Chương thứ Ba (tt)
Tác giả: Thu Giang Nguyễn Duy Cần
D. SỰ TẬP TRUNG TINH THẦN.
Muốn có được một nền tảng văn hoá vững vàng phải biết thống nhất tất cả sự hiểu biết cùng học hỏi của ta vào một chiều sâu nào đó.
Một nhà văn Pháp có nói: “Tất cả những trước tác danh tiếng của những bực tài hoa viết ra, toàn là những giải thích về chiều rộng một ý tưởng duy nhất nào đó, một tình cảm về cuộc sinh tồn đang tìm đường sống… Đào mãi một cái lỗ, đó là phương thế duy nhất để đi sâu vào lòng đất và khám phá được những bí ẩn của nó”.
Nhờ sự tập trung tinh thần, ta lần lần tìm ra mối dây liên lạc duy nhất nối liền những ý tưởng cùng những sự kiện tạp nhạp mà mới xem qua ta không thấy ăn chịu với nhau chút nào cả. Nhưng chính cái chỗ “nhất dĩ quán chi” ấy là cái bí quyết của tất cả những danh tác bất hủ của nhân loại.
Khổng tử có nói: “Ngô đạo nhất dĩ quán chi” (đạo của ta trước sau chỉ có một lý mà thông suốt cả mọi việc).
Cái “một” ấy cũng là cốt tử của tất cả nghệ thuật và tư tưởng. Một học thuyết, một quyển sách, một bài văn hay một bức hội hoạ… đều phải có điểm chánh dùng làm trụ cốt.
Một danh hoạ bao giờ cũng gợi cho ta một cảm giác gì. Cảm giác ấy mạnh hay yếu cũng nhờ nơi khéo lựa chọn một cách cẩn thận cân nhắc những chi tiết vừa đủ để gây cho ta cái cảm giác ấy. Nếu trái lại, hoạ sĩ phung phí những chi tiết vụn vặt không ăn, hoặc không mấy ăn vào đề thì đó là một bức hoạ thiếu tính cách nhất quán, một bức hoạ hỏng. Người ta xem nó, không hiểu rõ nó muốn miêu tả cái gì. Đứng trước nó, ta cảm thấy hoang mang.
Sự thuần nhất trong một tác phẩm hội hoạ hay văn chương là điều khó thì hành nhất. Có gì dễ bằng chồng chất một cách hỗn độn nhưng chi tiết rất hay rất ngộ, nhưng không liên lạc gì với ý chánh của tác phẩm mình. Trong mỗi ý tưởng hay cảm giác hỗn tạp do sự kích thích của ngoại giới đưa đến cho ta, ta phải biết lọc lừa, chọn những gì trọng yếu nhất ăn sát vào đề để sắp đặt lại và trình bày một cách khéo léo, hầu gây cho kẻ khác một cảm tưởng thuần nhất mạnh mẽ. Không khác nào người trồng nho: họ tỉa những nhánh lá không cần thiết hoặc đèo đẹt để tăng sinh lực cho những nhánh lá khác có thể trổ sanh được nhiều trái hơn: hoạ sĩ hay nhà văn cần phải biết hy sinh những chi tiết không cần thiết hoặc còn bạc nhược để cho tác phẩm mình thêm nhiều sinh lực. Có nhiều nhà văn tư tưởng họ dồi dào quá, họ phung phí tư tưởng họ trên mặt giấy không khác nào những cành lá rườm rà của đám nho rừng…
Vì thế, viết một bài văn hay, hoặc vẽ một bức hoạ khéo, đâu có dễ. Người viết nó phải, trong khi giải bày những ý phụ, đừng cho sa đà ra ngoài đề. Giá trị của một nghệ sĩ là chỗ biết giản lược những gì phiền phức rườm rà để tăng gia sinh lực cho cái cảm giác chung nghĩa là phải biết hy sinh. Mặc dầu là những chi tiết hay, hoặc là những tài liệu quý đến bực nào, nếu thấy không liên lạc một cách chặt chẽ với đầu đề, hãy có gan hy sinh nó đi. Nó là những thứ “chùm gởi” không nên dung dưỡng trong tác phẩm của mình. Viết văn mà biết mình thi hành nguyên tắc “nhất dĩ quán chi” ấy, đó là mình đã tập cho tinh thần mình bao giờ cũng được tập trung sáng suốt.
