watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Tần Nhương Thư-Hồi 16 - tác giả Ưu Đàm Hoa Ưu Đàm Hoa

Ưu Đàm Hoa

Hồi 16

Tác giả: Ưu Đàm Hoa

Hôm sau, Vô Ưu Cái đến gặp Nhương Thư, trao cho chàng một quyển bí kíp chép tay, ân cần dặn dò:
- Ðây là Phật Ðăng Kiếm Phổ! Tuyệt học làm lừng danh Tần Nhương Thư! Nay công tử thay y giáng ma, hãy nghiên cứu để tăng cường bản lãnh!
Quyển thủ lục này do Trác Thiên Lộc chép lại, bị Nhương Thư thu hồi, giao cho Vô Ưu Cái cất giữ. Chàng sợ tuyệt học của ân sư bị thất truyền nên ủy thác Hầu Mộ Thiên tìm người tài đức mà truyền lại, trong trường hợp chàng đoản mệnh.
Nhương Thư mừng rỡ cảm tạ họ Hầu. Chàng hy vọng qua việc học Phật Ðăng Kiếm Pháp mà khẳng định thân phận thực và dần dà khôi phục ký ức.
Chàng luyện Phật Ðăng Kiếm Pháp mười mấy năm ròng, chiêu thức in sâu vào tiềm thức, phép Di Hồn Ðại Pháp chỉ che mờ được ý thức, khiến chàng tạm quên đi. Giờ xem lại khẩu quyết, tay hữu bắt kiếm ấn thực hành, Nhương Thư thi triển một hơi toàn pho, chẳng chút ngượng ngùng.
Nhương Thư thở dài, hoàn toàn xác định mình là ai. Trong những ngày sau đó, chàng ở rịt trong phòng, luyện đi luyện lại những chiêu kiếm, mắt nhắm nghiền để tâm trí thức dậy theo từng đường gươm quen thuộc. Phật Ðăng Kiếm Pháp chính là chiếc chìa khóa thần diệu mở dần cánh cửa dĩ vãng bị tà pháp khép chặt. Gương mặt hòa ái, từ bi của Phật Ðăng Thượng Nhân hiện ra trước tiên vì ông là người dạy kiếm cho Nhương Thư. Sau đó là phong cảnh chùa Phật Quang, núi Ngũ Ðài và thi thể lõa lồ của người mẹ bạc mệnh. Lần lượt, Nhương Thư khôi phục toàn bộ ký ức, kể cả việc bị Ải Thần Quân bắt sống. Chính lão đã dùng tài dao kéo biến chàng thành Tần Nhật Phủ.
Chàng có thể tiết lộ bí mật này cùng bọn Vô Ưu Cái truy tìm Ải Thần Quân, bắt lão trả lại chân diện mục. Nhưng nếu thế thì chàng không thực hiện được lời thề với Thúy Sơn. Ba người vợ họ Ðiền và ba chiếc bào thai chẳng cho phép chàng tự sát.
Kỷ niệm về họ cũng đã sống lại cùng tình yêu, điều này khiến Nhương Thư vô cùng bối rối. Chàng quyết định giữ kín lai lịch, chờ xem an nguy của Thúy Sơn thế nào. Nếu nàng sống sót đúng như lời Ngọa Long Tú Sĩ tiên đoán thì hạnh phúc sẽ vẹn toàn.
Dù không quen gian dối, Nhương Thư vẫn phải nói ngược lòng mình khi bị Vô Ưu Cái hỏi han. Chàng bảo rằng Phật Ðăng Kiếm Pháp uyên thâm vô lượng, chẳng thể luyện thành trong thời gian ngắn được. Chàng biết đây là mưu kế của Ngọa Long Tú Sĩ, kẻ đã khẳng định với Thúy Sơn về thân phận của chàng.
Vẻ thất vọng lóe lên trong đôi mắt già nua của Hầu Mộ Thiên, làm cho Nhương Thư đau lòng vô hạn. Vô Ưu Cái yêu thương chàng như ruột thịt, chắc đã rất thương tâm khi mất mát.
Tiết Trung thu đến mang theo toàn tin xấu. Thứ nhất, các phân đà dọc hạ lưu Hoàng Hà báo về rằng không thể tìm thấy xác Thúy Sơn. Họ đã dọ hỏi dân cư dọc hai bờ, suốt chiều dài ngàn dặm, cũng chẳng có ai vớt được.
Tin thứ hai là việc Sơn Hải Bang do Kỵ Ba Thần Quân đích thân thống lãnh đã vây hãm Cưu Sơn, tình thế bọn Hoàng Nghi Tuyệt vô cùng nguy ngập.
