Hồi 13
Tác giả: Ưu Đàm Hoa
Sáng hôm sau, tức ngày mười sáu tháng tư, Bạch Thúy Sơn và Bất Trí Thư Sinh lên đường đi Bắc Kinh. Lô Châu Ngũ Tặc được tháp tùng, lòng vui mừng như tết.
Ba chị em nhà họ Điền vẫn chưa thoát khỏi tà pháp của Kỵ Ba Thần Quân nhưng đã khá hơn nhiều. Họ không còn dáo dác tìm kiếm vị sư phụ giả là Độc Biển Thước nữa, mà quay sang gọi tên Nhương Thư.
Giờ chúng ta đi trước bọn Thúy Sơn để xem chàng trai họ Tần đang làm gì?
Cũng như mọi ngày, Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách rời Kinh Đô đệ nhất lữ điếm, đến Vạn Hương Lâu dùng bữa trưa.
Các nữ nhân thành Bắc Kinh đều biết thói quen ấy nên đã sớm có mặt, chiếm những vị trí tốt nhất, gần nhất với bàn riêng của Tần Nhật Phủ.
Những nàng tiểu thư khuê các đoan trang, thùy mị thì chỉ dám nép sau chiếc quạt lụa ngắm trộm dung mạo của bậc anh hùng tài mạo, nhưng đám nữ hào kiệt thì mặt dầy hơn, ngang nhiên liếc mắt đưa tình hoặc sà xuống ghế cùng họ Tần đối ẩm.
Ả nào nhanh chân hơn thì sẽ chiếm được một trong bẩy ghế của chiếc bàn bát tiên. Đã ngồi rồi thì họ không bao giờ dám đứng lên, dẫu cho bàng quang nặng trĩu nước tiểu, cơ hồ sắp vỡ tung. Họ mà rời ghế thì lập tức mất chỗ ngay.
Mật ít ruồi nhiều, các nàng chỉ muốn giết sạch những kẻ cạnh tranh song lại không dám để Tần công tử xem mình là kẻ đố kỵ hẹp hòi. Bởi thế, ngoài mặt họ vẫn nói cười vui vẻ.
Vị trí hạnh phúc nhất là ở hai bên Tần Nhật Phủ. Được vài chén, họ có thể giả say quàng vai hay lả lơi dựa vào người chàng ta.
Các bộ võ phục mỗi ngày một mỏng hơn, để ánh mắt Tần Nhật Phủ được thưởng thức trọn vẹn những gò bồng đảo mơn mởn gọi mời. Tuy nhiên, sợ chàng cho rằng mình phóng đãng, các nàng luôn khép chặt áo choàng, chỉ mở ra khi ngồi với Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách.
Rốt cuộc, một kiểu thời trang mới ra đời, đó là võ phục may bằng the mỏng, đi chung với áo choàng.
Đây quả là một cuộc cải cách lớn trong lịch sử y phục vì trước đây các kiểu xiêm y mới đều xuất xứ từ kỹ viện.
Hồi đầu tháng, suýt nữa đã xảy ra cảnh đầu rơi máu đổ giữa các nàng nữ hiệp si tình. May thay, một ả khôn ngoan đã thuyết phục được cả bọn đồng ý với một lịch chia phiên, mỗi bữa bẩy người.
Thế là, cứ đến đầu giờ Ngọ và đầu giờ Dậu, có bẩy nàng nữ kiệt, vai mang kiếm báu, đến ngồi chờ sẵn để chờ thần tượng. Họ cũng thay nhau trả tiền cả bữa ấy.
Tại sao các ngươi lại say mê Tần Nhật Phủ một cách điên cuồng như thế? Bởi vì, ngoài vẻ anh tuấn phi phàm, võ nghệ tuyệt luân. Họ Tần còn có nụ cười quyến rũ và ánh mắt đầy mị lực. Các nàng vừa chạm phải ánh mắt ấy là sẵn sàng dâng hiến cả cuộc đời.
Thế còn thái độ của bọn vương tôn công tử đất Đế Đô thì sao? Tất nhiên họ ghét cay ghét đắng Tần Nhật Phủ, kẻ đã cướp mất tất cả những cô nương xinh đẹp nhất thành.
Nhưng họ chỉ rủa thầm tổ tông mười tám đời họ Tần chứ không dám đụng đến. Thứ nhất là vì võ công Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách rất cao siêu. Hồi giữa tháng ba, chàng ta giết chết một đại cao thủ hắc đạo là Diêm vương Đao Phạm Phi Luân một cách dễ dàng.
Lão cường đạo độc hành họ Phạm mò vào nhà Lâm Tài Chủ, cách Kinh Đô đệ nhất lữ điếm hơn dặm, bị Tần Nhật Phủ đứng trên lan can trông thấy.
Chàng ta tìm đến nơi, đúng lúc Diêm Vương Đao đang uy hiếp khổ chủ để tra chỗ giấu của.
Mà Lâm Tài chủ lại là bào huynh của quan Tả Đô Ngự Sử, cầm đầu Đô Sát Viện. Do vậy, khi Tần Nhật Phủ trở thành ân nhân của Lâm gia trang rồi, không còn ai dám xúc phạm chàng nữa.
Tóm lại, giờ đây Tần Nhật Phủ có đủ danh vọng, quyền thế, tiền bạc và nữ sắc. Nhưng liệu chàng có hạnh phúc hay không và cư xử như thế nào?
Khổng Phu Tử nói "Nhân chi sơ, tánh bản thiện". Còn Như Lai thì bảo rẳng: "Trong mỗi chúng sinh đều tiềm tàng phật tính. Hai cái tính đó là một, chỉ có thể bị mờ lấp chứ không mất đỉ."
Ải Thần Quân dùng phép Di Hồn Đại Pháp xóa đi ký ức quá khứ, nhồi nhét những ý niệm mới về một Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách anh hùng, hào hoa, lịch lãm, song đã không hoàn toàn thành công.
Tu hành suốt mười bẩy năm, phật tính trong Nhương Thư rất sáng, nhưng đã bị cái chết thảm thương của mẫu thân che phủ. Nay ký ức ấy mất đi, phật tính có thể bộc lộ và tăng tiến. Rốt cuộc, Nhương Thư cứ như một vị thiền sư vào chốn sa đọa để phổ độ chúng sinh vậy!
Ải Thần Quân dạy chàng hiếu sát, song Nhương Thư thường chỉ chặt tay hoặc phế võ công đối thủ. Lão muốn chàng vơ tóm hết những nữ nhân trong thiên hạ để hưởng thụ thì chàng chỉ cười hiền, không xua đuổi nhưng cũng không chiếm đoạt.
Trong số những nàng nữ hiệp say đắm Nhương Thư, có bẩy tám ả sớm góa bụa, hoặt thích bày tỏ lòng mình một cách cụ thể bằng thân xác. Thế là họ trèo qua cửa sổ phòng Nhương Thư nơi khách điếm, múa điệu Nghê Thường rồi dâng hiến.
Họ áp sát tấm thân khiêu gợi, mỡ màng của mình vào người chàng mời mọc, thế mà Nhương Thư chẳng hề động tình, ôm họ ngủ một mạch đến sáng.
Các nàng yêu nữ kia vô cùng thất vọng song càng bội phần thán phục và yêu mến. Họ không hiểu vì sao Tần Nhật Phủ lại từ chối ái ân, dù trường thương dựng đứng như cột bườm kiêu hãnh?
Đôi lúc chàng cũng vuốt ve những đường cong trên cơ thể họ, song chỉ thế mà thôi.
Có một kẻ đã chứng kiến tất cả, tiếc cho chàng và nổi tam bành, chửi rủa hết lời. Người ấy chính là Ải Thần Quân.
Lão ta đã đi theo, dùng tài hóa trang thần diệu và khinh công xuất chúng để quanh quẩn bên hóa thân mà quan sát. Lão muốn được chứng kiến mọi vinh quang, sung sướng của Nhương Thư để tự an ủi mình.
Thấy chàng không thực hiện đúng ý mình, lão tức lộn ruột, tìm chỗ vắng mà tuôn ra những lời mắng nhiếc:
- Con bà nó! Tiểu tử này ngu ngốc hết chỗ nói, ả nào cũng thơm như múi mít mà lại bỏ qua! Giá như vào tay lão phu thì...
Thần Quân chợt bật cười:
- Ta thì cũng hơn gì! Ba mươi năm học đạo, lửa dục tắt lịm, chỉ còn lại chút trò nghịch ngợm thế thôi. Cái lão trọc Phật Đăng thật khéo dạy học trò, tuổi Nhương Thư còn trẻ mà định lực cao như núi.
Và lão tự an ủi:
- Thế cũng tạm được. Nếu Nhương Thư hăng hái truyền giống cho hàng trăm ả thì con rơi nhà họ Tần rải rác khắp Bắc Kinh, tội ấy lão phu chẳng dám gánh.
Đã có chủ ý, Ải Thần Quân hài lòng quay lại với công việc làm khán giả, đồng thời bảo vệ diễn viên, bởi vì lão thực tâm yêu mến Nhương Thư. Những tiếng gọi cha kia đã đánh thức bản năng từ phụ của Thần Quân. Ông đã phát nguyện giới sát để được thành tiên, song nếu cần thì cũng sẵng sàng xuất thủ vì con nuôi.
Lúc này, Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách đã dùng xong bữa, thản nhiên để các nữ nhân thanh toán tiền cơm, song lại dịu dàng nói:
- Ta xin tặng các nàng vài hạt ngọc trai để làm bông đeo tai.
Họ hạnh phúc ồ lên khi thấy những viên ngọc trai tròn trịa, gần như tuyệt đối, lớn bằng hạt nhãn.
Một vị cô nương xúc động nói đùa:
- Công tử đừng quá rộng rãi với chị em bọn thiếp, coi chừng sạt nghiệp đấy.
Tần Nhật Phủ mỉm cười:
- Vạn sự vô thường, của cải chẳng khác gì phù vân, ta giữ làm gì?
Ải Thần Quân đang ngồi ở bàn gần đấy, trong thân phận một lão phú hộ áo gấm, râu đen. Nghe được câu nói của Nhương Thư, tức đến méo mặt:
- Mẹ kiếp! Tiểu quỷ này ngồi với gái đẹp hơ hớ mà lại mở miệng giảng đạo, thật tức chết đi được! Châu báu do lão phu khổ cực mang từ Ba Tư về mà gã cho chẳng tiếc tay.
Ông lại bật cười vì sự mâu thuẫn của mình:
- Ta lẩn thẩn thực! Chính ta muốn y trở thành kẻ Đại Phương, rộng rãi như bậc vương tôn kia mà?
Bẩy ả kia chẳng hề thấm thía ý nghĩa cao siêu của lời thuyết giáo, hí hửng đo với nhau xem ngọc của ai đẹp hơn.
Gần trăm nàng khác ngồi ở bàn chung quanh, xôn xao hẳn lên vì ganh tỵ nhưng chẳng lẽ mở miệng xin? Họ càng điên tiết khi thấy Tả Phù, Hữu Bật của Tần Nhật Phủ lả lơi kéo ghế ngồi sát lại, cọ xát gò nhũ phong vào khuỷu tay chàng, nói cười rúch rích.
Họ Tần chẳng động tâm song ai đó đã ngứa mắt lên tiếng:
- Té ra Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách chỉ là một gã trai lơ, suốt ngày nép váy nữ nhân!
Người phát ngôn có lẽ vừa lên đến, còn đứng ở cầu thang. Ông ta mặc áo gấm xanh, có thân hình cao lớn, mặt đỏ như son, râu ba chòm bạc trắng, tóc cũng chẳng còn cọng nào đen.
Thanh danh của Hồng Diện Tôn Giả Hoàng Huy Do oai trấn Hà Bắc, nên bọn nữ hiệp vội đứng lên bái kiến, kẻ gọi sư bá, người xưng sư tổ, hoặc lão tiền bối, tùy theo quan hệ sư môn.
Tần Nhật Phủ không giận vì bị chê trách, vẫn kính cẩn bái:
- Vãn bối Tần Nhật Phủ xin ra mắt tiền bối!
Hồng Diện Tôn Giả đã đến nơi, chăm chú quan sát dung mạo của chàng trai trẻ. Ông đã biết tin rể quý thất tung, lòng đau như cắt nhưng cố tĩnh tâm tu hành, không đi Lạc Dương hỏi han.
Song khi thấy tiếng tăm của Tần Nhật Phủ đến tai, ông chợt có linh cảm kỳ lạ, liền rời núi Thúy Sơn đi Bắc Kinh điều tra. Trong thiên hạ, người mang tướng phật nhĩ không hiếm, song chẳng phải ai ở dưới tuổi ba mươi mà dễ có được công lực và bản lãnh kiếm thuật như Nhương Thư.
Nay đối diện Tần Nhật Phủ, thấy chàng tỏ vẻ không quen biết, Tôn Giả rất phân vân. Tuy nhiên, giọng nói quen thuộc kia thì không thể lầm được.
Phép Di Hồn không thể xóa đi những tính cách thuộc về bản năng như thói quen ăn uống, cách mỉm cười... Bởi thế, Nhương Thư vẫn còn giữ lại được vài nét cũ như thích trà hơn rượu chẳng hạn.