Taine có nói: “Điều khó khăn nhất trong khi nghiên cứu là tìm cho ra cái điểm đặc biệt và chủ yếu, do đó tất cả đều có thể quy về một mối…” Ông lại bày giải phép làm văn của mình: “Trong khi viết lại một tác phẩm nào, tôi luôn luôn làm một cái bản mục lục phân tích từng vấn đề. Tôi làm bản ấy, không phải lúc mới khởi thảo, hoặc sau khi viết xong bản thảo, mà là lần lần sau khi viết xong mỗi đoạn. Tôi tóm lại mỗi đoạn bằng một câu hết sức gọn gẫy và rõ ràng. Đâu phải dễ dàng gì tìm ra được liền câu đại lược ấy, nhưng hễ đã một khi tìm ra được nó rồi thì câu ấy chỉ cho ta thấy trong đoạn văn nầy có những gì dư, những gì thiếu, những gì không ăn chịu nhau, hoặc không đầu đuôi, bởi thảy đều phải quy về câu tóm tắt ấy. Hơn nữa, câu tóm tắt nầy cùng những câu tóm tắt khác của các đoạn sau, gộp chung lại, giúp ta thấy cái yếu điểm của toàn chương”.
Đây chẳng những là phương pháp làm văn mà cũng là phương pháp đọc văn và rộng hơn nữa, nó là tất cả phương pháp học hỏi bất cứ môn học nào.
Muốn có được luôn luôn một đầu óc sáng suốt mà cũng là phương pháp đọc văn và rộng hơn nữa, nó là tất cả phương pháp học hỏi bất cứ môn học nào.
Muốn có được luôn luôn một đầu óc sáng suốt phải biết tập cho mình cái thói quen tìm ngay cái ý chánh, biết phân biệt liền cái gì là yếu điểm với những gì là phụ thuộc, nhất định không bao giờ để mình bị lôi cuốn theo những đề phụ…mỗi khi đọc sách, xem tranh, làm văn, xem kịch hay nghe tiểu thuyết…
Nhất là khi đọc sách. Đọc sách là phương tiện quan trọng nhất trong khi tự học. Đọc sách mà muốn tìm nắm lấy cái đại ý của toàn tập, phải đọc nó suốt một hơi, đừng bận những tiểu tiết về văn từ cũng như về ý tưởng. Về sau sẽ đọc trở lại vài lần một khi đã nắm được đại ý. Bấy giờ ta sẽ đọc kỹ lại từng thiên, từng đoạn, từng câu. Nhưng bao giờ cũng phải biết để ý đến chỗ thuần nhất của nó.
Nếu ta thi hành nguyên tắc “nhất dĩ quán chi” nầy một cách trung thành trong mỗi khi đọc sách hay làm văn, lâu ngày ta sẽ tạo cho ta một thói quen rất tốt là bất kỳ đứng trước một việc gì phiền phức bực nào cũng không bao giờ để tinh thần mình bị lôi cuốn vào những chi tiết chi ly vụn vặt, không phân biệt được cái gì là chánh cái gì phụ…Người xưa thường dặn: “Tri kỷ lý giá, nhứt ngôn nhi chung, bất tri kỳ lý giả, lưu tán vô cùng”.
Đây nào phải đâu chỉ là công phu những khi đọc sách hay làm văn mà thôi đâu, ta phải lấy nó làm công phu của suốt đời, bất kỳ là đứng trước một trường hợp nào…”(Xem lại quyển Óc sáng suốt –trang 183).
Cái đặc điểm của những bậc vĩ nhân là nơi sức mạnh của sự tập trung tinh thần của họ. Roederer bàn Napoleon Bonaparte có nói: “Ông sở dĩ khác người là nhờ nơi sự tập trung tinh thần của ông rất mạnh và rất bền. Ông là người có thể làm việc liên tiếp mười tám giờ đồng hồ về một công việc…Không có người nào biết để hết tâm tư mình vào công việc mình làm hơn ông”.
Có kẻ hỏi Newton, nhà đại thiên văn nước Anh, cái mật pháp của sự phát minh về sự “dẫn lực của Vũ Trụ” của ông. Ông trả lời: “Có gì lạ, chỉ vì tôi cứ nghĩ đến nó mãi mà thôi!”
Ông Darwin sở dĩ làm được công nghiệp vĩ đại trong khoa học giới là nhờ ông có cái tài “đeo đuổi mãi theo một vấn đề suốt năm nầy đến năm kia mà không biết nản”, không bao giờ chạy theo cái phụ mà quên cái chánh.
Khổng Tử cũng thường nói: “Ta là người, hễ có việc gì nghĩ chưa ra, thì nghĩ đến quên ăn, nghĩ ra được thì vui quên cả lo, không biết rằng tuổi già đã sắp tới vậy.”
“Thiên tài chỉ là một sự kiên nhẫn lâu dài”, kiên nhẫn đeo đuổi mãi một ý nghĩ, một việc làm cho kỳ được mới thôi.
Darwin, mỗi buổi sáng làm việc từ 8giờ đến 9 giờ rưỡi, từ 10 giờ rưỡi đến 12 giờ trưa. Chiều, thì làm việc từ 3 giờ rưỡi đến 5 giờ rưỡi, nhưng không phải luôn luôn như vậy, vì đó là công việc làm thêm. Tuy làm việc rất ít, mà hễ làm thì ông làm một cách nhiệt thành, đem cả tâm trí chuyên chú vào đó và không khi nào ông làm một việc gì mà còn phải làm lại một lần thứ hai nữa.
