Chương Thứ Năm (tt)
Tác giả: Thu Giang Nguyễn Duy Cần
A. PHÊ BÌNH NGOẠI BỘ
1. Trước hết, nhà làm sử hay viết sử phải để ý đến sự tìm tài liệu cho đầy đủ. Tài liệu mà thiếu sót thì không thể nào có cơ sở để phê bình được. Tìm tài liệu là để tìm ra thực sự.
Thực sự là gì? Là những sự có thực xảy ra. Đó là lấy theo nghĩa hẹp và cụ thể của nó. Còn lấy theo nghĩa rộng và trừu tượng của nó thì thực sự cũng dùng để chỉ một ý tưởng, một trạng thái của tâm ý hay một ý kiến.
Nếu lấy theo cái nghĩa hẹp của nó, thì ta phải để ý kỹ điều nầy: có tài liệu, chưa ắt ta đã nắm ngay được thực sự. Như ta đã thấy, tài liệu là những hình ảnh sai lầm của thực sự. Những chứng cứ của kẻ khác mang lại cho ta đâu phải là luôn luôn đúng với sự thực trăm phần trăm. Trái lại, có khi nó chỉ là những phán đoán hay phỏng đoán của kẻ khác, trong đó đã pha phách ít nhiều dục vọng ưa ghét rồi. Thật vậy, những điều kẻ khác mang lại cho ta toàn là những điều mà họ muốn cho ta thấy như họ. Nếu họ ưa thì họ sẽ thêm thắt hoặc xới bớt câu chuyện, sắp đặt cách nào mà cho câu chuyện trở nên dễ ghét.
Bởi vậy, ta phải phân biệt cẩn thận cái nào là “thực sự”, cái nào là “phán đoán” hay “phỏng đoán” và cố nhiên là phải dùng “thực sự” làm tài liệu và chứng cứ mà thôi. Những cái sau thì nếu muốn dùng, cần phải lo tẩy sạch cái màu chủ quan của nó đi, để tìm lại cái thực diện của nó, nghĩa là phải phê bình nó một cách không thiên lệch mới đặng.
Ứng dụng phương pháp nầy, tưởng không gì hay bằng đem năm, bảy tờ báo khác đảng chính trị với nhau nhưng cùng thuật lại một việc mà so sánh…Ta hãy so sánh lại những điều các báo ấy thuật lại, phân tích ra từng bộ phận như sau đây:
a. những chỗ dị đồng, thuộc về “thực sự”;
b. những cách thuật lại khác nhau, vì chánh kiến, vì dục vọng biến thiên thể cách;
c. những phỏng đoán rặt ròng là phỏng đoán thôi, chứ không dính dấp gì đến thực sự cả.
Bên Anh trong những trường bình dân cao đẳng, có những lớp học gọi là “lớp báo chí”. Ở đó diễn viên mỗi tuần gom góp lại tất cả báo chí trong nước, nghiên cứu và đem ra diễn giải cho học sinh thấy những chỗ dị đồng về thực sự, phân tích những chỗ khác nhau về cách trình bầy và giải thích những tin tức của các báo,và tìm cắt nghĩa lý do của những sự sai biệt ấy. Thật rất bổ ích cho óc phê bình không biết chừng nào.
2. Tìm được tài liệu rồi, hãy phên bình về lai lịch của nó.
Phê bình lai lịch của nó, phải hỏi coi:
- nó ở đâu mà đến?
- nó xảy ra hồi nào?
- ai thuật nó lại đó?
Phê bình lai lịch của sử liệu là cốt kiểm soát lại sự chính xác của nó, bởi thường có rất nhiều tài liệu hoàn toàn giả, do bọn con buôn giả mạo để bán cho những nhà hiếu cổ. Cũng có nhiều câu chuyện người trước tạo ra, truyền tụng lại một cách quả quyết như việc có thật. Ta phải thận trọng những thứ nguỵ tạo ấy.
3. Ta lại cũng phải biết “phục hồi” lại nguyên văn hay nguyên thể những tài liệu mình đang nghiên cứu nữa.
Có nhiều tài liệu truy ra, thấy tuy thật là món tài liệu chính xác rồi, nhưng trong đó có nhiều chỗ hoặc nhiều chữ, nhiều câu hoặc nhiều đoạn văn bị kẻ khác thêm vào (sách xưa thường bị sự thêm thắt ấy, vì người chéo sách hay thêm ý riêng của mình vào), hoặc vì kẻ sau cho là nói không hết ý nên tự tiện viết tiếp theo mà thành ra “tam sao thất bổn”. Lại nữa cũng có khi quyển sách bị ấn công sấp làm sai cả nguyên văn, vậy ta phải để ý tìm cách phục hồi lại nguyên văn mới đặng.
B. PHÊ BÌNH NỘI BỘ
Biết đặng lai lịch và phục hồi lại được nguyên thể hay nguyên văn của sử liệu rồi, đó cũng mới chỉ là công việc phê bình ở ngoại bộ mà thôi. Muốn cho sự phê bình được đầy đủ hơn, phải đi sâu vào nội bộ nó mà phê bình.
Phê bình một chứng cứ, theo cái nghĩa rộng và hẹp của nó, cần phải phân ra làm hai giai đoạn:
1. giải thích nó;
2. tìm sự thành thực và đích xác của nó.
I. Giải thích tài liệu
Trước hết, phải tìm coi tác giả muốn nói gì?
Đây là lời phê bình, để tìm lại cái nghĩa chánh của một văn bản, từ cái toàn thể đến từng chi tiết của nó. Nếu tư tưởng của tác giả trong sáng, văn chương của tác giả rõ ràng thì có gì là khó khăn. Nhưng sự thực thì đâu phải luôn luôn gặp được như thế mãi. Phải coi chừng: nhiều khi tác giả (thuộc về thế hệ trước) dùng một thứ tiếng như ta, nhưng thưcj ra để chỉ một nghĩa khác hơn ta đang hiểu và đang dùng bây giờ. Đọc cổ văn thường gặp những khó khăn nầy. Bởi vậy, có nhiều nhà nghiên cứu họ gán cho cổ nhân nhiều tư tưởng tân thời mà tự cổ nhân không bao giờ nghĩ đến.
Có khi tác giả lại viết một lối văn tư riêng của họ, nhất là những nhà tư tưởng triết học. Vây ta phải biết cho thật rõ cái định nghĩa riêng của văn tự ấy. Tỉ như đọc sách của Montaigne mà thiếu bản tự vị về những danh từ dùng riêng của ông và ở thế hệ ông, thì không tài nào hiểu nổi ông. Đọc sách Lão, Trang mà cứ hiểu theo cái nghĩa văn tự bây giờ thì hiểu sai đến vạn dặm.