Đôi nhãn quang sắc bén như dao cạo của Tôn Giả đã xác định đối phương không mang mặt nạ và cũng chẳng tô vẻ bằng thuốc dịch dung, song muốn chắc thì phải kiểm tra võ công, Phật Đăng Kiếm Pháp chẳng lạ với ông.
Thái độ lặng lẽ, nặng nề của Hồng Diện Tôn Giả đã khiến thực khách trên tầng hai này của tửu lâu thầm lo lắng cho Tần Nhật Phủ. Đấy là bọn nữ nhân, còn các chàng trai thì mở cờ trong bụng. Họ muốn Ngọc Diện Kiếm Khách phải nhục bại dưới tay bậc đại kỳ nhân.
Tần Nhật Phủ thản nhiên chịu đựng ánh mắt soi mói của Hồng Diện Tôn Giả, kính cẩn nói:
- Thỉnh tiền bối an tọa.
Bẩy nàng kia cũng lăng xăng kéo ghế mời mọc, nhưng Hoàng lão lắc đầu:
- Lão phu đến đây là để kiếm chứng xem võ công của Tần tiểu tử ngươi có đúng như lời đồn đãi hay không?
Tần Nhật Phủ điềm đạm đáp:
- Tuy mới xuất đạo song tại hạ cũng biết tiền bối là bậc đức cao vọng trọng trong võ lâm nên không dám mạo phạm. Tại hạ mang gươm hành hiệp là để trừ gian diệt bạo, chứ chẳng hề tranh danh đoạt lợi.
Chàng nói rất hợp đạo lý nên Tôn Giả không bắt bẻ được, bèn xoay qua kế khích tướng:
- Hay là ngươi sợ?
Nhật Phủ xử sự đúng mực thiền sư, vui vẻ gật đầu:
- Dạ bẩm phải.
Đám công tử thế gia ồ lên cười chế giễu song chẳng làm cho họ Tần biến sắc.
Hồng Diện Tôn Giả chưa chịu bó tay:
- Ngươi không đánh cũng không được vì lão phu đang thay mặt lớp võ lâm tiền bối mà trừng phạt ngươi về cái tội mạo danh. Mười mấy năm trước, trên giang hồ có một bậc kỳ nhân đã xuất đạo với danh hiệu Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách, và cũng có tên là Tần Nhật Phủ, sau này đổi thành Ải Thần Quân. Nếu ngươi là bậc hậu duệ của lão ta thì cũng không được dùng tên của tổ phụ, bằng mạo nhận thì càng đáng tội.
Nhương Thư không hề biết việc này, ngơ ngác hỏi:
- Lẽ nào lại có sự trùng hợp như thế? Vãn bối quê đất Trường Trị, tỉnh Sơn Tây, cha là Long Kiếm Tần Sinh, quá vãng sớm nên không rõ cội nguồn.
Hồng Diện Tôn Giả giật mình:
- Quái lạ thật! Ải Thần Quân cũng người Trường Trị, con của Long Kiếm!
Ải Thần Quân sợ lão quỷ già kia hỏi mãi tất sẽ hiểu rõ ngọn ngành, liền cuống quýt truyền âm bảo Nhương Thư:
- Con hãy đánh cho lão ta một trận, song không được giết hay đả thương đấy nhé.
Thủ pháp Di Hồn của Ải Thần Quân đã đến mức tuyệt đỉnh, chỉ cần dùng âm thanh cũng có tác dụng. Vì thế, Nhương Thư tuân mệnh ngay, bất ngờ nói:
- Thôi được! Tại hạ đồng ý giao đấu, nếu thua sẽ từ bỏ danh hiệu Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách!
Nói xong, chàng xách kiếm tung mình hỏi lan can, rơi xuống vườn hoa. Chàng mặc võ phục toàn trắng, áo choàng vàng nhạt, tư thế hạ thân đẹp như thiên thần giáng hạ.
Hồng Diện Tôn Giả bối rối:
- Quỷ quái thực! Sao y đang hòa hoãn lại đổi thái độ quyết liệt nhanh như thế nhỉ? Phải chăng y sợ nói nhiều sẽ lộ? Nhưng ánh mắt y rất thành thực cơ mà?
Trong tâm trạng hoài nghi, Hoàng Tôn Giả nhẩy xuống vườn, đứng đối diện với Tần Nhật Phủ. Họ Tần cung kính ôm kiếm chào theo thế Đồng Tử Bái Quan âm rồi xuất thủ.
Hồng Diện Tôn Giả chẳng hể khách sáo, dồn công lực vào đôi ray áo lụa, quét những đòn như búa bổ, quyết bắt đối thủ thi triển hết sở học.
Sau khi bại dưới tay Phật Đăng Thượng Nhân, Tôn Giả tự hiểu rằng trong nghề đánh kiếm, mình suốt đời chẳng bằng được Thượng Nhân. Ông dồn hết sức khổ luyện công phu Thiết Tu Thần Quyền đặc dị, đạt đến mức đại thành.
Đôi ống tay áo dài thượt của Tôn Giả chứa đầy âm kình, có thể đả thương người và đoạt lấy vũ khí. Cùng phối hợp với phép đánh Thiết Tu, song quyền của Hoàng lão cũng biến hóa và cương mãnh tuyệt luân. Có quyền tất có cước, những cú đá của Tôn Giả cũng biến hóa và nặng nghìn cân.
Hoàng lão lại sở hữu đến bẩy mươi năm chân khí, hơn hẳn Tần Nhật Phủ nên ngay chiêu đầu đã chiếm thượng phong.
Họ Tần nghe thân kiếm chấn động mạnh khi chạm vào tay áo đối phương, lòng thầm kinh hãi, vội dở phép khoái kiếm ra đòn như bảo táp mưa sa.
Đối với người kiếm sĩ, kiếm thuật chính là bản năng thứ hai. Họ luyện đi, luyện lại trong suốt nhiều năm ròng, chiêu thức, đường gươm in sâu vào tiềm thức, không chỉ là ký ức nữa.
Do ảnh hưởng của phép Di Hồn, Nhương Thư hầu như đã quên hết Phật Đăng Kiếm Pháp và nhớ rất rõ Huyền Không Kiếm Pháp của Sấu Tiên. Nhưng hôm nay, gặp phải đại kình địch là Hồng Diện Tôn Giả, pho kiếm mới luyện mấy tháng kia dường như không đủ. Khi thi thố hết tám mươi mốt chiêu gốc mà vẫn bị áp đảo, Nhương Thư xử dụng yếu quyết chữ Tùy, từ căn bản biến hóa thành ngàn chiêu thức.
Chính trong lúc này, tiềm thức manh nha phát lộ, sở học bao năm từng giọt nhỏ ra, hòa với vốn liếng mới thành một loại kiếm pháp tuyệt diệu, hòa hợp giữa Phật và Đạo.
Sấu Tiên vốn là một đạo sĩ theo học thuyết Lão Trang, còn Phật Đăng Thượng Nhân là cao tăng cửa phật.
Phật Đăng Kiếm Pháp chỉ đóng góp phần kiếm ý nên kiếm ảnh không mang hình ngọn lửa, khiến người ngoài chẳng nhận ra, trừ Ải Thần Quân.
Lão ngơ ngác nhìn con nuôi múa kiếm, gãi đẩu lẩm bẩm:
- Hay thực! Thì ra tiểu tử này vẫn chưa quên nghề cũ, phối hợp với nghề của ta thành một thứ kiếm pháp có một không hai.
Quả đúng như vậy, càng đánh lâu Nhương Thư càng đạt đến mức thâm huyền, trường kiếm trên tay tuy chỉ một mà trông như bẩy, hư thực khôn lường, mỗi nhát điểm đều nhắm vào đúng sơ hở trong lưới quyền của đối phương.
Hồng Diện Tôn Giả không có ý làm hại chàng trai trẻ, song vì chút hiếu thắng của con nhà võ, cũng dồn hết sức già mà chiến đấu.
Song tụ của Hoàng lão bay lượn như Thần Long, quét ra những đạo kình lực thôi sơn, vù vù xé không gian và thổi tung những chiếc lá khô trên mặt cỏ hoa viên.
Thực khách chia làm hai phe mà cổ vũ cho gà nhà. Giọng ồm ồm là của đám nam nhân ủng hộ Tôn Giả, giọng trong trẻo, thánh thót thuộc về đám thiếu nữ si tình.
Hồng Diện Tôn Giả, sau ngàn chiêu, đã mơ hồ nhận ra kiếm ý của Phật Đăng Kiếm Pháp, lòng càng bán tính bán nghi. Ông tự nhủ:
- Muốn biết giả chân, chỉ còn cách dụ Tần Nhật Phủ về Lạc Dương. Sơn nhi là người đầu ấp tay gối tất sẽ phân biệt được.
Nghĩ thế nên ông quạt mạnh một đòn, đẩy lùi đối thủ rồi nói:
- Khoan đã! Lão phu muốn đặt cược!
Tần Nhật Phủ đình thủ, hòa nhã đáp:
- Xin tiền bối cứ dạy.
Hoàng lão cười nhạt:
- Chẳng cần đánh nhiều cho mệt xác. Lão phu chỉ dùng ba chiêu cũng đủ khiến ngươi phải rơi kiếm. Lúc ấy, phiền ngươi đi theo lão phu đến Lạc Dương một chuyến.
Tần Nhật Phủ không hiểu mục đích của Tôn Giả nên phân vân bất quyết. Ải Thần Quân thì nghĩ rằng:
- Xem ra, lão quỷ già họ Hoàng đã sinh nghi, muốn đưa Nhương Thư về cho con gái kiểm tra. Thế cũng hay, lão phu sẽ đi theo hí lộng cho các ngươi điên đầu. Vả lại, đã đến lúc để Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách trổ thần oai đánh Đông dẹp Bắc, lưu danh muôn thuở, ở đây mãi với đám gái tơ kia cũng chán.
Thần Quân đã dùng Di Hồn Đại Pháp moi sạch quá khứ của Nhương Thư nên biết rõ cuộc đời chàng. Còn cục diện võ lâm thì lão nghe ngóng mấy tháng nay cũng hiểu khá nhiều.
Đã quyết định như vậy nên Ải Thần Quân truyền âm:
- Con cứ đáp rằng dù thắng hay bại cũng vẫn theo lão đi Lạc Dương.
Nhương Thư thoáng rùng mình, may mà hoàng lão không nhận thấy. Chàng ôn tồn đáp:
- Vãn bối xin tuân mệnh lãnh giáo thêm ba chiêu, dù kết quả thế nào cũng xin theo tiền bối đi Lạc Dương. Vãn bối từ lâu đã mến mộ phong cảnh cố đô của nhà Thương.
Hồng Diện Tôn Giả sửng sốt nghĩ:
- Quỷ thực! Sao gã lại dễ dãi đến thế nhỉ?
Ông gượng cười:
- Té ra lão phu bất chiến tự nhiên thành! Nhưng đã lỡ nói ra thì cũng phái đánh! Ngươi cẩn thận đấy.
Dứt lời, lão ập đến, song tụ hóa thành đám mây xanh bao trùm lấy đối phương. Đây chính là chiêu Thiên Trụ Hóa Vân, tuyệt kỹ thủ mạng của Tôn Giả. Chẳng phải thứ mây mềm mại vẫn lơ lửng trên trời, mà là cơn bão mạnh liệt có thể nghiền nát bao người.
Chiêu thức võ học nào cũng có sơ hở, song mầu sắc và sự mềm mại uyển chuyển của đôi dảy tay áo đã che kín chỗ nhược, khiến đối thủ chẳng thể nhìn ra.
Nhương Thư dù thông minh tuyệt thế, kiếm thuật siêu phàm cũng nhất thời rơi vào cảnh lúng túng trước chiêu thức kỳ ảo này. Chính Ải Thần Quân cũng hoang mang, lo sợ cho nghĩa tử.
Muốn đối phó, Nhương Thư chỉ còn cách liều mạng hoặc né tránh. Song chàng đã nhận lời tiếp chiêu nên không thể thi triển Cửu Huyền Thân Pháp bỏ chạy. Trong lúc cửu tử nhất sinh ấy, tiềm thức Nhương Thư bỗng hé mở. Chàng từng đối mặt với những chiêu chưởng khủng khiếp của Độc Biển Thước nên kinh nghiệm chẳng thiếu, và sự hiểm nguy trước mắt đã đánh thức bản năng sinh tồn.
Nhương Thư bất giác phản ứng một cách máy móc, đề khí bay vút lên cao, rồi chúc đầu xuống, thân kiếm rung động hàng ngàn lần, kiếm ảnh xòa rộng như chiếc ô, mũi kiếm điểm nhanh tợ mưa rào.
Đây vốn là chiêu Ngọa Thanh Giáng Vũ (Ngọc Hoàng làm mưa) trong Huyền Không Kiếm Pháp, song không phải chiêu ngự kiếm trong khoảng cách gần. Chẳng qua Nhương Thư được chân truyền của Phật Đăng Thượng Nhân nên mới nắm được yếu quyết Bất Nhị, chẳng xa, chẳng gần.
