Phần II
Tác giả: Phạm Quỳnh
Cổ ngữ Âu châu có câu: “Trăm con đường đều quay đầu về thành La Mã”. Có ý nói thành La Mã là nơi trung tâm của lịch sử Âu châu đời xưa, đâu đâu cũng qui phục về đấy, muôn sự đều do đấy mà ra. Cái ánh sáng của văn minh nước La Mã nhóm lên từ đấy mà chiếu khắp thế giới, cái oai quyền của quân đội nước La Mã dấy lên từ đấy mà trấn áp hoàn cầu; cái then máy của cuộc thống nhất nước La Mã cũng do tự đấy mà vận động ra suốt cõiÂu Châu. Từ xưa đến nay phàm nước nào đã có một cuộc lịch sử lâu dài đều có một nơi trung tâm như thế: nước nào cũng có một thành La Mã vậy. Thành La Mã của Việt Nam ta là ở đâu? Tức là nơi Đế đô bây giờ, đất Thuận Hóa khi xưa, kinh thành Huế ngày nay vậy.
Lấy lịch sử mà xét, lấy địa thế mà chứng, lấy cái tình thế chính trị ngày nay mà chiêm nghiệm, lấy lòng khuynh hướng quốc dân sau này mà dự đoán, thành Huế thực là chốn căn cứ, nơi yếu điểm của giống Việt Nam, xưa đã nhờ đấy mà gây dựng nên bờ cõi, nay lại nhân đấy mà nói lên cái tư cách mộtdân quốc hoàn toàn. Ôi! Phàm đã gọi là một dân quốc không thể giây phút thiếu cái tư tưởng, cái tinh thần một dân quốc. Tư tưởng ấy, tinh thần ấy gọi một tên tức là cái quốc hồn vậy. Quốc hồn của Việt Nam ta ngày nay phải tìm ở đâu cho thấy? Thiết tưởng phi ở Huế không đâu thấy vậy.
Ấy trước khi bước chân xuống đất Huế, cái tư tưởng tôi triền miên như vậy. Tôi chưa biết Huế tôi đã yêu Huế rồi, yêu vì cái nghĩa cao thượng nó ngụ ở trong cái tên ấy, yêu vì cái cảm tình vô hạn nó chan chứa trong lòng tôi. Bình sinh tôi học vấn được đến đâu, cảm giác được đến đâu, tư tưởng được đến đâu, hy vọng được đến đâu, bấy giờ tựa hồ như con sông vỡ đê mà tràn ngập cả trong tâm giới tôi vậy.
Đương mộng tưởng mơ màng thì xe hỏa dừng trước nhà ga Huế. Sực tỉnh trong bụng nửa mừng mà nửa lo. Mừng rằng nay đã tới nơi rồi, lo rằng không biết sự thực có xứng với cái mộng không, hay là quen thói thường chỉ đủ khiến cho mình thất vọng...
Thường câu đọc trong sách Đại Nam nhất thống chí, thiên Kinh sư, có tả địa thế cùng lược lịch sử nơi kinh thành Huế như sau này:
“Chốn Kinh sư gồm cả núi bể trong nước mà ở vào giữa khoảng Bắc Nam, khí hậu hòa bình, sơn thủy kỳ tú. Đường bể thì có cửa Thuận An, cửa Tư Hiền làm hiểm, đường lục thì có ải Quảng Bình, ải Hải Vân làm trở. Sông nhớn bao mặt trước, núi cao chắn mặt sau. Ba nguồn Bồ Trạch bọc bên tả bên hữu. Đầm Tam Giang, đầm Thanh Lam, đầm Hà Trung làm then làm chốt. Thực là một nơi hổ chồm rồng cuốn, địa thắng hình cường; đất hiểm yếu của giời đất, làm thượng đô cho đế vương. Kể từ khi nước Nam dựng nước, thuộc về nhà Trần là đất Thuận Hóa, thuộc về nhà Lê là Thuận Hóa thừa tuyên, đều xưng là nơi trọng trấn. Về Bản Triều, đức Thái tổ Gia Dũ Hoàng đế chịu mệnh Giời mở nền nước ở cõi Nam, trước đóng ở Ái Tử, sau đi ra Trà Bát (tên làng thuộc tỉnh Quảng Trị, huyện Đăng Xương, lại đi ra phía đông Ái Tử nữa ở nơi gọi là Cát Doanh). Đức Hi tôn Hiếu Văn Hoàng đế lại tự Cát Doanh đi ra Phúc An (tên làng, thuộc huyệnQuảng Điền). Đức Thần Tôn Hiếu Chiêu Hoàng đế lấy nơi Kim Long là đất có hình thế, đổi ra đóng đấy. Đức Anh tôn Hiếu Nghĩa Hoàng đế lại dịch ra Phú Xuân (Kim Long Phú Xuân đều là tên làng). Đức Thế tôn Hiếu Võ Hoàng đế chia đất trong cõi làm 12 doanh. Ở Phú Xuân thì gọi là Chính doanh,lại xưng là Đô thành. Đều là đất Thuận Hóa vậy. Phía Bắc cưỡi lên sông Gianh, phía Nam gồm đất Chân Lạp, Liệt Thánh tương truyền hơn hai trăm năm. Năm Giáp Ngọ đời đức Duệ tôn Hiếu Định Hoàng đế, quân Trịnh đến chiếm. Sau bị giạc Tây Sơn trộm giữ trong ba mươi năm. Kịp đến đức Thế tổ Cao Hoàng đế ta dấy lên như rồng như mây, thay Giời dẹp giặc, mùa thu năm Mậu Tuất thu phục thành Gia Định, mùa hạ năm Tân Dậu khắc phục chốn cựu kinh, mùa hạ năm Nhâm Tuất bắt tướng giặc ở cõi Bắc; từ đó gồm An Nam nhất thống dư đồ, bờ cõi mênh mông, nam tới Tiêm La Chân Lạp, bắc giáp nước Tàu, đông đến bể, tây đến Ai Lao. Giở về đất cũ, mở rộng thêm ra, định đô ở Phú Xuân, từ đấy mới xưng là Kinh sư vậy. Đặt phép tắc, định triều cống, như cái nóc nhà cao hơn cả, bốn bề đều quay về đấy, như ngôi sao Bắc đẩu tôn hơn cả, trăm sao đều chầu chung quanh. Cái nền vững vàng thịnh vượng của nước nhà trong ức vạn năm thực là ở đấy vậy. Rực rỡ thay! Vẻ vang thay!"