Chẳng những văn tự khá, mà cả đến văn pháp cũng khác nữa. Tìm lại được cái nguyên nghĩa của bài văn xưa dễ đúng gì.
Có khi tác giả lại dùng một lối văn “ẩn dụ” hay “bóng dáng”, hoặc “mỉa mai” hay “hài hước”. Nếu vô tình, ta lại tưởng đó là lời nói thật, thì lại càng bị sai lầm biết mấy.
Seignobos và Langlois nói: “Cái khuynh hướng tự nhiên, dù là những nhà viết văn làm việc theo phương pháp cung vậy, khi đọc một bản văn nào là cốt tìm ngay tài liệu để tham khảo, chứ không chịu tìm hiểu coi ý tác giả nói gì trong đó. Lối làm việc có thể được đối với những tài liệu thuộc về thế kỷ thứ 19, do những kẻ cùng lối tư tưởng cùng một lối ngôn ngữ như ta. Trái lại, nếu gặp phải những lối văn chương tư tưởng không cùng thời với ta nữa, hoặc cái nghĩa của bài văn không được rõ ràng và không thể dị nghị được nữa thì thật là nguy hiểm. Kẻ nào đọc văn mà không lo tìm hiểu tác giả, cố nhiên là đọc nó theo cảm tưởng của mình; trong (bài văn dùng làm) tài liệu kia, họ chỉ để ý đến những câu hoặc những chữ nào thích ứng với quan niệm riêng của họ, hoặc hợp với ý kiến của họ đã có sẵn trước đối với sự vật, họ trích riêng ra những câu hoặc những chữ ấy mà họ đâu có dè, để làm thành một bản văn riêng theo trí tưởng tượng của họ và đem bản văn ấy mà thay vào bản chánh của tác giả”.
Nhà viết sử phải tự lập cho mình một quy luật nầy: “Phải tìm hiểu bài văn theo cái chân nghĩa của nó trước hết, rồi sau sẽ tự hỏi: nó có thể dùng được chỗ nào để làm tài liệu”. (17)
Vậy, ta có thể tóm lại trong một câu, quy tắc trọng yếu nầy của phép làm sử: “Một câu văn, nghĩa nó thay đổi, chẳng những tuỳ theo thời đại và tuỳ theo vị trí của đoạn văn ấy trong bài; ta chớ bao giờ tách một câu ra ngoài cái văn mạch của nó, nghĩa là ngoài cái bài mà nó chỉ là một câu hay một đoạn trích ra; và nếu giải thích, phải giải thích nó theo cái ý chánh và tổng quan bao trùm bài văn” (.17)
Thật vậy, trong một bài văn, luôn luôn tư tưởng nầy cùng với tư tưởng kia liên quan mật thiết nhau, nếu chỉ “tách” ra một đoạn hay một câu, thì tư tưởng chung của toàn bài văn, có khi có những nghĩa trái nghịch với tư tưởng chung của toàn bài cũng không chừng. Thường những nhà phê bình mà có ác ý, hoặc những người bút chiến, họ thích “chặt khúc” hoặc “trích” rời một đoạn văn trong một bài, một câu văn trong một đoạn, hoặc một chữ trong một câu, để thay đổi cái chánh nghĩa của nó đi và cố bắt bên địch phải nói những điều mà kẻ ấy không bao giờ có nói…”Cái thủ đoạn thô bỉ và vô liêm sỉ ấy rất được phần đông công chúng vô học thức hoan nghênh và tín nhiệm lắm, nhưng nó chỉ là một sự khiếp nhược mà thôi. Nhà phê bình thường cũng có thể vô tình sa vào cái lầm nầy nếu họ không chịu để ý đến văn mạch”.(4)
Trích sai hay trích thiếu một nguyên văn là không nên, huống hồ lại trích những đoạn văn trích của kẻ khác đã trích thì lại càng không nen nữa. Phải đọc ngay nguyên văn, do tay đầu tiên viết ra. Không nên bao giờ căn cứ nơi những sách do tay thứ hai chép lại. Những đoạn văn hoặc những câu văn của họ trích ra, ta cần phải xét xem lại thận trong, không nên lấy đó dùng làm tài liệu: biết đâu họ không trích thiếu hay trích sai? Vậy, nếu muốn dùng nó, ta hãy đọ lại với chánh văn mà kiểm soát lại. Đọc sách nghiên cứu không nên trọn tin nơi những câu chứng dẫn của họ, trái lại, phải luôn luôn dò lại chánh văn. Bởi vậy, những nhà khảo cứu khi chứng dẫn cần phải chua xuất xứ mới đúng phép.
Nếu ta chỉ muốn biết tư tưởng của tác giả mà thôi thì công việc tìm hiểu bản ý của họ như thế là đủ rồi. Nhưng, nhiều khi chủ ý lại muốn tìm coi cái việc họ nói đó có thật không? Cho nên, chỉ giải thích nó mà thôi chưa đủ, cần phải phê bình thêm một bước nữa để tìm sự thành thực của tác giả và sự đích xác của tài liệu.
2. Tìm sự thành thực của tác giả.
Tác giả có thành thực không? Muốn trả lời câu hỏi nầy, ta hãy xét qua những nguyên nhân tâm lý đã khiến tác giả nói sai với sự thật:
a. Tác giả có phần vì tư lợi mà nói dối không? Quyền lợi họ buộc họ phải nói như thế vì nếu nói khác đi, họ sẽ bị thiệt. Hoặc vì địa vị họ cần phải giữ gìn. (Ở đây, các công văn, sử sách của nhà nước thường hay sa vào cái tệ ấy). Hoặc vì lý tưởng, vì tự kiêu mà họ buộc lòng bỏ qua hay thêm bớt sự thật đi, để đừng chạm đến tín ngưỡng và danh dự riêng của học?
b. Tác giả có phải vì hoàn cảnh buộc lòng phải nói không đúng với sự thật để mưu sự an thân không? Những nhà văn ở các triều đại xưa, đâu có dám nói ngay sự thật, họ phải quanh co úp mở…Những nhà văn ở các nước độc tài, sống trong những chế độ văn hoá chỉ huy…cũng một thế.
c. Tác giả có những ưa ghét riêng, đối với một người nào hay một nhóm người nào?
d. Tác giả có phải vì muốn mỵ chúng nghĩa là chiều theo thị dục của quần chúng, hoặc vì muốn tránh sự đụng chạm hay xung đột với lòng tín ngưỡng của quần chúng mà nói sai với sự thật không?
e. Tác giả có phải vì thiên về một chủ nghĩa nào, thiên về một đảng phái chính trị hay tôn giáo nào, thiên về xứ sở quê hương mình, thiên về giai cấp xã hội mình mà nói sai với sự thật không?
f. Hoặc tác giả có phải vì quyền lợi chung của một hội đảng nào mà chính mình là phần tử quan trọng. Dĩ nhiên vì quyền lợi chung của hội hay đảng, tác giả buộc phải làm thinh hoặc không được nói ngay sự thật nào có hại cho hội hay đảng.
g. Tác giả có phải vì hiếu danh mà xướng xuất ra những điều không đúng với sự thật không?
h. Tác giả có phải vì chuộng mỹ thuật văn chương hơn sự thật, muốn cho câu chuyện được ly kỳ đẹp đẽ…mà thành ra nói không đúng với sự thật không?