Ngay Sấu Tiên sống lại mà chứng kiến cảnh này cũng phải phục lăn. Điều ấy chứng tỏ sở đắc kiếm đạo của Phật Đăng Thượng Nhân chẳng kém cổ nhân. Bởi ông là đệ tử phật môn, kiếm pháp thiếu phần sát khí, chịu kém Sấu Tiên thế thôi.
Tiết diện càng nhỏ thì áp xuất càng mạnh, kình lực tập trung ở mũi kiếm nhọn đã đâm thủng được lực đạo tản mác trên diện rộng của tay áo, phát ra những âm thanh xoèn xoẹt như xé lục.
Hồng Diện Tôn Giả không muốn đồng quy ư tận với kẻ có thể là rể của mình, đành phải đảo bộ rời xa vị trí cũ, bỏ dở chiêu thức.
Khách quan chiến reo hò, hoan hô Tần Nhật Phủ khiến Hồng Diện Tôn Giả hơi bẽ mặt.
Ải Thần Quân yêu mến Nhương Thư nên quên đi mối hận với Hồng Diện Tôn Giả, nếu không đã xúi chàng thi thố Lục Mạch Thần Chỉ.
Thấy đánh mãi không chừng có máu đổ, Thần Quân liền truyền âm:
- Phủ nhi hãy nhận bại và đi theo Hồng Diện Tôn Giả.
Nhương Thư ngoan ngoãn vâng lời, tra kiếm vào vỏ, vòng tay nói:
- Vãn bối tự lượng không tiếp nổi hai chiêu nữa, xin tiền bối tha cho.
Hoàng Huy Do chưng hửng, song cũng thừa cơ vớt vát thể diện:
- Tốt lắm! Ngươi quả là kẻ thức thời! Hãy mau về khách điếm thu xếp hành lý.
Các nàng nhao nhao bàn tán nhưng không dám mở miệng phản đối, ả nào rảnh rang thì cấp tốc về nhà, xách tay nải đi theo người trong mộng. Tổng cộng chỉ có sáu nàng nữ hiệp đất kinh đô may mắn được tháp tùng.
Đoàn người rầm rộ rời Bắc Kinh trong ánh mắt luyến tiếc, sầu khổ của không ít hoàng hoa khuê nữ.
Hồng Diện ngao ngán trước cảnh phong lưu, lăng nhăng quá mức của Tần Nhật Phủ liền mỉa mai:
- Ngươi lập chí dương danh thiên hạ, gẩy dựng sự nghiệp anh hùng mà lúc nào cũng cặp kè xử nữ thì làm sao thành công được?
Tần Nhật Phủ đáp đúng như ý Ải Thần Quân:
- Trai anh hùng năm thê bẩy thiếp, cổ kim điều thế, có gì phải sợ, vả lại, họ quyết chí đi theo, làm sao vãn bối xua đuổi được?
Tôn Giả cười nhạt:
- Thê thiếp thì chẳng đáng nói. Còn ngươi dùng vẻ anh tuấn mê hoặc rồi chiếm đoạt, sao đáng gọi là hiệp khách?
Sáu nàng kia liền phản ứng ngay, một ả tủm tỉm nói:
- Lão tiền bối sai rồi! Tần công tử đây là bậc chính nhân, định lực như núi Thái, chưa hể động tâm trước sắc dục.
Hoàng lão ngơ ngác:
- Thực thế sao? Lão phu theo dõi mấy đêm liền, thấy các ngươi nhẩy qua cửa sổ vào ngủ với gã mà?
Bọn mỹ nữ thẹn đỏ mặt, có kẻ phổi bò mở miệng than:
- Có được nước mẹ gì! Chàng ta cứ trơ như gỗ, chỉ ngắm nhìn và ôm lấy mà ngũ ngon lành.
Tôn Giả kinh hãi:
- Chẳng lẽ y bị liệt?
Ả nữ hiệp ít học kia bực bội:
- Chàng ta mà bị liệt thì còn đỡ tức. Y dương buồm lên mà chẳng làm gì, cứ như mèo chê chuột hôi vậy.
Cách ví von ngộ nghinh đã khiến Tôn Giả không nín được cười. Ông vỗ vai Nhật Phủ khen:
- Khá thực! Không ngờ ngươi lại có định lực thâm hậu như vậy!
Mối nghi hoặc lớn lên, ông tò mò hỏi:
- Nhưng tại sao ngươi lại giới sắc như một nhà sư vậy?
Nhật Phủ cũng không hiểu tại sao, bâng khuâng nói:
- Có lẽ vãn bối ngại câu Tiền Dâm Hậu Thú.
Sáu nàng mừng rỡ lên tiếng:
- Thì công tử cứ cưới quách bọn thiếp đi.
Nhật Phủ chỉ cười mà không nói năng gì cả.
Trên đường đi, Tôn Giả sóng ngựa cạnh họ Tần, giả đò đem giáo nghĩa nhà phật cùng kinh điển Đại Thừa ra bàn luận, lão thất vọng khi chàng chẳng biết gì cả.
Chữ nghĩa, ý niệm thuộc về ký ức nên đã bị xóa đi, song việc tuân thủ ngũ giới lại là hành vi được thực hiện qua nhiều năm, trở thành bản ngã, chính vì thế, Nhương Thư dẫu động tình cũng không sa đọa.
Tóm lại, giờ đây trong chàng hiện diện đến hai nhân cách, một nhà sư và một chàng hiệp khách phong lưu.
Chiều hôm ấy họ đã rời xa Bắc Kinh trăm dặm, ghé trấn Lũy Sơn nghĩ ngơi ở Tùng Hoa Lữ Điếm.
Ải Thần Quân thì trọ trong quán đối diện, trù tính kế hoạch chọc ghẹo thiên hạ.
Sống cô đơn suốt mấy chục năm dài, Thần Quân đã có thói quen độc thoại:
- Không ngờ sáu ả quỷ cái kia lại mặt dầy mày dạn bám theo Nhương Thư. Tư chất chúng đều tầm thường, không xứng làm dâu của lão già này. Có lẽ phải tách họ ra mới được. Hơn nữa, lão quỷ họ Hoàng tâm cơ sắc bén, gần gũi Nhương Thư lâu ngày e sẽ khám phá ra. Vỡ tuồng ngắn quá thì mất hay.
Tuổi Ải Thần Quân đã hơn chín chục nhưng thân xác chẳng già nên tâm hồn cũng rất trẻ con, đầy ắp những ý nghĩ tinh quái. Vả lại, ông tu đạo Lão Trang, xem trọng tính cách thiện chân, hồn nhiên, càng đắc ý với lời trong Đạo Đức kinh: Năng Anh Nhi Hồ! (Trở thành trẻ thơ)
Ông suy nghĩ thêm một lúc, hớn hở vỗ đùi:
- Tuyệt diệu thực! Có thế mà ta nghĩ mãi mới ra.
Đêm hôm ấy, Thần Quân âm thầm tìm đến phòng của Nhương Thư. Do có mặt của Hồng Diện Tôn Giả nên sáu nàng kia không dám dở trò ong bướm, trèo trường vượt cửa.
Với bản lãnh hiện tại của Ải Thần Quân thì Nhương Thư chẳng thể nào phát hiện được. Lão già trẻ con kia thi triển Di Hồn Đại Pháp xong liền chuồn thẳng. Sáng ra, Hồng Diện Tôn Giả và sáu nàng kia phát hiện Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách đã biến mất.
Hoàng lão giận dử chửi rủa um sùm:
- Tiểu quỷ này tâm địa phức tạp, hành dộng bất thường khiến lão phu không sao hiểu nổi. Con bà nó! Lần sau lão phu phải gông cổ y mà dắt đi cho chắc ăn!
Sáu ả hiệp nữ đất Bắc Kinh sụt sùi khóc như cha chết, thu xếp tay nải lủi thủi trở về cố quận.
Hồng Diện Tôn Giả quyết định xuôi Nam, trước là thăm Thúy Sơn, sau cùng bọn Vô Ưu Cái nghiên cứu hiện tượng Tần Nhật Phủ.
Ông không biết rằng mình đã đi trước Nhương Thư, vì lúc này chàng đang có mặt ở một nếp nhà tranh ngoài cửa Bắc trấn.
Chàng đã mua xe ngựa, xuống vịn cổng rào báo danh:
- Tại hạ là Tần Nhật Phủ từ đất Trường Trị đến xin bái kiến.
Liếp tre mở rộng, một nàng thôn nữ áo xanh xuất hiện, e thẹn nghiêng mình chào khách. Y phục nàng hơi lụng thụng, cứ y như đi mượn vậy!Nàng ta bước ra mở cộng, dáng đi ngượng ngập, chẳng lấy gì làm yểu điệu hay thướt tha.
Nàng thỏ thẻ:
- Tiểu muội Tần Thế Lan xin ra mắt biểu huynh! Mời biểu huynh vào tệ xá dùng trà.
Thế Lan có dung mạo dễ nhìn, da rám nắng vì việc đồng áng, bàn tay cũng ngắn và thô. Còn giọng nói thì trong trẻo, song đôi lúc hơi the thé.
Thấy nàng bước đi hơi khó khăn, Nhương Thư cau mày hỏi:
- Chân của biểu muội bị sao vậy?
Thế Lan không quay lại nên chàng không nhận ra đôi tròng trắng kia đảo liên đảo lộn. Nàng vui vẻ giải thích:
- Hôm qua, tiểu muội vấp ngã nên chân hơi đau, chỉ vài ngày sau là hết thôi.
Thế Lan mời khách ngồi xuống chiếc đôn gỗ xấu xí, cạnh chiếc bàn mộc thô sơ, rồi rót trà.
Nhương Thư đảo mắt quan sát những vật dụng rẻ tiền, nghèo nàn trong nhà, lòng dâng lên niềm thương xót. Chàng nhấp hớp trà rồi nghiêm nghị nói:
- Lan muội! Thân phụ ta từ trần đã chín năm. Trước khi mất người có nói việc hôn ước giữa ta với nàng. Nay nàng cũng mồ côi không nơi nương tựa, hãy đi với ta, sang năm về Trường Trị làm lễ thành hôn.
Thế Lan ngượng ngùng cúi mặt:
- Tiểu muội xấu xí thế này làm sao sánh duyên cùng bậc tài mạo như biểu ca. Thôi thì biểu ca cứ xem như việc chỉ phúc vi hôn ngày xưa là chuyện đùa vậy.
Nhương Thư nghe giọng nghẹn ngào vô cùng bất nhẫn, khẳng khái nói:
- Nàng chẳng hề xấu xí và ta đã quyết làm theo di mệnh của phụ thân. Nguyện suốt đời yêu thương nàng.
Thế Lan thở dài, nhìn chàng bằng ánh mắt u ẩn:
- Biểu ca đã có lòng thương, tiểu muội chẳng dám không tuân mệnh. Xin chờ tiểu muội thu xếp hành lý.
Nàng vào trong, lát sao trở ra với tay nải nhỏ, nhìn cỗ xe độc mã, nàng tủm tỉm cười:
- Sao biểu ca biết tiểu muội đau chân mà đem xe đến rước?
Nhương Thư ngẩn người, chẳng biết đáp thế nào. Chàng đánh xe quay lại trấn Lũng Sơn mua sắm y phục mới cho vị hôn thê. Chàng càng thương cảm khi thấy Thế Lan vì nghèo khổ quê mùa mà không biết bới tóc và tai chẳng có lỗ để đeo bông.
Nhương Thư tiếp tục đi về hướng Nam vì nơi ấy đang xảy ra cuộc chiến quyết liệt giữa hai phe chính tà. Tất nhiên ý định này là do Ải Thần Quân mớm cho chàng.
Dọc đường thiên lý, Nhương Thư ân cần trò chuyện với Thế Lan để nàng vơi đi mặc cảm. Chàng không nhận ra việc giọng nói kia càng ngày càng dễ nghe và dáng đi của Thế Lan cũng vững vàng hơn.
Y phục đẹp và son phấn đã làm Thế Lan thêm mặn mà. Lúc đến thành Bảo Định, nàng đã vào tiệm bán nữ trang để nhờ xỏ lỗ tai và mua thêm vài cặp bông.
Tình cảm ngày càng đâm chồi nẩy lộc trong tim Nhương Thư. Song không phải vì nhan sắc mà vì tính tình hoạt bát vui vẻ và đầu óc thông tuệ, tinh minh của nàng.
Một hôm chàng bảo:
- Ta tuy giỏi võ nhưnh cơ trí mộc mạc, không bằng một nửa của nàng. Hay là ta truyền lại võ công để vợ chồng sánh vai hành hiệp?
Thế Lan phì cười:
- Tiểu muội luyện tuyệt học họ Tần từ thuở lên bốn, chắc gì biểu ca tinh thông hơn được? Tiểu muội chỉ kém phần công lực mà thôi.
Nhương Thư mừng rỡ:
- Thế thì hay lắm!
Từ ấy, hai người say sưa bàn luận về Huyền Khôn Kiếm Pháp, và Nhương Thư phải đê đầu bái phục vì Thế Lan đã đạt đến mức uyên thâm nhất, dạy lại cho chàng.