Lấy cái cảm giác nhà ái quốc mà đọc những nhời đó, trong lòng hứng khởi biết chừng nào! Người vô tình cho là nhời văn chương hư sức, mà người có cảm với nước nhà qua câu văn hình như trông thấy cái hồn trong nước sinh trưởng ở vùng Thuận Hóa Phú Xuân nơi đất cũ vậy.
Tôi vốn không tin cái thuật địa lý của bọn thầy vườn lấy đống đất giữa đồng, ngòi nước bên ruộng làm ngai rồng tay hổ. Nhưng tôi tin những nơi sơn thủy kỳ tú có ảnh hưởng đến vận mệnh một nước. Người ta đối với cái ngoại cảnh không phải là không có quan hệ. Người đồng bằng biệt ra tính cách đất đồng bằng, người rừng núi biệt ra tính cách nơi rừng núi; thói ăn cách ở, đường sinh kế, lối tư tưởng, không gì là không tùy theo cái ngoại cảnh mà khác nhau. Huống chi là những bậc đế vương mở đất dựng nước, những nơi sông núi xinh đẹp lại không có quan hệ với cái lòng hoài bão nhớn nhaohay sao? Liệt Thánh bản triều ta đặt nền Đại Việt ở đất Phú Xuân thực đã dự tưởng mà biết cái cơ đồ vĩ đại về sau vậy.
Người khách mới đến thành Huế tưởng như bước chân vào bức tranh cảnh: chung quanh núi, giữa con sông, nhà cửa tụ họp hai bên bờ, trên bến dưới thuyền, trông xa một tòa thành cổ bao la, thâm nghiêm kín cổng. Cái phong cảnh Huế sở dĩ đẹp là thứ nhất bởi con sông Hương Giang. Con sông xinh thay! Hà Nội cũng có sông Nhị Hà, mà sông Nhị với sông Hương khác nhau biết chừng nào! Một đằng ví như cô con gái tươi cười, một đằng ví như bà lão già cay nghiệt. Nhị Hà là cái thiên tai của xứ Bắc, Hương Giang là cái châu báu của xứ Kinh. Nước trong như vắt, dòng phẳng như tờ, ít khi có tị sóng gợn trên mặt, đi thuyền trên sông như đi trong hồ vậy. Huế không có con sông Hương thì tưởng cái đẹp của xứ Huế giảm mất nửa phần. Nhưng đã có sông Hương lại có núi Ngự nữa, cái cảnh mới thực là toàn xinh. Ngự Bình không phải là một núi cao như núi Phú Sĩ nước Nhật, Hương Giang không phải là một sông rộng như sông Hoàng Hà nước Tàu, nên nói rằng sông ấy núi ấy làm hiểm trở cho chốn Đế kinh thì cũng là nói quá, nhưng sông ấy núi ấy thực là vẽ nên phong cảnh xứ Huế vậy. Vả cái khí vị của phong cảnh Huế không phải là cái khí vị hùng tráng, mà là cái khí vị mĩ diệu; cảnh Huế xinh mà đẹp, không phải là hùng mà cường, đáng yêu mà không phải là đáng sợ, có thi vị mà không phải là có khí tượng. Phải nhận kỹ như thế thì mới khỏi nhầm mà hiểu được tinh thần của cái bức sơn thủy hiển nhiên ấy.
Khi mới bước chân vào một xứ lạ, cái gì nó cảm mình trước nhất là cái cảnh ngoài. Có cái cảnh ưa người, như tươi cười mà đón khách, có cái cảnh ghét người như hẩm hiu mà mới gượng, lại có lắm cái cảnh vô tình, mình hỏi không thèm đáp, phần đó là phần nhiều. Cảnh Huế là một cảnh rất ưa người, ngoài mặt mới tiếp xúc trong lòng đã sinh cảm tình. Hay là lòng tôi đã nhiệt thành sẵn mà dễ cảm như thế? Cũng có nhẽ, nhưng bởi cái tinh thần riêng của phong cảnh cũng nhiều.
Nay đã có cảm tình với cảnh Huế, phải gây lấy mối cảm tình với người Huế nữa. Đó là cái công việc tôi trong mấy ngày về sau này.
Cái mục đích cuộc du Kinh của tôi là chủ xem tế Nam Giao. Vậy trước nhất hẵng xin thuật chuyện Giao.
Tế Giao đính nhật đêm ngày 12 rạng 13 tháng 2 an nam (tức là 24-25 tháng 3 tây). Tôi tới Kinh từ ngày mồng 9, có ý sớm mấy bữa để xem cái cảnh tượng trong phố phường cùng cách trần thiết ở Giao Đàn. Mấy ngày ấy thành Huế tấp nập những kẻ đi người lại. Hai bên đường Hoàng Thượng sắp ngự qua từ Nội thành đến Giao Đàn đương làm rạp đặt hương án. Những hương án đó là do các thôn xã mấy huyện ở gần Kinh đô, mỗi làng phải đặt một sở, nghe nói cả thảy mấy trăm sở. Nhất là con đường thẳng lên Nam Giao hai ngày 10-11 đi dạo chơi không cảnh gì vui mắt bằng: cờ xanh, cờ đỏ, cờ đuôi nheo, cờ ngũ hành, các hạng cờ cắm san sát hai bên đường, gió thổi bay cả về một hướng, xa trông phấp phới, tưởng tượng như con hoàng long ở dưới đất nổi lên mà mỗi lá cờ là một cái vẩy đương rung động vậy! Hương án liên tiếp nhau, cách vài thước lại một cái, không có khoảng nào bỏ không. Mỗi sở có mấy viên ký-mục ngồi túc trực. Sau lưng những hàng quán dựng lên nhan nhản. Giữa đường kẻ đi người lại như nước chảy, nào là người phục dịch về Giao Đàn, về các hương án, nào là dân các nơi lại xem, đàn bà con trẻ cũng nhiều. Tôi có ý nhận những đám đông người ở đây rất nghiêm, không những như ngoài Bắc. Lính cảnh sát có ít mà trên đường vẫn có trật tự, không hề thấy đám đánh nhau chửi nhau, ồn ào rộn rịp, thứ nhất là không có cái tiếng rất khả ố là tiếng cập kè của bọn sẩm chợ, như những khi hội hè ở ngoài ta.