Phần đông con người có tánh hay thuật lại một câu chuyện không phải y như nó đã xảy ra, mà là theo cái ý tưởng tượng muốn cho nó phải xảy ra như thế nào…Phần nhiều, những “tiếng nói lịch sử” là do toàn trí tưởng tượng của nhà viết sử tạo ra. Họ tiểu thuyết hoá hay thi vị hoá cả mọi sự mọi việc của họ nghe thấy.
3. Tìm sự đích xác của chứng cứ.
a. Chỉ tìm sự thành thực của tác giả mà thôi, không đủ. Vì người thành thực chưa đủ bảo đảm điều họ nói là đúng với sự thật: họ vẫn bị sai lầm như mọi người.
Vậy tìm sự thành thực của tác giả rồi, cần phải tìm coi điều họ nói có đúng với sự thật không? Tác giả rất có thể là người thành thực lắm, nhưng bị ở vào một trường hợp không thuận tiện cho sự quan sát nên sự nghe thật sai đi.
Bất kỳ ai đều không bao giờ chịu tin những lời nói của người điên. Là vì những điều họ nói đều do ảo giác mà ra, không sao có thể dùng làm bằng cứ được. Nhưng nếu không nên tin nơi ảo giác của người điên thì mình cũng phải coi chừng những “thành kiến” và “ảo tưởng” vì đó là những cái mà nhà triết học gọi là “bán ảo giác”.
Chúng ta thường xem sự vật trong đời theo lòng sở nguyện của ta muốn cho nó phải xảy ra như thế nào, hoặc, theo như ta quen thấy nó đã xảy ra. Nếu trái lại, nó xảy ra không chiều theo ý muốn của ta thì ta lại cưỡng ép nó chiều theo ta, nghĩa là ta sẽ giải thích nó theo thành kiến của ta. Hoặc nếu nó xảy không giống với những điều ta quen thấy thì ta cũng cố cưỡng giải thích nó theo những điều ta đã quen thấy, chứ không chịu thoát khỏi cái tâm lý eo hẹp của ta, để mà độ hiểu hành vi của kẻ khác. Bởi vậy, những câu chuyện của những nhà du lịch kể lại thường không bao giờ đúng với sự thật, hoặc vì, họ gặp phải tâm lý các dân tộc không giống với tâm lý họ, nên họ không thể hiểu được.
Tác giả sai lầm vì thấy sai, nghe sai, hoặc nhớ sai…vì quan sát không đúng, nhận thấy sự vật theo thành kiến của mình, và tưởng rằng mình nhớ trong khi mình chỉ có tưởng tượng thôi.
Tuy theo việc, nếu người thuật lại một câu chuyện mà mình biết chắc rằng người ấy là người chuyên môn và sành chuyện thì lẽ cố nhiên mình có thể tin người đó hơn. Tỉ như, nếu là một y sĩ mà thuật lại về việc bệnh hoạn, tự nhiên mình tin họ hơn tin một kẻ “tay ngang”. Vì chỉ có những nhà chuyên môn mới có thể thấy rành được những chi tiết trong món chuyên môn của mình, chứ những kẻ không biết gì cả trong đó, dù họ có mở trao tráo đôi mắt, cũng không làm gì thấy trong đó có những gì cho đúng được. Bởi vậy, sở dĩ tác giả thành thực nhưng lời họ thuật không đúng với sự thực là tại câu chuyện của họ thuật lại ở ngoài cái tầm hiểu biết của họ. Các y sĩ xem bệnh có bao giờ chịu tin theo những lời khai bệnh của bệnh nhân hay của người nhà người bệnh đâu. Là vì họ biết rằng những người ấy có hiểu gì được về bệnh chứng mà thấy rõ được nó như thế nào.
b. Những tài liệu, nếu không phải là những tài liệu “sốt dẻo” chép lại liền sau khi quan sát hay mục kích, mà chép lại sau một thời gian lâu, tất nhiên phải thận trọng. Ta nên biết rằng: trí nhớ của ta không sao tin cậy được, dù mình nhớ dai đến bực nào. Những thiên hồi ký trong đó tác giả thuật lại những việc làm lúc nhỏ, không thể trọn tin được. Đó là chưa kể cái lòng tự đắc, thiên vị của tác giả thường có thói “che cái dở, đỡ cái hay” của mình.
c. Tác giả vì phận sự của nghề nghiệp buộc phải biên chép những điều không quan hệ gì đến mình cả. Hoặc như trả lời cho một bản điều tra của nhà chức trách, hoặc làm phóng viên cho nhà báo, tác giả chỉ biên lại những lời nói của kẻ khác mà tác giả đã nghe “lỏm” đó đây chứ không phải tự mình quan sát.
Nếu là một anh thuộc viên thuật lại cho ta nghe câu chuyện trong một hội nghị cơ mật thì anh ấy làm gì thuật lại đúng với sự thật ? Chẳng qua anh ấy nghe lóm một vài mẩu của câu chuyện rồi thì chỗ nào thiếu sót, anh dùng trí tưởng tượng mà bổ khuyết vào cho câu chuyện có đầu đuôi. Đó là anh nhận lầm sự giải thích của anh làm thực sự, thành ra trong câu chuyện của anh, ta không biết chỗ nào là thực sự, chỗ nào là câu chuyện tưởng tượng.
Thường những việc xảy ra trước mắt ta, dễ nhận thấy hơn là những việc xảy ra trong tâm giới. Cho nên, mỗi khi có người quả quyết một việc thuộc về tâm lý… ta phải biết cho đó chỉ là một ức đoán chứ không phải là một thực sự. Ở trong trường hợp nầy ta phải tự hỏi: người ấy có đủ điều kiện cần thiết để ức đoán như thế không ? Người ấy có biết cách áp dụng những điều kiện cần thiết ấy để quyết đoán đúng đắn không?
