Chương 10 (chương kết)
Tác giả: Sir ARTHUR CONAN DOYLE
Tất cả đạo quân lạc đà đã diễn hành trong khe núi mở cuộc truy kích bọn thầy tu Hồi giáo đang tháo lui . Trong một vài phút, những người được giải cứu đứng lại một mình. Nhưng chẳng mấy chốc một tiếng nói vui vẻ
gọi họ. Một cái khăn quàng đầu màu đỏ đang nhảy nhót giữa những tảng đá, và cái đầu lạc đà to phè của vị mục sư bất phục quy tắc hiện ra. Ông tựa mình trên một ngọn glâo vì cái chân bị thương của ông, và cái nạng kiểu nhà binh này kết hợp với bộ y phục hòa bình của ông đã cho ông một hình thù bất tương hợp: người ta tưởng tượng đến một con cừu bỗng nhiên mọc ra những móng vuốt khủng khiếp. Hai tên da đen đi theo ông vác một cái lồ và một túi da đựng nước.
- Ðừng nói gì cả! Ông nói lớn với họ, trong khi cập cẫng đi tới chỗ họ. Tôi biết một cách chính xác những gì các vị đang nghĩ ngợi. Chính tôi cũng đã ở trong trường hợp các vị. Ðem nước lại đây, Ali! Chỉ có nửa chén thôi, bà Adams ạ; các vị sẽ có thể uống thêm, một lát nữa đây. Ðến lượt bà, bà Belmont! Lạy Chúa, lạy Chúa, những linh hồn khốn khổ, tôi đau lòng biết bao vì các vị! Trong cái lồ có bánh và thịt, nhưng các vị nên ăn vừa phải khi mới bắt đầu...
Ông khúc khích cười vui thích, ông vỗ tay trong khi nhìn họ ăn và uống.
- ...Còn những người khác? Ông hỏi với tất cả vẻ nghiêm trọng vừa lấy lại của ông.
Ông đại tá lắc đầu:
- Chúng tôi đã bỏ họ ở lại chỗ những cái giếng. Tôi sợ rằng tất cả đều đã kết liễu với họ.
- Suỵt, suỵt! Vị mục sư kêu lên với một giọng vang tai như muốn làm cho mọi người quên đi sự bối rối hiện ra trên nét mặt ông. Tất nhiên các vị cũng đã nghĩ là tất cả đều đã kết thúc với tôi rồi; thế mà tôi vẫn còn đây. Bà Belmont, chớ mất can đảm! Chắc chắn là số phận của ông chồng bà không tuyệt vọng hơn số phận của tôi đâu.
- Khi tôi trông thấy ông đứng trên mỏm núi kia, tôi cứ tưởng rằng tôi bị mê sảng, ông đại tá nói. Nếu các bà đây đã không nhận ra ông như tôi thấy, thì không bao giờ tôi dám tin vào cặp mắt của tôi.
- Tôi nghĩ rằng tôi đã xử sự rất tệ. Ðại úy Archer nói rằng suýt nữa tôi đã làm hỏng tất cả các kế hoạch của họ, rằng tôi đáng bị đưa ra hội đồng chiến tranh và bị xử bắn. Sự việc là khi tôi nghe thấy bọn Ả Rập đi qua ở phía dưới, tôi đã không thể kháng cự lại ý muốn biết xem các bạn cũ của tôi có cùng đi với chúng không?
- Tôi hết sức kinh ngạc thấy rằng ông đã không bị xử bắn bên ngoài mọi hội đồng chiến tranh, ông đại tá nói. Ma quỷ đưa đường thế nào mà ông đến được đây?