Trong sinh hoạt, hai người cũng rất tương đắc. Phương Bắc lạnh lẽo nên Thế Lan uống rượu rất khá, hơn cả Nhương Thư. Chàng vốn thích trà nhưng chiều ý ái thê, thường cùng nàng đối ẩm.
Có lần ghé quán trọ dọc đường, chỉ còn một phòng nên Nhương Thư đề nghị ngủ chung. Thế Lan biến sắc nghiêm giọng:
- Tiểu muội tuy quê mùa nhưng cũng biết lễ nghĩa, chẳng dám phá hoại gia phong họ Tần. Trước khi thành hôn, chúng ta không thể quá gần gũi được.
Nhương Thư vô cùng khâm phục tiết hạnh của Thế Lan, lủi thủi ôm chăn ra xe ngủ.
Ở đây, Thế Lan thở phào che miệng cười hăng hắc:
- Phải nghiêm khắc như thế mới được, nếu không có ngày y đè lão phu ra thì nguy to.
Vậy là đã rõ ngay gian, Thế Lan chính thị là lão già tinh quái Ải Thần Quân. Tần Nhật Phủ muốn được kề cận Nhương Thư cho vui nên đã nghĩ ra trò giả gái và dùng tà pháp khiến chàng tưởng mình có hôn ước với cô em họ.
Thần Quân vốn khéo tay nên mới học được nghề giải phẩu của Ba Tư, bởi thế, việc đẽo gọt một đôi chân giả bằng gỗ chẳng khó gì. Chỉ khó ở chỗ làm quen với thứ đồ giả cứng ngắc ấy mà thực hiện những bước đi yều điệu của nữ nhân. Ngay giọng nói và cách nói cũng không phải dễ học ngay được, phải có thời gian.
Trong nghề dịch dung, khó khăn nhất là biến thành người khác phái. Do cấu tạo cơ thể hoàn toàn khác biệt to nhỏ, cao thấp chẳng đồng. Nếu gặp kẻ tai vểnh, lộ hầu hoặc hàm răng khểnh thì bố ai mà giả nổi?
Thế cho nên, khi tác giả đọc sử võ lâm xứ Đại Lý, đến đoạn con rơi của Đoàn Chính Thuần là A Châu cô nương, bị Kiều Phong giết oan, liền đấm ngực kêu trời, tức như bị bò đá:
- Thật hoang đường, hai gã này mù dở nên mới để A Châu qua mặt.
Chuyết thê đang nấu bếp, nghe vậy liền cười hì hì:
- Bản chất của sử võ lâm là phi lý hoang đường. Tướng công giận làm gì cho mệt xác! Hơn nữa, thiếp thấy những điều tướng công chép lại còn tệ hơn thế!
Tác giả hổ thẹn cười xòa:
- Lão phu chỉ noi gương tiền bối, góp nhặt dông dài để kiếm cơm qua ngày thôi mà bà!
Đầu trung tuần tháng năm, cỗ xe độc mã của Nhương Thư đi vào Thạch gia trang, ghé một tửu lâu dùng bữa.
Tiếng đôi bàn chân gỗ gõ trên bậc cầu thang nghe hơi lạ, nhưng chẳng ai để ý đến. Cùng lắm thì người ngoài cũng chỉ tưởng nữ lang trường bào lam kia đi loại giày vải đế gỗ.
Riêng Ải Thần Quân thì áy náy, quyết sửa lại sao cho hoàn bị hơn. Có lẽ phải tạo khớp di động ở cổ chân mới được.
Hai người chọn một bàn gần lan can hướng Nam để hứng chút gió Nam. Người có danh như cây có bóng, khi Tần Nhật Phủ gỡ chiếc nón rộng vành ra, để lộ đôi lông mày kép có một không hai, gã tiểu nhị thảng thốt rú lên:
- Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách!
Gã cũng biết hành động của mình là thất lễ, liền khom lưng vái dài, miệng cười toe toét:
- Mong đại hiệp lượng thứ cho tiểu nhân. Từ ngày người chặt tay Hổ Đầu Đao Trịnh Bách Liên, phá tan Hổ Đầu Bang, các hiệu buôn trong thành không còn phải è cổ nộp thuế bảo kê nên ai cũng xem đại hiệp là ân nhân!
Thế là thực khách trên lầu xôn xao hẳn lên, và chỉ lát sau cả thành biết việc Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách giá lâm.
Các tài chủ vội vã gom góp lễ vật, cử đại diện dâng tặng cho đại ân nhân.
Tần Nhật Phủ cau mày ái ngại nhưng Tần Thế Lan mặt hoa rạng rỡ, tiếp nhận tất cả. Nàng còn khéo léo dương danh chồng:
- Năm nay Thiểm Tây gặp đại họa, bách tính lâm cảnh khốn cùng, chuyết phu lòng đau như cắt, quyết cứu tế nạn dân, vì thế tiện thiếp mới dám nhận sự đóng góp của chư vị.
Thế là Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách lại được thêm cái tiếng nhân nghĩa ngút trời, người người ca tụng.
Khách rút rồi, Nhật Phủ nói:
- Có thực là Thiểm Tây đang hạn hán chăng?
Nàng nheo mắt cười mỉm chi:
- Tiểu muội xem thiên văn biết chắc đất Thiểm không một giọt mưa.
Nhật Phủ hiền như bụt nên tin ngay, tư lự bảo:
- Nếu thế thì ta sẽ bán hết châu báu, đem đến Trường An giao cho Tri Phủ Thiểm Tây mua lương thực chẩn tế tai dân.
Thế Lan cười hơi méo:
- Triều cương lỏng lẻo, tham quan đầy dẫy, biểu ca làm thế chỉ e bách tính chẳng được miếng nào. Hay là chúng ta cứ đến Lạc Dương kêu gọi thêm lòng hảo tâm rồi đi Thiểm Tây đích thân phát chẩn.
Nhật Phủ nghe có lý, hớn hở tán thành, vì từ Hoa Bắc đi Trường An phải vược cao nguyên Sơn Tây, đường xá gập ghềnh bất tiện, còn từ Lạc Dương thì quan đạo rộng thênh thang.
Do sự tiếp kiến cái tài chủ nên bữa ăn của họ kéo dài, vừa xong lại phải hầu chuyện với chủ nhân tửu lâu. Trong lúc ấy, có thêm tám người khách nữa lên đền, chính là bọn Bạch Thúy Sơn. Họ mới tới nên không ngờ mục tiêu của mình đang hiện diện nơi đây.
Thạch gia trang gần như nằm giữa Lạc Dương và Bắc Kinh nên hai phe chạm mặt nhau chốn này.
Đi cùng Thúy Sơn có Bất Trí Thư Sinh, Thiết Kình Ngư và năm gã Lô Châu Ngũ Tặc.
Thúy Sơn toàn thân bạch y, khăn cột đầu cũng một màu tang tóc, tuy Cao lão luôn khẳng định Nhương Thư còn sống song lòng nàng đã chết tự bao giờ. Gương mặt hoa kiều diễm kia giờ đây héo úa, xanh xao, ánh mắt đầy vẻ muộn phiền.
Nhờ được phương thần hiệu của Bất Trí Thư Sinh mà ngực nàng đã phát triển hơn xưa, gần như một phụ nữ bình thường. Song điều này chỉ gây thêm nỗi xót xa trong lòng người góa phụ. Nàng thường xoa ngực mình mà chua xót, tự hỏi cái đẹp này phỏng có ích gì khi tình lữ chẳng còn.
Tây Thi đau bụng nhăn mặt mà vẫn đẹp, do vậy, dung nhan ảo não của Thúy Sơn cũng khiến lòng người mê mệt. Bọn thực khách len lén liếc nàng chứ không dám nhìn thẳng vì sợ vẻ mặt cô hồn của Thiết Kình Ngư Tào Ưng và Ngũ Tặc.
Bởi mãi ngắm nàng nên tiếng chuyện trò chuyện vắng đi, chỉ còn lại cuộc đàm đạo ở góc hướng Nam, của chủ quán và Tần Nhật Phủ. Bất Trí Thư Sinh nghe được, đứng lên nhìn, phát hiện một chàng công tử có một đôi lông mày kép.
Ông mừng rỡ bảo Thúy Sơn:
- Bạch hiền muội! Thật là may cho chúng ta, Tần Nhật Phủ đang có mặt nơi này.
Thúy Sơn giật mình, mắt lóe sáng những tia hy vọng. Song chẳng lẽ đường đột đến nhìn mặt đối phương nên vẫn ngần ngừ.
Thiết Kình Ngư nóng nẩy nói:
- Để ta.
Gã đứng lên, chậm rãi bước đến bàn của họ Tần, vòng tay nói:
- Tại hạ là Thiết Kình Ngư Tào Ưng hân hạnh được diện kiến Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách! Từ lâu thanh danh của đại hiệp như sấm rền bên tai Tào mỗ.
Vừa nói, gã vừa dán mắt vào mặt đối phương, mong tìm ra những nét thân quen. Tiếc thay, trên vành tai trái kia chẳng hề có nốt son nhỏ nào và ánh mắt họ Tần cũng dững dưng lạ lẫm.
Tần Nhật Phủ thủ lễ:
- Tại hạ mới xuất đạo, hiệp tích chẳng bao nhiêu, không dám nhận tiếng đại hiệp. Mời Tào huynh an tọa.
Và chàng giới thiệu vợ mình:
- Đây là Tần Thế Lan biểu muội, vị hôn thê của tại hạ.
Người lùn, dù nối thêm chân thi khi ngồi vẫn để lộ sự thiếu thước tấc của thân trên. Do vậy Ải Thần Quân thường lén đặt tay nải xuống mặt ghế rồi ngồi lên.
Có tật giật mình, lão không dám đứng dậy, chỉ gật đầu chào Tào Ưng. Thái độ này khá ngạo mạn khiến họ Tào phật ý.
Lão chủ nhân tửu lâu xin phép rút lui để Tần Nhật Phủ tiếp khách. Họ Tần hơi nhột nhạt trước ánh mắt soi mói của Tào Ưng, liền hỏi:
- Chẳng hay Tào túc hạ có điều cho muốn dạy bảo Tần mỗ?
Tào Ưng đã có chủ ý:
- Bọn tại hạ thừa lệnh hội đồng võ lâm ngược Bắc tìm Tần đại hiệp để thương lượng đại sự giang hồ. Để tại hạ mời người có thẩm quyền là Bất Trí Thư Sinh Cao Trường Toản sang cùng Tần đại hiệp bàn bạc.
Gã đứng lên vẫy, Cao lão và Thúy Sơn rời bàn đi đến.
Cũng như Tào Ưng, hai người này dương mắt nhìn, cứ như muốn lột da mặt Tần Nhật Phủ ra vậy.
Ải Thần Quân đắc ý thầm:
- Lão phu đã ra tay thì làm sao các ngươi khám phá nổi chân tướng. À! Con dâu của ta cũng xinh đẹp đấy chứ?
Lão làm chủ ký yức ny nên biết rõ Nhương Thư nên biết rõ Bạch Thúy Sơn, xem nàng là dâu của mình.
Chào hỏi xong, Cao Trường Toản đi vào việc chính, trình bày đại cục võ lâm hiện nay, mời mọc Tần Nhật Phủ về Lạc Dương tham gia sự nghiệp giáng ma.
Xứng danh nhân hiệp, Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách trầm ngâm đáp:
- Việc giáng ma vệ đạo là bổn phận của người học võ, song tại hạ còn phải đi Thiểm Tây chẩn tế tai dân đang lâm cảnh đại hạn, xong việc mới có thể chuyên tâm lo việc võ lâm được.
Bất Trí Thư Sinh kinh ngạc:
- Việc hạn hán ở vùng cao nguyên Hoàng Thổ chỉ bắt đầu vào cuối tháng này, lão phu nhờ xem thiên tượng mà đoán ra, sao Tần thiếu hiệp cũng biết?
Nhương Thư thật thà đáp:
- Tại hạ nào có tài cán gì mà tiên đoán được thiên tai, việc này do chuyết thê chỉ giáo đấy thôi.
Ải Thần Quân chột dạ than thầm:
- Kẻ đại trí cũng có lúc sơ xuất. Thế nào lão họ Cao này cũng nghi ngờ lão phu.
Quả thực vậy, Bất Trí Thư Sinh nhìn Thế Lan bằng ánh mắt sắc như dao, hờ hững nói:
- Té ra phu nhân đây là bậc kỳ nữ tài hoa quán thế, tinh thông cả thuật thiên văn, lão phu xin đê đầu bái phục.
Ải Thần Quân nghe nhột nhạt khắp người, ngượng ngùng cúi đầu giả đò thẹn thùng.
Cao lão bỗng nói tiếp:
- Chẳng hay nàng quê quán ở đâu, hậu duệ của bạc cao nhân nào? Thú thực là dung mạo của nàng, lão phu trông có nét quen quen.
Ải Thần Quân bấm bụng đáp bừa:
- Tiện thiếp là biểu muội của Tần tướng công, cũng quê đất Trường Trị Sơn Tây, song đã dời nhà về trấn Lũng Sơn, phía Nam thành Bắc Kinh, hồi hai mươi năm trước. Còn dung mạo thì tiện thiếp chẳng giống Tần tướng công là gì?
