Chương 11
Tác giả: Paul D’Ivoi
Đám đông ồn ã, khoa chân múa tay bu quanh các du khách. Xen lẫn giữa những tiếng reo hò thích thú, họ cảm nhận trong đó có một niềm tôn kính vô hạn. Những cư dân ở đây chào đón họ theo kiểu rất nhộn: bằng cách thè lưỡi ra. Aurett phá lên cười song Lavarède bảo với nàng rằng đó là kiểu chào của người dân ở đây.
Các thầy tu ở đây được người ta gọi là "sư thầy" giúp họ thoát khỏi căn nhà tù khinh khí cầu với tất cả niềm tôn kính sâu sắc nhất.
Lavarède làm bộ ra vẻ cho họ thấy chàng đang đói. Họ dẫn các du khách tới một cung điện. Một cánh cổng lớn được chạm khắc tinh xảo mở ra phía trước. Chàng nhà báo và những người bạn của chàng. Họ đi vào một đại sảnh rộng thênh thang có ánh sáng rất dịu mát. Có một khối đá cẩm thạch lớn màu xanh lá cây dựng ở cuối sảnh.
Một sư thầy chỉ tay về phía đó. Lavarède đoán sư thầy muốn chàng trèo lên khối đá ấy.
Nghĩ rằng đó là một tập tục của vùng này, chàng lặng lẽ vâng theo.
Từ trong họng sư thầy phát ra một tiếng ngân dài "A....". Các vị sư khác đốt một thứ bột màu trắng tạo nên một làn khói dày đặc có mùi nhựa trám hương.
Lavarède ngạc nhiên:
- Không lẽ mọi người ở đây sùng kính mình như vậy là vì mình đã từng là tổng thống nước cộng hòa Costarica? Tên tuổi của mình lan đến tận đây sao?
Cứ hai người một bước theo nhịp chiêng, các vị sư trịnh trọng bưng vào các món ăn và bình đựng nước bằng bạc rồi lần lượt giới thiệu từng món một cho Lavarède thưởng thức. Chàng nhà báo yêu cầu chuyển một phần mật, hoa quả và thịt cho hai cha con người Anh. Phần còn lại được đưa sang cho Bouvreuil...
Trong khi họ đang ăn, những người sùng đạo đã tràn vào chật ních cả chùa. Tất thảy đều quỳ gập người xuống đất, tay nâng lên quá đầu một chiếc gậy, trên đầu gậy có một khối trụ xoay tròn, miệng lầm rầm cầu nguyện.
Chàng trai Paris rên rỉ:
- Thôi đúng rồi, họ lại tưởng tôi là đức Phật giáng lâm.
Việc hành lễ kéo dài đến chập tối. Cuối cùng khi đêm xuống, Lavarède cũng được nghỉ ngơi yên lành sau buổi "hành xác" mệt lử..Chàng nói với những người bạn đồng hành:
- Thực ra tại sao người ta lại chọn tôi mà không phải ai khác trong số chúng ta?
Song chẳng ai có thể giải đáp được câu hỏi này.
Ngày hôm sau, các nghi lễ đó lại tái diễn và nhiều ngày sau cũng vậy. Đổi lại các buổi ngồi nghe tụng kinh, chàng nhà báo được chăm sóc, chiều chuộng hết sức chu đáo, được ăn ngon, uống các loại rượu vang hảo hạng. Song nếu chàng định tránh không nghe các buổi tụng kinh hay có ý định rời khỏi chùa, chàng sẽ bị các nhà sư tìm đủ mọi cách ngăn lại với thái độ hết sức sùng kính. Có khi để buổi lễ diễn ra suôn sẻ và phòng chàng chống cự, các nhà sư đã trói Lavarède lại.
Chàng trai Paris vô cùng phẫn nộ song chỉ có thể xẻ chia với hai cha con người Anh, bởi bản thân họ cũng phải chịu kiếp tù giam lỏng như chàng. Duy chỉ có Bouvreuil lại vô cùng khoái trá: trước nhất lão ta được tự do, thích làm gì thì làm, chẳng ai động chạm đến, sau nữa với tình hình này thì "con rể" của lão sẽ thua cuộc.