Bạn ông là nhà địa chất trứ danh Lyell cũng chỉ làm việc có 2 giờ liên tiếp thôi. Herbert Spencer, người bạn đồng hương của ông, có một sức khỏe rất tồi tệ, ông nầy không đủ sức tập trung tinh thần tư tưởng lâu được: thần kinh hệ của ông rất suy nhược. Làm việc liên tiếp ba giờ thì ông phờ cả người, không còn đủ sức để đọc một quyển tiểu thuyết nữa, ông đã đuối sức rồi. Thế mà vì khéo biết tập trung sinh lực vào một công việc sưu tầm của ông thôi và biết hy sinh tất cả những gì phụ cho cái chánh mà sau cùng ông đã để lại cho đời một công trình hết sức to lớn.
Bất cứ làm việc gì, chuyên tâm chú ý, tập trung tinh thần là bí quyết của thành công.
“Trọng Ni đi qua nước Sở, vừa ra khỏi rừng, thấy một người tật bướu bắt ve bằng môt cây sào dài, rất lẹ và chắc chắn cũng như nó bắt bằng tay vậy.
Trọng Ni nói: Anh thật là tài. Xin cho ta biết cái thuật của anh.
Tên tật bướu nói: Thuật của tôi là đây: trong năm, sáu tháng, tôi tập để viên đạn đứng thăng bằng trên ngọn sào của tôi mà không hề rớt. Khi tôi để đứng đặng hai viên, thì ít con ve nào thoát khỏi tay tôi. Khi tôi để đứng đặng năm viên, tôi không hề trật một con nào hết. Cái thuật cảu tôi là biết quy tất cả tinh thần của tôi vào chỗ chí hướng mà tôi mong đạt đó. Tôi trị cái tay tôi, cả thân thể tôi cho đến chừng nào thành một khúc gỗ, không còn xao nhãng nữa. Tuy Trời Đất là lớn, vạn vật là nhiều, nhưng tôi chỉ thấy có con ve mà tôi muốn bắt nó thôi. Không chỉ làm cho tôi xao lãng ngoài cái ý của tôi muốn đó, con ve làm gì thoát khỏi tay tôi”.(Trang Tử -Đạt Sanh thiên).
Đó cũng là cái bí quyết của phép tự học nữa.
E. ÓC TỔNG QUAN.
Như ta đã thấy trên đây, sự đi tìm cái lẽ “nhất dĩ quán chi” của mọi sự vật trên đời, đó là cách đào tạo cho mình tinh thần tổng quan.
Như thế, óc tổng quan thực là khuynh hướng chống lại với sự tản mạn tinh thần chống lại với sự quá phung phí tư tưởng vào những cái chi ly vụn vặt và phụ thuộc, nghĩa là biết đem những chi tiết phụ ghép vào cái chánh, biết nhận thấy cái dây liên lạc mật thiết giữa các sự vật rời rạc nhau, biết tìm hiểu cái ý nghĩa thâm sâu của mọi sự mọi vật trên đời, nhưng chú ý đến không có nghĩa là đã quên mất cái đại ý của cuộc đời, cái ý nghĩa thâm sâu của sự sống để mà giản dị hoá nó, mà “chuyên tâm bão nhất”.
“Tập trung tinh thần” cũng không có nghĩa là khép mình trong “chuyên môn”. Đây là hai hoạt động tinh thần khác nhau xa. “Chuyên môn” là hoạt động bằng tư tưởng cũng như bằng hành vi trong một khu vực hạn định nào, không khác nào một người thợ bắt bù lon, cứ bắt bù lon mãi suốt ngày, hay một người thơ ký đánh máy cứ đánh máy mãi suốt ngày…Tập trung tinh thần, là biết trung thành luôn luôn với lý tưởng. Tập trung tinh thần không có nghĩa là tự giam mình trong một phạm vi chật hẹp nào của nghề nghiệp, mà trái lại, tự mình lựa chọn một trung tâm hoạt động tha hồ quyền biến mà không bao giờ sai với tôn chỉ.
*
* *
F.ÓC NHÂN QUẢ.
Sự vật trong đời, không bao giờ ngẫu nhiên mà có, cũng không bao giờ ngẫu nhiên mà không. Có hoặc không chỉ là cái quả, nguyên nhân nó hoặc gần hoặc xa, chắc chắn là phải có. Có biết đặng nguyên nhân, mới biết rành kết quả. Thấy quả phải tìm đến nhân, đó là một trong nhiều khía cạnh của tinh thần khoa học. Cần phải tạo cho mình một khuynh hướng luôn luôn đứng trước một sự kiện gì đều phải biết tìm dây nhân quả thì sự học hỏi của ta mới chắc chắn vững vàng.