Cái vui của người dân đây nghiêm mà không nhả. Đại để dân xứ Huế rất có lễ phép, dù bậc hạ lưu cũng vậy. Xem đó đủ biết là gần cái phong hóa của Triều đình. Ngoài ta không hạng người nào bại liệt bằng hạng phu xe: ở Huế bọn phu xe cũng có lễ phép, không hề nói tục nói láo bao giờ. Cái nhân phẩm của phu xe Huế, còn cao hơn phu xe Hà Nội gấp mấy lần vậy.
Ngày 11 ta, giao đàn trần thiết đã chỉnh bị cả. Chiều hôm ấy tôi cùng với ông Chương Dân lên xem khắp mọi nơi, muốn thu trước lấy cái địa đồ vào trong mắt để khi xem tế cho tường hơn. Xin thuật đại khái như sau này.
Giao đàn ở giữa cánh đồng, rộng ước bằng hai Văn Miếu Hà Nội. Ngày thường là cái đàn không, không có nhà cửa gì cả; khi tế mới căng vải dựng nhà, tế xong lại triệt đi. Đàn chia làm bốn thành: thành thứ nhất cao hơn cả là viên đàn, thành thứ nhì thấp kém là phương đàn, thành thứ ba thấp kém nữa, đến thành thứ tư là khoảng đất bao chung quanh, bằng với mặt đất ngoài, giồng toàn thông cả. Khi tế thì chỉ trần thiết trong ba đàn thứ nhất thứ nhì thứ ba mà thôi. Đàn thứ nhất là viên đàn thì căng vải xanh khắp cả, làm thành cái nhà tròn, gọi là thanh ốc. Trong bầy như sau này: ở giữa đặt hai án chính vị, tả thờ Thiên Hoàng (Giời), hữu thờ Địa kỳ (Đất), đều quay mặt về phía Nam. Ở hai bên thì tả hữu mỗi bên đặt ba án phối vị, đông tây đối nhau. Tả nhất án thờ đức Thái tổ Gia Dũ Hoàng đế (tức là đức Nguyễn Hoàng, tổ bản triều); hữu nhất án thờ đức Thế tổ Cao Hoàng đế (tức là đức Gia Long); tả nhị án thờ đức Thánh tổ Nhân Hoàng đế (tức là đức Minh Mệnh); hữu nhị án thờ đức Hiến tổ Chương Hoàng đế (tức là đức Thiệu Trị); tả tam án thờ đức Dực Tôn Anh Hoàng đế (tức là đức Tự Đức); hữu tam án thờ đức Cảnh Tôn Thuần Hoàng đế (tức là đức Đồng Khánh). Đức Đồng Khánh mới thăng phối năm nay là lần đầu, Hoàng thượng đã ký cáo trước ở Giao Miếu từ ngày mồng 1 tháng 2. Trước bấy nhiêu án đã kể trên đó, mỗi án có đặt năm cái bàn độc để bầy những đồ tự khí tế phẩm. Ở trước chính vị ngay giữa, đặt một cái nội hương án, trước nội hương án là chỗ Hoàng thượng đứng làm lễ. Ấy đại khái trong thành thứ nhất trần thiết như thế.
Thành thứ nhì thì ở trước viên đàn về mặt nam dựng một cái nhà vuông căng vải vàng, gọi là hoàng ốc. Ở chính giữa hoàng ốc đặt một cái ngoại hương án (đối với nội hương án ở đàn trên), trước án đặt chỗ ngự bái để Hoàng Thượng đứng tế. Hai bên tả hữu thành thứ nhì đặt tám cái án gọi là tùng đàn, đông tây đối nhau. Trên đàn bắc khung căng vải, mỗi án đặt ba cái bàn độc để bầy đồ tự khí tế phẩm, trước án đặt chỗ để các quan phân hiến đứng tế. Tả nhất án thờ Đại Minh chi thần (Mặt Giời); hữu nhất án thờ Dạ Minh chi thần (Mặt Giăng); tả nhị án thờ Chu thiên tinh tú chi thần (các vì sao trên giời); hữu nhị án thờ Sơn hải giang trạch chi thần (các núi sông); tả tam án thờ Vân vũ phong lôi chi thần (mây mưa gió sấm); hữu tam án thờ Khưu lăng phần diễn chi thần (gò đống đồng điền); tả tứ án thờ Thái tuế nguyệt tướng chi thần (thần các năm các tháng); hữu tứ án thờ Thiên hạ thần kỳ chi thần (bách thần trong nước).