Vô Ưu Cái liền cho mời Nhương Thư lên sảnh. Chàng hơi ngạc nhiên khi thấy cả Mục Tử Lượng cũng được mời dự họp. Gã đã đến ở đây cùng lúc với chàng, song hai người ít khi gặp gỡ.
Hầu Mộ Thiên thông báo kết quả cuộc tìm kiếm Thúy Sơn trước. Nghe xong, Ngọa Long Tú Sĩ hớn hở nói ngay:
- Không thấy xác tức là quẻ bói của lão phu đã linh nghiệm! Có lẽ Thúy Sơn được chiếc thuyền nào đó vớt lên. Họ đi ngược về hướng Tây nên không biết việc chúng ta tìm kiếm!
Nhương Thư buồn rầu lẩm bẩm:
- Một kẻ thọ chưởng thương, rơi xuống từ độ cao tám chín trượng, khó mà sống nổi với dòng nước dữ dội của sông Hoàng!
Lỗ Ðăng Hân bác ngay:
- Cát nhân chẳng thể chết yểu được! Trước đây nàng ta và Nhương Thư rơi xuống vực thẳm sâu vài chục trượng mà vẫn an toàn cơ mà!
Nhương Thư là người trong cuộc nên biết rất rõ, phần nào tin vào những kỳ tích phi thường.
Vô Ưu Cái bàn sang việc võ lâm, kể lại tình hình gay cấn ở Cưu Sơn. Nhương Thư xem Hoàng Nghi Tuyệt là bằng hữu chí thân nên khẳng khái nói:
- Tại hạ xin đi ngay Cưu Sơn để giải vây cho phe ta, đồng thời nhân cơ hội này mà giết Kỵ Ba Thần Quân, không cần chờ đến đại hội minh chủ nữa!
Vô Ưu Cái gật gù:
- Hiện nay, Bất Trí Thư Sinh, Thiết Kình Ngư, Lô Sơn Ngũ Tặc cùng hai trăm cao thủ Thiếu Lâm đã khởi hành đi Cưu Sơn. Tuy nhiên, trong lực lượng của chúng ta không ai đủ sức đương cự lại lão quỷ già Thành Vô Chiến. Vì vậy, Tần thiếu hiệp hãy đến đấy để cầm chân hắn!
Nhương Thư cau mày:
- Vì sao bang chủ lại dùng chữ "cầm chân "?
Hầu Mộ Thiên thở dài:
- Vì bản lãnh của Kỵ Ba Thần Quân Thành Vô Chiến lợi hại hơn Âm Sơn Lão Tổ một bậc. Lão ta lại có bảo giáp da cá hộ thân, kiếm đâm không thủng!
Nhương Thư sực nhớ đến tấm bảo y mà Lã Tập Hiền đã mượn của Kỵ Ba Thần Quân, khi định giao đấu với chàng.
Ngọa Long Tú Sĩ tiếp lời họ Hầu:
- Không phải mình lão ta mà cả mười người đệ tử thân tín cũng mặc bảo y, đao pháp rất cao cường!
Tạ Thần Y bỗng than thở:
- Phải chi có được thanh Mạc Gia Thần Kiếm của Tích Bảo Chân Nhân thì mới mong giết được lũ tà ma đáng ghét kia!
Vô Ưu Cái hậm hực chửi:
- Mả cha cái lão đạo sĩ chuyên đào mồ thiên hạ! Bốn năm trước lão ta vớ được thanh thần kiếm trong một ngôi mộ cổ ở ngoại thành Lạc Dương, có mang đến khoe với lão phu, lão huyênh hoang rằng sẽ tìm bậc nhân hiệp mà tặng kiếm, sau đó ôm bảo vật biến mất tăm. Nếu lão ta thực lòng vì võ lâm thì đã sớm tặng cho Nhương Thư rồi. Còn ai xứng đáng hơn y nữa?
Chợt lão đổi giọng, quay sang ân cần với Mục Tử Lượng:
- Này Mục hiền điệt! Ðến lượt ngươi trưng của quí ra rồi đấy!
Họ Mục hân hoan gật đầu, trịnh trọng nhấc một túi lụa nhỏ trong lòng lên, đặt xuống bàn, miệng ấp úng vì xúc động:
- Bẩm chư vị! Vãn bối nhận được lệnh của Hầu bang chủ lập tức thức trắng chín ngày đêm, chế tạo ra được mười viên Lân Hỏa Thần Ðạn, theo đúng thiết kế của Lỗ tiền bối! Với loại vũ khí này, Tần thiếu hiệp có thể yên tâm đối phó với Kỵ Ba Thần Quân và bọn giáp sĩ!