Thật vậy, chỉ có những đầu óc nông nổi mới hay tin đến sự cộng đồng sinh tồn và sự tiếp tục ngẫu nhiên trong sự vật mà thôi. Đời sống phức tạp, tản mác, giáo dục hấp tấp vội vàng, thói đọc sách sơ sài ngoài mặt là những nguyên nhân làm cho tinh thần ta thiển bạc lười biếng, thấy sao, hay vậy…không chịu khó tìm xem nguyên nhân sự vật ở nơi đâu.
“Có biết đặng nguyên nhân mới hiểu rành mọi sự…Tiền nhân, hậu quả. Quả cùng nhân tương tiếp tương thừa. Dây nhân quả vô cùng vô tận. Chận một khoảng nào thì khoảng ấy là quả của bao nhiêu nhân trước, mà là nhân của cả dọc quả về sau. Vậy thì quả đây, nhân nó ở đâu? Người ta cắt nghĩa lầm một sự là vì chỉ thấy một cái nhân nầy mà không thấy cái nhân khác của sự ấy, chỉ thấy có cái nhân gần mà không thấy được cái nhân xa của sự ấy. Muốn hiểu rõ một sự, phải biết cho tường tận cái dọc nhân ở đàng trước của nó là gì? Song le có nhiều sự không phải chỉ có một dọc nhân làm ra nó mà có nhiều dọc nhân khác làm ra. Không hiểu được hết cái dọc nhân, người ta đổ cho sự may rủi” (Luận Tùng trang 68 -Phạm Văn Hùm –Tân Việt xuất bản).
Biết tìm được cái dây nhân quả trong mọi sự mọi vật trên đời thì tư tưởng ta mới được đầy đủ và cường kiện thêm lên. “Không có gì ngẫu nhiên cả, thảy đều có cái lý của nó”. Đó là cốt yếu của tinh thần khoa học.
Vậy, trước một hiện tượng nào, hãy hỏi: Tại sao? Và nếu có ai quả quyết với mình một điều gì, phải lập tức đòi hỏi lấy “bằng cứ”!
Đọc báo, thấy nhà phê bình chê hoặc khen một tác phẩm nào, phải tự hỏi để tìm lấy cái nguyên nhân thầm kín của nó: “Tại sao khen? Tại sao chê?”. Ta phải đòi hỏi nơi nhà phê bình những bằng cứ đúng đắn trước khi nhận những lời phê phán của họ.
Nếu muốn hiểu rành một điều nghe thấy nào, cần phải “có đủ các dọc nguyên nhân” mới được. Nhưng “việc đời phức tạp mà đời người rất ngắn, con người phải tạm sống với những kết luận tạm”. Thà kết luận tạm với một mớ nguyên tắc thiếu sót, có phải còn quý hơn là kết luận liều lĩnh mà không cần hiểu đến một nguyên nhân cỏn con nào cả không?
Óc nhân quả, giúp cho ta nhận thấy được sự mâu thuẫn trong các hành vi tư tưởng của kẻ khác. Có nhiều nhà văn tả cảnh xuân mà lại nói đến “sen nở mai tàn” hoặc là cảnh ban đêm mùng một mà “vầng trăng vặc vặc, bóng sao ngời ngời”. Delacroix, trong bức hoạ Barque de Don Juan, vẽ nhiều người chết đói mà cánh tay hãy còn tròn ũm no nê. Những người viết ra, vẽ ra những cái ngớ ngẩn ấy, và những kẻ xem nó lại không để ý đến, toàn là tại thiếu óc nhân quả. Có được một đầu óc nhân quả thì công phu học hỏi của ta mới mong có kết quả chắc chắn được.
G. ÓC TẾ NHỊ.
Lại cũng phải cần tạo cho mình óc tế nhị. Trong khi học hỏi, quan sát ngoại giới cũng như nội giới, ta cần phải quan tâm đến sự giống nhau và khác nhau của mỗi sự vật. Không thế, ta chỉ có được một mớ học thức mơ hồ mà thôi.
Phần đông chúng ta hay có thói quen suy nghĩ theo loại vì đó là lối suy nghĩ thô sơ nhất. Phân biệt được những chỗ khác nhau và biết nhận thấy được những chỗ giống nhau của sự vật là một công phu không phải dễ.
Người vô học thường quan niệm sự đời bằng cách loại suy: họ không biết so sánh. “Những đầu óc tinh nhuệ mới nhận thấy được sự khác nhau trong sự vật, những đầu óc tầm thường chỉ thấy toàn là những sự giống nhau thôi”. Anh lính thuỷ thiện nghệ, thoáng qua nơi chân trời có thể nhận được liền một chiếc tàu hàng hay một chiến hạm. Anh bán vải sành, thoáng qua là đã phân biệt được thứ lụa giả lụa thiệt. Nhà trinh thám đại tài, thoáng qua là phân biệt liền được kẻ gian người ngay.