Thành thứ ba góc đông nam đặt nơi liệu sở, trữ sẵn củi bằng gỗ tùng để khi tế đốt lửa làm đình liệu, góc tây bắc đặt nơi ế sở là chỗ đem chôn mao huyết những con sinh vật dâng tế. Trước mỗi sở có đặt cái bàn độc, che tàn lọng. Về phía đông lại đặt nhà đại thử, căng vải vàng, che mành màu sắc vàng, để làm chỗ khi Hoàng Thượng ngự tới Giao Đàn vào nghỉ đấy, rửa tay, sửa áo, rồi mới lên làm lễ. Về phía nam, ngay ở sân dưới thềm, hai bên bầy các đồ nhạc khí. Ngoại những trống, chuông, chiêng, khánh, là đồ thường, còn có nhiều các đồ cổ nhạc lạ lắm. Nhất là có một cái trống bằng gỗ, hình như cái hòm hổng mặt trên, khi nào bắt đầu một khúc hát thì đánh vào đấy một hồi: gọi là cái chúc tỵ. Lại có cái ngữ ty, hình con hổ nằm trên cái hòm, trên lưng thủng đặt mười tám miếng gỗ ken liền với nhau, khi hát xong một khúc lấy cái que siết vào thành tiếng quẹt quẹt. Những đồ cổ nhạc ấy không ra thanh âm gì cả: ý giả chế ra đó để cho hợp cổ lễ mà thôi. Lại có thứ như đàn cầm đàn sắt nhớn, cái sáo bài tiêu, chỉ bầy mà khi tế không dùng đến. Cạnh những đồ nhạc khí thì phường nhạc phường hát sắp hàng đứng hai bên. Phường hát tức là phường múa, vừa hát vừa múa, theo lối gọi là múa bát dật. Cả thảy có 128 người, chia làm hai ban văn sinh và võ sinh, mỗi ban 64 người, có một thầy đội bát phẩm coi, bên văn là hiệu cờ mao, bên võ là hiệu cờ tinh. Văn sinh võ sinh đều mặc áo xanh, nhưng bên văn thì tay áo rộng, bên võ thì tay áo hẹp. Văn sinh tay trái cầm cái thược (cái sáo), tay phải cầm cái vũ (cái gậy); võ sinh tay trái cầm cái can (cái mộc), tay phải cầm cái thích (cái búa). Khi tế thì vừa múa vừa hát, sắp làm 8 hàng 8 người một, bên võ hát khúc Võ thiên uy, bên văn hát khúc Văn thiên đức.
Xét kỹ những tế khí bầy trên các bàn độc cũng là thuần cổ cả. Thường đọc trong sách cũ thấy những tên cái tôn, cái tước, cái biên, cái đậu, cái phủ, cái quỉ, nay mới được trông, cái thì tròn, cái thì vuông, cái thì cao, cái thì thấp, hình dáng rất lạ. Những đồ ấy dùng để đựng các thứ nước rượu, thóc gạo, hoa quả, rau dưa, thịt cá, mỗi thứ một ít, để dâng tế thần. Lại cây đèn, bộ đỉnh, cái ống hương, cái mâm bồng, cái đài, cái chén, không gì là không có cái vẻ cổ lỗ và mộc mạc.
Tôi muốn về Kinh để xem phong thể cũ nước nhà, nay thật được thỏa thích. Nội trong Giao Đàn không có một đồ vật gì là không cũ; những người hành động trong ấy, ăn bận mũ áo xưa, trông cũng rất là cổ. Khi mặt giời đã xế, một mình đứng giữa đàn rộng mênh mông, mơ màng tưởng như tinh thần đương mộng du ở một nơi thế giới nào khác, tự mười lăm hai mươi thế kỷ về trước, ở đâu nơi triều đình nhà Hán hay cung điện nhà Đường vậy. Người đời tàu bay tàu lặn mà trong giây phút được nhác trông một cái cảnh tượng đời thượng cổ như thế, còn gì khoái lạc bằng!
Xem xong Giao Đàn, xem đến Trai cung là nhà Hoàng Thượng ra trai giới ở đấy một ngày trước khi hành lễ. Cung ở ngoài đàn, xa xa về bên hữu; chung quanh xây tường. Trong cung có hai mặt: mặt trước về hướng nam có cái sân rộng, là chỗ Hoàng Thượng ngự để bách quan triều yết và làm lễ mừng sau khi tế xong. Mặt sau có buồng the, giường sập, bàn ghế, mùng màn, để làm chỗ Hoàng Thượng nghỉ ngơi. Sau cung có hai bên tả lang hữu lang để thị vệ túc trực. Bốn bề đều giồng rặt những cây tùng, um tùm rậm rạp. Những cây gần cung là phần nhiều của Liệt Thánh đời xưa giồng, lắm cây đã cao và to lắm. Ra ngoài một ít là những cây của các Hoàng thân Vương công giồng. Còn ngoài xa là cây của các quan đại thần. Người nào giồng đều có cái biển đã khắc tên hàm cùng năm tháng, buộc vào cái vòng bằng sắt treo lên trên cây. Nhìn qua một lượt mà sực nhớ đến bao nhiêu những bậc danh thần đại công của Triều đình ta, người thì mất đã lâu dựng nên công nghiệp nhớn cho nước nhà, người thì mới mất tiếng thơm còn lừng lẫy trong châu quận, người thì hãy còn hoặc đương giúp Thánh triều, hoặc đã về hưu nơi cố quận, thanh giá kẻ khen người trọng. Cũng là một cách kỷ niệm rất có ý nghĩa vậy. Đại để ngày nay những cây to đến một ôm, cao đến ngất giời, là những cây gieo hạt tự đời Gia, Minh, Thiệu, Tự vậy. Khoảng đất ở sau cung là những cây tùng mới giồng, mới cao được độ một thước hay hơn một thước ta, nhìn biển xem thì là những cây của các bậc đường quan ngày nay từ tứ phẩm giở lên vậy.
