watch sexy videos at nza-vids!
Truyện TẤN THẢM KỊCH CỦA TÀU KOROSKO-Chương 6 - tác giả Sir ARTHUR CONAN DOYLE Sir ARTHUR CONAN DOYLE

Sir ARTHUR CONAN DOYLE

Chương 6

Tác giả: Sir ARTHUR CONAN DOYLE

Thế là tàu Korosko đã bị tấn công và chiếm đoạt; do đó những cơ may giải cứu mà họ tính toán (tất cả những con toán phức tạp về giờ giấc và khoảng cách) cũng tỏ ra hư huyễn như một ảo ảnh. Sự báo động sẽ không được loan ra ở Ouadi-halfa trước khi các nhà chức trách thấy rằng con tàu đã không trở về trong buổi tối. Vậy thì vào giờ này của buổi hoàng hôn khi mà sông Nil chỉ còn là một cái dải mỏng màu xanh dương ở rất xa đằng sau họ, chắc chắn là sự truy lùng chưa khởi sự. Và chỉ một trăm năm mươi cây số nữa thôi. có thể còn ít hơn nữa. đã chia cách họ với xứ sở của bọn thầy tu Hồi giáo. Hầu như không còn chút hy vọng nào là các lực lượng Ai Cập kịp thời gặp được họ. Khi đó một sự chán nản âm thầm, ảm đạm đã chiếm ngự các tù nhân, ngoại trừ Belmont mà bọn Ả Rập phải kiềm chế vì ông muốn chạy tới cứu vợ.
Hai đôi quân đã nhập lại với nhau. Lũ Ả Rập trao đổi những lời chào và lời tán tụng một cách nghiêm trọng và oai vệ, trong khi bọn da đen cười, la lối. nói huyên thuyên với sự vui tính hồn nhiên mà kinh Coran đã bất lực không cải tạo được. Tên chỉ huy của bọn mới tới là một ông già mũi to, khoằm và có chòm râu bạc. hình dáng gầy gò. khổ hạnh, thô lỗ, hung bạo, điệu bộ rất võ biền. Anh thông ngôn rên rỉ khi nhận ra ông ta. Y giơ hai tay lên trời và lắc đầu, rõ ràng là y đã phát hiện ra một viễn cảnh mới của những sự bực bội.
"Đó là tù trưởng Abderrahman" y nói. "Bây giờ thì tôi sợ rằng khi tới Khartoum chúng ta không còn sống nữa!"
Chỉ có một mình đai tá Cochrane là biết hắn qua lời đồn đãi: hắn nổi tiếng là một con quái vật của sự tàn ác và cuồng tin. là một tên hồi giáo khùng điên, là một nhà truyền giáo và một chiến sĩ không bao giờ ngần ngại khi áp dụng những chủ thuyết hung tàn của kinh
Coran cho tới chung cuộc của chúng... Lão khởi đầu bằng việc chuyện trò với tù trưởng Wad Ibrahlm, những con lạc đà của chúng đứng sát vào nhau. Chòm râu đen hòa lẫn với chòm râu bạc. Rồi cả hai tên cùng quay nhìn về phía toán tù nhân khốn khổ. Tên đàn em cung cấp rất nhiều lời giảng giải cho tên lớn tuổi, tên này lắng nghe, vẻ nghiêm trọng và không mảy may xúc động.
"Cái ông già có bộ râu trắng là ai vậy?" Cô Adams hỏi, cô là người đầu tiên đã trấn tĩnh lại sau cơn thất vọng. "Ông ta có dáng điệu rất phi phàm".
"Đó là tên chỉ huy mới" Cochrane đáp.
- Ông không muốn nói là hắn có cấp bậc cao hơn tên kia chứ?
-"Có thưa cô" anh thông ngôn nói "Hiện nay hắn là vị chỉ huy tối cao"
- Được như thế càng tốt! Hắn làm tôi nhớ tới ông già Mathews của giáo hội trưởng lão vào thời mục sư Scott. Cái lão chỉ huy có bộ râu đen và cái nhìn sáng rực như than hồng không nói với tôi một điều gì có giá trị cả. Sadie này, cháu cưng của cô. cháu cảm thấy dễ chịu hơn với sự mát mẻ phải không?
- Vâng thưa cô. Xin cô chớ bận tâm tới chuyện của cháu, chính cô, thì cô cảm thấy thế nào?
-Thực ra cô nhiều tin tưởng hơn lúc nãy. Cô đã cho cháu một tấm gương xấu Sadie ạ, cô đã bị hoàn toàn choáng váng bởi sự đột ngột của tất cả cuộc phiêu lưu này, rồi cô nghĩ tới mẹ cháu. Bà ấy đã giao phó cháu cho cô và cô tự hỏi bà ấy nghĩ thế nào khi nhìn thấy cả
hai cô cháu mình. Cô nghĩ là sẽ có một vài tiêu đề đặt bên trên trong tờ Boston Herald! Và cô đánh cá rằng một người nào đó sẽ phải viết những bài tường thuật!
-"Ông Stuart đáng thương" Sadie kêu lên khi lại nghe thấy cơn mê sảng đơn điệu của ông mục sư. "Cô ơi. lại đây! Thử xem chúng ta có thể làm được điều gì cho ông ấy không".
"Tôi lo sợ về chuyện của bà Shlesmger và đứa con của bà ấy" đại tá Cochrane nói "Ông Belmont này. tôi nhìn thấy rõ bà vợ ông, nhưng không nhìn thấy ai khác nữa".