Lavarède tìm cách chuốc rượu hay đánh lừa bọn lính canh, song mọi mưu toan của chàng chỉ càng làm cho việc canh phòng trở nên nghiêm ngặt, khó khăn hơn.
Chàng giận dữ bởi sự bất lực của chính mình:
vậy là chàng cứ chết gí ở đây với vai trò Phật giáng thế sao. Song đến tối của ngày thứ hai, một sự cố đã xảy đến làm chàng khấp khởi hy vọng.
Một người đàn ông lạ mặt tới gặp chàng ở chính điện. ông ta mặc một chiếc áo khoác "katbalpa" màu sẫm, bó ở chỗ thắt lưng và một chiếc quần rộng của những người Xibia.
Lavarède tự nhủ:
- Lạ nhỉ, không biết người đàn ông này từ đâu tới?
Người đàn ông chậm rãi tiến lại gần bệ đá, cúi lạy, xoay chiếc gậy cầu nguyện rồi khẽ thong thả hỏi:
- Ngài đến từ vùng nào của châu Âu?
Lavarède ngỡ ngàng: ông ta nói tiếng Pháp.
Chàng hỏi:
- ông là ai?
- Rachmed, thuộc dòng họ Tekké.
Rachmed, người dẫn đường lừng danh của nhà thám hiểm Bonvalot ư?!
- Vâng. Chỗ tôi ở cách đây năm ngày đường.
Qua các du khách, tôi được biết đức Phật đã giáng thế.
Lavarède và các bạn của chàng cùng buột miệng kêu lên:
- Đức Phật!
Người đàn ông họ Tekké nghiêng đầu kính cẩn:.- Vâng. Lúc nhìn thấy quả khinh khí cầu bay trên trời, tôi biết chắc các du khách châu Âu thể nào cũng bị các nhà sư bắt giữ: Vậy nên tôi đã vội vã lên đường để giúp họ chạy trốn. Bonvalot đã làm cho tôi yêu quý tất thảy những người châu Âu.
Aurett mỉm cười duyên dáng với vị cứu tinh bất ngờ rồi khẽ hỏi:
- Nhưng tại sao ngài lại biết chúng tôi bị giam giữ?
- Đó là cả một truyền thuyết linh thiêng, một lời tiên tri mà tôi được biết. Các bạn nghe nhé:
"Không lâu nữa, đức Phật sẽ giáng thế ở Tây Tạng. Vì đức Phật sẽ lưu lại trên vùng cao nguyên, xứ sở này sẽ trở nên vô cùng thịnh vượng.
Do vậy các nhà sư dùng lễ vật, của cải để giữ chân người với một sự sùng kính tuyệt đối song họ cũng không bao giờ cho phép người bỏ đi!
Tai họa sẽ ập xuống nơi đây nếu một ngày không có sự che chở của người." Tất cả chăm chú lắng nghe và giờ họ mới vỡ lẽ.
Nghe thoáng có tiếng bước chân trên nền đá lát, Rachmed trở lại với tư thế cầu nguyện và khẽ nói:
- Họ đang đến. Ngày mai các vị sẽ gặp lại tôi.
Tối hôm đó, Armand được các nhà sư cho phép gặp hai cha con người Anh. Cả ba ngồi bàn bạc về kế hoạch bí mật của Tekké song họ quyết định không nói cho Bouvreuil biết.
Ngày hôm sau, Rachmed tới gặp Tag-Lama, vị sư thầy trụ trì ở đây, bày tỏ mong muốn được nói chuyện với đức Phật giáng lâm. Vì là phiên dịch trong suốt chuyến đi cùng ngài Bonvalot, Tekké có thể hiểu được những gì Phật dạy. Các nhà sư cho ông ta vào thảo luận với Lavarède và ngay sau đó, một tin tức loan ra: nhờ một tài nhân có khả năng sử dụng ngôn ngữ của thánh thần đức Phật sẽ có thể trò chuyện với các chúng dân Tây Tạng. Tức thì từng đoàn người ùa vào chùa như thác đổ. Họ hỏi đức Phật về mọi thứ trên trời dưới bể. Chàng nhà báo theo như các câu hỏi họ đặt ra bỗng chốc trở thành bác sĩ, bác sĩ thú y hay nhà chiêm tinh học.