- Ðội quân lạc đà ở Quadi - Halfa đã tung ra đi theo con đường mòn của chúng ta lúc tôi bị bỏ lại, và họ đã nhặt được tôi trong sa mạc. Tôi đoán rằng tôi đã bị mê sảng, vì họ nói rằng họ đã nghe thấy tiếng tôi từ rất xa: hình như tôi đã gân cổ lên mà hát những bài thánh ca và thánh thi; chính là tiếng của tôi, với sự phù trợ của thượng đế, đã hướng dẫn họ tới chỗ tôi. Họ có một trạm cứu thương trên một con lạc đà; sáng hôm sau thì tôi bình phục. Chúng tôi bắt liên lạc với quân trú phòng ở Sarras, và tôi lại đi cùng với họ, vì có một y sĩ đi theo họ. Vết thương của tôi không hề hấn gì cả. Viên y sĩ khẳng định với tôi rằng tôi sẽ khỏe mạnh rất nhiều hơn sau vụ mất máu này. Và bây giờ các bạn ...
Cặp mắt nâu, lớn của ông đã mất đi sự ranh mãnh và làm ra vẻ nghiêm trang, kính cẩn.
- ...Tất cả bọn chúng ta đều ở trên ngưỡng cửa của tử thần, và những người bạn đồng hành thân mến của chúng ta có lẽ ngay cùng lúc đó cũng giống như chúng ta. Cái quyền lực đã cứu vớt chúng ta có thể cũng đã cứu vớt họ. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho sự việc được như vậy. Nhưng chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng, nếu bất kể những lời cầu nguyện của chúng ta, sự việc không được như vậy, thì chúng ta sẽ phải chấp nhận sự thật như là quyết định hoàn hảo nhất và khôn ngoan nhất của đấng bề trên.
Ở giữa những tảng đá đen ngòm, tất cả năm người bọn họ đều quỳ xuống, và họ cầu nguyện như thể vài người trong bọn họ chưa từng bao giờ cầu nguyện trước đây. Thật thế, bàn luận về việc cầu nguyện với sự hời hợt và hoàn toàn có tính cách triết lý trên boong tàu Korosko là điều rất lý thú. Và thật không khó khăn gì để cảm thấy mình dũng mãnh và đầy lòng tự tin trong một cái ghế bành êm ái, trong lúc một tên Ả Rập đi quanh bàn dâng cà phê và rượu ngọt. Nhưng khi bất thần bị ném ra ngoài dòng đời bình lặng, họ bị tổn thương trước những sự thật khủng khiếp, rùng rợn của cuộc đời. Bị suy sụp vì nhọc mệt và sợ hãi, họ thấy cần phải bám víu vào một cái gì đó. Tin tưởng vào một định mệnh mù quáng và khắc nghiệt thật là khủng khiếp. Một quyền lực của sự nhu hòa, thao tác với trí thông minh nhằm vào một mục đích, một quyền lực sinh động, hữu hiệu, tách họ ra khỏi những lề lối tư tưởng thường nhật, trừ bỏ những thói quen bè phái nhỏ nhặt của họ, dẫn dắt họ vào một con đường tốt đẹp hơn, đó là những gì họ đã học và biết được trong những ngày kinh hoàng này. Những bàn tay vĩ đại đã khép lại trên con người họ, đã tạo cho họ những hình dạng mới, đã chuẩn bị cho họ đi vào một cuộc sống khác. Liệu cái quyền lực đó sẽ có thể không để tự mình mềm lòng bởi những sự van nài của con người không? Nó là tòa phúc thẩm tối cao mà loài người đau khổ có thể kêu cầu. Ðó là lý do tại sao tất cả bọn họ đều cùng nhau cầu nguyện, cũng như một gã si tình yêu đương hay một thi sĩ viết thơ với niềm sâu thẳm nhất của tâm hồn họ. Khi họ đứng dậy, họ nghiệm thấy cái cảm giác đặc biệt, phi lý của sự yên bình nội tâm và sự mãn nguyện mà chỉ có sự cầu nguyện mới có thể ban cho họ.
- Im lặng! Cochrane nói. Hãy lắng nghe!
Tiếng vang của một loạt súng lan ra trong khe núi hẹp. Nó được tiếp theo bởi một loạt khác, và nhiều loạt nữa. Ông đại tá dậm chân tức tối như một con ngựa già khi nghe thấy tiếng kèn săn và những tiếng sủa của đàn chó săn.
- Chúng ta có thể trông thấy những gì đang diễn ra ở nơi nào?