Chúng dẩn bà ấy tới đây". Belmont kêu lên. "Cám ơn Thượng đế! Chúng ta sẽ biết hết mọi chuyện. Norah, chúng đã không làm tổn hại mình chứ, tôi hy vọng...?"
Ông chạy tới chỗ bà vợ, và hôn bàn tay bà chìa ra để ông đỡ bà, từ trên lưng lạc đà xuống.
Cặp mắt xám hiền hậu và bộ mặt dịu dàng, trầm tĩnh của người đàn bà Ái Nhĩ Lan mang lại đôi chút khuây khỏa và hy vọng cho các tù nhân. Đây là một người phụ nữ công giáo thuần thành; mà tôn giáo của Giáo hội La Mã là một sự trợ lực tuyệt hảo trong giờ phút hiểm nghèo. Với bà, với ông đại tá là người theo Anh quốc giáo, với ông mục sư không theo nghi thức, với những phụ nữ Mỹ theo phái trưởng lão, và ngay cả với hai người Soudan ngoan đạo, dưới những phương diện khác nhau của nó, tôn giáo đã làm cùng một nhiệm vụ: nó không ngừng nhắc nhở rằng điều xấu xa mà con người có thể gây ra là điều rất nhỏ nhặt, và rằng bất kể sự khắc nghiệt bề ngoài, trên những con đường của Chúa, chúng ta không có điều gì tốt và khôn ngoan để làm hơn là cứ tự để cho cái Bàn Tay Vĩ đai dẫn dắt chúng ta. Những người bạn trong hoạn nạn này không có cùng chung một giáo
điều. Nhưng họ có lòng dũng cảm sâu đậm và lòng tin số mạng an- nhiên, cần thiết là những thứ đã tạo ra cái khuôn khổ cổ xưa của tôn giáo, những giáo điều mới đã mọc lên như loài rêu phù du trên mặt tảng đá hoa cương.
"Các ban khốn khổ! " người phụ nữ ái Nhĩ Lan nói lớn "tôi thấy rằng các bạn đã chịu khổ hơn tôi rất nhiều. Thật vậy đó anh John yêu quý ạ, tôi hoàn toàn khỏe mạnh mà ngay cả tôi không bị khát nữa, vì trên chúng tôi đã đổ đầy nước vào các túi da ở sông Nil, và tôi đã uống thỏa thuê theo ý thích. Nhưng tôi không trông thấy ông Headingly, cả ông Brown nữa. Và ông Stuart khốn khổ! ông ấy ra thế nào rồi?
"Headingly và Brown không còn biết ưu phiền nữa", ông chồng bà trả lời. "Norah này, mình không biết rằng hôm nay chúng tôi đã tạ ơn Thượng đế bao nhiêu lần về việc mình đã không cùng đi với chúng tôi! Vậy mà mình cung lại ở đây!"
-Tôi sẽ ở nơi nào tốt hơn là ở bên cạnh chồng tôi? Tôi thích một trăm lần, một ngàn lần ở đây hơn là được an toàn ở Ouadl-halfa.
-Thành phố có được báo động không?" ông đại tá hỏi.
- Một cái ca nô đã trốn thoát được. Bà Shlesinger, con bà ấy và người vú nuôi đã ngồi trên ca nô đó. Khi bọn Ả Rập tấn công chúng tôi thì tôi ở bên dưới. Những người ở trên boong đã có thì giờ nhảy lên ca nô. Tôi không biết họ có bị thương không vì bọn Ả Rập đã bắn
theo trong một lúc lâu.
"Thật vậy à?" Belmont kêu lên "như thế đoàn quân trú phòng phải nghe thấy tiếng súng bắn, ông nghĩ thế nào. ông Cochrane? Từ bốn giờ rồi họ phải được tung ra trên con đường của chúng ta! Từng phút một chúng ta có thể hy vọng trông thấy xuất hiện trên đỉnh đồi kia cái mũ cứng của một sĩ quan Anh!
Nhưng những sự thất vọng liên tiếp đã làm cho ông đại tá thành hoài nghi.
"Nếu họ không tới với lực lượng mạnh" ông đáp, " thì tốt hơn là họ đừng tới nữa. Bọn kẻ cướp này là những tên lính tinh nhuê và những tên chỉ huy giỏi, và trên chính địa thế của chúng, chúng sẽ kháng cự kịch liệt... "
Đột nhiên ông ngừng lại và nhìn về phía bọn Ả Rập. "...Lạy Chúa tôi!" ông lẩm bẩm nói. "Cái cảnh này rất đáng xem!"
Mặt trời to lớn, đỏ rực đã dấu một nửa cái đĩa của nó đằng sau đám sương mù tím lịm ở chân trời. Lúc này là giờ cầu nguyện của người Ả Rập. Một nền văn minh cổ đại hơn và thông thái hơn phải quay về hướng chân trời huy hoàng này và thờ phụng nó, nhưng những đứa con mọi rợ của sa mạc vốn có một tính chất cao quí hơn những người Ba Tư phong nhã, họ đặt tinh thần cao hơn vật chất. Vì vậy họ cầu kinh trong khi quay lưng về phía mặt trời và hướng mặt họ về phía ngôi đền chính của tôn giáo họ. Đó là cách họ cầu nguyện, những kẻ cuồng tín đó! Say sưa một cách sâu xa, với những cặp mắt long lanh và nét mặt rạng rỡ họ đứng lên, quì xuống, trán họ chạm vào tấm thảm để cầu kinh. Khi nhìn thấy một sự sùng kính như thế, ai còn dám nghi ngờ sự hiện hữu của một thế lực lớn lao trên toàn thế giới, phản động nhưng khủng khiếp, có sẵn trong tay hàng trăm triệu đứa con ở giữa mũi Juby và những ranh giới của nước Trung Hoa? Nếu một ngày nào cùng một luồng gió đó đốt cháy họ, nếu một binh gia vĩ đại hay một nhà cai trị vĩ đại đứng lên để tổ chức họ, họ sẽ chẳng phải là khí cụ mà Đấng tối cao quét sạch miền Nam Châu Âu, nơi đã suy tàn, thối nât, ích kỷ, không có dũng khí, như chuyện đã xảy ra một ngàn hai trăm năm trước, để dọn chỗ sạch sẻ cho một chủng tộc tốt đẹp hơn.