Thành ra việc bỏ trốn cũng đành giậm chân tại chỗ cho dù việc giam giữ đã đỡ nhàm chán hơn chút ít. Các nhà sư huy động mọi biện pháp ngăn không cho chàng chạy trốn. Mỗi lần vào gặp chàng, Tekké đều bị lục soát rất kỹ lưỡng.
Vậy là hai tuần nữa lại trôi qua. Aurett, Mur-lyton, Rachmed, tất cả mọi người đều cảm thấy cực kỳ căng thẳng, khó chịu. Mọi phương cách đều bị vô hiệu hóa làm họ càng thêm căng thẳng cộng với việc Bouvreuil cứ điềm nhiên, mặt nghênh nghênh đi lại như chọc tức họ. Duy Lavarède vẫn giữ được đôi chút bình tĩnh. Có thể chàng đã nảy ra một diệu kế gì đó. Thực ra, Lavarède đã yêu cầu Rachmed dịch lời mời Tag-Lama tới dùng bữa tối cùng chàng. Ngày hôm sau, chàng cho đọc một bài diễn văn rất dài được Rachmed dịch trong buổi lễ.
Lavarède kết thúc bài diễn văn hùng hồn của mình với những lời lẽ như sau:
- Các thế lực xấu xa đang nổi dậy chống lại ta, với những hiểm họa khôn lường cho thế giới này như: băng giá, bệnh tật... Đã đến lúc chúng phải bị tiêu diệt. Hỡi tất cả các sư sãi hãy nghe theo lời ta, mang vào trong chùa cỗ xe không khí đã từng đưa ta tới đây. Cùng các bạn đồng hành, ta sẽ tu sửa và dùng nó đưa người hầu của ta trở về thượng giới. - Chàng chỉ tay về phía Bouvreuil, đang đứng ngây ra ngơ ngác. - Khi quay lại, anh ta sẽ mang theo các bùa khí để đề phòng và chấn giữ sự tấn công của lũ yêu ma.
Nghe đức Phật hứa như vậy, tiếng reo hò hoan hỉ vang dậy khắp nơi. Các nhà sư buộc phải nhượng bộ trước áp lực của dân chúng. Ngay tối hôm đó, Lavarède đã có được quả khinh khí cầu.
Trông nó thật thảm hại song có thể sửa chữa được.
Ngày 24 tháng 12, khinh khí cầu đã sẵn sàng khởi hành. Nó được đặt giữa sân, trong giỏ đã được để đầy ắp vũ khí, quần áo ấm, lương thực và những đồ hiến tế của các phật tử Tây Tạng.
Rượu gạo sẽ cung cấp khí nóng cần thiết giúp khinh khí cầu bay lên. Các nhà sư tỏ vẻ lo lắng song Lavarède tuyên bố chỉ có Bouvreuil, người hầu của chàng sẽ bay về thượng giới.
Buổi tối đã tới. Nhờ lời mời Tag-Lama tới dùng bữa tối, Lavarède thấy cửa nhà giam sơn son thiếp vàng của mình được mở toang. Hai cha con người Anh cũng được tự do đi lại như Rach-med.
Còn Bouvreuil thì sao? Đương nhiên chẳng ai mời lão tới.
Khi bước vào trong phòng Lavarède, vị sư trụ trì ngôi chùa chưa kịp ý thức được chuyện gì xảy ra đã bị đập một đòn vào gáy, ngã lăn quay, ngất lịm. Chàng nhà báo lột quần áo của ông ta ra, mặc vào đóng giả làm Tag-Lama và lặng lẽ rời khỏi phòng của mình. Sư sãi ở chùa này đội một chiếc mũ khá lớn, che gần hết gương mặt, khi đi đầu hơi cúi xuống vẻ suy ngẫm và rất ít nói. Tất cả những điều đó hoàn toàn ăn khớp với kế hoạch của Lavarède. Chàng từ tốn đi về phía quả khinh khí cầu với những người bạn đang đợi chàng ở đó. Trong nháy mắt, cả bốn người trèo lên khinh khí cầu và cắt đứt các dây buộc.