Về chỗ giống nhau của sự vật, cũng đâu phải dễ nhận thấy. Thấy cho đúng chỗ giống nhau, nhận cho đúng chỗ khác nhau, phải là một đầu óc tinh nhuệ sắc sảo lắm mới được. Phải có một thiên tư xuất chúng mới thấy được chỗ giống nhau hay khác nhau của sự vật. Nhiều việc bề ngoài thấy rất phiền phức khác biệt nhau mà kỳ trung lại giống nhau như một. Cũng có nhiều việc bề ngoài giống nhau như một mà kỳ trung khác nhau như trời vực.
Trong khi đọc sách, đọc báo hoặc đọc các bài diễn văn “giựt gân” của những lãnh tự các đảng phái chính trị, ta cần phải thận trọng để ý xem xét cho thật kỹ những lối so sánh tỉ luân của họ, như ta đã thấy trên đây, để ngừa sự nguỵ luận.
Hằng ngày nên tập quan sát sự đồng dị giữa sự vật. Thấy chỗ khác biệt giữa hai sự đồng tánh là khó, nhưng nhận được sự giống nhau giữa hai sự vật không đồng tánh cũng không phải dễ. Người ta thường nói Phật và Lão phảng phất giống nhau. Nhưng giống nhau chỗ nào? Khác nhau chỗ nào? Trong Phật học, Phật giáo có mấy tông phái? Các tông phái giống nhau chỗ nào và khác nhau chỗ nào? Khổng và Mạnh, Lão và Trang giống nhau chỗ nào và khác nhau chỗ nào? Nếu mỗi mỗi ta đều để ý quan sát để xem xét những chỗ đồng dị thì lý thú không biết chừng nào mà thụ dung cũng không biết là ngần nào.
Bất kỳ gặp một cơ hội nào cũng đừng bỏ qua: hễ thấy những vật giống nhau, cần phải tìm những chỗ dị đồng của nó. Không bao lâu ta sẽ thấy sự nhận xét của ta càng ngày càng tinh mật một cách hết sức mau lẹ. Bấy giờ ta sẽ có được cái biệt tài rất quý báu này là thấy được nhiều khía cạnh mà thôi.
Đứng về mặt thực tế, thì óc nhận xét nầy có rất nhiều lợi ích. Nó giúp ta thấy được được sự thực giả một cách rất dễ dàng trong các sự vật.
Hãy tập phân biệt sự thực giả của hột xoàn, của hột trai, của giấy bạc…là những điều rất cần thiết trong đời sống hàng ngày. Tập cho mình có được một đầu óc tế nhị là mình đã có một cơ sở khá cứng cát để đi vào con đường tự học.
*
* *
H. ÓC THÁN THƯỞNG
Aristote nói: “Tất cả mọi người đều ao ước được có nhiều hiểu biết. Nhưng muốn hiểu biết, điều kiện đầu tiên là phải biết nhìn đời với cặp mắt của đứa trẻ thơ: cái gì cũng mới là và làm cho ta ngạc nhiên được cả.”
Biết ngạc nhiên biết nhìn đời bằng một cặp mắt mới lạ, giúp cho Newton tìm ra cái lực “vũ trụ hấp dẫn” trong khi ông nhìn thấy quả “bôm” rụng. Denis Papin tìm ra sức mạnh của hơi nước cũng chỉ vì biết nhìn với cặp mắt ngạc nhiên bình nước sôi…mà ai ai cũng thường thấy hàng ngày.
Sự quen thuộc thường làm cho ta không nhận thấy đặng những cái hay, cái đẹp của chỗ ta ở hàng ngày. Người ngoại bang đến xứ ta, thấy bao nhiêu là việc lạ mà chính ta không dè. Hãy biết phản ứng ngay với những thái độ tiêu cực ấy: phải biết xem xét chung quanh ta với cặp mắt của người xứ lạ. Ta sẽ thấy đời ta đổi khác với nhiều tư tưởng bất ngờ mà xưa nay ta chưa từng nghĩ đến. Nhà văn Lamennais có nói: “Tất cả mọi người đều biết nhìn cái tôi đã nhìn, nhưng họ không thấy được cái chỗ tôi thấy”.
Đừng để trong trí rằng dưới đời không còn có gì mới lạ và cái gọi là mới lạ, chỉ là những gì người khác đã nhận thấy và đã nói ra rồi.
Ta phải tập nhìn đời với một cặp mắt mới mẻ, với giác quan tinh tế của một kẻ đau liệt trên giường bệnh vừa mới khỏi, bắt đầu tiếp xúc với ánh sáng và không khí bên ngoài…
Nói thì có hơi như nguỵ biện, nhưng sự thật cần phải quả quyết rằng cái đức đầu tiên của óc thông minh là phải có cảm giác mình không hiểu biết gì cả. Một bộ óc “thông minh” mà việc gì cũng cảm thấy không có gì lạ cả, một bộ óc tê liệt, bệnh hoạn, không còn cơ phát triển gì được nữa. Đức Khổng Tử có ý bất mãn về Nhan Hồi khi Ngài nói: “Hồi không dạy được ta gì cả. Ta nói ra điều gì, nó hiểu liền và không ham cật vấn”.