Ngày 12 là ngày Hoàng Thượng ngự giá ra Trai cung. Từ sáng sớm trong thành phố đã tấp nập những người đi xem, giời nắng ráo sáng sủa trông thực là vui vẻ. Tám giờ sáng ở cửa Ngọ môn nổi chín tiếng súng. Ngự giá từ cửa Đông nam trong thành ra, tiền hô hậu ủng, nghi vệ rất nghiêm mà rất thịnh. Thực là một cảnh tượng mắt tôi chưa từng được trông bao giờ. Đám nhiều đến hơn nghìn người, dài đến ngót một cây lô mét. Cờ quạt, tán lọng, gươm giáo, voi ngựa, đồ nghi trượng, đồ lộ bộ, trống chuông, các phường nhạc, cho đến những đồ ngự dụng, ngự liễn, ngọc kỷ, xe ngựa, xe tay, không thiếu tí gì. Hoàng Thượng thì ngồi trong loan giá, mặc áo vàng, chít khăn vàng; các hoàng thân vương công cùng các quan văn võ mặc triều phục đi theo sau. Đương khi đi chỉ đánh trống, còn quân nhạc, đại nhạc, nhã nhạc, có đem mà không cử. Gần cuối đám lại có mang một cái tượng bằng đồng gọi là đồng nhân. Tượng hình người, hai tay cầm cái biển khắc hai chữ Trai giới. Hỏi ra thì là do một tích cũ bên Tàu ngày xưa, có người trông thấy ở dưới bể hiện lên một pho tượng đồng, sắc xanh xanh, sáng như ngọc, trong bụng đựng toàn nước trong. Từ đấy dùng tượng đồng để biểu sự thanh tịnh trai giới. Tượng mang đi đây là để đặt trong Trai cung trước mặt Hoàng Thượng để ngài nhìn mà tâm niệm về sự trai giới trước khi hành lễ. Ngự giá tự cửa Đông nam ra, đi qua cầu Thành Thái, phố Tràng Tiền, cầu Phủ Cam, rồi đi thẳng vào đường Nam Giao. Nhất khi chẩy qua cầu Thành Thái, đứng bên bờ sông trông rất là ngoạn mục; cờ tán phấp phới, trống đánh rập rình, như con rồng dài lượn trên mặt nước vậy. Cạnh các hương án đặt hai bên đường, những kỷ lão đã quì sẵn, đợi khi ngự giá đi qua thì cúi lạy. Người dân đứng xem bên bờ đường cũng bỏ nón ngồi thụp xuống. Khi giá đến Trai cung, thì những hoàng thân vương công, cùng quan văn tự ngũ phẩm, quan võ tự tứ phẩm giở lên đều mặc triều phục quì đón ở trước sân Trai cung. Còn quan văn tự lục phẩm, quan võ tự ngũ phẩm giở xuống thì quì đón ở ngoài cửa bắc Giao Đàn. Phụng Hoàng Thượng vào Trai cung nghỉ ngơi rồi, bách quan mới lui về.
Trưa hôm ấy tôi nhận được giấy tòa Khâm sứ cho phép vào Giao Đàn xem diễn nghi từ 4 giờ đến 6 giờ chiều. Khi ấy thì được lên tận viên đàn xem, chớ đến khi tế có Hoàng Thượng ngự thì nghiêm cấm không ai được vào. Nên buổi chiều hôm ấy các quan tây các bà đầm đến xem đông lắm. Diễn nghi tức là tế thử, vì lễ thức phiền phức, phải tập trước cho đến khi hành lễ các quan cùng viên chức dự tế khỏi nhầm nhật. Nghi tiết cũng y như khi tế thực, chỉ khác không thắp hương lửa, không đọc chúc văn mà thôi; các quan bồi tự cũng bấy nhiêu ông, chỉ trừ chủ tế là một ngài Khâm mạnh thay Hoàng Thượng. Vậy hình thức thì đủ cả, duy kém có cái vẻ chân hoạt, nên xin để dưới này sẽ thuật.
Đêm hôm ấy trên Giao Đàn đèn thắp như sao sa. Bấy giờ mặt giăng đã lặn, trông lại càng sáng lắm. Nhưng trong cái vẻ rực rỡ ấy có cái ý nghiêm túc ở đấy. Tưởng như lúc ấy đứng trên ngọn núi cao nào mà nhìn xuống, thì ngờ là một cõi Thiên quốc ở chốn nhân gian vậy. Ngoài đàn thì kẻ đi người lại tấp nập, trong đàn thì lặng lẽ như không.
Hai giờ sáng tôi tới Giao Đàn. Vẫn biết rằng hôm nay nghiêm cấm không mấy người được vào, vả tòa sứ cho giấy vào xem diễn nghi hôm trước, tức là có ý để hôm sau khỏi đến nữa. Song đã mang cái tư cách nhà báo, không có nhẽ đến hồi trọng yếu nhất trong bài kịch mà mình lại vắng mặt ở nơi diễn đàn. Nhưng làm thế nào cho các thầy lính canh cửa (vừa lính ta vừa lính tây) hiểu được cái nghĩa vụ của nhà báo như thế? Khó lắm thay! Vậy tôi cứ đường đột vào. Đến chặng canh thứ nhất mấy thầy lính ta hỏi: “Ông đi đâu? ” Tôi nói: “Tôi vào có việc, đã có giấy quan Khâm đây”. Tôi đưa cho xem cái giấy phép chiều hôm trước, chắc rằng các thầy chẳng hiểu chữ chi chi. Quả nhiên soi vào đèn thấy chữ tây cả, giả lại tôi, rồi cứ để cho vào. Cách mấy thước lại gặp thầy lính tây bồng súng đứng đấy. Thấy tôi vào nói: “Không được vào!”. Tôi nói: “Đã có phép đây”. Tôi lại chìa cái giấy kia ra. Chỗ ấy bóng cây tối, thầy nhìn mãi không đọc ra chữ gì, sau nhận sắc giấy nói: “Phải có giấy đỏ mới được vào, giấy trắng không được”. Tôi nghĩ ngay một kế nói liền: “Tôi đi theo quan Toàn quyền ngài sắp tới, đây là giấy phép riêng, phải để tôi vào mới được”. Thầy ngần ngại một lúc, rồi trao lại tôi cái giấy, cứ để cho vào. Thế là thoát nạn! Vào đến đệ nhị thành gặp cụ Thượng Công, bữa trước tôi đã vào hầu ở bộ. Cụ giữ nói chuyện một hồi lâu, rồi cho phép đứng ngay đấy xem. Bấy giờ nhìn trước nhìn sau, trừ những người có phần việc ở Giao Đàn, không thấy ai là người ngoài được vào xem cả, mới biết rằng buổi đó thực là một sự hạnh ngộ cho mình vậy. Đến sau bên mình đứng chỉ thấy thêm có vài ba ông tây nữa, còn bên kia thì có quan Toàn quyền, quan Nguyên súy, quan Khâm sứ với mấy quí quan đi theo. Các ngài thì được lên tận viên đàn xem, còn mình thì cứ đứng ở đệ nhị đàn đó cũng đủ thu được cái chân tướng đêm hôm ấy.