Khi họ đứng dậy, một hồi tù và vang lên; lúc đó các tù nhân hiểu rằng sau khi đã đi suốt cả ngày, họ sẽ phải đi suốt cả đêm. Belmont càu nhàu, vì ông đã hy vọng là những người giải cứu sẽ theo kịp họ trước lúc nhổ trại, nhưng những người khác thì đều đã quá sẵn sàng, để tuân theo sự không thể tránh được. Họ nhận được mỗi người một cái bánh dẹp của dân Ả Rập, rồi để làm tăng thêm phần sảng khoái, một chén nước thứ hai lấy từ những túi da của toán quân thứ nhì. Nếu xác thịt biết tuân lệnh của linh hồn một cách cũng dễ dàng như linh hồn tuân lệnh xác thịt thì trái đất đã là một thiên đường rồi! một khi các nhu cầu về thể chất đã được thỏa mãn, họ lấy lại can đảm và lại leo lên lưng những con lạc đà trong khi chấp nhận một cách độ lượng hơn cái khía cạnh lãng mạn của cuộc phiêu lưu khủng khiếp của họ. Ông Stuart cứ đeo đuổi những lời lảm nhảm trẻ con trên bãi cát ngay cả bọn Ả Rập cũng không nghĩ tới việc đặt ông ngồi lại trên yên lạc đà. Trong bóng đêm đang đổ xuống, bộ mặt to phì của ông ngẩng lên trời làm thành một vệt trắng.
"Anh thông ngôn!" ông đại tá quát lớn. "Nói với chúng là chúng bỏ quên ông Stuart".
"Thưa ông vô ích thôi!" Mansoor đáp lại. "Họ nói rằng ông ấy mập quá, và họ không đem ông ấy đi xa hơn nữa. Họ nói là ông ấy sắp chết rồi, như thế bận tâm tới ông ấy có ích gì?".
Cochrane la lớn:
- Không đem ông ấy đi! Thế nào! nhưng ông ấy sẽ chết đói và chết khát! ông tù trưởng đâu?...
Ông gọi lão Ả Rập có bộ râu đen với cái giọng mà ông đã dùng để quở mắng một tên dắt lừa đến trễ. Tên chỉ huy không thèm trả lời ông, nhưng hắn nói hai hay ba tiếng với một trong những tên chiến binh, và tên này đánh vào mạng sườn ông đại tá một nhát báng súng. Người lính già ngã xấp xuống rồi được nâng lên yên lạc đà, gần như bất động. Những người đàn bà lại bắt đầu khóc; những người đàn ông thì lủng bủng những câu nguyền rủa và xiết chặt những nắm tay, họ có thể làm được việc gì trong cái địa ngục của sự bất công và những cách đối xử tàn tệ này? Belmont tìm khẩu súng lục nhỏ của ông, nhưng ông nhớ ra là óng đã giao nó cho cô Adams. Nếu ông còn giữ nó thì tên tù trưởng đã bị hạ sát rồi, nhưng tất cả các du khách đều sẽ bị tàn sát hết.
Khi tiếp tục lên đường, họ thấy hiện ra trước mặt họ một trong những hiện tượng hy hữu nhất của sa mạc Ai Cập; đúng thực là các tình huống đã làm cho họ chẳng còn bụng dạ nào để thưởng thức cái đẹp. Khi mặt trời đã biến dạng, chân trời còn giữ lại một sắc tím như màu đá đen, nhưng bây giờ thì màn sương mù đó mỗi lúc mỗi trở thành sáng sủa, một bình minh giả hiệu hiện lên. Họ có thể cho là một vừng mặt trời đang lúng liếng mọc trở lại trong bầu trời theo con đường mà nó vừa lặn xuống. Một tấm màn màu hồng lơ lửng bên trên phía Tây đã trang hoàng cho cái rìa phía trên của nó bằng những ánh phản quang có màu xanh tươi mát và trang nhã, nhưng các màu sắc đó đã từ từ hòa tan vào một màu xám mờ mờ khởi đầu cho màn đêm. Trước đây hai mươi bốn giờ, ngồi trên những cái ghế dài hoặc những cái ghế đẩu, họ bàn luận về chính trị trên boong tàu Korosko, dưới ánh sáng những ngôi sao Mười hai giờ trước đây, họ ăn điểm tâm trước khi khởi hành cho cuộc du ngoạn cuối cùng của họ. Rồi từ lúc đó, họ đã khám phá ra cả một thế giới của những cảm giác mới lạ. Họ đã bị xô xuống từ đỉnh cao của sự sung túc với sự phũ phàng làm sao! Cũng là những ngôi sao bạc này, cũng là mảnh trăng lưỡi liềm này, nhưng giữa quá khứ và hiện tại đã có một hố sâu làm sao! Những con lạc đà cũng di chuyển lặng lẽ như những bóng ma vậy. Phía trước các tù nhân, phía sau họ những tên Ả Rập cũng không gây ồn ào nhiều hơn là những con vật chúng cưỡi. Không chỗ nào có một tiếng ồn. Không một chút tiếng ồn. Rồi thình lình từ rất xa về, phía sau, một tiếng người cất lên trong sa mạc, một tiếng mạnh, vo vo, không theo nhạc điệu mấy ti, dần dà một điệp khúc toát ra từ trong tiếng hát xa xăm ấy, các tù nhân có thể phân biệt ra trong điệp khúc ấy những câu:
"Ban đêm chúng ta dựng cái lều di động của chúng ta,
Chưa tới một ngày trước lúc trở về của chúng ta... "
Ông Stuart đã hồi phục thần trí rồi, hoặc đây chỉ là sự ngẫu nhlên trong cơn mê sảng mà ông đã chọn khúc ca này? Các bạn của ông quay nhìn lại, mắt đẫm lệ, họ biết chắc rằng người lữ hành này đã ở rất gần ngày trở về rồi... Tiếng hát dần dà thấp giọng xuống, nó chấm dứt bằng cách chìm ngập trong cái im lặng bao la của sa mạc.