Nói xong, Mục Tử Lượng đổ ra bàn những viên bi bằng vàng, lớn cỡ hột nhãn, hình cầu nhưng có sáu nốt lồi nhỏ xíu.
Nhương Thư cầm lên xem thử, ngơ ngác hỏi:
- Tác dụng của chúng thế nào?
Ngọa Long Tú Sĩ Lỗ Ðăng Hân tươi cười giải thích:
- Áo giáp da cá của thầy trò Kỵ Ba Thần Quân đều được tẩm dầu, tương tự như Ðằng Giáp của đám rợ phương Nam, từng bị Khổng Minh thiêu chết. Do vậy, lão phu đã nghĩ ra việc chế tạo Lân Hỏa Thần Ðạn, nhưng không có người đủ khéo kéo mà thực hiện. May thay, Mục hiền điệt đây sở đắc tài hoa của Tỏa Hầu, đã thành toàn ý nguyện của lão phu!
Mục Tử Lượng sung sướng lên tiếng giải thích:
- Bẩm chư vị! Tuy bề ngoài đơn giản nhưng việc tạo tác lại cực kỳ khó khăn, phức tạp. Sáu nốt lồi nhỏ xíu như đầu tăm này chính là bộ phận kích hỏa. Khi Lân Hỏa Thần Ðạn chạm mạnh vào người đối phương sẽ phát nổ và bốc cháy. Lửa lân tinh rất dữ dội, không thể dập tắt được và bám rất chắc vào mục tiêu. Giao Bì giáp của Kỵ Ba Thần Quân tẩm dầu thì lão càng mau chết.
Cử tọa hết lời khen ngợi tài nghệ của Mục Tử Lượng khiến gã khoan khoái phi thường. Dương Châu Thần Thâu nói đùa:
- Sao ngươi lại hoang phí đến mức dùng vàng là ám khí? Ngươi muốn Hầu bang chủ sạt nghiệp hay sao?
Mục Tử Lượng gượng cười:
- Bạch huynh quả khéo đùa! Vàng là thứ kim loại thích hợp nhất vì có thể dát mỏng, kéo sợi dễ dàng, lại không rỉ sét! Nếu làm bằng đồng thì lượng thuốc nổ ít ỏi kia không phá vỡ nổi vỏ bọc!
Nhương Thư cắt ngang lời gã:
- Mục công tử có thể chế tạo Bạt Sơn Thần Lựu được không?
Mục Tử Lượng bẽn lẽn lắc đầu:
- Thưa không, đấy là nghề độc môn của dòng họ Tất, tại hạ chẳng dám so bì!
Lỗ Tú Sĩ xen vào:
- Lão phu đã nghiên cứu rất kỹ trái Bạt Sơn Thần Lựu cuối cùng của chúng ta, nhận ra nó được dồn một loại thuốc nổ đặc biệt nên sức công phá mới khủng khiếp như thế! Chỉ riêng phương pháp nén chặt thứ hỏa dược nhạy cảm ấy vào ống đồng cũng đủ làm cho cả thiên hạ phải nhức đầu!
Vô Ưu Cái xoa tay:
- Không khó thì đâu còn là Trượng Vương! Thôi thì có gì xài nấy! À! Tần thiếu hiệp có biết ném ám khí hay không?
Dưới ánh mắt sắc như dao của lão, Nhương Thư cố bình thản đáp:
- Tại hạ quen luyện Lục Mạch Thần Chỉ, có thể dùng chỉ phong bắn thần đạn đi được mà!
Câu trả lời nghe hữu lý, nhưng thực ra là chàng có luyện qua phép ném Thiết Niệm Châu.
Nhương Thư biết rõ bản chất "cẩn tắc vô ưu" của Hầu Mộ Thiên, dù biết chắc chín phần vẫn chờ sự xác nhận của chàng.
Vô Ưu Cái dịu giọng bảo Mục Tử Lượng:
- Hiền điệt hãy về nghỉ ngơi vài ngày rồi tiếp tục chế tạo thêm thần đạn! Vận mệnh của võ lâm tùy thuộc vào ngươi đấy!
Tuy biết bị đuổi khéo nhưng Mục Tử Lượng vẫn cao hứng về câu nói trịnh trọng của lão hồ ly họ Hầu.