Có người thuật lại cho ta nghe một việc, nhưng là một việc do kẻ khác thuật lại cho họ : đó là thứ tài liệu của một kẻ thứ hai, hoặc của một kẻ thứ ba hay thứ tư thuật lại cũng không chừng. Từ “tài liệu do tay đầu tiên” thuật lại cho ta hôm nay đã trải qua không biết bao nhiêu lần nghe đi nói lại, thì sự sai lạc lại càng to tát là chừng nào.
Lại nữa, những câu chuyện xưa khởi đầu bằng câu: “Xưa kia, có tích rằng…” hay “Có kẻ nói rằng…” đều là không thể tin là thực sự được. Những câu chuyện do thiên hạ đồn, nhưng không biết đích xác là của ai, đều là những câu chuyện không nên tin vội…
*
* *
4. – So sánh tài liệu
Như ta đã thấy, nguyên nhân sai lầm rất nhiều, nên đối với một việc xảy ra mà chỉ có một người chứng thì chứng cứ ấy không đáng kể. Muốn biết sự thực, cần phải có chứng cứ của nhiều người để so sánh mới có thể tin được.
Nhưng các chứng cứ cần phải được khác nhau, chứ nếu người nầy chỉ chép lại chuyện người kia thì không thể gọi đó là hai chứng cứ, mà phải kể là có một thôi. Dù có cả trăm người thuật lại, cũng chỉ nên kể là có một chứng cứ thôi.
Tóm lại, nếu hai chứng cứ mà giống hệt nhau, ta không quyền xem đó như có hai chứng cứ. Thật vậy, dù hai người cùng đứng trước một việc, khi thuật lại họ sẽ không bao giờ thuật lại giống nhau từng chi tiết. Trước tòa nếu có hai người chứng thuật lại một câu chuyện giống nhau từng chi tiết, từng lời ăn tiếng nói như trả một bài học thuộc lòng, quan tòa dĩ nhiên sẽ không thể không nghi ngờ rằng đây là một sự a ý của người chứng. Vậy ta có thể kết luận rằng : Những tài liệu so sánh với nhau, được nhận là đúng nhau khi nào nó giống tương tự nhau thôi, chứ không giống như khuôn.
Tuy nhiên, lắm khi ta cũng gặp được nhiều chứng cứ giống hệt nhau về một việc. Đó là điều may mắn lạ thường. Nhưng ta cũng phải thận trọng : con người mà chum nhum cho thật đông thường hay bị ảo giác chung mà đồng thấy giống nhau nhưng sai với sự thật. Ảo giác ấy có thể do ám thị của một người thấy sai đầu tiên, rồi thì càng đông người sự truyền nhiễm tư tưởng và cảm giác càng mạnh, người ta bị sai sử theo một ám thị sai lầm không dè.
Trái lại, nếu nhiều người không cùng một phái đảng, không cùng một lý tưởng… lại đồng thanh chứng nhận một việc thì dĩ nhiên việc đó rất đáng tin hơn hết, vì vô lý cả thiên hạ một thế hệ đều a ý để lừa gạt mình.
*
* *
Muốn biết một việc là có thật không, người ta hay lấy những sự hiểu biết hiện thời để đối chiếu. Nếu là một việc quả quyết là có thật, nhưng trái với lẽ thường, trái với khoa học thì ta cũng không nên tin liều là có được.
Tuy vậy, ở đời cũng có không biết bao nhiêu chuyện có thật mà rất vô lý, lại cũng có không biết bao nhiêu chuyện rất hợp lý lại không có thật. Khoa học chưa phải đã đạt đến mục đích cuối cùng của nó : nó còn đang dò dẫm, tìm kiếm bơi móc những huyền vi của tạo hóa. Cho nên, biết đâu theo quan niệm hiện thời của khoa học, chuyện ấy là vô lý mà vài ba chục năm sau nầy, chứ đừng nói nửa thế kỷ sau nầy, khoa học tiến bộ sẽ lại cho đó là hợp lý. Cách vài trăm năm nay nói đến những luồng điện giết người cách ngoài ngàn dặm người ta sẽ cho là vô lý, mà ngày nay chuyện ấy đâu còn là vô lý nữa. Ta lại cũng nên để ý câu nầy của Diêm thiết Luận : “Vì không trông thấy mà cứ không tin thì cũng như con ve sầu không biết tuyết”.
Nhà làm sử cũng như nhà phê bình, thường cho những điều gì hạp với lý thuyết mình, hạp với điều mình ưa thích là có thể đặng mà thôi, trái lại là không thể có, vì mình không muốn cho nó có, mặc dù nó có thật.
Tóm lại, phương pháp phê bình sử học mà tôi lược thuật đại cương trên đây, không chỉ để dùng trong việc nghiên cứu sử mà thôi. Một vị thẩm phán muốn tìm thủ phạm cũng dùng phương pháp phê bình sử học. Thường những sai lầm của công lý là do sự thiếu óc phê bình mà ra. Trong đời sống hằng ngày, bất luận là một tin gì kẻ khác mang lại cho ta, ta phải thận trọng phê bình gắt gao mới được, nhứt là những câu chuyện thiên hạ đồn đãi, hoặc là những tin tức báo chí đưa đến cho ta. Báo chí, thường là một cơ sở buôn bán ở dưới quyền điều khiển của tiền bạc hoặc là những cơ quan tranh đấu chánh trị, thường dễ bị dục vọng chánh trị chi phối và lôi cuốn. Đối với họ, ta phải hết sức dè dặt cho lắm mới đặng. Bằng không, vô tình ta sẽ là cái mồi thơm của họ rất dễ dàng, và nhân thế tự mình làm giảm nhân phẩm của mình để biến thành một con vật hi sinh vô ý thức.
*
* *
3. ĐỌC BÁO
Ở đây tôi không nói chung đến sự ích lợi của báo chí mà chỉ bàn riêng về sự lợi ích của nó trong vấn đề học vấn.
Người không thích đọc sách cũng thường ưa đọc báo. Có kẻ mỗi ngày đọc năm bảy tờ báo, đọc từ cái in vặt đến mớ quảng cáo thầy bói nha khoa. Người ta đọc báo tùy nhu cầu: có kẻ đọc báo để săn tin, có kẻ đọc báo để theo dõi những tin thể thao hay tin tòa án và án mạng, có kẻ đọc báo để theo dõi những thiên tiểu thuyết tình tứ ly kỳ hay trinh thám nghĩa hiệp, có kẻ đọc báo để theo dõi kịch trường hay những cuộc giải trí khác… Nhưng, báo có giúp ích gì cho ta về văn hóa chăng, đó là một vấn đề khác.