"Ông bạn già thân mến, tôi hy vọng là ông không bị thương chứ?" Belmont vừa hỏi vừa đặt một bàn tay lên đầu gối ông đại tá.
Cochrane ngồi dậy, nhưng ông còn thở hổn hển.
- Tôi hoàn toàn bình phục rồi. Xin ông vui lòng chỉ cho tôi thấy kẻ nào đã đánh tôi?
- Tên ăn cướp đứng trước mặt ông, tên mà con lạc đà của nó đứng ngang tầm con lạc đà của Fardet đó.
- Tên thanh niên với bộ ria mép... Với ánh sáng này tôi không phân biệt được nó rõ ràng, nhưng tôi tin rằng tôi sẽ nhận ra nó lúc ban ngày. Cám ơn Belmont!
- Tôi nghĩ rằng nó đã đâm gãy xương sườn của ông.
- Không, nó đã cắt đứt hơi thở của tôi, tất cả cơ thể.
- Người ông chắc phải bằng sắt! Đó là một đòn khủng khiếp. Làm thế nào mà ông có thể hồi phục nhanh quá như vậy?
Ông đại tá gãi cổ và nói hơi lúng búng khi trả lời.
- Ông bạn Belmont thân mến, sự thật là... Tôi tin chắc rằng việc này sẽ chỉ có hai chúng ta biết... nhất là đừng nhắc lại việc đó với các đàn bà!... Nhưng tôi có đôi chút già hơn điều mà tôi nhìn nhận, và thà rằng để mất phong thái quân cách là thứ lúc nào cũng quí giá với tôi, tôi...
"Ông mặc áo nịt ngực à, lạy Chúa tôi!" anh chàng người Ái Nhĩ Lan kêu lên.
"Thật tình, đó là một sự hỗ trợ nhân tạo!" ông đại tá nói một cách khô khan, và ông lái cuộc đàm thoại sang các sự may rủi của ngày hôm sau. "
Những người còn sống sót còn nhìn thấy trong những giấc mơ của họ cái đêm dài phải đi trong sa mạc ấy. Hơn nữa tất cả đều là một thứ mộng mơ: sự im lặng mà họ thấy trên những cái chân có sức đàn hồi của lũ lạc đà, và những cái bóng lờ mờ, chuyển động đang lắc lư ở bên trái và ở bên phải họ. Vũ trụ hình như được treo lơ lửng trước mặt họ như một cái mặt đồng hồ khổng lồ. Một ngôi sao lấp lánh ngay tại cuối con đường của họ. Thời gian mà họ nhắm mắt lại, và lại mở mắt ra, một ngôi sao khác đã sáng rực lên bên dưới ngôi sao trước. Giờ này sang giờ khác, làn nước bao la của các vì sao vẫn trôi đi một cách chậm chạp trên cái nền màu xanh dương của trời đêm, những thế giới và những hệ thống thiên thể trôi giạt một cách uy nghi bên trên đầu họ, để làm đầy vòm trời mà sự hoành tráng đã an ủi một cách mơ hồ những người bị bắt, nhất là số phận riêng của họ và bản thân con người của họ hình như quá nhỏ nhoi bên cạnh một sự triển khai các uy lực như vậy, muốn diễn hành trên bầu trời, đám rước lớn của các tinh tú phải bắt đầu bằng việc leo lên nó, rồi đứng lại gần như bất động theo hàng dọc, và cuối cùng thì tụt xuống một cách không vội vã cho tới lúc về mạn đông hiện ra ánh sáng lạnh lẽo, đầu tiên, và khi các tù nhân bị sững sờ vì những gì mà nó làm cho họ thấy ở những bộ mặt của họ.