Dương Châu Thần Thâu không chờ đuổi, giả đò rủ Mục Tử Lượng đi uống rượu. Trong sảnh giờ đây chỉ có bốn người, cả gã tiểu cái hầu trà cũng bị xua đi mất.
Lúc này, Vô Ưu Cái mới nghiêm nghị nói với Nhương Thư:
- Tần thiếu hiệp! Bọn lão phu đã điều tra cặn kẽ, biết rõ thiếu hiệp là người đã làm cho bụng của ba nàng họ Ðiền phưỡn ra! Lão phu không bắt lỗi, chỉ muốn ngươi thành thực thú nhận và lãnh trách nhiệm!
Nhương Thư chờ đợi câu hỏi này đã lâu, chua chát đáp:
- Nếu tại hạ nhận mình là cha những đứa bé kia thì đồng ý lấy ba vị phu nhân họ Ðiền, liệu họ có chịu không?
Vô Ưu Cái cười nhạt:
- Chắc chắn là không! Vì vậy, ý của lão phu là ngươi sẽ tự sát trước linh vị của Nhương Thư để tạ tội!
Lão định bắt bí để chàng lòi đuôi chuột, chịu nhận lại thân phận, nào ngờ Nhương Thư buột miệng đáp ứng ngay:
- Dám làm dám chịu! Giết xong Kỵ Ba Thần Quân và Âu Dương Lăng là tại hạ dâng đầu cho bang chủ!
Dứt lời, chàng đứng phắt dậy trở về phòng. Ở đây, ba lão nhân nhìn nhau ngơ ngẩn. Hầu Mộ Thiên rầu rĩ than:
- Thế này là thế nào nhỉ? Nếu y là Nhương Thư sao không mở miệng thừa nhận mà lại chịu chết?
Ngọa Long Tú Sĩ dù cơ trí như Khổng Minh, song không biết rõ sự việc trong mộc xá, cũng như lời nguyện đồng hành cùng Thúy Sơn về cõi âm của Nhương Thư, nên đâm ra bối rối. Lão bắt đầu nghi ngờ định kiến vững chắc trước đây của mình.
Tạ Thần Y lên tiếng phá tan bầu không khí nặng nề:
- Lão phu đã theo cách của Lỗ lão đệ, bấm vào huyệt Mi Tâm song họ Tần chẳng hề có biểu hiện đau đớn. Có thể kết luận gã không phải là Nhương Thư bị phép Nhiếp Hồn biến thành Nhật Phủ!
Vô Ưu Cái ôm đầu than:
- Chắc lão phu điên mất!
Sáng hôm sau là ngày mười sáu tháng tám, Nhương Thư lên đường đi Cưu Sơn. Chàng phải có mặt sớm để hỗ trợ Hoàng Nghi Tuyệt. Lực lượng chính phái ở đấy khá mạnh, chỉ thiếu cao thủ để đủ sức đối phó với Kỵ Ba Thần Quân. Với hơn chục viên Lân Hỏa Thần Ðạn vàng óng, xinh đẹp kia, Nhương Thư hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu ấy.
Cưu Sơn chỉ có một đỉnh và căn cứ Cưu Bang lại nằm trên bình đài ở sườn Ðông, vì ba hướng còn lại là rừng cây rậm rạp, đầy ác thú, độc vật, không có lối ra vào.
Cũng chính vì thế mà quân Sơn Hải Bang chỉ vây hãm đoạn chân núi hướng Ðông, chiếm lấy Lạc Pháp Trấn.
Lực lượng của Hoàng Nghi Tuyệt đông độ năm trăm, đã rút cả lên bình đài, tuy an toàn nhưng lâu ngày sẽ chết đói.
Quân tiếp viện còn ở phía sau nhưng Nhương Thư phải có mặt thật sớm vì Kỵ Ba Thần Quân đang cho thủ hạ đóng một chiếc thang khổng lồ, cao mười trượng, rộng hai trượng.
Mặt trước của thang dựng đứng, lợp kín bằng ván dầy, mặt sau dốc và gồm những bậc ngang. Khi đóng xong, Sơn Hải Bang sẽ dùng con lăn đẩy chiếc thang áp sát bình đài rồi tiến lên. Lúc ấy, bọn Hoàng Nghi Tuyệt sẽ phải bó tay.
Sơn Hải Bang đã quét sách đệ tử Cái Bang trong bán kính mười dặm quanh Cưu Sơn. May mà trạm truyền tin lại sớm nằm trên núi, nên Vô Ưu Cái và hội đồng võ lâm mới nắm rõ cục diện.