Lúc bấy giờ trong Giao Đàn có cái vẻ nghiêm tĩnh vô cùng, như trước khi sắp sẩy ra một sự gì rất quan trọng, ai nấy đều ngóng trông. Không có tiếng người nói, không có tiếng dế kêu. Chỉ chốc chốc nghe tiếng lung linh như những miếng đồng nhỏ đập vào nhau: ngoảnh lại thì là một ông quan mặc triều phục, đeo ngọc bội làm bằng những miếng đồng buộc với nhau (vua thì bằng ngọc thật), lúc đi dập vào chân mà thành tiếng. Người ấy, cảnh ấy, thời khắc ấy, khí vị ấy, lại thêm bốn bề đuốc đốt rực giời, ngoài xa rừng thông mù mịt, bút nào mà tả cho được cái ảnh tượng mơ màng như trong thơ trong mộng đời cổ xưa vậy?
Đúng 2 giờ 40 phút thì Ngự giá tự Trai cung ra Giao Đàn. Do cửa bên hữu vào, xuống xe, tiến đến nhà Đại thử. Tôi đứng đệ nhị đàn trông rõ lắm. Hoàng Thượng đội mũ miện, mặc áo cồn, tay cầm ngọc trấn khuê (tức là cái hốt bằng ngọc), có hai ông quan võ cầm quạt lông che, bốn ông cầm đèn lồng, cầm nến, rồi mấy ông đi theo sau nữa. Ngài ngự vào nhà đại thử làm lễ quán tẩy (rửa tay).
Bấy giờ quan cung đạo (tức là quan Lễ bộ) quì tâu rước ngài lên nhà hoàng ốc. Trống chuông nổi lên Hoàng Thượng tiến vào đứng trước ngoại hương án. Phàm các lễ tiết là do những quan nội tán xướng tâu, Hoàng Thượng cứ y nhời mà hành lễ. Lại có những quan thông tán truyền tán xướng to lên để các quan bồi tự ở ngoài cùng các quan phân hiến ở các tùng đàn cũng theo mà làm lễ. Vậy mỗi tiết kể sau này là có nhời xướng cả. Bấy giờ nghe xướng: “Phần sài! Ế mao huyết!” (Nghĩa là đốt lửa thui trâu, và chôn lòng máu), thì trông thấy ở góc đàn thứ ba lửa cháy lên ngùn ngụt. - Hoàng Thượng lễ bốn lạy ở trước ngoại hương án gọi là lễ “nghênh thần”. Ngoài sân phường ca hát khúc An thành, vừa múa, vừa hát. Đương đêm thanh vắng, hơn một trăm con người đồng thanh hát lên, nghe rất là cảm động, tưởng thấu đến tận giời cao đất thẳm, mà xa đưa tới đứng Thiên Hoàng Địa ký cái tấm lòng thành của cả một dân một nước. Những khúc hát đó bằng chữ cả, đứng xa chỉ nghe thấy tiếng hề! Ở cuối câu: ế... hề, hêề, hêêề!..., giọng rung rinh cho hợp với điệu múa Hát xong, phụng Hoàng Thượng lên viên đàn làm lễ “điện ngọc bạch” (dâng ngọc lụa). Tấu khúc Triệu thành, cũng hát múa như trên kia. Rồi làm lễ “tiến trở” (dâng cái mâm con trâu thui). Tấu khúc Tiễn thành - Lại phụng Hoàng Thượng lên trước chỗ chính hiến, làm lễ “sơ hiến” (dâng rượu lần thứ nhất). Tấn khúc Mĩ thành. Phường bát dật múa dưới dân bằng cái can, cái thích, theo điệu võ -Phụng Hoàng Thượng quì. Quan tư chúc đọc bài chúc văn. Đọc xong Hoàng Thượng về nơi bai vị Bấy giờ các quan phân hiến mới lên các tùng đàn, đứng trước tám án ở hai bên đông tây quì làm lễ “hiến bạch” (dâng lụa) và “hiến tước” dâng rượu) -Lại phụng Hoàng thượng lên trước chỗ chính hiến, làm lễ “á hiến” (dâng rượu lần thứ hai). Tấu khúc Thụy thành. Phường bát dật múa bằng cãi vũ, cái thược, theo điệu văn - Kế sau làm lễ “chung hiến” (dâng rượu lần sau cùng). Tấu khúc Vĩnh thành Dàn nhạc dứt tiếng, phường múa lui về. Phụng Hoàng Thượng lên trước chỗ ẩm phúc, làm lễ “ẩm phúc” và “thụ lộ” (nghĩa là uống chén rượu cúng, nhận miếng thịt cúng). Thế là lễ thành. Các quan làm lễ “triệt-soạn”, nghĩa là cất những đồ cúng xuống. Tấu khúc Nguyên thành. - Phụng Hoàng Thượng xuống đàn. Đến trước ngoại hương án ở đệ nhị thành, Hoàng Thượng lễ bốn lạy để tống thần. Tấu khúc Hi thành - Phụng Hoàng Thượng ra chỗ vọng liệu để xem đốt tờ chúc văn cùng các đồ bạch soạn. Tấu khúc Hựu thành - Lại phụng Hoàng Thượng về chỗ bái vị. Lễ xong quan Cung đạo đưa Hoàng Thượng tự trên đệ nhị thành xuống cửa nam, ra cửa bên tả, rồi mời Ngài lên loan giá về Trai cung. Ra đến cửa tây đàn, tấu khúc Khánh thánh. Nghe đâu khúc này là bọn đồng ấu hát, nên nghe hay lắm. Tiếng thanh thanh, xa xa, văng vẳng, như trên cung giăng hát khúc Quảng Hàn vậy. Rõ ra cái giọng vui vẻ tơi bời, mừng rằng đại lễ đã thành, Thánh chúa đã làm trọn cái thiên chức đối với Giời, đối với dân, mà từ nay nhờ đức trên phúc Giời sẽ giáng cho lũ dân Nam Việt vậy.
Bấy giờ ước 4 giờ rưỡi sáng. Từ khi khai tế cho đến khi tế xong, cả thảy hai giờ đồng hồ.
Trên kể đó là nói cái đại khái mà thôi. Còn như lễ vật nhiều ít thế nào, mũ áo khác nhau thế nào, cùng các quan bồi tự khi lên khi xuống thế nào, ca công nhạc công khi tấu khi dứt thế nào, thì phiền tế lắm, không thể biết hết được, không thể nhớ hết được, mà cũng không thể thuật hết được.