Ban ngày đã hành hạ họ bằng sự nóng bức, ban đêm đem lại cho họ một cái lạnh còn khó chịu đựng hơn. Bọn Ả Rập cuộn mình trong những cái chăn và trùm khăn lên đầu. Các tù nhân thì lạnh run lên, xoa tay vào nhau để làm cho người ấm lên. Cô Adams là người khổ sở nhất vì sự gầy còm và sự huyết mạch lưu thông xấu do tuổi tác của cô. Stephens cởi cái áo choàng của ông ra và khoác lên vai cô. Ông đi bên cạnh Sadie, miệng huýt sáo và lẩm nhẩm hát để làm cho cô nghĩ là bà cô của cô đã làm cho ông nhẹ nhõm khi chấp nhận việc mang hộ cái áo choàng của ông, nhưng ông đã gây quá nhiều tiếng ồn khiến người ta khó mà tin được là ông không bị rét lạnh. Tuy nhiên, thật tình thì ông cảm thấy đỡ lạnh hơn những người khác, vì ngọn lửa xưa cũ đang đốt cháy trái tim ông, và một niềm hân hoan kỳ dị hòa nhập lẫn lộn với những sự bất hạnh của ông, ông không thể nói cuộc phiêu lưu này là sự tệ hại nhất trong các điều tệ hại hay nó là một ân huệ lớn lao nhất của đời ông. Khi ở trên tàu, sự trẻ trung của Sadie, nhan sắc của nàng, sự thông minh của nàng và tính tình của nàng đã không cho phép ông hy vọng điều gì hơn là một lòng khoan dung từ ái đối với ông. Nhưng lúc này ông cảm thấy đối với nàng ông không phải là vô dụng; ông biết rằng mỗi giờ mới tới đều thúc đẩy nàng phải nhờ cậy vào ông nhiều hơn như người bảo vệ tự nhiên của nàng, và nhất là (nhất là!) ông đã phát hiện ra nhân cách riêng của ông; ông bắt đầu hiểu là đằng sau tất cả những tập quán của luật pháp, những thứ đã tạo ra cho ông một bản chất giả tạo, một con người mạnh mẽ và hoàn toàn đáng tin cậy đã hiện hữu thật sự. Một tia sáng nhỏ về lòng tôn kính cá nhân đã làm máu ông nóng lại. Thời trẻ trung, ông đã làm hư hỏng tuổi thanh xuân, nhưng lúc này thì nó bùng lên như một bông hoa nở muộn.
"Ông Stephens ạ, đó là tôi tin rằng ông đang vui thích lắm!" Sadie nói với ông bằng một giọng chua chát.
Ông trả lời.
-Tôi sẽ không đi tới chỗ khẳng định là tôi vui thích. Nhưng tôi hoàn toàn tin chắc rằng tôi không muốn rời xa cô ở đây.
Ông chưa từng bao giờ dịu dàng như thế trong lời nói; cô thiếu nữ nhìn ông, kinh ngạc.
-Tôi nghĩ rằng cho tới lúc này tôi đã là một người con gái rất ác độc" nàng nói, sau một lúc im lặng. "Bởi vì chính bản thân tôi được sung sướng, không bao giờ tôi nghĩ tới những người khốn khổ. Cuộc phiêu lưu này làm cho tôi nhìn thấy các sự việc dưới một ánh sáng khác. Nếu tôi thoát nạn, tôi sẽ hoàn hảo hơn trong tương lai, đứng đắn hơn, chín chắn hơn".
- Và tôi cũng vậy, tôi sẽ hoàn hảo hơn. Tôi giả sử rằng chính vì điều đó mà chúng ta phải trải qua cuộc phiêu lưu này. Hãy cho như là nó đã làm nổi bật các đức tính của tất cả các bạn bè chúng ta. Thí dụ hãy nói tới ông Stuart xấu số kia; đã có bao giờ chúng ta nghi ngờ tâm hồn cao cả và chung thủy của ông đâu? Và hãy nhìn Belmont và vợ ông ấy ở trước mặt chúng ta kìa, họ nắm tay nhau tiến bước, không sợ sệt, người này chỉ nghĩ tới người kia. Và Cochrane, người mà khi ở trên tàu lúc nào cũng cho người khác cảm tưởng rằng ông ta có một tâm hồn hẹp hòi đểu cáng! Hãy suy nghĩ về lòng dũng cảm và sự phẫn nộ vô tư lợi của ông khi một người trong bọn chúng ta bị ngược đãi. Cả Fardet cũng can đảm như một con sư tử. Tôi nghĩ là sự bất hạnh đã làm điều tốt lành cho tất cả chúng ta.
Sadie thở dài.
- Phải, nếu mọi vịêc đều kết thúc tốt đẹp, thì ông nói đúng. Nhưng nếu chúng ta phải chịu sự khổ cực nhiều tuần hay nhiều tháng với cái chết ở một bên, tôi không biết chúng ta sẽ mót nhặt lợi ích của sự tiến bộ của chúng ta ở đâu. Giả dụ rằng ông rút tỉa được lợi ích từ đó, ông sẽ làm gì?
Ông luật sư ngần ngừ, nhưng các bản năng nghề nghiệp của ông vẫn còn mạnh mẽ.
- Tôi sẽ xem có thể phát khởi quyền tố tụng được không, và kiện ai. Rất có thể là, kiện những kẻ đứng ra tổ chức đã đưa chúng ta tới núi Abousir. Nếu không thì phải kiện chính phủ Ai Cập về tội không bảo đảm được an ninh ở biên giới của họ. Đây là một vấn đề thú vị của luật pháp! Và cô Sadie, cô sẽ làm gì?
Đây là lần đầu tiên ông đã không dùng từ "Cô" trước tên người con gái trẻ tuổi, nhưng nàng đang quá bận tâm nên không để ý tới điều này.
Nàng nói:
- Tôi se dịu dàng hơn với mọi người. Tôi sẽ cố gắng làm cho một người nào đó được sung sướng để nhớ lại những nỗi cực khổ mà tôi đã gánh chịu.
- Trong đời cô, cô đã không làm điều gì khác ngoài việc đem lại sự sung sướng. Cô không thể tự ngăn cản được.
Bóng tối đã giúp cho ông ra khỏi sự dè dặt vốn là thói quen của ông.
- Cô cần sự thử thách thô bạo này ít hơn bất cứ người nào khác, làm thế nào để tính tình của cô có thể trở nên tốt như vậy?
- Đúng là ông ít biết về tôi! Tôi là người rất khinh xuất, rất ích kỷ.