Tôi chắc chắn rằng báo chí không giúp được gì bao nhiêu cho người tự học, tìm cho mình một cơ sở văn hóa vững chắc. Tôi biết có nhiều tờ báo (phần nhiều là tạp chí văn hóa) rất đứng đắn, vì báo cũng có nhiều dường báo. Nhiều tờ báo đăng nhiều bài nghiên cứu về văn học, khoa học, kinh tế, chính trị rất hay, nhưng chỉ có những bậc túc học, bác học, học giả mới đọc mà thôi…Kỳ dư những kẻ học thức tầm thường không thu rút được lợi ích là bao : họ cần phải có một sự dìu dẫn từ bước ban đầu. Vì vậy, báo chí đăng những bài nghiên cứu chỉ giúp tài liệu cho những nhà có một cơ sở văn hóa cao và vững vàng, chứ không phải viết cho “tay ngang”, vì vậy ít người đọc được và đọc có hiệu quả. Đọc một bài nghiên cứu về kinh tế, hay chánh trị… người ta đinh ninh rằng người đọc bài ấy ít ra phải có một số vốn học thức kha khá về đại cương. Bởi vậy đối với dạng học giả ít học hoặc chưa có một cơ sở học vấn khá, cần phải được người ta chỉ dẫn vào bước đầu, một cách nhẫn nại và tuần tự, có phương pháp. Họ muốn cho ta cầm lấy tay họ mà dắt đi từng bước một chứ đâu có muốn cho ta mỗi ngày mỗi thay đổi và theo con đường mới. Báo chí chỉ là cơ hội để cho họ tiêu tán và tản mác tinh thần thôi, chứ thực ra không giúp gì cho họ bồi đắp cơ sở học vấn của họ là bao. Hôm nay báo chí bàn với họ về vấn đề Dương Tử, câu chuyện chưa ngã ngũ là ngày mai họ đã bàn về những bức thư tình của Hàn Mặc Tử. Đề tài hốn tạp làm cho họ biến thành như con bướm giỡn hoa: cái gì cũng “nếm” phớt qua mà không có một cái gì là thật biết rõ. Sự thu thập học vấn cần phải có một sự cố gắng hướng về một chiều sâu và khéo nhất trí hơn, chứ bắt họ chứng kiến mãi những cuộc bàn cãi về sử học, về văn học, về những tác phẩm mà họ chưa từng biết đến hoặc biết một cách mơ hồ về những lý thuyết mới về khoa học mà cái này chống bang cái kia, hoặc chữa sửa cái kia, những lý thuyết mà họ “mù tịt” không rõ đầu đuôi gì cả. Các bạn hẳn cũng đã được đọc qua những bài phê bình sách của một vài tạp chí mà dụng tâm của nhà phê bình không phải cố ý trình bày một cách khách quan những quyển sách mình phê bình, mà trái lại họ phê bình với tánh cách hằn học, thù ghét và vu cáo để cốt dìm kẻ khác đặng nâng cao mình lên, trong khi tự mình cũng chưa biết cách đọc sách là gì cả. Họ đã lầm lẫn công kích với phê bình. Có khi họ không đọc hết tác phẩm, chỉ đọc “mớ nhắm” , “cắt xén văn mạch” rồi “vơ đũa cả nắm”, phê bình và lên án liều lĩnh vô cùng, xuyên tạc, vu khống, bắt tác giả nói những gì họ không nói. Độc giả thiếu học thức tin lời và bị họ gạt gẫm. Cũng có nhiều nhà phê bình có óc bè đảng, đề cao và khen tặng quá lời những tác phẩm của bè bạn, bất chấp liêm sỉ của nhà phê bình chân chính. Tuy nhiên cũng có được một số những nhà phê bình đúng đắn, liêm sỉ giúp cho ta rất nhiều trong việc chọn lựa sách đọc. Nhưng phần ấy thật rất ít. Dù sao mình cũng không nên quá tin và để cho kẻ khác, dầu họ là nhà túc học, đa văn quảng kiến bực nào, thay thế ta mà phán đoán suy nghĩ thế cho ta. Đọc sách mà tự mình làm giảm óc phán đoán và suy nghĩ của mình là một điều tai hại vô cùng cho tinh thần độc lập và tự do của mình. Đừng để cho ai “che cái ánh mặt trời của mình” như Diogène đã bảo với Alexander đại đế.
Tôi có biết một vài người suốt đời không bao giờ chịu đọc một quyển sách gì cho kỹ…họ toàn đọc mớ nhắm một vài bài báo tạp chí như Nam Phong, Trung Bắc chủ nhật, Tao Đàn… rồi cũng tự tin là đã có sẵn một học vấn “uyên thâm” cho phép họ được “mục hạ vô nhân” và xem người bằng nửa con mắt. Còn nói gì có nhiều người có chút tây học chuyên môn đọc báo ngoại quốc, và đọc ròng những bài báo phê bình văn học, chánh trị v.v… rồi tha hồ mà dìu dắt quần chúng, dẫn đạo dư luận… Kẻ nào muốn có một cơ sở học vấn chắc chắn không nên phiêu lieu theo dõi sự dìu dắt của những nhà “dẫn đạo” ấy. Tôi có biết nhiều nhà “học thức” bàn bạc về Malraux, Jean Paul, Camus, André Gide, Romain Rolland v.v… hễ đụng đến họ là họ kể cho nghe những thuyết phân tâm học, siêu nhiên học, hiện thực học, hoặc Phật học v.v… mà thực ra, trong đời họ, họ chưa từng đọc kỹ một tác phẩm nào của Malraux, Jean Paul, Camus, André Gide, Romain Rolland, của Freud hay một quyển kinh Phật nào cả… Họ sở dĩ biết được tên những người ấy là nhờ đọc ba bài báo phẩm bình tác phẩm, lịch sử của những nhà văn ấy trên tạp chí hay trong những quyển văn học sử.
Những bài nghiên cứu đứng đắn ở các báo chí trang nghiêm thật ra không dùng gì được cho những kẻ thiếu căn bản học vấn. Những bài báo ấy chỉ có ích lợi cho những nhà chuyên môn hay học giả mà thôi, để họ theo dõi tình hình hiện tại của khoa học hay văn học trên thế giới. Những báo chí có cao vọng đào luyện học vấn cho quần chúng bằng một cái học truyền bá phổ thông kể ra thật là mỏng manh, vì tự nó muốn đào tạo văn hóa mà miễn phải dùng đến sự cố gắng tinh thần, lại chỉ đi tìm những con đường tắt thì đó cũng đã là sai rất xa với nguyên tắc đầu tiên của văn hóa rồi. Cho nên phần nhiều cái vốn học vấn tìm thấy trong báo chí không có là bao.
