mát rượi, cuốn quả cầu băng qua biết bao ngọn đồi, làng mạc, dòng suối làm chàng chẳng kịp nhận ra những địa điểm vừa bay qua. Sau khi ngắm cảnh đã chán mắt, chàng trai Paris kiểm kê các đồ đạc để trong giỏ khinh khí cầu. Chàng nhận ra một điều thật đáng buồn: ngoài các dụng cụ hàng không, dụng cụ tập thể dục và bản đồ, không hề có một chút lương thực nào.
Lavarède lên tiếng:
- Thưa tiểu thư, dù đã thú nhận những tình cảm chân thành của mình với nàng...
Aurett cúi mặt, đưa mắt nhìn xuống.
-... Tôi không thể quên phía trước chúng ta còn rất nhiều khó khăn, trở ngại. Giờ đây, lợi ích của chúng ta đều là một. Chúng ta cùng bị nhốt trong một khinh khí cầu đang bay lơ lửng trên một vùng đất nghiệt ngã. Chắc tiểu thư cũng chưa quên thái độ bài ngoại của người dân nơi đây đối với người châu Âu. ở Bắc Kinh còn không đến nỗi chứ bây giờ chúng ta đã rời khỏi những nơi mà "đóa sen trắng" có thể bảo vệ chúng ta.
Bouvreuil đã tỉnh, hai hàm răng va vào nhau lập cập.
Lavarède nói tiếp:
- Nếu gió cứ tiếp tục thổi như thế này, đêm nay, chúng ta sẽ tới Shangai. Bằng không chúng ta sẽ vẫn trôi lang thang không bến đậu..Aurett phản đối:
- Nhưng tôi tin quả khinh khí cầu này có thể bay được vài ngày nữa.
- Đúng vậy, nhưng chúng ta không có lương thực...
Murlyton lẳng lặng dốc chiếc túi đựng đồ ăn đã lấy ở khách sạn ngày hôm qua mang theo người. Song số đồ ăn đó chỉ đủ trong một ngày, không thể kéo dài hơn được. Mặt ai nấy đều xịu xuống.
Bouvreuil rên rỉ:
- Trời ơi! Không có cái ăn thì chúng ta sẽ chết đói mất!
Giọng nói của kẻ thù làm chàng trai Paris vui hẳn lên:
- Không, thưa quý ngài đáng kính, ngài sẽ không bị chết đói đâu. Không còn lương thực nữa, tôi cũng nói vậy sao? Quả thực tôi đã nhầm.
Chúng tôi có ngài ở đây cơ mà.
Lão già chuyên cho vay nặng lãi hốt hoảng nói:
- Tôi ở đây ư? Thế là thế nào?
- Chúa đã phái ngài xuống đây để cứu rỗi ba con chiên ngoan đạo trong lúc khốn khó. Mọi người nhìn xem, người đàn ông béo tốt này chắc lọc ra cũng phải được hơn năm chục cân thịt.
Bouvreuil giãy nẩy, gào lên như lợn bị chọc tiết:
- à ra vậy, các người định ăn thịt ta ư?
- Đúng vậy, thưa ngài Bouvreuil.
- ở đây, ngài chỉ là kẻ không mời mà đến.
Nếu tôi cứ để ngài bên ngoài giỏ của khinh khí cầu, chắc chỉ trụ được vài phút, ngài đã rơi xuống nát bét rồi. Vậy tại sao ngài không đền đáp tôi bằng cách tự xẻo thịt mình nhỉ?
Khó khăn lắm Aurett và Murlyton mới nhịn được cười. Họ rất ngưỡng mộ chàng trai Paris bởi ngay trong những lúc khốn khó cũng không làm mất đi tính hài hước của chàng. Duy chỉ có lão Bouvreuil cứ ngồi co rúm vào một góc sợ hãi.
Gió thổi mạnh đưa họ đi rất nhanh. Buổi tối, Bouvreuil lôi ra một chiếc bánh ga tô lão mua trong thành phố và vui vẻ chia cho mọi người những mong cứu được tính mạng mình bởi lão cứ đinh ninh rằng họ sẽ ăn thịt lão.
Vào lúc hai giờ sáng, Lavarède ước tính sẽ phải mất một tiếng nữa mới tới Shangai. Song số phận không chiều lòng họ. Gió đã đẩy họ đi quá xa, ra tận ngoài biển. Một ánh chớp lằng ngoằng lóe lên, rạch ngang bầu trời. Sóng bắt đầu chồm lên nhau giận dữ như muốn nuốt chửng cả bầu trời.
Armand gầm lên:.- Chúng ta đã bị cuốn ra biển rồi. Giờ chúng ta phải bay lên cao và tìm luồng gió trái chiều mới mong quay trở lại đất liền.
Họ vứt tất cả những thứ còn sót lại trên giỏ khinh khí cầu ngoại trừ chiếc la bàn. Khinh khí cầu bay vọt lên cao, nằm lơ lửng ngay giữa trung tâm của cơn bão. Những tia chớp ngoằn ngoèo cùng với tiếng sét nổ đinh tai và mưa bắt đầu trút xuống xối xả. Bất kỳ lúc nào, Lavarède và những người bạn đồng hành cũng có thể bị sét đánh cháy đen thui. Rồi đột ngột khinh khí cầu gặp phải một luồng không khí mạnh, thổi bạt nó về phía Tây với một tốc độ chóng mặt.
Các thành viên trên khinh khí cầu ngồi túm tụm lại núp ở đáy chiếc giỏ khá lâu, chân tay tê cóng vì lạnh và thiếu ôxi. Tuy nhiên, một lúc sau nó từ từ hạ xuống. Họ đang bị trôi giạt tới vùng đất nào vậy? Lavarède phóng tầm mắt nhìn xuống bên dưới. Chao ôi! Đúng là chốn hỗn mang với những đỉnh núi phủ đầy băng tuyết nằm nối tiếp nhau và những mỏm đá nhọn hoắt chồng lên nhau trông thật hoang vu.
Đột nhiên, Aurett nhìn thấy có bóng người trong thung lũng. Họ đang ngẩng lên dõi theo hướng di chuyển của "quả bóng".
Trang phục của họ làm Lavarède gợi nhớ tới một điều gì đó. Chàng nói:
- Không thể thế được. Chẳng lẽ bão đã cuốn chúng ta từ Đông sang phía Tây Trung Quốc.
- Cậu hãy giải thích rõ hơn đi...
Bên dưới, đám người tò mò đang nhảy lên reo hò vui sướng. Họ dùng súng bắn lên trời song đó là tín hiệu của sự chào đón nồng nhiệt.
Bouvreuil lo lắng:
- Bọn họ không phải là lũ ăn thịt người chứ?
Chẳng ai trả lời lão.
Lavarède thông báo:
- Chúng ta đang ở Tibet.
Lúc này bầu trời hoàn toàn lặng gió. Chiếc giỏ khinh khí cầu nhẹ nhàng chạm xuống thảm cỏ xanh mướt phủ kín cả thung lũng..