- Ít nhất là cô không cần tới tất cả những cảm xúc mạnh mẽ đó: cô đã sinh động một cách đầy đủ rồi. Với tôi thì khác hẳn.
- Ông Stephens, tại sao ông lại cần có những cảm xúc?
- Bởi vì tất cả đều thích thú hơn là sự ngưng trệ. Ngay cả sự đau khổ cũng tốt hơn là sự ngưng trệ. Tôi vừa mới bắt đầu sống, cho tới lúc này tôi chỉ là một cái máy trên trái đất. Tôi chỉ có một ý tưởng trong đầu, và một người chỉ có một ý tưởng trong đầu không thực sự sống một chút nào. Đó là những gì mà tôi bắt đầu hiểu trong tất cả những năm tháng này, tôi chưa bao giờ xúc động cả. Chưa bao giờ một luồng cảm xúc chân thật của con người đã động chạm tới tôi. Tôi không có thì giờ để cảm xúc. Tôi đã ghi nhận những cảm xúc ở người khác, và tôi đã mơ hồ tự hỏi phải chăng trong tôi đã có một khuyết điểm ngăn cản không cho tôi được chia sẻ kinh nghiệm của các bạn trong đời. Nhưng những ngày vừa qua đã nói cho tôi biết là tôi có thể sống một cách thật sự, rằng tôi có thể có được những hy vọng nóng bỏng và những sự kinh hoàng chí tử, rằng tôi có thể hận thù, và tôi có thể... Tóm lại là tôi cô thể cảm nhận bất kỳ một tình cảm mạnh mẽ nào. Tôi được sinh ra ở đời. Có thể ngày mai tôi sẽ đứng trên bờ huyệt mộ, nhưng ít nhất tôi sẽ có thể tự nói với mình là tôi đã sống.
- Và tại sao ông lại sống cuộc sống này ở Anh Quốc?
- Tôi là con người có nhiều tham vọng. Tôi muốn thành đạt, và tôi phải nghĩ tới mẹ tôi và các chị em tôi. Cám ơn Thượng đế, trời đã sáng rồi. Trong chốc lát bà cô của cô và cô sẽ thôi không thấy lạnh nữa.
- Và ông thì không có áo khoác ngoài!
- Ồ, bộ máy tuần hoàn của tôi thật tuyệt hảo! Tôi thấy rất dễ chịu khi mặc sơ mi trần.
Cái đêm dài lạnh rét, làm hao tốn sức lực đã đi qua. Bầu trời xanh đậm đã chuyển sang màu tím nhạt, những ngôi sao lớn nhất vẫn tiếp tục chiếu sáng. Phía sau cái ngói sao này, cái vạch màu xám của rạng đông đã bắt đầu gậm mòn bầu trời, đồng thời cũng tự tô điểm cho mình một màu hồng thanh nhã trong đó đã lung linh những tia sáng của vừng thái dương chưa xuất hiện. Bỗng chốc họ cảm thấy sức nóng của mặt trời ở trên lưng họ, ở trên bãi cát, những cái bóng dài đi trước họ, những thầy tu Hồi giáo bỏ những cái chăn của họ ra và bắt đầu nói ba hoa vui vẻ với nhau. Các tù nhân cũng bắt đầu hết cóng lạnh ngấu nghiến ăn những quả chà là mà người ta phân phát làm món điểm tâm. Đoàn người dừng lại, họ có quyền được mỗi người một chén nước.
"Tôi có thể nói chuyện với ông được không, đại tá Cochrane?" anh chàng thông ngôn hỏi.
"Không!" ông đại tá nói càu nhàu.
- Nhưng là việc rất quan trọng! Có lẽ sự thoát hiểm của chúng ta tùy thuộc vào nó.
Ông đại tâ chau mày lại, tay vuốt hàng ria mép. Cuối cùng ông nói:
- Được, đó là việc gì?
- Ông phải tin tưởng ở tôi, vì tôi cũng muốn trở về Ai Cập như ông! Một bên là vợ tôi, cái nhà của tôi, các con tôi, còn một bên là kiếp sống nô lệ. Ông không có lý do nào để nghi ngờ tôi.
- Nói đi!
- Ông biết tên da đen đã nói chuyện với ông chứ? Cái tên đi với Hlcks đó!
- Rồi sao nữa?
- Hắn đã nói chuyện với tôi hồi đêm. Tôi đã có một cuộc nói chuyện dài với hắn. Hắn giải thích với tôi là ông không thể hiểu rõ ràng lời hắn nói, và hắn cũng hiểu rất ít lời ông nói. Đó là lý do tại sao hắn đến tìm tôi.
- Hắn đã nói gì với anh?
- Hắn nói với tôi là trong bọn Ả Rập có tám người lính Ai Cập, sáu tên da đen và hai tên nông dân. Hắn nói với tôi là hắn muốn có lời hứa của ông về một số tiền thưởng rất lớn nếu chúng giúp cho ông trốn thoát.
- Đồng ý, chúng sẽ có tiền thưởng đó!
- Chúng yêu cầu tôi một trăm bảng Ai Cập cho mỗi người.
- Chúng sẽ có số tiền đó.
- Tôi đã nói với hắn là tôi sẽ đặt vấn đề này với ông nhưng trước tiên tôi hãy trả lời về sự đồng ý của ông.
- Chúng có ý định làm không?
- Chúng còn chưa có thể hứa hẹn với tôi một điều gì cả nhưng chúng nghĩ sẽ đánh những con lạc đà của chúng đi gần với nhóm của ông, nhằm nắm lấy cơ hội đầu tiên khi nó xuất hiện.