Jules Lemaitre cũng nói: “Đứa học trò hay nhất của tôi là đức không đồng ý với ý kiến với tôi”. Và đức học trò giỏi hơn nữa, có lẽ sẽ là đứa biết rõ ràng nó không hiểu gì cả. Phần đông, ta thường có cái khuynh hướng hay tưởng tượng rằng mình đã hiểu rõ rồi, nhưng khi bị bắt buộc phải giảng giải ra thì mình mới nhận thấy mình mới chỉ nhận thức một cách rất lờ mờ…Phải chăng ta thường thấy có quá nhiều kẻ quá hoạt bát, quá thông minh nhưng kỳ thật chỉ là những đầu óc thiển cận và chỉ bừng sáng lên như ngọn lửa rơm; trái lại, có nhiều kẻ mới xem thì lù đù mà tư tưởng lại uyên thâm…Họ hiểu chậm, nhưng đến khi hiểu thì hiểu một cách sâu sắc thâm trầm. Là tại sao? Nhờ họ không xem thường một việc nhỏ nhặt nào cả. Nhân đó ta có thể phân biệt rõ ràng kẻ nào biết tư tưởng với kẻ không có tư tưởng gì cả. Trước một sự kiện huyền bí, kẻ không tư tưởng quả quyết là không có gì lạ mà không hiểu. Trái lại, dù là đứng trước một sự kiện hiển nhiên, kẻ biết tư tưởng vẫn e dè và tự bảo: “Tôi cũng chưa hiểu rõ là cái gì cả!” Và chính đây mới là chỗ sâu sắc nhất của lời nói nầy: “Điều mà tôi biết rõ hơn hết, là tôi không biết gì cả.”
Cũng chính Socrate đã nói: “Không có sự dốt nát nào nhục nhã bằng tin tưởng rằng mình đã hiểu những gì mình không hiểu.”
Phải chăng bước đầu tiên của tư tưởng là phải dám đặt nghi vấn trước những vấn đề mà người người đều xem thường hay tin tưởng là mình đã hiểu rồi.
Một văn hào Pháp, Charles Péguy, có nói: “Trong đời ta, ít ra cũng phải có một lần đặt lại và kiểm soát lại những tư tưởng của ta”, nhứt là những tư tưởng mà ta thích nhất và tín ngưỡng nhất.
Chỉ có những người tự đắc và nông nổi mới dám quả quyết: “Đời đục cả, một mình ta trong. Đời say cả, một mình ta tỉnh”. Tự mãn trong sự hiểu biết của mình và tin tưởng rằng không còn có gì phải suy xét lại nữa là tự huỷ hoại con đường tiến thủ tinh thần ta rồi.
Vì vậy, theo thiền ý, một trong những mật pháp của một nền giáo dục sâu sắc không gì bằng tập cho thanh thiếu niên sớm biết được cái nghệ thuật thán thưởng.
Platon có nói: “Biết ngạc nhiên, đó là nguyên nhân của triết học”.
Truyện Kim Vân Kiều của Nguyễn Du, sở dĩ có thể xem là một quyển sách hay về tư tưởng, không phải vì nó đã giải quyết sẵn cho ta một vài quan niệm về cuộc đời, mà chỉ vì nó đã đặt thêm cho ta nhiều vấn đề mà hiện thời ta chưa rõ phải giải quyết ra sao cả. Tiểu thuyết mà hay không phải những loại tiểu thuyết có luận đề, trong đó người ta cố nặn bóp thế nào cho mọi sự kiện đều đi về một chiểu, một hướng như Lục Vân Tiên chẳng hạn. Tiểu thuyết của André Gide sở dĩ đã làm chấn động dư luận thế giới, tựu trung đã nhờ sự biết đặt những nghi vấn và tác giả đã biết nhường cho độc giả cái phần sáng tạo thêm là tìm hiểu lấy những nghi vấn ấy, chứ tự tác giả không bao giờ giải quyết sẵn cho. Cũng như đọc Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần, đố ai biết được dụng ý của pho truyện này là để chứng minh quan niệm gì? Lối viết truyện này, tức cũng là lối viết truyện của André Gide ngày nay vậy.
Giờ đây, chúng ta thử bàn qua những phương pháp đào tạo óc thán thưởng.
Có hai cách thán thưởng: tiêu cực và tích cực.
Thán thưởng tiêu cực là biết ngạc nhiên, biết thán thưởng một cách tự nhiên không cần cố gắng gì cả. Tức là trường hợp của những người ở đồng quê vắng vẻ và lần đầu tiên lên đến đô thành đồ sộ nguy nga và vô cùng náo nhiệt. Họ nghĩ ngợi, họ bị bắt phải suy nghĩ và có những cảm tưởng lạ lùng. Là nhờ nơi đâu? Nhờ nơi sự so sánh và sự tương phản giữa hai hoàn cảnh khác nhau.