- Hãy tới đây! Tới đây, nếu ông vui lòng! Một con đường nhỏ leo lên tới đỉnh núi. Nếu các bà muốn theo tôi, tôi sẽ tránh cho các bà khỏi phải nhìn một cảnh tượng đau lòng.
Ông mục sư dẫn các bà theo một cách để các bà không nhìn thấy những xác chết nằm ngổn ngang dưới đáy khe sâu. Từ bên trên các mỏm núi, toàn cảnh thật khác thường. Ở dưới chân họ là bãi sa mạc trải dài ra với những đợt lượn sóng; nhưng ở lớp thứ nhất đang diễn ra một cảnh mà chắc chắn là không bao giờ người ta quên được. Trong cái ánh sáng trong trẻo và khô khan này, trên một cái nền màu hung hung, những cái bóng người hiện ra cũng rõ ràng như những anh lính bằng chì trên một cái bàn vậy.
Những tên thầy tu, hoặc đúng hơn là những kẻ còn lại, rút lui một cách chậm chạp thành một đám đông hỗn độn. Chúng không có vẻ gì là những kẻ bại trận. Những sự di chuyển của chúng được tính toán; nhưng chúng đã không ngừng thay đổi đội hình có vẻ như chúng đang ngập ngừng về chiến thuật phải theo. Sự rối rắm của chúng là chuyện bình thường thôi, vì những con lạc đà của chúng đều mệt lử, và chúng đang ở trong một tình thế gần như tuyệt vọng. Còn về phần những người ở Sarras, thì họ đã từ trong khe núi ùa ra, nhảy xuống đất và buộc những con lạc đà của họ từng nhóm bốn con một; các xạ thủ dàn ra thành một hàng dài, bao quanh là một làn khói; họ bắn hết loạt này tới loạt khác. Bọn Ả Rập chống trả một cách rời rạc. Nhưng những người đứng xem không còn quan tâm nhiều tới bọn thầy tu hay tới các xạ thủ ở Sarras nữa. Ở đằng xa trên bãi sa mạc, ba chi đoàn thuộc đạo quân lạc đà ở Quadi - Halfa đang tiến lên trong một đoàn dày đặc để rồi trong chốc lát mở rộng ra để làm thành một vành bán nguyệt lớn. Bọn Ả Rập bị kẹp vào giữa hai hỏa lực.
- Lạy Chúa! Ông đại tá kêu lên. Hãy nhìn xem kìa.
Trong cùng một lúc, những con lạc đà của bọn thầy tu đều quỳ xuống, và những người cưỡi trên lưng chúng nhảy xuống đất. Ở hàng đầu, đứng sừng sững cái bóng uy nghi của tù trưởng Wad Ibrahim. Y quỳ xuống một lát để cầu nguyện. Rồi y đứng lên, lấy một vật gì từ cái yên ra, đặt vật đó một cách thận trọng trên bãi cát và đứng lên trên, đứng rất ngay ngắn.
- Một người dũng cảm! Ông đại tá kêu lên - Y đứng lên trên tấm da cừu của y.
- Ông hiểu ra sao về việc này? Stuart hỏi.
- Tất cả những người Ả Rập đều có một miếng da cừu để trên yên của họ. Khi một người Ả Rập thấy rằng tình thế của y đã hoàn toàn tuyệt vọng, và khi bất chấp mọi điều y cương quyết chiến đấu cho tới hơi thở cuối cùng, y lấy miếng da cừu ra và đứng lên nó cho tới khi chết. Nhìn kìa, tất cả bọn chúng đều đứng trên những miếng da cừu của chúng. Lúc này không có sự khoan dung của bên này hay bên kia!