Tóm lại những báo chí nghiên cứu đứng đắn thường viết ra cho những người đã có một học vấn khá cao. Báo chí văn học và khoa học chỉ là những món ăn bổ túc, chứ không phải là những món ăn căn bản. Muốn có được một món ăn căn bản và xây dựng, phải dùng đến những phương tiện khác, tôi muốn nói đến “sách”. Báo chí chỉ đem lại cho ta những cái có thừa, nhưng lại để cho ta thiếu những cái gì cần thiết”.
*
* *
Ở thời buổi nầy, báo chí là hình thức văn học được truyền bá rộng nhất: dù là người dốt cũng như người có học, người giàu cũng như người nghèo đều không sao thoát khỏi ít nhiều ảnh hưởng của nó. Những bài xã thuyết của mỗi tờ báo thường khác nhau, nhưng tựu trung đều đưa ra một tài liệu chung, cốt ý “nhồi nắn” dư luận theo một chiều nào.
Bời vậy, dù báo chí có cố gắng trình bày sự việc xảy ra hằng ngày một cách hết sức khách quan, thực sự bên trong bao giờ cũng có những ý kiến chủ quan, những phê phán đại cương để tỏ ra những “thái độ” hơn là những “chân lý”. Báo chí là tiêu biểu lý tưởng hoặc nhhu cầu của một hạng độc giả nào. Ngoài ra báo chí cũng không còn có sứ mạng nào khác hơn được nữa, nghĩa là không làm sao vô tư khách quan được.
Bởi vậy các sự việc xảy ra đều được họ trình bày theo những khía cạnh thuận lợi cho quyền lợi và chánh kiến của họ, còn những gì không lợi cho họ, họ giả lờ bỏ qua, hay chỉ nói phớt qua cho có. Như thế, đọc báo mà chỉ đọc “chết” một tờ chì dù có thiện chí đến bực nào, óc sáng suốt cũng sẽ có ngày mờ tối, óc phê bình cũng sẽ có ngày lệch lạc.
Muốn thấy đặng sự thật, phải đọc báo như đọc sử, nghĩa là phải biết phê bình như người ta phê bình sử liệu.
*
* *
4. – ĐỌC NHỮNG SÁCH VỀ THIÊN VĂN VÀ ĐỊA LÝ
a. – Con người trong Vũ trụ
Như ta đã biết, người có cao vọng xây đắp cho mình một cơ sở học vấn đứng đắn, không thể không khởi sự bằng nghiên cứu học hỏi về mình trước hết. Biết mình là cái học đầu tiên của người trí thức.
Con người không phải là một sinh vật độc lập trong hoàn vũ, mà là một sinh vật sống trong hoàn vũ. Người học thức không thể giam mình trong “lũy tre xanh”, mà phải có một sự hiểu biết về những cái gì xa xăm trong không gian và thời gian mới được. Không có được sự hiểu biết ấy thì có khác nào kẻ sống trong một thung lũng, không bao giờ vượt ra khỏi những dãy núi chung quanh, suốt đời giam mình trong một vòng chân trời eo hẹp… Họ cần phải biết vượt thời gian và không gian để mà nhìn cao và nhìn rộng, biết rõ được hoàn cảnh xã hội của mình đang sống, biết đặt hoàn cảnh xã hội ấy trong một khung cảnh rộng hơn và bao bọc nó, đem dân tộc mình sánh với dân tộc khác, biết đem nhân loại đặt trong một khung cảnh rộng hơn là vạn vật trong vũ trụ… Muốn được vậy thì cần phải nhờ đến khoa thiên văn để mở rộng nhãn quan của tar a ngoài vũ trụ.
Thiên văn học là một ngành rất cần thiết để cho ta nhận thấy cái địa vị con người trong vũ trụ là như thế nào. Địa vị của thiên văn học phải có một chỗ ngồi xứng đáng và quan trọng trong cái học về con người.
Có bao giờ các bạn ngồi trước mặt bể bao la, nhìn thấy cái mênh mông của những lượn sóng trùng dương mịt mù trước mắt, bạn có những cảm tưởng như thế nào? Có bao giờ bạn nằm ngoài bãi cỏ hay trên núi cao, mắt nhìn bầu trời bao la với hàng triệu ức ngôi sao lấp lánh và khi bạn biết rằng mỗi vì sao lấp lánh ấy có thể là mỗi một vầng thái dương to lớn mấy trăm ngàn lần thái dương hệ của ta đang ở, khi mà bạn biết rằng ánh sáng của nhiều vì sao, như vì sao Bắc Đẩu, phải để 36 năm trời mới đến hành tinh ta, mà ánh sáng thì đi nhanh đến mức 300.000 cây số một giây đồng hồ… Đó là chưa nói đến những tinh vân mà mắt ta thấy được, như tinh vân Andromède, ánh sáng từ đó đến ta phải để cả triệu năm mới tới… Thế thì không gian quả là vô tận mà thời gian lại cũng vô cùng. Tấm than nhỏ bé của con người với trăm năm là hạn, ví với cái không gian vô tận, với cái thời gian vô cùng của Vũ Trụ thì không thể còn so sánh được nữa, không thể nói rằng ta đối với Vũ Trụ chỉ là một hột cát trong bãi sa mạc, một giọt nước ở Thái Bình Dương… Cảm tưởng bạn như thế nào ở giữa cảnh vô biên vô tận của trời đất? Pascl đã nói: “Sự lặng thinh của những khoảng không gian vô tận nầy làm cho tôi kinh khủng!” Nó là mối phát sanh những tư tưởng thanh thoát đưa con người ra khỏi những cảm tưởng nhỏ nhen ti tiện và chật vật của cuộc đời vật chất… và gây cho mình có nhiều tư tưởng thâm trầm về ý nghĩa của nhân sinh.
Nói thế không phải bảo ta phải đọc sách và nghiên cứu khoa thiên văn như những nhà bác học thiên văn. Khoa học nầy đòi hỏi nơi ta nhiều năng khiếu đặc biệt và học vấn sâu rộng mà không phải ai ai cũng làm được. Ta chỉ cần học nơi khoa thiên văn học trước hết hai điều thôi:
- Nhận chân rằng, có một trật tự thiên nhiên vĩnh cửu trong trời đất vạn vật và bất di bất dịch mà người ta gọi chung là luật của tạo hóa: không một vật nào trong Vũ trụ mà thoát khỏi định luật tự nhiên ấy, từ một cái cực tiểu đến cái cực đại của trời đất.
