Một lần và mãi mãi
Tác giả: Thanh Quế
Cứ trưa trưa, bọn trẻ chúng tôi lại rủ nhau tụ tập dưới tán những cây bàng ở giữa làng. Thằng Bá, một thằng mập ú, khôn ngoan và lanh lợi nhất trong bọn, đứng ra cầm đầu chúng tôi. Nó khinh khỉnh đưa mắt lướt qua để nhẩm đếm số lượng rồi phân chúng tôi ra làm hai nhóm. Xong đâu đấy, nó đưa hai ngón ta vào mồm huýt lên một hồi còi. Lập tức, chúng tôi xông vào cuộc quần nhau chí tử với quả bóng được bện bằng giẻ rách. Khi thấy chúng tôi mệt lử, Thằng bá lại đưa hai ngón tay vào mồm huýt lên một hồi còi nữa: ấy là hiệu lệnh cho nghỉ. Chúng tôi, đứa nào đứa nấy ngồi bệt xuống gốc cây bàng thở hổn hển. Một lúc sau, Bá lại đưa hai ngón tay vào mồm huýt lên một hồi còi nữa. Đó là lệnh bảo chúng tôi đến quán bà Bảy Nhiêu mua kẹo, mua đường "bồi dưỡng". Lập tức đứa nào đứa nấy đều thò tay vào túi lôi ra những tờ bạc tín phiếu (1) nát nhàu mà chúng tôi cạy cục xin mẹ rồi chạy ù đi...
Quán bà Bảy Nhiêu nằm gần một khu mả đá, được bao bọc bởi những hàng rào bàn chải. Đó là một cái chòi tranh rách nát như vậy. Trong chòi có đặt một cái bàn gỗ đã cũ, hai cái ghế băng cũng đã già nua như vậy, một cái đã hỏng mất một chân. Trên chiếc bàn gỗ có xếp mấy lọ kẹo, đường táng, những thứ mà bà con nông dân tự làm lấy.
Bà Bảy Nhiêu sống có một mình. Người trong làng không ai rõ chồng con bà đã mất từ lúc nào, mà cũng có thể là bà chưa hề có chồng con gì cả. Trước đây, mắt bà con tinh nhưng độ hai năm nay bà bị lòa. Người ta bảo nhà bà ở gần động cát quá, nên gió thổi cát vào mắt nhiều lần, lâu ngày mà nó vậy.
Chúng tôi nhao nhao:
- Bán cho con một táng đường, bà.
- Bán cho con hai viên kẹo bi, bà.
- Bán cho con một táng đường, một viên kẹo bi, bà.
Bà Bảy Niêu run run đưa bàn tay trái lên cầm tiền của chúng tôi, bỏ ngay vào cái cơi trầu bà đặt dưới bàn, tay phải quờ quờ lục vào các lọ lấy kẹo, đường cho từng đứa. Hầu như không bao giờ bà đếm tiền. Bà tin chúng tôi.
Trưa hôm đó, sau hiệu lệnh của thằng Bá, tôi cho tay vào túi. Những tờ bạc lẻ mà mẹ tôi cho đã biến đâu mất. Tôi ngần ngừ một lúc nhưng nỗi thèm ngọt đã khiến tôi lủi thủi theo sau các bạn mong được "ăn ghẹ" của một đứa nào đấy. Giữa đường, nghĩ xấu hổ, tôi quay lại...
- Sao mày không đi mua đường, mua kẹo? - Thằng Bá đi phía sau hỏi tôi.
- Tao không có tiền.
Bá cười sằng sặc:
- Chớ hồi giờ tao đâu có tiền mà vẫn mua được kẹo.
Tôi ngạc nhiên:
- Chớ lâu nay mày mua bằng thứ gì?
Bá không trả lời ngay. Nó kéo tôi sát lại gần nó, rút trong túi ra một tờ giấy đã viết, được cắt gọn gẽ như một tờ giấy bạc, nói thì thầm:
- Tao chuyên đưa bà Bảy những tờ giấy này.
Bả mù, bả đâu có thấy - Nó ngừng một lát rồi tiếp - tao có ba tờ, tao cho mày một tờ. Mày đợi tụi nó mua xong, cuối cùng mình mới mua.
Tôi ngần ngại một lát nhưng cuối cùng cũng cầm tờ giấy lộn. Tôi có cảm giác khi cầm tờ "bạc giả" của tôi, mắt bà Bảy Nhiêu như có tia sáng lóe lên. Nhưng bà không nói gì, vẫn bỏ nó vào cơi trầu và đưa táng đường đen cho tôi.
Ngày hôm sau, sự việc vẫn lặp lại y như ngày hôm trước. Có điều, khi tôi và Bá đến quán thì không có chuyện mua bán xảy ra. Các bạn đến trước đều đứng tụm lại giữa quán nhìn sững vào trong nhà bà Bảy. Trong nhà có tiếng người lao xao. Một bác nông dân quen biết trong làng đang ngồi trước cửa vừa giở cơi trầu của bà Bảy ra đếm tiền, vừa nói vọng ra:
- Tụi bay về đi. Bà Bảy trúng gió chết hồi hôm rồi.
Chúng tôi sững sờ, đứng im không nhúc nhích. Bác nông dân lẩm bẩm điều gì đó rồi quay vô nhà nói với ai đó:
- Số tiền này vừa mua đủ một chiếc chiếu gói bả đấy - im lặng một lúc rồi bác tiếp - bả mù mà tinh thật. Bọn xỏ lá nào đưa giấy lộn cho bả, bả cũng nhận rồi gói riêng ra...
Tôi và Bá đứng như chôn chân xuống đất. Sống lưng lạnh buốt.
Từ đó đến nay đã bốn mươi năm trôi qua. Bạn bè của tôi không còn đủ đông như trước. Mấy chục năm chiến tranh đã xáo trộn chúng tôi. Có những đứa hiền lành hồi đó, sau này lại trở thành những tên ác ôn khét tiếng đã bị ta diệt. Có những đứa vốn ngỗ ngược, sau này lại trở thành những du kích dũng cảm và đã hy sinh. Có nhiều đứa theo gia đình, bỏ quê xứ đi làm ăn xa. Thằng Bá bây giờ trở thành một nông dân, người gầy, rắn rỏi, ngày ngày đánh trâu cày trên những rộc cát khô khốc mong tìm từng củ khoai để nuôi bầy con cháu đông đúc. Riêng tôi may mắn, được đi tập kết, được học hành để trở thành một nhà văn. Cứ mỗ lần về quê, tôi lại rủ Bá ra thăm mả bà Bảy Nhiêu. Cả hai đều đứng lặng, miệng lầm rầm cầu mong bà tha thứ...
Trong đời, có những điều ta lầm lỡ, không bao giờ có dịp để sửa chữa được nữa.
Đà Nẵng 1990
(1) Tờ bạc dùng ở trong vùng tự do của khu Năm trong kháng chiến chống Pháp