Màn kịch đến gần đoạn kết một cách nhanh chóng. Một vòng khói và lửa bao quanh những tên thầy tu Hồi giáo đang quỳ gối, chúng chống trả tận lực. Gọng kìm xiết lại. Bọn Ả Rập đã bị mất nhiều người, bọn còn lại tiếp tục bắn với một sự anh dũng bất khuất. Hơn mười cái xác bận đồ kaki đã chứng thực rằng những người Ai Cập cũng phải trả giá cho chiến thắng của họ. Một hồi kèn nổi lên trong đám quân lính ở Sarras; một hồi khác đáp lại trong đám quân lạc đà ở Quadi - Halfa. Những người này đã nhảy xuống đất và xếp thành hàng ngũ. Sau loạt súng cuối cùng, họ đi theo nhịp bước xung kích, trong khi thốt lên những tiếng la man rợ mà những dân da đen đã du nhập từ những miền bao la hoang dã của Phi Châu. Trong một phút, một cơn cuồng phong thật sự đã trộn lộn những ngọn giáo và những báng súng ở giữa một đám mây bụi mờ mịt. Rồi những tiếng kèn lại nổi lên. Nhưng binh lính Ai Cập lùi lại ngay tức thì để bố trí lại đội hình với sự quyết định nhanh chóng của một đạo quân có kỷ luật. Ở giữa bãi chiến trường, những tên cướp và tên chỉ huy của chúng nằm bất động, mỗi tên trên mảnh da cừu của hắn. Thế kỷ thứ mười chín đã trả thù cho thế kỷ thứ bảy.
Ba người đàn bà đã nhìn quang cảnh với những con mắt đờ đẫn, kinh hoàng. Sadie và cô nàng khóc sướt mướt. Ông đại tá quay lại phía họ để nói một vài lời khích lệ, nhưng ông im tiếng trước vẻ mặt của bà Belmont, mặt bà cũng trắng bệch, cũng căng thẳng như thể được khắc trong một miếng ngà; bà có một cái nhìn không chớp mắt như thể là bà đang ở trong tình trạng xuất thần.
- Trời ơi, bà Belmont, bà làm sao vậy? ông đại tá kêu lên.
Thay cho câu trả lời, bà chỉ một chấm nhỏ trên sa mạc, ở đằng xa, ở nhiều cây số cách nơi giao tranh, một toán nhỏ những kỵ binh đang tiến tới.
- Ðồ mắc dịch, đúng rồi! Kia có người đi tới. Họ là ai vậy?...
Họ cố căng mắt lên mà nhìn, nhưng khoảng cách quá xa. Họ chỉ biết được một điều: đó là chừng hơn một chục người cưỡi lạc đà.
- Ðó là những con quỷ dữ ở lại trong ốc đảo, Cochrane nói. Không thể là người nào khác. Niềm an ủi duy nhất của chúng ta là chúng sẽ không thể tránh khỏi số phận đang chờ đợi chúng. Chúng đang lao đầu vào tử địa.
Nhưng bà Belmont vẫn tiếp tục nhìn với cùng một sự khẩn trương và cùng một nét mặt bằng ngà. Thình lình bà thốt lên một tiếng kêu vui thích và vung vẩy hai bàn tay.
- Ðúng là họ rồi! Họ được giải cứu rồi! Ðúng là họ, ông đại tá, đúng là họ! Ôi, bà Adams, đúng là họ!
Bà chạy nhảy lăng quăng trên đỉnh đồi. Mắt bà sáng rực lên như mắt một đứa trẻ đang bị khích động.
Các bạn đồng hành của bà không muốn tin lời bà, vì họ không nhìn ra một vật nào chính xác cả; nhưng trong một vài trường hợp các giác quan của chúng ta trở nên sắc bén lạ thường. Người ta bảo rằng linh hồn và tâm trí đã ban cho chúng tất cả nguyên khí. Bà Belmont đã đi xuống con đường nhỏ gồ ghề đá sỏi để leo lên con lạc đà của bà, nhưng các bạn của bà vẫn chưa thấy điều gì đã mang lại cho bà tín điệp vui mừng này. Tuy nhiên, cuối cùng thì họ cũng phân biệt được trong nhóm người đang tiến tới ba cái chấm trắng long lanh dưới ánh mặt trời: ba chấm trắng đó chỉ có thể là ba cái mũ của những người âu. Ðến lượt họ, ông đại tá, bà Adams và Sadie đều đổ xô tới: họ nhận ra Belmont, Fardet, Stephens, anh thông ngôn Mansoor và người lính Soudan bị thương. Ðoàn hộ tống cùng đi với họ gồm có Tippy Tilly và những cựu quân nhân Ai Cập khác. Belmont ngả vào hai tay bà vợ ông; Fardet nắm lấy tay ông đại tá.