- Quả địa cầu ta ở đối với vũ trụ thì nhỏ bé không thể nói, cũng không phải là trung tâm của vũ trụ như ngày xưa người ta đã tin. Không biết rằng vũ trụ mênh mông vô tận, cho rằng những con đường di chuyển của mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao mà ta thấy đây là những con đường di chuyển thật, đó là nhìn sai cả sự thật.
Muốn có được một ý niệm tổng quát và rõ rang vè vị trí của quả địa cầu ta ở đối với các vì hành tinh, tinh tú trên không gian vô tận, một quyển sách về thiên văn học đại cương đủ rồi. Sách Việt tôi chưa thấy quyển nào đáng kể. Về sách Pháp, nên đọc các quyển Initia-tion Astonomique của Camille Flammarion, Le ciel et l’Atmosphère của L.Houllevigne,… Quyển Le Ciel của Alphonse Berget (Larousse) là một quyển phổ thông rất hay, đã rất dễ đọc lại đọc một cách say sưa cho bất cứ một ai có một cái học ngoại ngữ cỡ cử nhân ngày nay, cở trung học đệ nhất cấp ngày xưa thời Pháp thuộc.
Trước khi chấm dứt chương nầy, tôi xin trích dẫn lời nói sau đây của Alphonse Berget, để gọi là tạm kết luận :
“Khi bàn đến khoa thiên văn học người ta đã bảo rất đúng rằng đó là “khoa đẹp nhất”. Thật vậy, chỉ nhờ có nó mà thôi; nhờ chime vọng bầu Trời mà tinh thần ta được nâng cao trên những quan niệm cao cả nhất; trong khi nó giúp ta quen thuộc với những ý niệm về sự vô cùng của không gian và sự vô tận của thời gian, nó chỉ cho ta thấy rõ cái nhỏ bé không đáng kể của ta trong Vũ trụ, nhưng đồng thời cũng chứng minh rằng đầu óc con người “to rộng” là bực nào mới có thể hiểu biết được nổi những kỳ diệu ấy.
Học được bấy nhiêu thôi cũng đã là đầy đủ lắm rồi. Người học thức mà thiếu sự hiểu biết ấy là một thiếu sót rất quan trọng vậy”.
b. – Con người trong thời gian
Sau khi đặt địa vị con người trong Vũ trụ, ta cũng cần đem cái đời sống ta mà đặt vào một khung cảnh co hẹp hơn, là nhân loại. Vậy, ta phải tìm trở lại trong thời gian cái nguồn gốc nhân loại, tức là tìm mà hiểu biết sự phát sinh đầu tiên của con người trên mặt đất và sự tiến bộ của nhân loại trong từng giai đoạn của nó trong lịch sử. Đặt nhân loại vào hoàn cảnh tự nhiên của thuở ban đầu, đâu phải chỉ để thõa mãn óc hiếu kỳ của một đầu óc biết nhìn lại quá khứ mà là một cần thiết cho sự hiểu biết thâm sâu cái đường lối tiến bộ của con người trong thời gian và không gian.
Tôi xin giới thiệu các bạn quyển La Terre avant l’histoire của Edmond Perrier. Quyển nầy là một cái thang nối lại lịch sử và những khoa vật lý. Mục sách tham khảo rất đầy đủ để cho ai muốn đi sâu vào vấn đề có thể tìm kiếm được dề dàng. Quyển La Vie et la Mort của Dastre ( Flammarion) rất hay và rất dễ hiểu. Đọc xong nó, ta có thể có được một mớ kiến thức căn bản để đọc tiếp những quyển sâu sắc và khó khăn hơn như La Genèse des espèces animals ( Alcan), l’Adaptation ( Doin) của Lucien Cuénot, hoặc những quyển như Le Transformisme et l’Expérience (Alcan), l’Hérédité (Colin), l’E1volution et l’Adaptation (Chiron) của Etienne Rabaud, nhất là quyển Eléments de biologie générale (Alcen) cùng một tác giả.
Nhờ đọc những quyển trên đây, ta có thể đi từ tinh vân đến sự phát sinh con người trên quả địa cầu.
*
* *
Muốn truy tìm đến nguồn gốc của nhân loại, chúng ta cần phải quay về tiền sử. Trước hết chúng ta là người Đông Phương, tiền sử các nước láng giềng như Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật BẢn không thể bỏ qua. Cô học Trung Hoa lại rất gần với ta, phải được quyền ưu tiên chọn lựa. (1) Một cái vốn hán học để đọc nổi cổ văn là tối cần cho bất cứ người nào muốn có một nên học vấn vững chắc. Kế đó phải để ý đến các nước Tây Phương, nhất là về lịch sử thời trung cô Âu châu. Nhưng cái học cổ điển Tây Phuong, cũng như cái học cổ điển Đông Phương đều là những cái học rất khó khăn và phải tốn nhiều công phu. Đọc nổi một bài văn cổ đâu phải dễ. Người học thức Việt Nam ngày nay không thể là một người chỉ biết có một thứ tiếng mẹ đẻ mà thôi, Ít ra cũng phải có một cơ sở về sinh ngữ tối thiểu về Hán văn, Pháp văn hay là Anh văn. Những dân tộc hậu tiến là những dân tộc cần phải biết được nhiều ngoại ngữ chừng nào hay chừng nấy – mới mong theo kịp các nước tiên tiến – mơi có thể gọi là “ đa văn quảng kiến”.
*
* *
b) Con người trong không gian :
Muốn rõ được vị trí con người trong không gian, tức là muốn biết thế giới chung quanh ta, phải cần đến những sách về địa lí, du kí.
Nên đọc quyển Ce monde où nous vivons của Lincoln Barnet ( Hachette). Hình ảnh rất đẹp và bài vở chọn lựa, cách trình bày hấp dẫn, thật là một quyển sách quí.
Các sách giáo khoa về Địa lí, nhất là quyển Geographie Générale Illustrée ( Quillet xuất bản) dưới quyền giám đốc của Maurice Allain với sự cộng tác của các ông Elicio Collin, Hardy, Vallaux và Weulersse cần phải có trong tủ sách. Phải có một quyển địa đồ đây đủ. Hiện thời các nhà xuất bản Quillet, Hachette, Colin có cho in ra nhiều quyển địa đồ rất đầy đủ, quyển nào cũng dùng được cả.