Nhiệm vụ của Nhương Thư là có mặt trên bình đài, chặn đánh Kỵ Ba Thần Quân lúc lão nhảy từ đầu thang sang. Thủ hạ của lão đã có bọn Hoàng Nghi Tuyệt phụ trách.
Nhưng chàng sẽ lên bằng cách nào khi chung quanh núi là vách đá dựng ngược? Kỵ Ba Thần Quân đã đích thân khảo sát toàn khu vực mà không tìm ra lối lên, đành phải đóng thang. Hơn nữa, hàng ngàn tổ ong độc không cho phép lão đưa quân vào rừng. Một người thì không sao nhưng nhiều người sẽ đánh động bầy ong dữ.
Ngày xưa, trong những cuộc chiến tranh, người Trung Hoa dựa vào thành lũy mà phòng thủ, vì thế, một vài công cụ phá thành đã ra đời. Trong số đó có loại thang dài thượt gọi là vân thê (thang mây) được làm bằng tre và khá đơn giản. Khi sử dụng vân thê, người ta phải phối hợp với cung tiễn để hỗ trợ, song không mấy có kết quả. Ða số quân cảm tử trèo lên thang đều bỏ mình vì bị xô ngã, hoặc bị dầu hôi trút xuống đầu.
Loại thang nặng nề, kiên cố của Kỵ Ba Thần Quân sáng tạo ra không dùng được trong chiến tranh vì quanh thành đều có đào hào sâu, khó mà đưa qua. Song Cưu Sơn không phải thành quách và đệ tử Cưu Bang cũng chẳng có cung tiễn nên vân thê của Thành Vô Chiến mới có đất dụng võ.
Như đã nói ở trên, việc thông tin liên lạc giữa Cưu Sơn và Lạc Dương vẫn được duy trì, nên Nhương Thư có cách để lên núi.
Bọn Sơn Hải Bang không mù nên đã thấy chim câu mang thư cầu viện bay đi. Vì vậy, họ đặt mai phục ở mọi ngã đường để chặn đánh, chủ yếu phòng ngự hướng Nam, nơi ấy có đường thông với quan đạo. Quân chính phái đến tiếp ứng Cưu Sơn bắt buộc phải đi lối này.
Có một điều mà một kẻ đầy thao lược như Thành Vô Chiến không nghĩ đến, là việc đối phương chỉ có một mình và đi từ Khai Phong đến chân phía Bắc núi Cưu. Ở hướng này, họ Thành chỉ rải vài tên trinh sát cho có lệ. Lão mang theo sáu trăm quân nhưng cũng chẳng đủ để rải hết một chu vi hàng chục dặm.
Kế trưa ngày mười tám, Nhương Thư có mặt trong một thôn nhỏ, cách xa Cưu Sơn khá xa. Chàng vào quán trọ nghèo nàn ở đầu thôn ăn thật no, gởi ngựa lại rồi xuất phát.
Cuối giờ Mùi, chàng đến khu rừng già chân núi, dễ dàng qua mặt một gã hải tặc đang ngủ gục dưới gốc cây, tiến vào rừng.
Mưa thu làm thảm rừng ẩm ướt, xông lên mùi lá mục, côn trùng sinh sôi nảy nở rất nhiều, chúng rỉ rả chào đón Nhương Thư, song thỉnh thoảng lại có những tiếng sột soạt đầy đe dọa.
Tiếng hổ gầm từ xa vọng lại không làm Nhương Thư nao núng. Cả những tổ ong nằm rải rác khắp nơi cũng chỉ khiến chàng mỉm cười. Hoàng Nghi Tuyệt từng kể rằng loài Hoàng Phong trong rừng Cưu Sơn rất độc và dữ tợn, ai bị chúng đốt là toi mạng ngay. Nhờ bầy ong và đàn hổ mà khu rừng nguyên thủy rộng mênh mông này vẫn chưa bị loài người tàn phá. Bọn tiều phu chỉ đốn củi ở bìa rừng chứ không dám vào sâu.
Chợt phát hiện một con mãng xà dài ngoằng, to lớn, ngoắt ngoẻo trên cành cây trước mặt, Nhương Thư đi chếch sang hướng khác để tránh. Không có gì nguy hiểm sao mặt chàng lại nặng nề và ánh mắt u buồn thế kia? Ðấy là bởi con vật đã gợi nhớ đến Thủy Xà Vương và người yêu bạc mệnh là Bạch Ngọc Tiên Tử Lâm Ðại Ngọc.
Chàng đã giết được Thiểm Bắc Thần Long và Âm Sơn Lão Tổ để trả thù, song đâu phải nhờ thế mà Lâm nương sống lại.