- Nước Pháp muôn năm! Những người Anh muôn năm! Ông la lớn. Mọi sự đều tốt đẹp, có phải không, đại tá? A, lũ chó má! Cây thánh giá và những người cơ đốc giáo muôn năm!
Sự vui mừng làm cho ông hoàn toàn mất hết mạch lạc trong những lời nói.
Ông đại tá cũng tràn trề hồ hởi trong phạm vi mà bản chất của dân Anh Cát Lợi đã cho phép ông. Ông không thể khoa chân múa tay; nhưng ông bắt đầu cười khành khạch, đó là một chỉ dẫn của sự xúc cảm tột độ của ông.
- Ông bạn thân, tôi rất hài lòng được gặp lại tất cả các ông. Tôi đã coi như các ông bị chết cả rồi. Chưa bao giờ tói được sung sướng thế này! Làm cách nào mà các ông đã có thể thoát nạn?
- Chính ông đã làm tất cả mọi việc!
- Tôi à?
- Phải, ông bạn ơi, và khi tôi nghĩ tới việc tôi đã cãi vã với ông! Tôi thật là một kẻ vô ơn khốn nạn!
- Nhưng tôi đã cứu ông bằng cách nào?
- Ông đã bày mưu tất cả với anh chàng Tippy Tilly dũng cảm này, bằng cách hứa cho y tiền nếu y đưa chúng ta còn sống trở lại Ai Cập! Nhờ có bóng đêm, các bạn của y và y đã lẻn vào khu rừng cây cọ và họ ẩn núp ở đó. Khi ông đi rồi, họ đã bò tới với những khẩu súng và họ đã hạ sát những kẻ sắp hành quyết chúng tôi. Cái tên thầy giảng chết tiệt đó, tôi tiếc rằng họ đã giết hắn! Tôi tin rằng tôi sẽ có thể cải đạo cho hắn sang cơ đốc giáo. Và bây giờ, xin óng cho phép tôi được chạy tới ôm lấy cô Adams, vì Belmont đã có vợ của ông ấy, Stephens có Sadie; vì thế tôi thấy rõ ràng là cảm tình của cô Adams sẽ dành cho tôi
Mười lăm ngày sau, chiếc tàu thủy được thuê riêng cho những người được cứu thoát đang vượt sóng ở phía Bắc Assiout. Sáng hôm sau họ phải tới Beliani, rồi từ đó đi tàu tốc hành tới Le Caire. Do đó đây là buổi tối cuối cùng mà họ chung sống với nhau. Bà Shlesinger và đứa con của bà, những người mới tránh khỏi những viên đạn của bọn Ả Rập, đã được đưa tới biên giới rồi. Cô Adams đã bị ốm nặng sau những ngày thiếu thốn, đói khát, và đây là lần đầu tiên cô được phép lên boong tàu sau bữa ăn tối. Cô ngồi trên một cái ghế dài, người gầy hơn, khắc khổ hơn, nom khả ái hơn bao giờ hết. Sadie đứng bên cô, choàng một cái mền lên vai cô. Ông Stephens mang cà phê tới và đặt nó trên một cái bàn nhỏ. Ở mạn bên kia boong tàu, Belmont và bà vợ ông đang ngồi, yên lặng và vui vẻ. Ông Fardet đứng tựa lưng vào bao lơn, ta thán về sự lơ là của chính phủ Anh trong việc tuần tra trên biên giới Ai Cập. Ông đại tá đứng trước mặt ông ta, người rất phẳng, và cái đầu có lửa của điếu xì gà lập lòe dưới hàng ria mép của ông.