Buổi sáng hôm ấy có triều yết trong Trai cung, nhưng người ngoài không được vào xem. Nghe nói Hoàng Thượng khi ở Giao Đàn về nghỉ ngơi, rồi thay khăn vàng áo vàng, ngự lên ngai để các quan văn võ làm lễ khánh thành ở trước sân Trai cung. Lễ xong, ông Quản vệ bầy loan giá, phụng Hoàng thượng lên ngồi rước về cung, nghi vệ cũng y như khi đi. Chỉ khác trống chuông đều đánh, quân nhạc, đại nhạc, nhã nhạc đều cử, là có ý khi đi chưa làm lễ chủ lấy nghiêm, khi về lễ đã thành chủ lấy vui vậy. Hai bên đường các kỳ lão quị tống ở cạnh hương án. Cảnh tượng không khác gì ngày hôm trước. Giá hồi cũng do cửa đông nam vào thành. Đến cửa Ngọ môn quan Kinh thủ đã đứng sẵn ở bên hữu để đón. Phụng giá đến cửa Đại cung môn, do cửa giữa vào. Ngoài thành bắn chín tiếng súng mừng. Rồi phụng Ngự vào điện Văn minh, lên ngai ngồi. Quan Kinh thủ bước vào làm lễ “phục mệnh”, phụng nạp cờ bài rồi ra. Hoàng thượng bấy giờ tiến vào trong Nội. Quan Thị vệ mang phần rượu phúc thịt tộ đi theo sau.
Thế là tế Nam Giao xong vậy.
Lấy cái tư tưởng mới mà xét thì có người cho những sự tế lễ ấy là phiền. Nhưng bất luận rằng việc tế tự có quan hệ với cái thể thống trong nước thế nào, phải sinh trưởng ở nơi không có những sự phiền như thế mới biết rằng trong cái phiền ấy có một cái thú đặc biệt, một cái nghĩa thâm trầm. Tôi nói đây là lấy cái phương diện nhà hiếu cổ, nhà ái quốc mà nói. Theo phương diện ấy thì phàm cái hình thức gì nó biểu được cái hồn xưa của tổ quốc, dù phiền phức đến đâu cũng không nên bỏ. Bỏ một cái, bỏ mười cái, lên xóa mất cái hình ảnh nước nhà trong con mắt bọn hậu sinh vậy. Tôi thiết tưởng ngày nay có nhiều nhà thiếu niên đọc Nam sử khao khát muốn được trông cái vết tích nước Nam ngày xưa thế nào mà khổ vì không tìm đâu thấy; như thế thì cái cảm tình với nước được bao lâu mà chẳng tiêu mòn đi? Ở cái đời cấp tiến này, người ta chỉ biết lấy cái chủ nghĩa quyền lợi mà đối đãi nhau, nếu thời hồ không có dịp nào để biểu cái nghĩa liên lặc của người một dân một nước thì mấy nỗi mà đến quên nhà quên nước vậy!
Trong Giao tự thực là có ngụ một cái nghĩa sâu ở đó. Tuy là do cái học thuyết đã cổ lắm mà không phải là không hợp thời. Theo học thuyết ấy thì Vua là con Giời mà là cha mẹ dân. Vua phải thuận mệnh Giời, lại phải mưu sự hạnh phúc cho dân. Như thế thì Vua vừa có trách nhiệm đối với Giời, lại vừa có trách nhiệm đối với dân nữa, nhưng hai trách nhiệm ấy cũng tức là một, vì cái thiên chức của Vua là phải làm cho dân được sung sướng, dân được sung sướng tức là thuận mệnh Giời. Tế Giao là Vua thay mặt con dân mà cầu Giời giáng phúc cho dân. Vậy trong tế Giao có ba bậc: trên là Giời, giữa là Vua, dưới là dân, ba bậc rất là liên lạc với nhau, không thể dời nhau được. Giời đất là nguồn gốc của muôn giống, dân phải nhờ giời che đất chở mới sống được. Nhưng dân không thể trực tiếp mà cầu phục ở Giời; phải có một người đứng giữa, một người giới thiệu, người cao hơn cả muôn dân, thay mặt dân mà cầu Giời thì mới được. Người ấy là ai? Là Thiên tử, là con Giời, là Vua vậy. Ấy cái nghĩa thần bí của tế Giao là thế. Vậy thì Vua tế Giao là biểu cái lòng tôn trọng với Giời và biểu cái tình thân ái với dân. Thân làm chúa tể trong nước mà kính trọng khúm núm dưới thềm, vái lạy cái hình ảnh thiêng liêng ở trên bàn thờ kia là vì ai? Vì dân vậy, vì lũ lê thứ mình có cái trách nhiệm phải chăn nuôi, phải coi sóc vậy. Như thế thì Giao tự cũng có quan hệ với chính trị, vì nhân đấy mà cái dây thân mật nó buộc Vua với dân, buộc người dân với nhau lại càng bền càng mạnh thêm ra. Ba năm một lần tế Giao tức là ba năm lại một lần Vua trịnh trọng ra tuyên cáo với Giời Đất, với Tổ tiên, với Sông Núi rằng cái hồn trong nước vẫn còn mạnh, vẫn còn bền, vẫn còn tỉnh táo vậy. Chớ nên cho những nhời thuyết lý về tôn giáo đó là viển vông, vì thử xét cả các tôn giáo trong thế giới có đạo nào là không có một phần viển vông như thế không? Nhưng trong phần viển vông của cái đạo thờ Giời ở nước ta có một nghĩa thiệt thực ở đấy, như ta đã giải trên kia, và có quan hệ đến chính thể xã hội nước ta. Bởi thế nên tuy bề hình thức có phiền, mà cái tinh thần rất nên phải giữ vậy.