ở phía bên dưới, những người Tây Tạng hoảng hốt ngước lên nhìn họ, song đã quá muộn:
quả khinh khí cầu bay mỗi lúc một cao hơn, bỏ mặc đằng sau tiếng la hét, van xin và cả những lời hăm dọa nữa.
Các du khách của chúng ta mất rất nhiều ngày bay trên mảnh đất đang trong mùa băng giá này. la bàn chỉ khinh khí cầu đang di chuyển về phía Nam, về phía ấn Độ, ở đó Lavarède và các bạn chàng có thể dễ dàng tới một bến cảng, lên.tàu quay lại châu Âu và chàng sẽ thắng cuộc. Tuy nhiên, Rachmed lại tỏ vẻ lo lắng. ông ta cho rằng khinh khí cầu đang di chuyển về phía Bắc.
Từ trên cao, ông cảm thấy khung cảnh những vùng bay qua khá quen thuộc như thể ông đã cùng nhà thám hiểm lừng danh Bonvalot đã từng một lần đặt chân tới. ông càng phiền muộn hơn bởi đây là một xứ sở hoang vu, lạnh giá với hoang mạc Gobi, và không có lương thực tiếp tế. Nếu quả thực họ đang đi về phía Bắc, chắc chắn họ sẽ bị thua cuộc.
Lavarède an ủi:
- Thôi đừng lo lắng Rachmed, la bàn đã chỉ hướng như vậy làm sao mà sai được.
Hỡi ôi nhưng lần này chàng đã lầm và khi nhận ra thì đã quá muộn: chiếc la bàn đã bị hỏng trong cơn bão. Khinh khí cầu đang bay về phía Sibéria.
Đột nhiên có một cơn gió dữ dội ào tới, thổi bạt ngọn lửa trong bếp nhỏ và vỏ bọc ngoài bằng vải xoa của khinh khí cầu bắt lửa, bắt đầu bốc cháy. Họ chưa bao giờ gặp phải một hoàn cảnh khủng khiếp tương tự như bây giờ.
Tiểu thư Aurett run rẩy nói:
- Vĩnh biệt cha, vĩnh biệt ngài Lavarède!
Những lời nói đó như xát muối vào lòng ba người đàn ông. Họ kéo dây néo, cố tìm mọi cách xoay xở để khinh khí cầu đáp xuống bên bờ một dòng sông đã bị đóng băng. Vỏ bọc ngoài của khinh khí cầu hầu như đã bị cháy thành than.
Lavarède nói:
- Mọi người đừng rối trí. Lương thực, vũ khí, áo lông, lều bạt, tất cả mọi thứ của chúng ta đều ở trong này.
Phải khó khăn lắm, cuối cùng họ cũng đáp được xuống bờ sông. Giữa những ngọn núi đá lởm chởm, có một con đường mòn dẫn đến một cái hang. Đi được vài bước các du khách châu Âu đứng khựng lại sững sờ. Mái và vách hang, dường như được nạm bằng ngọc, với hàng nghìn mắt nhỏ, phản chiếu ánh sáng xóa tan không khí tối tăm ảm đạm.
Aurett khẽ thốt lên:
- Đẹp tuyệt vời!
Tekké nói ngắn gọn:
- Muối mỏ đấy.
Dù sao cát dưới chân họ rất mịn, mềm mại, khô ráo và mắt họ ánh lên rạng rỡ. Cả bốn nằm cuộn tròn trong các chiếc áo lông và từ từ thiếp đi.