Nhưng điều gì đã xảy ra với ông đại tá? Bất cứ ai đã nhìn thấy người đàn ông già đã bị suy sụp trong bãi sa mạc Libye này cũng không thể nhận ra ông. Tất nhiên là bộ ria mép vẫn lốm đốm bạc, nhưng mái tóc của ông đã lấy lại màu đen bóng, cái màu đã gây được sự cảm mến của tất cả mọi người trong chuyến đi của cuộc hành trình. Lúc trở về tới Ouadi - Halfa, với một bộ mặt trơ như đá và một sự lạnh lùng hiếm thấy, ông đã tiếp nhận rất nhiều lời ủy lạo liên quan tới các hậu quả của thời gian ông sống với những tên thầy tu Hồi giáo. Rồi ông chạy về tự nhốt kín mình trong phòng của ông. Một giờ sau ông trở ra giống hệt như con người ông trước lúc bị cắt đứt hết mọi nguồn tiếp tế của nền văn minh. Và ông đã nhìn tất cả những ai đối diện với ông bằng một cách mà không ai dám đưa ra một nhận xét nhỏ nhoi nào về cái kỳ tích hiện đại này. Từ lúc này người ta chỉ có thể nói rằng nếu ông đại tá phải chạy, dù chỉ một trăm mét thôi, trong bãi sa mạc, thì ông vẫn mang theo trong cái túi bên trong áo ngoài của ông một cái chai đen nhỏ có dán một cái nhãn màu hồng. Nhưng những ai đã biết ông trong các tình huống mà một người đàn ông phải tự bộc lộ hoàn toàn thì đều nói rằng viên sĩ quan già đã có một trái tim và một trí óc trẻ trung, đó là một điều rất tự nhiên khi ông cố giữ những màu sắc trẻ trung.
Trên boong tàu, sự yên tĩnh, sự ngưng nghỉ mới hoàn hảo làm sao! Không một tiếng động nào khác ngoài tiếng bì bọp của nước đập vào thành tàu. Những ánh phản quang đỏ cuối cùng của mặt trời lặn đang phản chiếu lại trong con sông. Những người được giải cứu nhìn thấy những con cò đứng một chân trên rìa những bờ sông lầy cát. Xa hơn nữa, những cây cọ đứng xếp hàng, thành một đám rước uy nghi. Những ngôi sao bạc còn lấp lánh; cũng chính những ngôi sao trong sáng, trầm lặng, tàn nhẫn mà họ vẫn thường ngước mắt lên nhìn trong những đêm dài của sự thống khổ của họ.
- Bà Adams, bà xuống nơi nào ở Le Caire? Bà Belmont hỏi.
- Tôi nghĩ là ở khách sạn Shepheard.
- Còn ông, ông Stephens?
- À, chắc chắn là ở khách sạn Shepheard rồi!
- Chúng tôi xuống khách sạn Continental. Tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ không mất liên lạc với nhau.
- Bà Belmont ạ, không bao giờ tôi quên được bà, Sadie nói lớn. À, chắc bà sẽ phải tới Hoa Kỳ! Chúng tôi sẽ chuẩn bị cho bà một chuyến ở chơi tuyệt mỹ!
Bà Belmont cười với sự duyên dáng cố hữu của bà.
- Chúng tôi có những nhiệm vụ ở Ái Nhĩ Lan, và chúng tôi đã lơi là chúng từ ít lâu nay. Chồng tôi có việc của ông ấy, còn tôi thì tôi có căn nhà của tôi, và mọi việc đều hỏng cả. Hơn nữa, bà nói thêm với một giọng ranh mãnh, nếu chúng tôi đi Hoa Kỳ, rất có thể chúng tôi sẽ không gặp cô ở đó.
- Tất cả bọn chúng ta sẽ phải lại gặp nhau nữa, Belmont nói, dù là chỉ để nói chuyện lại chút ít về những cuộc phiêu lưu của chúng ta. Việc này sẽ dễ dàng hơn trong một hay hai năm. Chúng vẫn còn rất gần gũi mà.
- Tuy nhiên đối với tôi chúng có vẻ xa xôi lắm! Tôi thấy chúng như là một cơn ác mộng, bà vợ ông nói. Ðấng tối cao đã nhủ lòng thương làm nguôi đi những kỷ niệm đau buồn! Tôi có cảm tưởng là đã sống qua tất cả biến cố này trong một kiếp tiền sinh.
Fardet giơ cái cánh tay mà chỗ cổ tay còn bị quấn băng lên.