Ấy là lấy con mắt nhà triết học mà giải nghĩa Giao thì Giao có cái nghĩa như thế. Nếu lại lấy con mắt nhà mĩ học, nhà thi nhân mà xét Giao thì Giao thực là một cảnh tượng rất đẹp, rất trang nghiêm của cái Việt Nam cổ quốc này. Không những con mắt người mình xem ra thế, mà nhất là con mắt người ngoại quốc lại càng phục lắm. Bao nhiêu những tay văn sĩ Pháp đã ở qua xứ này, đã từng được xem tế Giao, sau thuật lại ra văn ra thơ cũng đều lấy làm một cái cảnh tuyệt diệu. Tôi còn nhớ khi xưa có đọc bài tả cảnh tế Giao của một bà nữ sĩ Pháp, nhời văn rất cảm động và rất lý thú. Bà nói cái cảnh Giao đàn ban đêm như cảnh trong mộng, đèn thắp trong đàn thành từng dãy dọc dãy ngang, trông xa như một chữ triện nhớn viết bằng những nét chấm sáng mà treo lửng chừng giời; tiếng đàn tiếng sáo thì như tiếng nước chẩy suối reo, tiếng xướng tiếng hát thì như tiếng thiên thần địa quỉ reo hò ở bãi bể... Cái tư tưởng của các bậc đế vương ngày xưa đặt ra nghi tiết lễ Giao cũng đã li kỳ lắm mới gây nên một cái cảnh huyền diệu như thế!
Nghe dân sĩ ở Kinh đô nghị luận nói rằng tế Giao lần này vừa đẹp vừa nghiêm hơn những lần trước nhiều. Có nhẽ cũng là một điềm hay cho niên hiệu mới Vua ta vậy.
Quan Toàn quyền, quan phó Toàn quyền, quan Nguyên súy đều ở Hà Nội về xem. Nhân các ngài tới Kinh, hội Đô thành hiếu cổ xã có đặt hai cuộc chơi rất nhã: một là cuộc trần thiết những đồ dùng đồ bầy cũ của An Nam ta để khôi phục lại hình ảnh một cái nhà cổ ngày xưa; hai là cuộc diễn tuồng tây để quyên tiền cho hội Hồng thập tự. Trần Thiết thì ở nhà Tân thư viện, tức là điện Long An cũ. Đồ cũ, nhà cũ thực là hợp cảnh. Điện này cũng là một cái châu báu trong nghề kiến trúc của ta. Rộng rãi thênh thang, trông rất là có bề thế. Không có những lối tô điểm rườm rà, những sắc xanh đỏ sặc sỡ, mầu gỗ xưa, thềm đá cổ, mà có cái vẻ thuần túy rất đáng yêu. Cứ so sánh cái điệu cổ ấy với hai nhà Quốc Tử Giám mới đương xây ngay trước mặt, thì đủ biết nghề kiến chúc ở nước ta ngày nay có thoái bộ mà không có tiến bộ. Những nhà cửa mới dựng bây giờ không ra kiểu tây, không ra kiểu ta, lại thêm cái lối vẽ vời phiền phức, rất là khó coi. Có lắm cái cửa đền cửa phủ tưởng như xây toàn bằng mảnh bát vỡ. Thực là một cảnh tượng dễ làm cho chạnh lòng nhà hiếu cổ.
Những đồ trần thiết trong điện Long An thì hoặc là đồ trong Nội, hoặc là đồ riêng của nhà các quan đem lại. Bầy ra từng gian, trông nghiễm nhiên như phòng ngủ, phòng ăn, phòng khách. Bộ đồ trà bằng “pháp lạn”, bộ quân cờ bằng xương, cái bình phong khắc bài thơ nôm, đôi ngà voi mỗi chiếc dài hai thước tây, thứ nhất là một cái quạt bằng xương dài ước một thước tây mà mở rộng đến hai thước; còn nhiều đồ quí lạ nữa, không thể kể cho hết được. Xem một lượt cũng đủ hình dung được cái cách sinh hoạt của các bậc thượng lưu ở Kinh đô về khoảng mười lăm hai mươi năm trước. Vì ngày nay những nhà sang trọng dùng đồ Âu châu đã nhiều.
Cuộc diễn tuồng thì ở nhà Quốc tử giám chiều ngày 26 tháng 3 tây. Thoạt đầu diễn mấy lớp toàn con trẻ đóng vai, ăn mặc rất đẹp, ca vãn rất hay. Rồi đến một bài hí kịch của hai nhà làm tuồng có tiếng bên Đại Pháp. Ở Kinh Đô không có phường hát tây, các vai tuồng đều do các quí quan cùng quí phu nhân đóng cả, cũng như các vai trẻ con trên kia là do các cô các cậu đóng. Tuy không phải là những tay nhà nghề, mà khi ra diễn coi đã thạo lắm, chẳng kém gì ở nhà Đại Vũ đài Hà Nội. Khá khen thay là những nhà chủ trương hội ấy, không sẵn người sẵn đồ mà kẻ giúp công người giúp của, vì việc nghĩa gây nên một cuộc mua vui rất tao nhã. Hoàng Thượng, quan Toàn quyền, các quan tây quan ta đến xem đông lắm. Hát hai tối luôn mà tối nào cũng chật ních những người. Đương hát có các cô đi quyên tiền cho Hồng Thập Tự. Chắc bữa đó thu được nhiều, vì ai đã tới đấy tất sẵn lòng giúp về việc nghĩa, huống các nhà chủ trương lại hết tài hết sức làm cho xứng đáng cái hảo tâm của người xem!
Nhân dịp Nam giao, trong thành lại mở một hội đấu hoa nữa, ở nơi vườn hoa mới lập sau điện Long An, trước cửa bộ Học.
Quan dân nhà ai có chậu bông đẹp đều đem họp tại đấy, chiều chiều những bậc giai thanh gái lịch ở chốn Trường An, cũng đến họp mặt đông lắm, như muốn đua tài đua sắc với trăm hoa. Lại các nhà thi nhân vinh hoa cũng nhiều; đem chậu bông thường kèm bài thơ theo, kẻ xướng người họa, thực là một cuộc tiêu khiển rất phong nhã. Nghe đâu các Cụ lớn cũng có ngâm vịnh. Những bài thơ đó có yết vào cái bảng ở giữa vườn hoa. Tiếc không kịp biên được, những bài hay để điểm thêm chút hương thơm xứ Huế vào nhời kỷ thuật nhạt nhẽo này.