Có vài bóng đen đi vào trong hang và tiến về phía những người đang ngủ. Bọn họ đến sát bên tiểu thư Aurett, hết sức nhẹ nhàng, cẩn thận nâng nàng lên và đưa ra ngoài hang. Toán người đó buộc nàng vào lưng một con ngựa rồi tất cả nhảy lên ngựa phi nước đại..Sáng hôm sau, dù đã gọi khản cả cổ, tìm khắp xung quanh song vẫn chẳng thấy bóng tiểu thư Aurett đâu. Rachmed thông báo có thể nàng đã bị bắt cóc làm ngài Murlyton và Lavarède rụng rời tay chân.
Họ đi bộ cả ngày về phía Tây theo đường chỉ dẫn của Rachmed. Đêm xuống, cả ba ngủ thiếp đi vì kiệt sức, mặc nhiệt độ ngoài trời đã xuống tới âm ba hai độ C. Đột nhiên, họ nghe thấy có tiếng cọt kẹt.
Tekké thì thào:
- Một chiếc xe chở hàng.
Lavarède nói:
- Một chiếc xe chở hàng ư? Như vậy sẽ có người đánh xe. Chúng ta được cứu sống rồi.
Người đánh xe có vẻ không an tâm lắm khi trông thấy ba người đàn ông tiến tới hỏi lão là ai. Đó là một ông già, lưng còng khoác một tấm da bò Tây Tạng. Dưới chiếc mũ có lót da lông thú, gương mặt ông ta hiện ra gầy hóp với bộ râu xám dài. Đột nhiên người ông ta co rúm lại và toàn thân run lẩy bẩy.
Ông ta nói:
- Hãy nghe đây, tử thần...
Lavarède hỏi:
- ông ta đang nói về cái gì đấy?
Rachmed nói:
- Về con gấu xám ở cao nguyên. Một trong những con thú hung ác, man dại nhất ở đây...
Người đánh xe rên rỉ:
- Một đêm đáng nguyền rủa. Nó đã đánh chết các con bò Tây Tạng của tôi. Giờ gia sản của tôi chỉ còn hai con bò này vậy mà chúng cũng sắp bị nó giết và xé xác. ôi! Cả một đời tôi chắt chiu dành dụm một nắng hai sương, giờ lại sắp bị chết đói.
Lavarède giơ khẩu súng trường lên và nói:
- Chúng tôi sẽ bảo vệ lão. Thế nó ở đâu?
- Không xa đây đâu. Nó đã đánh hơi được con mồi.
Mặt trăng từ từ hiện ra sau đám mây mờ, dát ánh bạc lóng lánh lên các mỏm núi đá làm khung cảnh trở nên lung linh huyền ảo. Một khối đen cách chỗ họ đứng chừng năm mười bước, lừng lững tiến lại. Con gấu rống lên một tiếng nghe thật ghê rợn. Nó dừng lại trong tích tắc quan sát kẻ thù rồi rống lên một tiếng nữa và lao về phía họ.
Ba tiếng súng rít lên. Con thú bị trúng đạn song nó không chết. Nó lao vào Rachmed. Người dẫn đường hét lên tuyệt vọng. Thấy vậy, quên cả nguy hiểm, chỉ nghĩ tới việc cứu người bạn đường, Armand phi người về phía con gấu, rút phắt ra con dao dài của người Tây Tạng, đâm một nhát.vào vai nó. Song chàng bị nó hất ngược trở lại cách đó vài mét.
Chàng nhà báo đứng phắt dậy vào thế tự vệ song điều đó chẳng cần thiết. Con thú đã bị thương quá nặng. Nó lảo đảo bước thêm vài bước rồi đổ ập xuống, móng vuốt của nó cào nát một khoảng đất. Con gấu đã chết.
Song Tekké cũng bị thương khá nặng. Máu ở vai ông chảy ra xối xả. Để bày tỏ lòng biết ơn, ông lão đánh xe tình nguyện chở người bị thương về nhà mình. Tất cả đồ đạc được chất lên xe cùng Rachmed. Giữa đêm tối, chiếc xe từ từ lăn bánh, bỏ lại đằng sau xác con gấu đã cứng đơ vì lạnh.