- Được, quay lại gặp hắn đi và hứa với hắn hai trăm bảng cho mỗi người nếu chúng giúp được chúng ta một cách hữu hiệu. Anh không nghĩ rằng chúng ta có thể mua được vài tên Ả Rập à?
Mansoor lắc đầu. Hắn trả lời:
- Làm thế việc này sẽ quá nguy hiểm. Nếu ta làm thử và nếu ta thất bại trong việc đó, thì đó sẽ là sự cáo chung của tất cả bọn chúng ta, tôi sẽ chuyển câu trả lời của ông cho hắn.
Các tù trưởng dự kiến sẽ dừng chân tối đa là nửa giờ đồng hồ, nhưng những con lạc đà có đóng yên chở các tù nhân thì nhọc mệt quá khiến người ta không thể bắt chúng tiếp tục lên đường sau một lúc nghỉ ngơi ngắn ngủi như thế. Chúng đã duỗi dài những cái cổ to lớn của chúng lên bãi cát, đối với chúng hiện tượng này là triệu chứng cuối cùng của sự mệt mỏi. Hai lão chỉ huy xem xét chúng, lắc đầu, và lão già khủng khiếp quay bộ mặt gầy ốm của y về phía các tù nhân. Y nói với Mansoor anh chàng thông ngôn tái mặt đi khi nghe hắn nói.
- Tù trưởng Abderrahman nói rằng nếu các ông không cải theo Hồi giáo, thì ông ấy sẽ không tốn công làm chậm trễ cuộc hành trình của tất cả đoàn chỉ vì có các ông. Ông ấy nói nếu không có các ông thì chúng tôi đã có thể đi nhanh hơn hai lần. Do đó ông ấy muốn biết dứt khoát là các ông có sẽ chấp nhận kinh Coran.
Rồi, cùng một giọng nói đó, làm như hắn tiếp tục thông dịch, hắn nói thêm:
-... Các ông sẽ làm được tốt hơn nhiều khi trả lời là có vì nếu các ông từ chối nhất định ông ấy sẽ giết tất cả mọi người.
Những người tù bất hạnh nhìn nhau, hai tên tù trưởng quan sát họ với vẻ nghiêm trọng.
Cochrane nói:
- Về phần tôi, tôi thích chết ở đây hơn là làm nô lệ ở Khartoum.
- Mình nói gì, Norah?
- John ạ, nếu chúng ta cùng chết với nhau, tôi nghĩ là tôi sẽ không sợ.
"Thật là kỳ cục nếu tôi phải chết vì một cái gì mà tôi đã không bao giờ tin tưởng" Farder tuyên bố. "Tuy nhiên danh dự của một người Pháp ngăn cấm hắn không được cải đạo theo cách này..."
Ông đứng thẳng người lên, và đặt cái cổ tay bị thương của ông lên mạn trước áo gi-lê. Ông kêu to:
- Tôi là người Cơ-đốc. Tôi vẫn là người Cơ-đốc, mỗi câu trong hai câu này đều là một sự nói dối dũng cảm.
"Còn ông, ông Stephens?" Mansoor hỏi với một giọng cầu khẩn. "Nếu một người trong bọn các ông chịu cải đạo, có lẽ họ sẽ khoan nhượng hơn. Tôi thề với ông là chỉ làm những gì họ yêu cầu"
"Không, không thể được!" ông luật sư bình thản trả lời.
- Vậy còn cô, cô Sadie? cô nữa, cô Adams? các cô chỉ cần nói có ngay tức thì, là các cô được thoát nạn
"Cô ơi, cô có nghĩ rằng chúng ta có thể nói có được không?" cô thiếu nữ ấp úng nói. "Có phải đó là một điều rất tệ nếu chúng ta nói từ ấy không?".
Cô gái già ôm lấy cô thiếu nữ trong vòng tay. Cô thì thầm nói:
- Không, không, cháu Sadie yêu quí của cô! Cháu sẽ dũng cảm! Sau đó cháu sẽ tự oán hận mình rất nhiều! Hãy để nguyên bàn tay trên người cô, cháu ngoan ạ, và hãy cầu nguyện đi nếu cháu cảm thấy sự dũng cảm xa rời cháu. Đừng quên rằng người cô Eliza tuổi tác của cháu lúc nào cũng sẽ dẫn dắt cháu trong bàn tay.
Họ không thiếu lòng dũng cảm, những tay tài tử về các thú vui này! Tất cả mọi người đều nhìn thẳng vào cái chết và họ càng trông thấy nó đến gần thì họ càng ít sợ hãi nó. Họ còn thấy một cảm giác mơ hồ của sự hiếu kỳ, cũng như sự xốn xang của các dây thần kinh của một con bệnh khi sắp ngồi vào cái ghế của nha sĩ. Anh thông ngôn nhún hai tay và hai vai: anh đã cố gắng; và anh đã thất bại. Tù trưởng Abderrahman ra một cái lệnh cho một tên da đen, tên này chạy đi khỏi.
"Tại sao y lại đòi lấy những cái kéo?" ông đại tá hỏi.
"Y sẽ khảo đả các phụ nữ" Mansoor vừa trả lời, vừa phác họa cùng một cử chỉ của sự bất lực như trước.
Sự kinh hoàng làm họ lạnh toát người. Cái chết trong trừu tượng là một chuyện, nhưng các chi tiết quá cụ thể lại là một chuyện khác. Tất cả bọn họ đều chấp nhận chịu đựng bất kỳ một điều gì, mỗi người trong thân xác riêng của họ, nhưng họ còn ái ngại cho nhau, những người đàn bà không nói gì cả, những người đàn ông bắt đầu
cùng la hét.