- Thể xác không thể cũng quên nhanh được như tinh thần, ông nói. Bà Belmont ạ, vụ này không có gì là một cơn ác mộng cả!
- Thật là một điều tai hại khi một vài người được giải cứu và nhữmg người khác thì không! Sadie nói lớn. Chỉ cần có ông Brown và ông Headingly có mặt ở đây với chúng ta là tôi không còn ân hận gì nữa? Tại sao họ lại bị giết, mà không phải là chúng ta?
Ông Stuart khập khiễng trên boong tàu đi tới, trong tay ông cầm một quyển sách lớn mở ngỏ.
- Tại sao cái trái cây chín bị hái, và trái cây xanh thì bỏ lại? Ông nói để trả lời tiếng than van của cô thiếu nữ. Chúng ta không biết gì về tình trạng tinh thần của hai người bạn thân yêu, bất hạnh bị mất tích đó, nhưng người thợ làm vườn vĩ đại đã hái các trái cây của Ngài theo như sự hiểu biết của chính Ngài. Tôi xin đọc đoạn này để các bạn nghe...
Một cây đèn được đặt trên bàn, ông ngồi bên cây đèn. Ánh sáng vàng vọt soi sáng cặp má đồ sộ của ông và những đoạn màu đỏ của quyển sách. Cái giọng mạnh mẽ, trầm tĩnh của ông làm át cả tiếng nước rì rào.
- ..."Cầu xin phước lành cho họ, những người mà Chúa đã chuộc lại và giải thoát khỏi tay kẻ thù và tái hợp lại ở phương Ðông, ở phương Tây, ở phương Bắc và ở phương Nam. Họ đã bị lạc lõng trong sa mạc và họ đã không tìm thấy nơi trú chân tại đó. Bị đói, bị khát, họ đã mất can đảm và linh hồn họ đã suy sụp trong người họ. Vì vậy họ đã cầu khẩn Chúa, và Chúa đã giải thoát họ khỏi cơn hoạn nạn. Ngài đã dắt họ trên con đường thiện hảo, ngõ hầu họ có thể tìm lại thiên quốc, nơi mà họ đã từng cư ngụ. Ôi, cầu cho những người này có thể ca ngợi Chúa vì từ tâm của Ngài, và loan truyền các kỳ tích mà Ngài đã hoàn thành cho những con cái của loàn người!... "
Vị mục sư gập sách lại.
- ...Hình như những câu này đã được viết ra cho chúng ta; mặc dù chúng đã được viết từ hai ngàn năm nay. Bất cứ ở thời đại nào, con người đều bị bắt buộc phải nhìn nhận cái bàn tay đã dìu dắt họ. Về phần tôi, tôi không tin là sự hứng khởi đã được sinh ra từ hai ngàn năm nay, khi Tennyson viết với bao nỗi hăng say và lòng xác tín.
"Ôi, chúng ta vẫn còn tin rằng điều thiện bất chấp mọi sự, sẽ là mục đích tối hậu của cái ác!"
là ông đã nhắc lại cái tín điệp đã được truyền cho ông giống hệt như Ezéchiel, khi thế giới còn non trẻ hơn, đã nhắc lại một tín điệp sơ đẳng hơn và thô kệch hơn.
- Tất cả những điều đó đều rất đẹp, ông Stuart ạ! Người đàn ông Pháp nói. Ông yêu cầu tôi ca ngợi Thượng đế vì Ngài đã làm tôi thoát khỏi hiểm nguy và đau khổ; nhưng điều tôi rất muốn biết là, khi Ngài đã cai quản mọi việc, tại sao Ngài lại đặt tôi vào giữa chốn đau khổ và hiểm nguy. Theo ý tôi, tôi có nhiều lý do để quở trách hơn là để ca ngợi. Ông sẽ không cám ơn tôi về việc tôi đã vớt ông từ dưới sông lên, nếu trước đó chính tôi đã đẩy ông xuống sông! Ðiều tối thiểu mà ông có thể đòi hỏi ở Thượng đế là Ngài phải chữa chạy những đau khổ mà chính bàn tay của Ngài đã gây ra cho ông.