Nhương Thư cố nén đau thương, vung kiếm chặt cành mở lối, bước nhanh hơn. Càng đến gần chân núi thì thảm rừng càng nhiều đá tảng, song chỉ làm đường dễ đi đối với kẻ có khinh công cao siêu. Nhương Thư nhảy từ tảng đá này sang tảng đá khác, trông đẹp như cánh chim, khiến lũ tu hú đang quang quác trên cành cao phải ghen tỵ.
Ðường rừng hiểm trở, Nhương Thư liên tục chuyển hướng để tránh những trở ngại quá lớn, nên thỉnh thoảng chàng phải nhảy lên ngọn cây, quan sát đỉnh Cưu Sơn để định hướng cho đúng.
Không muốn đánh động lũ ong rừng hung dữ, chàng chỉ dùng kiếm chặt những cành gai khi cần thiết.
Trong rừng thường có suối, do nước tích tụ trên núi chảy xuống, và Nhương Thư đã gặp một trong những khe suối ấy.
Nhương Thư mừng rỡ cởi hết y phục, nhảy xuống giòng nước mát, trong veo, có màu xanh của lá rừng. Chàng gột rửa bụi bặm và xăm soi những chỗ kín trên cơ thể để tìm bắt loài ve nhỏ bé mà lì lợm. Chàng không sợ độc, song chúng lại không sợ chàng.
Ve rừng chẳng hề đáng yêu như loài ve sầu vẫn thường ngợi ca mùa hạ. Chúng chỉ nhỏ hơn hạt mè, thuộc hạng khát máu nhất trần gian. Chúng thích những vùng phủ lông như đầu, nách, hạ thể...và khi cắn ai thì chui luôn vào sâu da thịt, khiến nạn nhân phát sốt, đau đớn vô cùng. Ðáng sợ nhất khi chúng chui vào lỗ tai, hổ thì rống chạy cong đuôi, người thì kêu cha gọi mẹ, đau thấu trời.
Nhương Thư chợt nghe tiếng sột soạt, đảo mắt nhìn quanh mà chẳng thấy gì, khi đã chắc rằng chẳng còn kẻ thù nhỏ bé nào trên người, Nhương Thư khoan khoái lên bờ, mở tay nải nhỏ lấy bộ võ phục sạch thay. Bộ lúc nãy cũng đã dơ bẩn và bị gai góc móc toạc, chẳng tiếc làm gì. Và chàng cũng không đủ can đảm ngồi bắt lũ ve trong bộ quần áo ấy.
Hơn nữa, sau mấy tháng đóng vai chàng công tử phong lưu Tần Nhật Phủ, Nhương Thư đã nhiễm thói quen sạch sẽ và chỉnh tề. Chàng không muốn xuất hiện trước mặt Hoàng Nghi Tuyệt và Từ Thanh Huệ với một bộ dạng rách rưới khó coi.
Giờ đây, Nhương Thư chỉ cần đi dọc bờ suối là sẽ đến được chân núi. Tất nhiên là phải ngược dòng.
Nhưng vừa đi được một đoạn, chàng chợt nghe phía sau vọng lại những âm thanh kỳ lạ. Tiếng kêu ấy đầy vẻ giận dữ, pha lẫn sự sợ hãi và dường như là cầu cứu vậy. Chúng trong trẻo và đúng là tiếng nữ nhân.
Không kịp tự hỏi vì sao chốn hiểm địa hoang vu này lại có đàn bà, Nhương Thư quay ngoắt lại, lao vút đi như tên bắn. Khi đến đoạn suối lúc nãy, chàng phát hiện trên bờ Tây có một con mãng xà, thân to bằng bắp đùi người lớn, đang quấn chặt một nhân vật tóc dài. Người này đang dùng hai tay xiết cổ con mãng xà, cố ngăn không cho cái miệng rộng hoác, đầy răng ngược kia nuốt gọn đầu mình.
Loài trăn lợi hại nhất là ở những vòng xiết chết người, lực đạo mạnh đến mức xương nai già cũng phải gãy răng rắc.
Ðã từng bị rơi vào hoàn cảnh ấy, Nhương Thư chẳng dám chần chừ, lướt đến vung kiếm chém bay đầu con trăn. Thân nó lỏng ra và nạn nhân kia thoát chết, nhún chân rời xa con mãng xà đang quằn quại,đứng nhìn Nhương Thư với ánh mắt biết ơn, miệng cười toe toét, nhe hàm răng nhọn hoắt, trắng nhỡn, gương mặt y chỉ lem luốc chứ không xấu xí, song toát ra vẻ man rợ, hoang sơ. Tuổi tác y chỉ độ mười sáu, mười bảy.