Đúng là lão đang dùng mặt thật, còn Nhương Thư là hóa thân, có không ít nét tương đồng.
Tuy nghi ngờ nhưng Cao Trường Toản chẳng thể đoán ra ẩn tình vì đôi lông mày kép đã chuyển vị trí rất là tinh xảo, không một chút sẹo mờ. Đây là y thuật độc môn của xứ Ba Tư nên người Trung Hoa có nằm mơ cũng không nghĩ đến.
Nhưng Ải Thần Quân chợt lo lắng hơn khi thấy Nhương Thư bắt đầu bị cặp mắt huyền sâu thẳm của Bạch Thúy Sơn thu hút. Lão liền kiếm cớ hoãn binh:
- Trời đã chiều, bọn tiện thiếp xin phép về khách điếm nghỉ ngơi, hẹn gặp chư vị sáng mai, cũng tại nơi này. Lúc ấy, Tần đại ca sẽ có lời phúc đáp.
Bị đuổi khéo, phe Thúy Sơn đành phải cáo từ, trở về bàn mình. Ở đây, vợ chồng Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách cũng gọi tiểu nhị tính tiền. Tất nhiên lão chủ quán xua tay từ chối rối rít, lại còn ân cần mời khách cứ việc giá lâm.
Bất Trí Thư Sinh nhìn theo dáng đi của Tần Thế Lan, song không phát hiện được quái sự. Thực ra, Ải Thần Quân đang toát mồ hôi dồn sức cho từng bước đi, cố qua mắt đối phương.
Hai người lên xe ngựa, đi thêm một đoạn để vào trọ trong Hà Gia đại lữ điếm.
Thế Lan ngồi trong phòng mình suy nghĩ:
- Nếu cứ đế Thư nhi giữ mãi tính cách trung hậu, nhân nghĩa thì trước sau gì cũng lộ. Ta phải biến y thành kẻ cao ngạo, khó gần gũi thì mới mong kéo dài được vỡ diễn này.
Đêm ấy, Ải Thần Quân thi triển Di Hồn Đại Pháp đến mức chót, cố in sâu vào tâm trí Nhương Thư những nét nhân cách mới.
Khéo quá hóa vụng, sáng hôm sau, Thế Lan sang gõ cửa phòng Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách thì nhận được ánh mắt lạnh lùng, tàn nhẫn và một câu nói rất khó nghe:
- Này Tần biểu muội! Nhan sắc như nàng e không xứng làm vợ ta, hãy nhận lấy ngàn lượng vàng rồi trở lại Lũy Sơn lấy chồng khác cho xong.
Ải Thần Quân tức điên người, song không thể bỏ đi, liền năn nỉ ỉ ôi:
- Tiểu muội biết mình xấu xí, không xứng với biểu ca, nhưng hôn ước đã định, chẳng thể lấy ai khác, chỉ mong biểu ca khai ân nhận tiểu muội làm tỳ thiếp hay tôi tớ cũng được.
May mà Tần Nhật Phủ cũng còn giữ được bản chất anh hùng nên không quá tàn nhẫn, chấp nhận sự xuống nước của vị hôn thê. Gã gật gù bảo:
- Thế cũng được! Nàng mau bưng nước cho ta rửa mặt.
Ải Thần Quân vội tuân lệnh lui ra, vừa giận vừa tứcccười:
- Con bà nó! Đúng là gậy ông đập lưng ông, khiến lão phu phải biến thành nô tỳ.
Vệ sinh, ăn sáng xong, hai người y ước tìm đến Hoa Bắc đệ nhất tửu lâu để gặp bọn Bất Trí Thư Sinh.
Cao lão giật mình trước thần sắc khác lạ cũa Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách! Từ một bậc nhân hiệp khiêm cung, lễ độ, họ Tần trở thành một tên công tử mục hạ vô nhân, ánh mắt lạnh tanh và kiêu căng.
Gã chẳng thèm đáp lễ khi được chào, rồi thản nhiên ngồi xuống ghế, còn Tần Thế Lan khép nép đứng sau lưng chứ chẳng dám an tọa.
Cao Trường Toản thận trọng hỏi:
- Chẳng hay Tần thuộc hạ đã quyết định thế nào?
Tần Nhật Phủ nhếch mép cười ngạo nghễ:
- Tại hạ đồng ý! Nhưng sau khi tại hạ tiêu diệt xong Kỵ Ba Thần Quân và Âm Sơn Lão Tổ, hy vọng hội đồng võ lâm sẽ trao cho chức minh chủ!
Thái độ háo danh vụ lợi này đã làm cho Thúy Sơn biến sắc vì kinh ngạc. Bất Trí Thư Sinh tâm cơ mẫn tiệp, giỏi nghể tùy cơ ứng biến, liền cười khanh khách:
- Lúc ấy thì còn ai xứng với ngôi minh chủ hơn thiếu hiệp nữa?
Cái khôn thì không thể dạy bằng tà pháp được. Do vậy, Tần Nhật Phủ không hề phát hiện điểm lắt léo trong câu nói của đối phương. Cao lão chỉ tán dương chứ không hề hứa hẹn gì.
Tần Nhật Phủ hài lòng đáp:
- Hay lắm! Chúng ta khởi hành ngay thôi.
Bọn Thúy Sơn phải nuốt vội bữa điểm tâm để lên đường.
Cỗ xe của Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách đi trước và xà ích là Thế Lan.
Tám người bọn Thúy Sơn cỡi ngựa theo sau, cách một quãng vừa đủ để bàn bạc.
Tào Ưng hậm hực nói:
- Mẹ kiếp! Gã này thay đổi nhanh như lật bàn tay, chẳng biết đâu mà lần. Nhìn gương mặt gã sáng nay, ta chỉ muốn chém cho một nhát.
Thúy Sơn lên tiếng:
- Lạ thực! Sao y lại hờ hững với cả vị hôn thê như vậy?
Gã thứ năm trong Lô Châu Ngũ Tặc là Đồng Ngũ, hí hững xen vào:
- Thuộc hạ cho rằng đêm qua Tần Nhật Phủ không được ả kia hầu hạ chu đáo nên sáng nay mới gắt như mắm vậy. Đàn ông ai cũng thế thôi. Ả Thế Lan biết lỗi mình nên khép nép như rắn mùng năm, đâu còn oai vệ nữa.
Bạch Thúy Sơn đang rầu rĩ, thất vọng, liền bực bội nạt:
- Ngươi chỉ được cái nói càn, có im đi không?
Phía trước, Ải Thần Quân nai lưng đánh xe, tức tối nghỉ thầm:
- Ta đã quá nặng tay nên phải lãnh hậu quả, Gã khó ưa thế này thì còn gì là anh hùng hảo hán nữa?
Bởi vậy, ngay đêm ấy, lão tiến hành sửa chữa lỗi lầm, vã mồ hôi kiểm tra kỹ lưỡng từng chút một. Nhờ vậy, sáng ra sắc mặt của Nhương Thư đẽ dễ thương hơn, không còn vênh váo như trước nữa. Chàng chủ động chào hỏi với ánh mắt ấm áp khiến bọn Thúy Sơn sửng sốt.
Đổng Ngũ khoan khoái kết luận:
- Chư vị thấy tại hạ có lý hay chưa! Đêm qua Tần Nhật Phủ mây mưa đắc ý nên sáng nay tươi tắn, thân thiện, khác hẳn hôm qua. Y háo sắc thành tật, đêm nào không ái ân là không vui. Xem kia, Nhật Phủ đang ân cần mời vợ y lên xe, không bắt làm xà ích nữa. Còn mặt ả Thế Lan thì phởn phơ, hồng hào, cứ như đóa hoa sau trận mưa xuân vậy.
Thúy Sơn ngao ngán than:
- Ai bảo lòng nữ nhân như biển khôn dò? Cái gã Tần Nhật Phủ này mới đúng là khó hiểu.
Sau đúng năm ngày đường, đoàn người còn cách An Dương hơn trăm dặm. Khi ghé phạn điếm dùng cơm trưa xong, họ lại lên đường, được nửa canh giờ thì đến trấn Hưng Yên.
Tên khất cái đang ngồi dưới gốc cây đầu trấn vội chạy đến chặn đường, hối hả bẩm báo:
- Cao lão tiền bối! Hồng Diện Tôn Giả bị bọn Sơn Hải Bang vây hãm trên đồi Long Bối đã hai ngày nay.
Thúy Sơn biến sắc cướp lời:
- Phe đối phương có cao thủ nào mà lợi hại mà vây được phụ thân ta?
Gã hóa tử nhăn nhó:
- Bẩm phu nhân, đệ tử không rõ, chỉ biết Sơn Hải Bang đông độ hai chục, do Ngọa Long Tú Sĩ và bốn lão già tóc bạc thống lãnh. Họ ghé trấn ăn uống, bàn bạc việc thượng kinh tìm gã Tứ Mi, Tam Nhãn gì đó. Nào ngờ Tôn Giả cũng có mặt trong quán, đứng lên chửi mắng. Hai phe đánh nhau, Tôn Giả kém thế phải bỏ chạy lên đồi Long Bối tử thủ.
Bất Trí Thư Sinh hỏi lại:
- Thế bốn lão già tóc trắng kia xử dụng vũ khí gì?
Gã hóa tử đáp:
- Dạ bẩm: Họ cầm cần câu bằng thép.
Cao lão thảng thốt kêu lên:
- Đài Loan Tứ Ngư Ông! Hèn gì Hồng Diện Tôn Giả không địch lại họ.
Thúy Sơn bẽ mặt càu nhàu:
- Lai lịch bốn lão quỷ ấy thế nào? Tiểu muội có nghe nói đến bao giờ đâu?
Bất Trí Thư Sinh giải thích:
- Họ là huynh đệ đồng môn, tuổi tác đều trên bẩy mươi, hùng cứ đảo Đài Loan, hai chục năm chưa vào Trung Thổ nên hiền muội không biết đấy thôi. Năm xưa, tứ Ngư Ông vào đất liền dương danh, mượn cớ so tài võ học, lần lượt đả thương mấy chục đại cao thủ Trung Nguyên, từ Phúc Kiến đến Hà Nam. Sau đó họ khiêu chiến với Thiếu Lâm Tự, tỷ võ suốt ba ngày, cuối cùng bị các trưởng lão đả thương mới chịu về biển Đông.
Cứu nhân như cứu lửa, Cao Trường Toản vừa phi ngựa vừa kể chứ chẳng phải đứng một chỗ mà cà kê. Nói xong, lão hơi chột dạ trước võ công Tứ Ngư Ông, quay lại nhìn thì thấy cỗ xe của vợ chồng Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách lẽo đẽo phía sau, bèn an tâm một chút.
Đồi Long Bối nằm ở phía Đông trấn, cách độ vài dặm, nên chỉ hơn khác sau, đoàn người đã đến nơi.
Chẳng hiểu ai là người đã đặt cái tên "Lưng Rồng" cho ngọn đồi đầy những quái thạch to lớn này? Đá tảng nằm san sát, cao thấp chẳng đều, các khe mọc đầy cỏ cao hơn đầu người, tạo nên một địa hình tử thủ rất lý tưởng. Chính nhờ thế mà Hồng Diện Tôn Giả lúc ẩn lúc hiện cầm cự với đối phương từ trưa hôm qua đến giờ. Ông đánh không lại nhưng chẳng thèm bỏ chạy, lợi dụng địa thế mà bỡn cợt Đài Loan Tứ Lão.
Thỉnh thoảng Tôn Giả ló ra tập kích vài đòn rồi biến mất trong bụi rậm khiến đối phương tức điên lên được.
Đến nơi, Thúy Sơn cao giọng gọi:
- Sư phụ! Có đồ nhi đến tiếp ứng đây.
Hoàng lão mừng rỡ xuất hiện, đứng trên tảng đá cao nhất cười ha hả:
- Hay lắm! Có các ngươi hợp lực, lão phu sẽ vặt lông bốn lão ngư phủ mạt hạng của đảo Đài Loan.
Tứ Ngư Ông giận dữ gầm vang, lao vút đến vây chặt Tôn Giả, bốn chiếc cần câu thép dài nửa trượng vun vút xé không gian, chiêu thức vừa hiểm độc vừa mãnh liệt phi thường.
Cần câu là vũ khí độc môn, phép đánh rất quái dị, pha trọn, giữa cương tiên, nhuyễn tiên và câu liêm, vì đầu cần có một đoạn dây tơ bện dài ba gang, mang móc câu cực kỳ sắc nhọn.
Thân cần câu lớn bằng ngón tay cái, thực chất là một bó sợi thép nên rất dẽo, uốn lượn linh hoạt và nó chính thị khắc tinh của công phu Thiết Tụ Thần Quyền. Tay áo lụa của Hồng Diện Tôn Giả không sợ đao kiếm nhưng lại bị bốn lưỡi câu nhọn hoắc xé rách tơi tả, mất cả uy lực.
Tuy nhiên, với công phu quyền cước cao siêu, Hoàng lão chẳng dễ gì thảm bại ngay.