Chân lý là gì? Phải chăng chân lý là sự đối chọi và so sánh những chân lý tương đối khác nhau? Phải có một sự khác nhau mới làm cho ta để ý và suy nghĩ. Chính nhờ có bóng tối mới làm nổi bật được ánh sáng. Có sống trong nô lệ người ta mới biết nghĩ đến giá trị của tự do mà tiếc uổng.
Tóm lại, người ta mà có biết suy nghĩ, phần nhiều là nhờ có sự tương phản của hoàn cảnh gây nên. Sự có mặt của một sự vật nào mãi mãi bên ta sẽ gây thành thói quen. Thói quen sẽ làm nhụt cả cảm giác của ta đối với sự vật ấy. Bởi vậy, có một nhà văn đã nói: “Ta sống nhờ ngó đàng trước, ta hiểu nhờ ngó lại sau, ta cảm nhờ có sự vắng mặt”. Hay thay! Cái gì “đã đi qua” mà còn trở lại sẽ làm cho ta sung sướng không biết chừng nào!
Ngày mà ta thấy thâm cảm được mối tình sâu nặng của cha mẹ ta, chính là ngày mà hình bóng ấy đã vắng bặt trên cõi đời. Khi mà ta nếm được hương vị thần tiên của tình yêu thâm trầm ấy, chính là ngày mà ta cảm thấy đã quá muộn màng không còn phương gì để đền ơn đáp nghĩa nữa.
Và vì thế mà sự vắng mặt giúp cho chúng ta suy gẫm nhiều, đồng thời nó cũng là món ăn tinh thần cho những tâm hồn đa cảm. Xa nhau thường là mối dây thiêng liêng ràng buộc tình cảm càng thêm bền chặt. Sự sống chung đụng hằng ngày dễ làm cho ta nhàm chán và xem thường. Cho nên một trong những phương pháp nuôi dưỡng tình yêu là thỉnh thoảng nên xa nhau để cho tình thương càng thêm nung nấu.
Tóm lại, phương pháp giúp cho ta có nhiều sáng kiến và suy tưởng là phương pháp đối chiếu, phép dùng mâu thuẫn. Và những hình ảnh do đỗi chiếu mà ra.
Giờ thử bàn đến phương pháp tích cực để kích thích óc thán tưởng, tức là đặt vấn đề, đặt những câu hỏi, để mà “tiên đoán” hay dự đoán những gì ta sắp đọc, sắp nghe…
Rất có thể mình dự đoán sai. Nhưng cái đó không mấy cầu. Chính cái chỗ khác nhau giữa sự thực với việc ta dự đoán mới là điều quan trọng: nó kích thích óc tò mò và làm cho ta nhớ thật dai, đồng thời bắt ta suy nghĩ và làm óc giàu sáng kiến. Thiết tưởng những giáo sư dạy sử cũng nên dùng đến phương pháp này để dạy học trò, chắc sẽ linh động lắm. Khi ta trình bày những sự kiện lịch sử, đến khi kết cuộc ta nên dừng lại và “đố” học sinh phải tìm lấy…Học sinh có thể đoán lầm…và phần nhiều hay đoán lầm…là vì sự đời nhiều khi rất vô lý. Sự xảy đến thường lại không xảy đến như lòng ta sở nguyện: “nhơn nguyện như thử, thiên lý vị thiên”!
Chính đây cũng là phương pháp dạy học trò của Socrate hay của Khổng Tử: biết đặt câu hỏi là cả một nghệ thuật của phép dạy dỗ, làm kích thích tư tưởng.
Có người đề nghị phép học nên gồm trong câu châm ngôn nầy thôi: “Nếu muốn học “thấy” hãy “bịt” mắt lại mà tưởng tưởng trước bằng một viễn tưởng trong tâm hồn”; nếu muốn học “nghe” hãy “bịt tai lại”; nếu muốn học cách “đọc sách”, hãy “xếp sách lại mà phỏng đoán trước những gì ta sắp đọc”…đó là để mà lóng nghe cái tiếng dội của tâm hồn. Platon nói rất sâu sắc: “Hiểu biết, thực ra, là một sự nhận ra những gì ta đã biết”. Nghĩa là, cái thật biết là cái biết do mình đã tìm ra. Ta chỉ thấy được những gì ta đã thấy. Ta chỉ thích được những gì ta đã thích. Có đồng mới có ứng, không đồng không ứng. Đọc sách mà biết hay chẳng qua vì nó là tiếng dội của lòng mình. Những ý tưởng mà ta đã nghĩ qua, những tình cảm mà ta đã trải qua, nhưng vì không được hàm dưỡng đúng mực nên đã giống như ngọn lửa than âm ỉ trong đáy lòng, nay bỗng gặp được ngọn gió thổi lòng nên nó bừng lên mà cháy lại. Thực ra, chỉ có “đồng thinh” mới “tương ứng”, “đồng khí” mới “tương cầu”.