Nhương Thư đỏ mặt tía tai, chẳng dám nhìn vì y hoàn toàn lõa thể, và lại là giống cái. Nàng ta chẳng phải loài khỉ vượn vì trên làn da đen đúa kia không phủ lông mao, trừ những chỗ mà đàn bà ai cũng có. Nhưng cơ thể ấy đầy những bắp thịt thon dài, rắn rỏi, nhất là ở tứ chi. Ðấy có lẽ là kết quả của cuộc sống leo trèo hái trái, hay săn đuổi thú rừng.
Nhương Thư bối rối, quay gót bỏ đi. Nhưng cô gái rừng rú kia chỉ nhún chân một cái đã bay vèo qua mặt chàng chặn lại, hai tay giang rộng, mắt đầy vẻ van xin, lưu luyến.
Nhương Thư chột dạ nghĩ thầm:
- Chết ta rồi! Hay là con bé này định giữ ta lại làm chồng?
Chàng ngượng ngùng hỏi thử, dù chẳng biết đối phương có biết nói hay không.
- Dám hỏi cô nương là ai, vì sao lại một mình lạc lõng chốn này?
Cô gái lại cười và lắc đầu, tỏ vẻ không hiểu, và bập bẹ:
- Mày...nói gì?
Thì ra nàng ta chỉ biết tiếng Hồ Nam, trong khi Nhương Thư hỏi bằng tiếng Bắc Kinh.
Ðại loại, nước Trung Hoa tuy rộng lớn, mỗi vùng một thứ tiếng, song vẫn chỉ gồm khoảng tám phương ngữ ở tám khu vực.
Phương ngữ miền Bắc lấy tiếng Bắc Kinh là căn bản, phân bố theo khu vực cư trú của những thị tộc Bắc Hán. Từ sông Hoàng Hà qua Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quí Châu. Người sử dụng phương ngữ này đông đảo nhất, chiếm độ bảy phần mười dân số.
Phương ngữ của vùng giáp ranh Giang Tô, Triết Giang, lấy tiếng Thượng Hải làm đại biểu, đại bộ phận tập trung ở Triết Giang.
Phương ngữ của vùng Hồ Nam, dùng ngôn ngữ Trường Sa làm cơ sở.
Phương ngữ của Khách Gia là ngôn ngữ của người Hán di cư từ lưu vực sông Hoàng Hà xuống phía Nam, tập trung ở các tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Giang Tô. Ở Hồ Nam, Tứ Xuyên cũng có một số ít người nói tiếng Khách Gia.
Phương ngữ Phúc Kiến. Phân bố chủ yếu ở Phúc Kiến và một bộ phận ở Ðài Loan.
Phương ngữ vùng Giang Tây, Hồ Bắc, lấy tiếng Nam Xương là chủ.
Phương ngữ vùng phía nam Phúc Kiến, có ở cả Ðông Bộ tỉnh Quảng Châu, một phần đảo Hải Nam, Ðài Loan dùng nhiều nhất (Ðài ngữ).
Phương ngữ Quảng Châu, lấy tiếng Quảng Ðông làm chủ, tập trung ở Lưỡng Quảng.
May thay thân mẫu của Nhương Thư là người Hồ Nam, dĩ nhiên bà đã dạy cho con trai ngôn ngữ của quê hương. Chàng yêu mẹ nên yêu cả những gì gợi nhớ đến bà, bất giác có hảo cảm với cô gái man rợ này. Nhương Thư vui vẻ dùng tiếng Hồ Nam lập lại câu hỏi. Nàng ta cười tít mắt đáp một cách chậm chạp và ngọng nghịu, vì có lẽ đã nhiều năm không dùng đến.
- Ối chà! Té ra....mày cũng....biết nói tiếng....của cha tao ư? Nhưng...."cô nương" là cái gì vậy?
Trong tiếng Hán, hai từ Nhĩ, Ngã được dùng để xưng hô cho mọi vai vế, muốn dịch sao cũng được. Ðiều này đã bị các bậc túc nho đất Giao Chỉ chê bai rằng Hán ngữ thiếu sự phong phú và phân minh. Cha con, ông cháu mà cứ "Ni - Ngộ, Lư - Wa, Ní - Mờ " thì còn thể thống, lễ giáo gì nữa.
Do vậy, trong trường hợp này, tác giả dịch hai từ "Nhi - Ngã" của cô gái ở lõa thể kém văn minh kia bằng "mày - tao" chắc là thích hợp hơn. Nhưng nếu thế thì hơi chói tai, đổi là "ta - ngươi" dễ nghe hơn.