Thúy Sơn lập tức tung mình lướt đến nhập cuộc, vung kiếm tấn công hậu tâm một lão Ngư Ông.
Tất nhiên, lão ta quay lại đối phó, đáng cho náng xất bất xang bang. Thúy Sơn buồn rầu vì sự thất tung bí ẩn của Nhương Thư nên bỏ bê việc luyện công, luyện kiếm, bản lãnh sút kém hơn trước một bậc. Nay gặp tay cao thủ lão thành, sử dụng vũ khí đặc dị, bảo sao nàng không thất thế? Thúy Sơn cắn răng múa tít bảo kiếm, thủ nhiều hơn công.
Dưới này, bọn Bất Trí Thư Sinh đã xông vào đáng với Ngọa Long Tú sĩ và mười lăm gã đao thủ Sơn Hải Bang. Bọn này đều là hải tặc thiện chiến chốn biển Đông, được chân truyền pho Kỵ Ba Đao Pháp nên bản lãnh cực kỳ lợi hại. Chúng lại đông hơn nên chiếm ưu thế, khiến Lô Châu Ngũ Tặc la oai oái vì tức giận.
Chỉ mình Thiết Kình Ngư Tào Ưng là kha khá, một mình chống đỡ ba tên mà vẫn không lúng túng. Nhờ Nhương Thư tận tình chỉ điểm nên Tào Ưng đã đạt đến tinh túy của kiếm pháp Vương Ốc Sơn, sắp bước vào cảnh giới kiếm đạo.
Nhương Thư khờ khạo sự đời nhưng thiên bẩm võ học vô cùng sáng láng. Chàng dựa trên cơ sở Phật Đăng Kiếm Pháp mà bổ khuyết, nâng cao Vương Ốc Kiếm Pháp lên một bậc, khiến trình độ kiếm thuật Tào Ưng tăng tiến phi thường.
Khác với Thúy Sơn, gã tiếc thương Nhương Thư bằng cách khổ luyện để sau này trút hận lên đầu Âu Dương Lăng! Gã cung chủ sạt nghiệp này đã chạy đến Thiểm Tây hợp sức cùng Báo Ứng Hội, củng cố thực lực chờ ngày tái xuất. Hiện nay, Âu Dương Lăng là người duy nhất học được Thần Quang Chưởng Pháp. Nếu gã có thêm vài chục năm công lực thì sẽ lợi hại chẳng thua gì Độc Biển Thước.
Giờ không có mặt Âu Dương Lăng, Tào Ưng đổ cơn giận giữ lên đầu bọn thủ hạ Sơn Hải Bang, sau khi thăm dò vài chục chiêu, liền ra tay đả thương một tên.
Nhương Thư được xem là tay khoái kiếm của võ lâm đương đại. Tào Ưng noi gương ấy mà rèn luyện, đường kiếm cũng nhanh như gió. Gã nghiến răng tả xung hữu đột, kiếm ảnh dệt lưới sao công phá những màn đao quang lạnh lẽo, khí thế hừng hực khiến phe đối phương phải khiếp sợ.
Phần Bất Trí Thư Sinh thì đọ kiếm với Ngọa Long Tú sĩ, hai lão này giỏi văn hơn võ, vừa đánh vừa so tài miệng lưỡi. Cao Trường Toản nói:
- Này Lỗ Tú Sĩ! Ông đã chậm chân hơn lão phu một bước rồi. Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách đã được lão phu thỉnh về làm tướng tiên phong để giáng ma. Không chừng lát nữa chính ông sẽ phải chết dưới tay Tần Nhật Phủ!
Ngọa Long Tú sĩ Lỗ Đăng Hân bối rối, chém liền bốn kiếm rối cười nhạt:
- Tốt lắm! Không thu phục được thì tiêu diệt! Lát nữa Đài Loan tứ Ngư Ông sẽ có việc để làm.
Lỗ Tú Sĩ chợt biến sắc vì những tiếng gào ghê rợn của thủ hạ liên tiếp vang lên. Lão liếc về phía ấy, phát hiện một chàng kiếm sĩ áo đen đang phóng tay chém giết bang chúng Sơn Hải Bang, liền đoán đấy là Tần Nhật Phủ. Họ Tần di chuyển bằng một bộ pháp kỳ lạ, thân hình chập chờn như chia làm mấy bóng vậy. Và thanh trường kiếm trên tay gã loang loáng ánh dương quang, kiếm ảnh nối nhau thành những dải lụa bạc, bay chập chờn trong không gián, đáp xuống đâu là có người ngã quỵ.
Người chết thì an phận nên im ắng, nhưng kẻ thọ thương thì ồn ào kêu rên thảm thiết. Nạn nhân của Tần Nhật Phủ kẻ thì không toàn mạng, kẻ chỉ mất đi cánh tay cầm đao, hoăc bị đâm thủng huyệt Khí Hải, vì vậy, họ la hét ỏm tỏi!
Với trình độ kiếm thuật siêu phàm và thân pháp ảo diệu tuyệt luân, họ Tần mau chóng loại hết mười mấy gã hải tặc ra khỏi vòng chiến và ra khỏi giang hồ. Chúng không còn có khả năng hành ác nữa. Nhưng Tào Ưng và Lô Châu Ngũ Tặc lại không thành toàn cho lòng nhân đạo của Nhật Phủ, giết sạch những kẻ bị thương kia.
Rồi họ nhẩy vào khu loạn thạch tiếp ứng cho thầy trò Thúy Sơn.
Phần Tần Nhật Phủ lao thẳng về phía Ngọa Long Tú sĩ, ánh mắt rực rỡ vẻ uy nghiêm, sắc mặt lạnh lẻo tựa sương đêm.
Bất Trí Thư Sinh mỉm cười:
- Lão phu hứa sẽ mai táng Lỗ túc hạ chu đáo! Xin vĩnh biệt!
Lão chém mạnh vài kiếm, lui lại nhường Ngọa Long Tú sĩ cho Tần Nhật Phủ.
Đứng trước tử thần, Lỗ Đăng Hân nghe lạnh gáy, cố đem cơ trí giảo hoạt ra tìm sinh lộ. Lão bất ngờ quăng kiếm xuống đất, chắp tay sau lưng chờ đợi.
Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách đến nơi, ngỡ ngàng nhìn lão già mặc trường bào thư sinh lam nhạt, đầu đội nón Khổng Minh, mặt sáng như trăng rằm, tay không vũ khí. Họ Tần cau mày hỏi Bất Trí Thư Sinh:
- Lão ta là ai vậy,
Cao lão cười nhạt:
- Ngọa Long Tú sĩ Lỗ Đăng Hân, đương kim quân sư của Sơn Hải Bang. Trước đây lão từng là quân sư cho Chính Khí Bang, rồi đến Tứ Phạn Thiên Cung, Thần Quang Giáo. Tóm lại, Lỗ Đăng Hân chuyên nghề thầy dùi cho các tổ chức tà ma.
Lổ Tú Sĩ ung dung nói:
- Lão phu tay không tấc sắt, nếu Tần thiếu hiệp chẳng sợ hậu thế chê cười thì cứ giết. Hân này chỉ giỏi văn tất không phải là địch thủ của Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách!
Lão khôn khéo mang cái danh anh hùng ra trói tay gã kiếm sĩ trẻ kia. Tuổi thanh niên mà tài cao thì thường kiêu ngạo, không chịu mang tiếng giết người dưới ngựa, tất sẽ mắc mưu.
Bất Trí Thư Sinh cũng lo ngay ngáy, sợ Nhật Phủ tha cho Tú Sĩ. Không ngờ, Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách lạnh lùng nói:
- Túc hạ tài cao học rộng, dám ví mình với Gia Cát Lượng, mà lại đem tài ba ấy phục vụ tà ma, gây hại cho công lực còn nhiều hơn một cao thủ. Tuy nhiên, tại hạ chẳng giết làm gì chỉ cắt lưỡi và chặt hai bàn tay mà thôi.
Ngọa Long Tú sĩ nghe đối phương tuyên án, cố gỡ gạc:
- Làm thế còn tàn nhẫn hơn là giết chết! Thiếu hiệp không sợ mang tiếng bất nhân sao?
Nhật Phủ dựng ngược đôi lông mày kép quái dị, mắt ngời ngời chính khí, chậm rãi nói:
- Ta thà mang tiếng tàn nhẫn chứ không thể lưu lại đại họa cho võ lâm.
Dứt lời, Nhật Phủ lướt đến kiếm quang lồng lộng, phong tỏa mọi đường tiến thoái của nạn nhân. Lỗ Tú Sĩ khiếp đảm, thét đến lạc giọng:
- Khoan đã! Lão phu có điều muốn nói!
Kiếm quang tắt lịm, Tần Nhật Phủ dừng tay và bảo kiếm đã tra vào vỏ. Trình độ kiếm thuật siêu phàm ấy đã khiến Lỗ Đăng Hân nảy ra chủ ý.
Lão vòng tay vái và nói với giọng thê lương:
- Lão phu lâu nay như ngựa ký trong nhà gã đánh xe, như bảo kiếm lẫn lộn với đồng nát, có tài mà chẳng đất dụng vỏ, nên lòng đau đáu không yên. Khi được Lã Tập Hiền mời ra khỏi liều tranh, lão phu vô cùng mừng rỡ vì tưởng đã gặp minh chúa, thỏa chí bình sinh. Nào ngờ họ Lã lại là tay đại gian hùng khiến lão phu sa chân vào ma đạo, không sao thoát ra được nữa. Chút tâm sự xin được giải bày để thiếu hiệp được rõ, khai ân mở cho lão phu một cơ hợi hồi đầu hướng thiện, mang sức tàn phù trì chính nghĩa. Lão phu xin đem thanh danh Tổ Sư là Thiên Cơ Chân Nhân ra bảo chứng.
Nhật Phủ nghe xong quay sang hỏi Bất Trí Thư Sinh:
- Ý Cao lão thế nào?
Cao Trường Toản vuốt râu trầm ngâm làm Lỗ Đăng Hân chột dạ. Thói thường, kẻ có tài thường đố kỵ nhau, võ lâm thương ví hai lão là Khổng Minh và Phượng Sồ, kình địch ngang sức. Nay chắc gì Bất Trí Thư Sinh chịu để Ngọa Long Tú sĩ về với phe bạch đạo mà làm lu mờ vị trí của mình?
Nhưng Cao Trường Toản lại là bậc quân tử hiếm có, lượng rộng nhì Đônh Hải. Ông nghiêm giọng đáp:
- Lỗ Tú Sĩ là bậc tài hoa quán thế, hơn hẵn lão phu. Nếu lão ta thực tâm hướng thiện thì đấy là phúc của võ lâm. Tần thiếu hiệp hãy vì đại cục giang hồ mà thu nạp Ngọa Long Tú sĩ.
Lỗ Đăng Hân cảm kích đến nghẹn ngào, vái Cao Trường Toản thật sâu:
- Lòng dạ của túc hạ sáng hơn nhật nguyệt, Hân tôi chỉ là con đom đóm mà thôi.
Lão lại vái Tần Nhật Phủ:
- Chim khôn lực cành mà đậu, lão phu nguyện suốt đời xả thân phù tá công tử, dẫu thác cũng không đổi dạ.
Tần Nhật Phủ chỉnh sắc:
- Tại hạ chẳng hề nuôi mộng trang bá đồ vương, tiên sinh cứ đem tài ra phục vụ võ lâm là đủ.
Lỗ Tú Sĩ vội đáp:
- Công tử dạy chí phải! Lão phu xin tuân mệnh!
Lúc này, Đài Loan Tứ Ngư Ông thấy nguy đã phá vây bỏ chạy, bọn Hồng Diện Tôn Giả kéo xuống, ngỡ ngàng khi thấy Ngọa Long Tú sĩ đang vui vẻ chuyện trò với Bất Trí Thư Sinh.
Nghe Cao lão kể lại nguồn cơn, mọi người mừng rỡ chào hỏi Lỗ Tú Sĩ rất chân thành. Hoàng Tôn Giả cười ha hả:
- Này Lỗ hiền điệt! Cái tội trợ trụ vi ác đáng ra phải đánh đòn đấy. Nể mặt sư phụ ngươi, lão phu chỉ phạt mười vò rượu mà thôi.
Bỗng lão quay sang nạt Tần Nhật Phủ:
- Tiểu tử hôi hám kia! Vì sao ngươi lại bỏ trốn, không tiếp tục đồng hành với lão phu nữa?
Họ Tần còn đang ngơ ngác thì cô ả Thế Lan xen vào:
- Bẩm tiền bối! Chuyết phu còn phải đi đón tiện nữ nên không thể tháp tùng tiền bối được.
Tôn Giả há hốc miệng nhìn nữ lang da rám nắng, tóc bới vụng về kia rồi lẩm bẩm:
- Ngươi là vợ của y đấy sao?
Gần cuối tháng năm, đoàn người về tới Tổng Đàn Cái Bang ở Lạc Dương. Cả Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách lẫn Ngọa Long Tú Sĩ đều được các chưởng môn đón tiếp rất trọng vọng. Một người là cao thủ kiệt xuất, còn người kia nổi tiếng đa mưu túc trí, bảo sao hội đồng võ lâm không mừng?