"Khẩu súng lục, cô Adams!" Belmont nói "Đưa nó cho tôi! Chúng tôi sẽ không chịu để cho cô bị tra tấn!"
"Mansoor, lễ tiền cho chúng đi! Hãy dâng cho chúng tất cả những gì chúng muốn!" Stephens nói "Nghe đây, tôi sẽ cải đạo theo đạo Hồi nếu chúng hứa là không đụng tới các phụ nữ. Tóm lại, một trái vụ dưới sự cưỡng ép không có hiệu lực về mặt pháp luật. Nhưng tôi không muốn thấy các phụ nữ bị tra tấn!"
"Không, hãy đợi một chút, Stephens!" ông đại tá nói. "Chúng ta không nên mất đảm lực. Tôi tin rằng tôi đã thấp thoáng nhìn thấy một cửa đi ra. Này anh thông ngôn, hãy nghe tôi nói đây: anh lại nói với con quỉ già có bộ râu trắng kia rằng chúng tôi không biết một chút gì về cái tôn giáo tạp pí lù của y. Hãy dịch câu đó một cách dịu dàng. Nói cho y biết là y không thể chờ đợi ở chúng tôi việc chúng tôi cải đạo trước khi chúng tôi biết đó là trò bịp bợm gì. Nói với y rằng nếu y bằng lòng giảng dạy cho chúng tôi thì chúng tôi sẽ tình nguyện nghe sự giáo huấn của y, và anh sẽ có thể nói thêm là một tôn giáo đã sản sinh ra những thứ chó má như y hoặc như thằng quỉ khác cô bộ râu đen kia, chắc chắn đáng được bọn chúng ta chú ý"
Với sự trợ lực lớn của những cái khom lưng và những dáng điệu bộ tịch, anh chàng thông ngôn giảng giải rằng những người cơ đốc đã hoài nghi rồi, đã ở trên bờ của sự bội giáo, và chỉ cần một vài tia sáng mới để họ quyết định từ bỏ tôn giáo của họ. Hai lão tù trưởng vuốt râu với vẻ nghi ngờ. Rồi Abderrahman nói một vài tiếng, và cả hai tên cùng đi khỏi, một lát sau đó, tiếng tù và mới đoàn người tiếp tục lên đường.
"Đây là điều mà ông ta đã nói" Mansoor giảng giải với các tù nhân. "Vào khoảng buổi trưa thì chúng ta sẽ tới những giếng nước, và chúng ta sẽ dừng chân. Vị thầy giảng riêng của ông ta, một người rất tử tế và rất thông thái sẽ tới giảng dạy cho các quí vị một giờ về tôn giáo. Sau buổi học này, quí vị sẽ bày tỏ ý kiến. Một khi quí vị đã có sự chọn lựa rồi, các tù trưởng sẽ phán xét xem quí vị sẽ đi Khartoum, hoặc quí vị sẽ bị giết chết. Đó là tiếng nói sau cùng của ông ta.
- Chúng không nhận tiền chuộc à?
- Chắc chắn là Wad Ibrahim sẽ nhận, nhưng tù trưởng Abderrahman thì khủng khiếp. Tôi khuyên quí vị nên nhượng bộ ông ta.
- Chính bản thân anh, anh đã làm gì? Anh cũng là người theo đạo Cơ đốc mà?
Mansoor đỏ mặt lên.
- Sáng hôm qua tôi là người cơ đốc. Không chừng sáng mai tôi sẽ trở lại là người cơ đốc. Tôi phục vụ Chúa bao lâu mà những gì Người đòi hỏi có vẻ phải chăng đối với tôi, nhưng lần này thì rất khác.
Hắn thúc con lạc đà của hắn với một sự tự do trong điệu bộ để chứng tỏ rằng cuộc đàm thoại của hắn đã tạo cho hắn một cấp bậc riêng trong đám tù nhân.
Vậy là họ được hưởng một sự trì hoãn trong vài giờ, tuy nhiên cái bóng đen của tử thần đang chụp lên đầu họ. Vậy thì có cái gì trong cuộc sống mà chúng ta cứ phải cố níu lấy nó? Không phải những thú vui, vì những người mà cuộc đời đã là một chuỗi dài những đau khổ cũng lùi lại và khóc lóc khi vị tử thần từ bi chìa những cánh tay ủy lạo của ngài ra với họ. Không phải là xã hội, bởi vì chúng ta thay đổi toàn bộ các mối liên hệ của chúng ta tùy theo lề lối chúng ta tiến bước trên con đường rộng lớn mà mỗi cậu con trai, mỗi cô con gái của con người phải đi theo. Phải chăng đó là sự sợ hãi làm mất cái bản ngã của chúng ta, cái bản ngã thân thương mà chúng ta nghĩ là đã biết rất rõ, trong lúc nó luôn luôn làm ra những việc khiến chúng ta kinh ngạc? Tại sao người tự vẫn lại bám chặt một cách tuyệt vọng lấy cái cột chân cầu khi con sông nhận chìm hắn xuống? Phải chăng Tạo hóa sợ rằng các nghệ nhân mệt mỏi của ngài sẽ quăng dụng cụ và mở cuộc đình công, nên ngài mới phát minh ra cách này để giữ họ lại trong trách vụ hiện tại? Dù sao thì các du khách của tàu Korosko cũng đã bị phiền nhiễu và lăng nhục quá nhiều rồi: họ thấy vui thích được sống thêm vài giờ mới mẻ của sự đau khổ.
TẤN THẢM KỊCH CỦA TÀU KOROSKO
Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 9
Chương 10 (chương kết)