Cũng cần đọc những quyển du kí và những quyển sách bàn về tân hồn của từng dân tộc. Muốn biết về dân tộc Tây Ban Nha thì nên đọc những quyển Essence de l’Espagne của Miguel de Unamuno ( bản dịch tiếng Pháp của Marcel Bataillon, Plon, 1923), quyển l’Espagne moderne vue par vue ses e1crivains của Henri Guerlin ( Perrin, 1924);- về dân tộc Anh thì nên đọc quyển Histoire de la literature anglaise của Taine ( Hachette, 5 quyển), Quyển Nauvelles Etudes anglaises (1910), quyển l’Angleterre et la guerre (1916) của André Chevrillon (Hachette),quyển l’Angleterre moderne, son évolution của Louis Cazamian ( Flammarion, 1911); - về nước Đức thì nên đọc quyển l’Allemagne moderne, son évolution (Flammarion) của Henri Lichtenberger, quyển Panorama de la literature allemande contemporaine của Félix Bertaux (Kra, 1928); - vế nước Nhật thì nên đọc Société japonaise ( Plon), quyển Nauveau Japon (Perrin) của Bellesort, quyển Japon của Emile Hovelaque (Flammarion). Không nên bỏ qua quyển du kí Journal d ‘um Philosphe của Hermann de Keyserling ( Stock).
Lại còn có một cách khác để hiểu biết tâm hòn của một dân tộc là đi sâu vào sự nghiên cứu những tác phẩm trứ danh của mỗi dân tộc, nghĩa là nghiên cứu văn học của dân tộc đó.
Muốn biết về tâm hồn dân tộc Anh thì nên đọc sách và dịch của Shakespeare, nhat61l à những quyển Hamlet (Fasquelle, bản dịch của E. Morand và Schwob, hoặc của Guy de Pourtales ( Gallimard), quyển Antoine et Cleopatre (bản dịch của A. Gide), quyển Romeo et Juliette (bản dịch của Koszul), Macbeth và Othello ( bản dịch của Derocquigny), Jules Cesar ( Bản dịch của Ch. M. Garnier), La Temptete (bản dịch của aynard).
Tiểu thuyết của Dickens thì nên đọc David Copperfield (Hachette), Moel Flanders của Daniel de Foe ( bản dịch của Marcel Schowob).
*
* *
Muốn hiểu về tâm hồn nước Đức thì nên đọc sách của Goethe như Faust, Werther, Les Affinites Electives, Les Annees d’Apprentissage và Les Annees de voyage de Withelm Meister, Verite et Poesie ( bản dịch của Porchat do Hachette xuất bản), quyển Correspondance avec Schiller (Plon) bản dịch của Lucien Herr, quyển Conversations avec Eckermann ( Charpentier) bản dịch của Emile Delerot.
Đọc sách của văn hào heine, thì nên đọc những quyển De l’Allemagne, Lutece, (Calman Levy). Đọc Hoffmann thì đọc Contes fantastiques, bạn dịch của X. marmier ( Fasquelle). Đọc Schopenhauer thì nên đọc Qphorismes, sur la sagesse dans la vie, và nếu có một căn bản học vấn khá cao thì nên xem cả bộ Le Monde Comme Representation ( bản dịch của Burdeau). Về nhà văn Nietzche, thì tất cả sách của ông đọc quyển nào cũng được cả.
*
* *
Muốn nghiên cứu hiểu biết về tâm hồn nước Ý thì nên đọc trước hết nhà văn hóa Dante, quyển Ladivine comedie ( bản dịch của Laminnais [Didier] là hay nhất. Cũng nên đọc tác phẩm Memoires của Benvenutto Cellini ( bản dịch của Leclanche). Sách của Annunzio thì đọc những quyển L’enfant de volupte, Le Fue, Le Triomphe de la Mort, Les Vierges aux Roches ( Calmann- Levy).
Về Tây Ban Nha, nên đọc Don Quichotte của nhà đại văn hào Cervantes. Bản dịch hay nhất của Viardot hoặc của Xavier de Cardaillac và Jean Labarthe (Toulouse, Edouard Privat 1927).
Về văn hào Lope de Vega thì đọc Theatre ( bản dịch của Damas Hinard). Đọc của Sainte Therese quyển Vie ecrite patell Meme ( Beauchesne, 6 quyển).
*
* *
Về Nga, thì nên đọc sách của Tolstoi, nhất là những quyển La Guerre et la Paix và Anna Karenine ( Hachette). Đọc sách của Dostoiewki thì nên đọc Crime et Chatiment bản dịch của Derely (Calmann Levy), Freres Karamazou bản dịch H. Mongault và Leval (Bossard), Confession de Stravroguine, bản dịch của Chuzeville (Bossare), L’Idiot (Plon), Humilies et Offenses (Plon)- Về nhà văn hóa Kropotkine thì nên đọc Autour d’une vie ( bản dịch chủa Martin và Leray, Stock).
*
* *
Đấy là sơ lược những sách mà ta cần phải đọc để có một ý niệm về văn tài cũng như về tâm hồn các dân tộc khác ta. Dù sao ta nên biết rằng trên đây chỉ nói về những tác phẩm được dịch ra tiếng Pháp là tiếng ngoại ngữ mà người việt được biết nhiều nhất. Những ai không đọc được tiếng Pháp hay tiếng Anh thì đọc qua một vài tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt.
*
* *
Ta cũng cần phải quan tâm nghiên cứu đến ảnh hưởng của địa lí đối với đời sống vật chất lẫn tinh thần của con người. Ảnh hưởng của thời tiết, của khí hậu, của đất đai phong thổ, của cảnh vật thiên nhiên đối với sức khỏe, tính tình, tư tưởng của con người rất là quan trọng.
Vấn đề này nên đọc quyển Geopsyche của bác sĩ Willy Hellpach (bản dịch chữ Pháp của bác sĩ F. Gidon – Payot) trong đó trình bày một cách tinh tường ảnh hưởng của địa lí đối với tâm hồn con người. Cũng nên đọc La Geographie Humaine của Maurier Le Lannou ( Flammarion), L’Homme et le Sol của Henri Prat (Gallimard), Geographie psychologique (Gallimard) của Georges Hrdy, L’Homme et la Cote (Gallimare) của Pierre Deffontaines, L’Homme et le Vent ( Gallimard) của E. Aubert de la Rue, Geographie des frotieres (Gallimard) của Jacques Ancel và Esquisse de Geopolitique của Ernest H. Short (Payot).
Người xưa khuyên người trí thức phải có một cái học “ thượng tri thiên văn, hạ tri địa lí, trung tri nhân sự” thật là chu đáo. Phải chăng đó cũng là cao vọng của tất cả mọi người hiếu học, mong mỏi có được một vốn học vấn rộng rãi vững vàng.