Họ chỉ thất vọng về việc không sao xác định được Tần Nhật Phủ có phải là Nhương Thư hay không?
Trưa hôm sau, Vô Ưu Cái triệu tập cuộc họp nội bộ, bàn bạc việc giáng ma. Ông rầu rĩ thông báo:
- Lão phu đã nhận được tin của Dạ Quân Từ, xác định rõ sự phản bội của Nghiên Tái Thuần. Gã tiểu quỷ ấy đã bái Âm Sơn Song Ma làm sư phụ, nhờ giỏi nghề nịnh nọt nên được Lương Dã Toàn yêu mến. Truyền thụ tâm pháp và ban cho ba hạt Thiên Niên Tuyết Sâm. Cộng với công phu Thái Bổ, công lực Tái Thuần tăng tiến rất nhanh, vượt ngoài lẽ thường tình.
Lão chợt dừng lời rồi nhìn vào mặt Tần Nhật Phủ, buông từng tiếng nặng nề.
- Hiện nay, Quách Tàn bôi đã bị giam vào mật lao, do không chịu quy phục Âm Sơn Giáo.
Nhưng Tần Nhật Phủ vẫn thản nhiên, chẳng hề biểu lộ chút cảm xúc nào, bởi không biết Dạ Quân Tử là ai?
Thúy Sơn buồn bã sa lệ:
- Tội nghiệp cho Quách đại ca.
Bất Trí Thư Sinh cố nén nhục nhã, cắn răng hỏi lại:
- Hầu đại ca! Còn kế Bạch Duật Tương Trì của tiểu đệ có kết quả gì không?
Vô Ưu Cái cười nhạt:
- Thư thách đấu giả danh Kỵ Ba Thần Quân đã gởi đến Cô Độc Bảo, song chính Nghiên Tái Thuần đã ngăn cản Âm Sơn Lão Tổ đi phó ước.
Cao lão uất ức than:
- Lão phu chỉ có cách chết để tạ tội với võ lâm mà thôi.
Ngọa Long Tú Sĩ ngồi kế bên, vỗ vai thư sinh rồi tủm tỉm nói:
- Cao hiền đệ yên tâm! Ta sẽ giúp cho kế ấy thành công mỹ mãn.
Rồi Lỗ Tú Sĩ vòng tay nói với cử tọa:
- Bẩm chư vị chưởng môn, việc lão phu hồi đầu hướng thiện vẫn còn là bí mật. Do vậy, khi lão phu xuất hiện với cương vị quân sư Sơn Hải Bang thì Lão Tổ sẽ tin ngay. Song theo thiển ý của lão phu, gởi thư khiêu chiến không bằng chọc cho Lương Dã Toàn tức điên lên, kéo quân tiến đánh Sơn Hải Bang.
Cả nhà ồ lên thán phục. Nhưng Tú Sĩ không nói tiếp mà cười bảo Bất Trí Thư Sinh:
- Lão phu xin đặt mình dưới sự bày binh bố trận của Cao hiền đệ.
Đây là cử chỉ tốt đẹp, đền đáp lại tấm lòng quân tử của Bất Trí Thư Sinh. Lão không rộng lượng thì Lỗ Tú Sĩ đã bị Tần Nhật Phủ chặt tay cắt lưỡi rồi.
Cao Trường Toản cảm độngn hắng giọng bàn:
- Quả thực là sự hiện diện của Lỗ Tú Sĩ là một lợi thế cho chúng ta thi hành kế Di Họa Giang Đông. Lỗ lão ca sẽ thống lãnh một toán cao thủ, giả làm người của Sơn Hải Bang, bắt cóc cháu nội bảo bối của Âm Sơn Lão Tổ, tất sẽ khiến lão nổi điên khởi binh đánh Tế Nam để cứu về. Chúng ta biết mật đạo ra vào Cô Độc Bảo nên hành sự không thể thất bại được.
Mọi người đều khen hay nhưng Vô Ưu Cái lại xua tay:
- Kế ấy chưa đủ! Song tạm gác lại để lão phu hỏi chuyện hai vị khách quý cái đã.
Hầu Mộ Thiên tuy không nổi danh mưu mẹo song lại là kẻ đại trí tuệ, một tay chèo chống võ lâm. Cẩn trọng nhưng quyết sách rất đúng đắn. Chính Bất Trí Thư Sinh cũng phải khâm phục họ Hầu sát đát.
Hầu bang chủ nghiêm giọng hỏi Tần Nhật Phủ:
- Lão phu nghe Cao lão đệ rằng Tần thiếu hiệp muốn làm minh chủ võ lâm?
Họ Tần hờ hững đáp:
- Tại hạ đã đổi ý! Làm cũng tốt mà không làm cũng chẳng sao. Thực ra, tại hạ chẳng đủ tài thao lược để lo cho đại cục võ lâm.
Vô Ưu Cái cố nén kinh ngạc hỏi tiếp:
- Vậy thiếu hiệp có nguyện xả thân vì chính nghĩa hay không, dù chẳng được lợi lộc gì?
Tần Nhật Phủ gật đầu:
- Tại hạ sẵng sàng, song không tin lại có người giết được mình.
Khẩu khí cao ngạo ấy đã khiến toàn trường chán ghét. Nhưng họ Tần lại thản nhiên nói thêm:
- Tại hạ chạy nhanh lắm.
Ác cảm biến mất ngay, các chưởng môn mỉm cười thích thú, nhìn nhau gật gù.
Thông Thiên đạo trưởng vui vẻ hỏi:
- Tần thí chủ xuất thân từ cửa nào mà lại thuộc lòng câu Tiên Bảo Kỳ Thân như thế?
Nhật Phủ đáp gọn lỏn:
- Gia học!
Hồng Diện Tôn Giả cười khà khà thú nhận:
- Chư vị biết không, y đã từng thủ hòa với lão phu đấy!
Đúng lúc này, một gã khất cái bước vào, tất tả đi về phía Vô Ưu Cái như muốn báo một tin quan trọng.
Do không có tiệc tùng nên người dự họp ngồi thành hình móng ngựa, trước mặt có kỷ trà nhỏ. Vô Ưu Cái là Vô Ưu Cái nên ngồi ở vị trí đỉnh của móng ngựa, quay mặt ra cửa sảnh. Hai bên tả hữu của lão dành cho tân khách là chưởng môn hai phái Thiếu Lâm và Võ Đang.
Gã khất cái kia bước đến trước mặt Vô Ưu Cái, cách chừng nửa trượng vòng tay nói:
- Cung bẩm bang chủ! Có thư từ Sơn Đông gởi về.
Nói xong, gã thọc tay vào ngực áo để lấy, nhưng không phải là thư mà chính là một ống đồng dài độ gang tay. Trong chớp mắt, các chưởng môn nhận ra ngay vũ khí trấn sơn của Đường Gia Tứ Xuyên. Họ kinh hãi thét lên trong tuyệt vọng vì khoảng cách quá gần và bởi chẳng ai có tất sắt nào trong tay cả.
Trong khoảng khắc ngàn cân treo sợi tóc ấy, chợt vang lên những âm thanh là lạ, tựa trường tiễn xé không gian. Và tên gian tặc kia rú lên thảm khốc, buông rơi hỏa khí, ôm ngực ngã quỵ.
Hồng Diện Tôn Giả cao niên nhất, kiến văn rộng rãi, sửng sốt kêu lên:
- Lục Mạch Thần Chỉ!
Vô Ưu Cái thì quay sang vòng tay nói với Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách:
- Đa tạ thiếu hiệp đã cứu mạng lão phu.
Lúc này cử tọa mới biết kẻ xuất thủ là Tần Nhật Phủ, nhìn chàng bằng cặp mắt ngưỡng mộ.
Khánh Hỉ đại sư, phương trượng Thiếu Lâm chắp tay:
- A di đà phật! Lão nạp cũng là người chịu ơn Tần thí chủ! Phạm vi sát thương của Hỏa Châm Đồng rất rộng, cả lão nạp và Thông Thiên đại huynh đây cũng khó thoát chết.
Chưởng môn phái Võ Đang mỉm cười nói dùa:
- Tần thí chủ làm mất cơ hội thăng thiên của bần đạo rồi.
Tần Nhật Phủ gật gù:
- Vật kia lợi hại đến thế ư?
Bọn hóa tử canh gác Tổng Đàn nghe động chạy vào, nhìn thấy xác chết và hung khí, tái mặt quỳ xuống nhận tội.
Vô Ưu Cái đã kiểm tra dung mạo của tử thi, biết chắc đấy là một trong những thủ hạ thân tín của mình, liền thở dài:
- Tại sao Trương Hồng lại bội phản Cái Bang nhỉ?
Ông ra lệnh cho đám khất cái đem xác đi chôn và dọn dẹp máu me.
Chờ Hầu Mộ Thiên an tọa, Ngọa Long Tú Sĩ mới lên tiếng:
- Bẩm chư vị chưởng môn! Gã họ Trương kia đã trúng phải Nhiếp Hồn Công của Kỵ Ba Thần Quân, chẳng còn làm chủ được mình nữa. Tà thuật này lợi hại ở chỗ có thể biến bất cứ ai thành phản đồ. Xem ra Kỵ Ba Thần Quân đã khởi đầu cuộc chiến bằng cách ám sát các chưởng môn trong hội đồng võ lâm. Lão ta lại có ám khí tuyệt độc của Đường Môn, thật khó đối phó.
Ai nấy rùng mình khi nghĩ đến cảnh phải đề phòng cả những người thân nhất của mình.
Phổ Chứng thiền sư, chưởng môn phái Nga Mi, buồn rầu hỏi:
- Chẳng lẽ không có cách nào để sớm phát hiện ra những kẻ trúng tà pháp hay sao?
Lỗ Tú Sĩ cung kính đáp:
- Bẩm thiền sư, lão phu may mắn biết được bí mật của công phu này. Nhiếp Hồn Pháp xuất xứ từ Thiên Trúc, còn gọi là thuật thôi miên. Khi Kỵ Ba Thần Quân và các đệ tử chân truyền, bắt được ai liền ru họ ngủ rồi thi triển tà pháp, ra lệnh cho họ hành động. Nạn nhân được thả ra, không nhớ gì cả, thản nhiên trở về, nhưng đúng thời khắc là thi hành lệnh đã nhận. Lúc ấy, nếu chú tâm quan sát, chúng ta sẽ thấy mắt họ hơi dại đi, thường nhìn đăm đăm ít chớp. Còn như muốn phòng xa, chúng ta kiểm tra các đệ tử bằng cách bấm nhẹ vào mi tâm, nếu y nhăn mặt đau đớn thì đúng là kẻ trúng tà.
Mọi người mừng rỡ vì đã có cách đối phó, hết lời khen ngợi Tú Sĩ. Vô Ưu Cái chẳng khen chê, nghiêm giọng hỏi:
- Lỗ lão đệ có biết lập trường của Kỵ Ba Thần Quân đối với Âm Sơn Lão Tỗ hay không?
Lỗ Đăng Hân vội đáp:
- Bẩm Hầu bang chủ! Kỵ Ba Thần Quân là tay gian hùng cái thế, định liên thủ với Lương lão quỷ để khuynh đảo võ lâm, sau khi thành công mới tiêu diệt.
Vô Ưu Cái gật gù:
- Đúng vậy! Sáu ngày trước, hai lão đại ác ma ấy đã bí mật gặp nhau ở Tế Châu, thắp hương thề thốt, nguyện chia đôi thiên hạ.
Tin này như sét đánh ngang tai khiến mọi người rẩu rĩ. Bất Trí Thư Sinh thở dài:
- Bây giờ tiểu đệ đã hiểu vì sao kế Di Họa Giang Đông không dùng được. Chúng ta phải tiên hạ thủ vi cường, hội quân tấn công Cô Độc Bảo ngay mới được.
Vô Ưu Cái an ủi thư sinh:
- Thực ra kế ấy cũng không hoàn toàn vô dụng. Sự hiện diện của Ngọa Long Tú Sĩ và một toán cao thủ mặc áo Sơn Hải Bang sẽ khiến Lương Dã Toàn hoang mang, nếu chạy thoát cũng không dám đến Tế Nam hợp lực với Thần Quân.
Xế chiều, Vô Ưu Cái cho gọi riêng Bất Trí Thư Sinh và Ngọa Long Tú Sĩ đến thư phòng. Ông nghiêm giọng:
- Này Lỗ lão đệ! Ông là người đa mưu túc trí. Hãy thử giải dùm lão phu nan đề này.
Sau đó, Hầu Mộ Thiên kẻ rõ việc thất tung của Nhương Thư, cũng như mối nghi ngờ về Tần Nhật Phủ. Cao Trường Toản cũng tường trình thêm những thái độ kỳ lạ của Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách. Cao lão kết luận:
- Tính cách của Tần Nhật Phủ rất phức tạp, thay đổi bất ngờ, cứ như một cục bột nhão được người thợ nắn sao ra vậy. Và dường như người thợ kia có ý biến Tần Nhật Phủ thành một bậc anh hùng toàn mỹ, thấy sai sót là bổ khuyết ngay. Phong thái hiện nay có thể được xem là hoàn thiện: trang nghiêm nhưng không kiêu ngạo, thân ái mà ít lời, khiến chúng ta không thể dọ hỏi được gì.