- Tôi không phủ nhận sự khó khăn, vị mục sư chậm rãi trả lời. Người nào không tìm cách tự lừa dối mình thì sẽ không phủ nhận sự khó khăn. Hãy xem Tennyson đã đương đầu với nó hăng hái thế nào cũng ngay trong bài thơ đó, bài thơ vĩ đại nhất, sâu sắc nhất và chắc chắn là hứng khởi nhất trong tất cả văn học nước Anh. Xin hãy nhớ lại kết quả mà nó đã gợi ý cho ông.
"Tôi sẩy chân ở nơi mà tôi bước đi rất vững vàng
Và tôi ngã xuống với gánh nặng ưu tư
Trên những bực thềm của bàn thờ lớn của cõi đời này
Nơi mà các bóng tối bay lên cao tới Thượng đế.
Tôi xòe những bàn tay vụng về trong niềm tin, tôi rờ rẫm
Tôi thu lượm bụi bặm và rơm rác, và tôi kêu gọi
Người mà tôi cảm thấy là Thượng đế của muôn loài
Và tôi hy vọng một cách yếu ớt vào một niềm hy vọng lớn hơn"
Ðó là bí ẩn cốt lõi của những sự bí ẩn : Vấn đề tội lỗi và đau khổ, sự khó khăn lớn lao duy nhất mà nhà luân lý học phải giải quyết nếu y muốn biện minh cho sự đối xử của Thượng đế với con người. Xin hãy lấy trường hợp của chính chúng ta làm thí dụ. Chỉ nói riêng về bản thân tôi, tôi biết rõ những gì tôi đã sở đắc trong chuyến phiêu lưu này. Tôi nói ra điều này với tất cả lòng khiêm tốn, nhưng tôi phân biệt được rõ ràng hơn trước đây những bổn phận của tôi. Nó đã dạy tôi nên ít lơi là hơn khi nói điều gì mà tôi cảm thấy là điều thiện.
- Còn tôi, Sadie nói lớn, nó đã dạy tôi nhiều điều hơn là quãng đời đã qua của tôi. Tôi đã học được nhiều, và cũng quên đi nhiều điều không nên nhớ. Tôi đã trở thành một con người khác.
- Cho tới lúc này tôi chưa bao giờ hiểu được bản chất của chính tôi, Stephens nói. Hơn nữa tôi khó có thể nói rằng tôi đã có một bản chất để tìm hiểu. Tôi đã sống cho những gì không quan trọng, và tôi lơi là với những gì là cốt yếu!
- Ồ, một sự rung chuyển nhẹ nhàng không bao giờ gây ra tệ hại! Ong đại tá nói. Một cái giường có nệm lông và bốn bữa ăn hàng ngày, chuyện đó chả có ích lợi gì cho một đấng nam nhi, cũng như cho một bọn quần thoa.
- Cảm tưởng sâu xa của tôi là, bà Belmont nói xen vào, tất cả bọn chúng ta đều đã được nâng lên cao trong những ngày ở trong sa mạc này, hơn là những gì chúng ta đã làm từ trước hoặc những gì chúng ta sẽ làm sau này. Khi các tội lỗi của chúng ta được phán xét, chúng ta sẽ được tha thứ rất nhiều vì tình thương mà chúng ta đã chứng tỏ với nhau.
Họ ngồi yên lặng trong khi những bóng xám tối đen lại và lũ chim nước vạch ra những chữ V lớn bên trên bề mặt óng ánh của con sông lớn. Một luồng gió lạnh nổi lên từ mạn Ðông; Stephens cúi xuống gần Sadie.
- Cô có nhớ những gì cô đã hứa khi cô ở trong sa mạc không ? ông nói thì thào.
- Ðiều gì vậy?
- Cô đã nói rằng nếu cô được thoát nạn, trong tương lai cô sẽ cố gắng làm cho một người nào đó sung sướng.
- Vậy thì tôi sẽ phải làm điều đó.
- Thế là đã làm rồi, ông nói.
Và những bàn tay họ nắm lấy nhau phía dưới cái bàn.
Hết