Những văn gia đại tài thường là những kẻ biết khêu gợi và làm sống lại những tư tưởng ấp ủ trong lòng người. Họ là những kẻ khéo gieo vào lòng người những câu hỏi, những thắc mắc, những hoang mang, những nghi vấn…Họ là những kẻ biết “thổi” vào lòng người ngọn gió “hoài nghi”, một thứ hoài nghi triết lý mà André Gide gọi là “hoài nghi phá hoại” làm nghiêng ngửa tất cả lâu đài tư tưởng mà vì tánh lười biếng người ta đã âm thầm xây dựng trên những thành kiến lâu đời…Có thể nói họ là những nhà đại cách mạng và cứu thoát tâm hồn con người ra khỏi gông xiềng của những tư tưởng hẹp hòi lâu nay đã giam hãm con người trong những giá trị sai lầm, không động. Thích Ca, Lão Tử hay Jesus phải chăng là những nhà đại cách mạng của nhân loại vì họ đã dám phá tan những ảo vọng của con người. Họ là những người làm thức tỉnh chứ không phải là người làm ru ngủ nhân loại bằng cách “gãi chỗ ngứa” của quần chúng.
Và vì thế mà họ thường là những kẻ bị kẻ đồng thời đối đãi một cách có khi hằn học hay lạnh lùng…nếu họ không bị đem lên cây Thập ác mà hành hình như Đức Datô. Trái lại, một Francoise Sagan, một James Deans…lại được phần đông thanh niên sùng bái như một vị thần. Đó là chỗ phân biệt những bậc vĩ nhân, thứ chân và thứ giả.
Phương pháp này chẳng những rất hiệu nghiệm trong khi đọc sách, mà nó cũng rất thực dụng trong khi đi nghe diễn thuyết, đi xưm bảo tàng viện hay các cuộc triển lãm hoặc đi xem xi nê hay diễn kịch. Nó cũng là phép dùng ức thuyết của các nhà bác học, y sĩ hay các nhà mật thám đại tài (Xem lại quyển “Óc sáng suốt” cùng một tác giả)
Cũng còn có nhiều cách để kích thích óc thán thưởng và sự ngạc nhiên là thường nên lân la với người có những quan niệm về cuộc đời khác ta, hoặc chống đối lại ta. Đọc sách cũng nên đọc những sách có những chiều tư tưởng nghịch lại với ta. Kẻ đồng chí với ta là bạn ta, mà kẻ thù của ta thường là “thầy” của ta, nếu ta biết lợi dụng sự chống báng của họ để kiểm điểm lại những sai lầm thiếu sót và nghiên cứu lại cho thật kỹ hơn những lý thuyết hay quan niệm về nhân mạng mà ta hằng ngày hằng sùng bái để nó càng ngày càng thêm khởi sắc. Chính đây là ý nghĩ thâm trầm của câu nói Jules Lemai re mà tôi đã nhắc trước đây: “Đứa học trò hay nhất của tôi là đứa không đồng ý với tôi”.
Những người còn trẻ tuổi nên lân la những bậc trưởng thượng, những kẻ đã từng trải cuộc đời để nghe họ nói chuyện. Họ là những người không còn dục vọng sôi nổi của tuổi trẻ, đã có nhiều kinh nghiệm và cuộc đời sẽ có nhiều bình tĩnh hơn. Tóm lại, kẻ lớn tuổi cũng cần gần gũi thanh niên để khỏi bị tê liệt tinh thần; còn thanh thiếu niên cũng nên gần gũi với người già; họ không còn quyền lợi gì để lừa dối ta nữa. Đương lứa với nhau, vì sự tranh đua với nhau mới có sự lừa dối nhau, chử kẻ không còn tranh hơn tranh kém với mình, họ đâu có lợi gì để lừa bịp mình nữa! Sự va chạm giữa hai thế hệ là một nguồn kích thích tư tưởng rất lợi ích cho hai đàng.
Lại nữa, cũng nên cố gắng mà trả lời một cách thành thật và đúng đắn những câu hỏi đột ngột của trẻ thơ. Con trẻ thường giữ được sự thán thưởng tự nhiên: đối với chúng thảy đều là những hiện trạng bất thường…Chúng thường có những câu hỏi bất ngờ nhưng đầy ý vị sâu xa, mà phần đông người lớn không sao trả lời cho xuôi được. Nhưng thường lại là những câu hỏi đầy ý nghĩa của triết học nếu ta biết để ý đến. Đừng bỏ qua mà la rầy đàn áp chúng, như chúng ta thường có thói quen khinh thường chúng.
Có đứa trẻ nọ hỏi cha nó: “Tại sao Trời không giết những loài ma quỷ hại người, thì làm sao người ta còn phải khổ nữa?” Phải chăng là một câu hỏi thuộc về triết lý, một câu hỏi thuộc về vấn đề Thiện ác? (16)