Lỗ Tú Sĩ vuốt râu tư lự:
- Xem ra người thợ bánh kia chính thị Ải Thần Quân, hoặc hậu duệ của lão là Thế Lan. Song chúng ta không biết rõ mục đích của đối phương về sự hóa thân của Nhương Thư thì thật khó xác định vì Tứ Mi Kiếm Khách không có dấu vết hóa trang. Chẳng lẽ trên đời lại có kẻ đủ tài đoạt quyền tạo hóa, cắt da đắp thịt, sửa đổi mặt người hay sao? Tuy nhiên, chúng ta vẫn không thể loại trừ trường hợp ấy, sau này sẽ tìm cách đánh thuốc mê Tần Nhật Phủ để khám nghiệm thật kỹ lại. Thứ hai, chúng ta phải cho người theo dõi Tần Thế Lan, ả chính là đầu mối của sự việc.
Vô Ưu Cái gật đầu:
- Lỗ lão đệ nói chí phải, chúng ta cứ thế mà làm.
Hầu bang chủ hỏi han nội tình Sơn Hải Bang, được Ngọa Long Tú Sĩ trình bày cặn kẽ, không giấu diếm. Nghe xong, ông rùng mình:
- Không ngờ thực lực và thủ đoạn của Kỵ Ba Thần Quân lại ghê gớm đến thế. Xem ra chúng ta phải thay đổi chiến lược mới xong. Phần Lỗ lão đệ phải tuyệt đối giữ kín hành tung, không để ai biết người đã hồi đầu. Có như thế chúng ta mới mong chiếm thượng phong.
Lỗ Tú Sĩ mỉm cười:
- Tiểu đệ đã nghĩ đến điều ấy nên cân thận cải trang ngay từ lúc rời đổi Long Bối. Hơn nữa, Đài Loan Tứ Ngư Ông cứ tưởng tiểu đệ đã chết rồi.
Trong binh pháp có câu: Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bách thắng. Ngọa Long Tú Sĩ từng là quân sư Sơn Hải Bang, nắm rõ mọi bí mật về chiến lược, chiến thuật của Kỵ Ba Thần Quân. Nếu để Thần Quân biết ông ta đã về phe bạch đạo, tất lão sẽ thay đổi phương thức hành động.
Tối đến, Vô Ưu Cái thương lượng lần chót với hội đồng võ lâm, quyết định một kế sách tốt nhất, rồi mời cả nhà họp lại. Ông hỏi Tần Nhật Phủ:
- Với tuyệt học Lục Mạch Thần Chỉ, thiếu hiệp có tự tin thắng nổi một cao thủ trăm năm công lực như Âm Sơn Lão Tổ hoặc Kỵ Ba Thần Quân hay không? Nếu thiếu hiệp trả lời là có thì hội đổng võ lâm tổ chức đại hội bầu minh chủ. Lúc thượng đài, thiếu hiệp sẽ có cơ hội trừ hại cho thiên hạ.
Tần Nhật Phủ còn đang phân vân vì không rõ bản lãnh của hai người kia thế nào, thì Ải Thần Quân, tức cô vợ giả của chàng cắn câu ngay. Thứ nhất là do lòng tự tôn, cho rằng Lục Mạch Thần Chỉ và Huyền Không Kiếm Pháp đứng đầu vũ nội. Thứ hai, Tứ Mi Ngọc Diện Kiếm Khách mà lên làm minh chủ thì lão có chết cũng mãn nguyện.
Khuyết tật bẩm sinh đã trở thành nỗi ám ảnh suốt đời, khiến Ải Thần Quân không sao đắc đạo được.
Do vậy, lão thì thầm khuyến khích hóa thân:
- Biểu ca chớ đắn đo làm gì. Chỉ pháp của họ Tần nhà ta vô địch thiên hạ. Dẫu đối phương có công lực cao hơn cũng không tránh nổi. Biểu ca mà từ chối thì còn gì khí phách của bậc anh hùng nữa.
Thấy Thế Lan là gái mà hào khí can vân như vậy, Tần Nhật Phủ chẳng chịu kém, quả quyết đáp:
- Tại hạ xin tận lực, dẫu bỏ mạng cũng cố trừ hại cho võ lâm.
Vô Ưu Cái mỉm cười bí ẩn:
- Không nhất thiết phải liều mạng, thiếu hiệp chỉ cần lấy được ít máu của hai lão ấy là xem như hoàn thành nhệm vụ.
Tuy không hiểu nhưng quen thói ít lời nên Tần Nhật Phủ chẳng hỏi thêm.
Bất Trí Thư Sinh lên tiếng:
- Thực ra đây chỉ là kế hoãn binh và ly gián hai phe Âm Sơn Giáo và Sơn Hải Bang. Ngôi minh chủ sẽ khiến hai lão đại ma đầu trở mặt với nhau, tạo điều kiện cho chúng ta tiêu diệt họ. Theo qui củ võ lâm, từ ngày phát thiếp đến khi cử hành ít nhất là ba tháng. Trong thời gian này, chúng ta sẽ âm thầm hành sự, xói mòn lực lượng tà ma.
Thông Thiên Chân Nhân rất mến Nhật Phủ, có lẽ vì ơn cứu mạng, liền hòa ái dặn dò:
- Này Tần thí chủ! Cái ác như cỏ dại nối nhau xuất hiện, cho nên bậc hiệp sĩ phải giữ mình để trường kỳ tịch tà cự bí. Mong thí chủ ngày đêm khổ luyện để nắm chắc phần thắng lợi.
Vô Ưu Cái tiếp lời Chân Nhân:
- Mờ sáng, hiền khang lệ và Ngọa Long Tú Sĩ sẽ chuyển sang ở một nơi khác để bảo toàn bí mật. Chỗ ấy kín đáo, rộng rãi, rất thích hợp cho việc luyện võ.
Tần Nhật Phủ vòng tay đáp:
- Tại hạ xin tuân theo sự sắp xếp của bang chủ.
Trời chưa rõ mặt người, ba vị khách quý đã đến cơ sở mật, tức dược đường của Tạ Thần Y. Thúy Sơn cũng đi theo, tiếp tục bầu bạn với ba cô gái tội nghiệp họ Điền.
Ải Thần Quân thấy ba cô con dâu mất trí mà lòng vô cùng bất nhẫn, quyết chữa trị cho họ. Nhưng bản tính tinh nghịch đã khiến ông nẩy ra một trò đùa quái ác.
Sau khi điều tra rõ địa hình, địa vật, Ải Thần Quân tiến hành kế hoạch táo bạo và kỳ khôi của mình.
Nửa đêm mùng bốn tháng sáu, Tần Nhật Phủ đột nhiên trỗi dậy, lướt đi êm ái như bóng oan hồn, tìm đến phòng Điền Mã Lan.
Ba bệnh nhân này chiếm ba phòng nhỏ liền nhau, phòng thứ tư cùng dãy thuộc về Thúy Sơn. Hàng đêm, khi nghe tiếng ai la hét, hoặc khóc lóc tức tưởi là Thúy Sơn chạy sang vỗ về, an ủi rằng Tần Nhương Thư đi xa chưa kịp về đến.
Do vậy, cửa phòng của các bệnh nhân chỉ khép hờ chứ không cài then bên trong. Tần Nhật Phủ vào phòng dễ dàng, lên giường ôm lấy Mã Lan và thì thầm:
- Lan muội! Ta đây!
Giọng nói trầm ấm quen thuộc kia đã khiến cô gái điên vui mừng khôn xiết, muốn khóc lóc, muốn nói những lời yêu thương mà không hiểu sao lại bất lực? Nàng chỉ còn cách nồng nhiệt đáp ứng những cử chỉ vuốt ve đầy khao khát của trượng phu. Nhương Thư như người chồng xa vợ lâu ngày, không kềm hãm nổi lửa tình, say đắm gầy cuộc ái ân.
Thân hình nẩy nở của Mã Lan giờ đây gầy hơn trước nhưng tình yêu trong nàng chẳng hể suy giảm. Nàng liên tiếp rùng mình dâng hiến, nước mắt nhạt nhòa thay cho những âm thanh hoan lạc. Hết hiệp, Nhương Thư bất ngờ điểm huyệt ngủ ái thê, mặc lại y phục cho nàng rồi trở về phòng mình.
Sáng ra, Mã Lan chỉ lơ mơ nhớ lại cuộc mây mưa, vừa khóc vừa cười kể cho hai em nghe, Thúy Sơn tủm tỉm bảo:
- Lan muội nằm mơ đấy.
Những ngày sau đó, Nhương Thư bị phép Di Hồn điều khiển, thỉnh thoảng viếng thăm các nàng, ân ái rồi lại đi. Người khổ sở nhất là Ải Thần Quân, lão luôn phải đi trước dọn đường, dùng Lục Mạch Thần Chỉ điểm huyệt bất cứ ai cản trở, kể cả Thúy Sơn.
Ải Thần Quân không hề ăn được kỳ trân nhưng kiên nhẫn rèn luyện từ nhỏ, chẳng hề gián đoạn, nên hiện sở hữu đến tám mươi năm tu vi. Ông học pho Thần chỉ hai mươi nam nên thủ pháp cực kỳ chính xác, khéo léo khiến nạn nhân thiếp đi vừa đủ thời gian, lúc tỉnh lại chỉ ngỡ mình ngủ gật.
Mặt khác, Ải Thần Quân âm thầm trút dồn công lực cho chàng, sau một tháng, Nhương Thư đã có thêm mười năm chân khí. Đây là giới hạn tối đa của sự san sẻ công lực, vượt qua sẽ rất nguy hiểm.
Một chiều đầu tháng bẩy, aq bỗng nghe văng vẳng có tiếng Tạ Thần Y ngâm nga:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu!
Hai câu cuối trong bài thơ Hoàng Hạc Lâu đã khiến Ải Thần Quân chạnh lòng nhớ cố hương, quyết định về Sơn Tây tảo mộ song thân.
Song, không đẻ tâm huyết của mình bị uổng phí, Ải Thần Quân tìm cách rút lui an toàn.
Cơ hội của ông chính là những cuộc đàm đạo của Thúy Sơn và Tần Nhật Phủ. Nàng ta được lệnh dò xét họ Tần nên thường xuyên tiếp xúc hỏi han.
Trưa ngày thất tịch, mùng bẩy tháng bẩy, Tạ gia trang bày tiểu yến, có mời cả Hồng Diện Tôn Giả, Vô Ưu Cái và Bất Trí Thư Sinh. Tình cờ Thúy Sơn lại ngồi mé hữu Nhương Thư, còn Ải Thần Quân mé tả.
Sau tiệc rượu là thời điểm uống trà, Ải Thần Quân giả vờ đứng lên đi vệ sinh, lúc trở ra đứng phía sau thi triển Di Hồn Đại Pháp làm cho Nhương Thư và Thúy Sơn đồng thời quay mặt, ngã đầu về phía sau như muốn nói nhỏ điều gì đó. Kết quả là môi chàng chạm gò má nàng, cứ như tặng một nụ hôn vậy.
Cả nhà sửng sốt đến ngây người, còn Ải Thần Quân, tức Thế Lan chửi bới, khóc lóc thảm thiết, tuyên bố từ hôn, không nhận một kẻ lăng nhăng như Tần Nhật Phủ làm chồng nữa. Họ Tần hoang mang, lòng vô cùng hổ thẹn, để mặc Thế Lan cuốn gói về quê.
Phần Thúy Sơn cũng bối rối chẳng kém, run rẩy thề thốt rằng mình chẳng hề có tình ý gì với Tần Nhật Phủ, việc lúc nãy chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên mà thôi. Nàng định nói với Nhật Phủ điều gì đó, không ngờ gã cũng vậy.
Tần Nhật Phủ cũng ấp úng giải thích đúng như thế, nhưng giá mà có ai hỏi họ định nói điều gì thì quả thực là hai người không biết.
Hiểu rõ nhân cách, tính tình của Thúy Sơn, chẳng ai trách mắng nàng. Hơn nữa, giả như song phương phải lòng nhau thì thiếu gì chỗ để âu yếm, sao lại phải hành động sơ xuất ngay chỗ này?
Hồng Diện Tôn Giả xua tay:
- Sơn nhi dừng khóc nữa, hãy bỏ qua chuyện vớ vẫn ấy đi.
Vô Ưu Cái ái ngại hỏi Nhật Phủ:
- Sao thiếu hiệp không cố giữ Tần phu nhân lại?
Nhật Phủ thở dài:
- Hôn nhân không có tình yêu, trước sau gì cũng tan vỡ, níu kéo làm gì nữa? Nếu Thế Lan thực lòng yêu thương tại hạ tất phải hiểu và tin tưởng, đâu chửi mắng rồi bỏ đi?
Tào Ưng khoái chí vỗ đùi:
- Tần lão đệ nói hay lắm! Tài mạo như ngươi lo gì không lấy được vài cô vợ đẹp?