Nhương Thư phì cười giải thích:
- Cô nương tức là "mày" đấy!
Trong lễ nghĩa Trung Hoa, khi nói chuyện, Nhương Thư luôn phải nhìn vào mặt đối phương. Song thị hướng của mắt người khá rộng nên nhãn tuyến chàng bao quát luôn cả bộ ngực thanh tân, mun múp cao của cô gái. Chàng thầm hổ thẹn và nhớ Thúy Sơn vô hạn.
Nữ sơn nhân kia vui vẻ nói:
- Lúc nãy, ta đang tắm thì nghe tiếng chân của ngươi, vội ẩn vào bụi rậm trên bờ. Ta mãi mê xem ngươi tắm nên không để ý đến con trăn! Ngươi đi khỏi thì nó quấn lấy ta!
Nhương Thư xấu hổ đến mức chỉ muốn độn thổ, cúi gầm mặt xuống thì ánh mắt lại vướng phải cái gò nhỏ xum xuê lau lách, càng thêm lúng túng. Chàng cuống lên:
- Thôi ta đi đây!
Và chàng quay gót bước nhanh. Song cô gái rừng rú kia đã hoảng hốt, lướt theo với một tốc độ kinh người, từ phía sau ôm chặt lấy Nhương Thư, miệng van xin:
- Ðừng đi! Cha ta chết đã năm mùa tuyết rơi, và kể từ ấy ta chưa gặp được người nào cả!
Giọng nói khẩn thiết thê lương kia khiến Nhương Thư rùng mình, tưởng tượng ra cảnh tịch mịch đáng sợ của một con người, giữa rừng già chỉ toàn dã thú và cây cối lặng câm. Chàng là kẻ từ bi, nhân hậu, lẽ nào lại để cho một đồng loại phải sống trong cảnh sơ khai, mất dần tính người này.
Nhương Thư bâng khuâng tưởng nhớ ân sư, lòng thanh thản với quyết định của mình, dịu giọng bảo:
- Nàng hãy buông ta ra, đưa ta về nhà xem sao!
Cô gái không hiểu ý, vẫn xiết chặt vòng tay mạnh mẽ, lực đạo lên đến mấy trăm cân. Xem ra nàng ta có sức khoẻ thật khác thường.
Cô gái rừng rú ngơ ngẩn hỏi:
- Nhà là gì?
Nhương Thư rầu rĩ đáp:
- Nhà là nơi mà ngươi và thân phụ thường ở đấy!
Cô gái gật gù:
- Té ra cái hang đá còn được gọi là nhà!
Nàng ta buông Nhương Thư ra, nắm tay chàng lôi đi:
- Hãy theo ta!
Ðến lượt thân sau mượt mà với chiếc eo thon lẳn, bờ mông chắc nịch, tròn trịa làm xốn xang đôi mắt Nhương Thư. Chàng chịu hết nổi, giữ cô gái lại, mở bọc hành lý lấy ra bộ y phục cuối cùng, dịu dàng bảo:
- Nàng hãy xuống suối tắm và rửa sạch đất cát rồi mặc quần áo vào!
Cô gái hân hoan nhận lấy, cười khanh khách:
- Cha ta cũng có một bộ màu xanh thẫm giống như vậy! Song ông ta đã mặc khi chết, ta chẳng dám lột ra!
Nàng hớn hở đặt lên tảng đá cạnh bờ rồi xuống suối tắm táp, kỳ cọ. Dĩ nhiên Nhương Thư quay đi, chẳng dám nhìn.
Lát sau, cô gái rừng lúp xúp trong bộ quần áo rộng thùng thình, hiện ra trước mặt chàng. Hai vạt áo vẫn mở toang, còn lưng quần thì được kéo lên đến tận dưới vú, vì cô gái thấp hơn Nhương Thư một cái đầu. Chàng cắn răng khép nhanh hai vạt áo, giật lấy dải thắt lưng, quấn chặt cho nàng ta.
Nhương Thư thoáng giật mình khi thấy dung mạo nàng có nét giống Bạch Ngọc Tiên Tử Lâm Ðại Ngọc, tuy không đẹp bằng. Chàng nghe lòng quặn đau, thở dài nói:
- Ta tên Tần Nhật Phủ, còn nàng tên gì?
Cô nàng nhăn mặt, gãi đầu suy nghĩ trông rất khổ sở:
- Lúc còn sống, phụ thân gọi ta là Anh nhi, còn họ thì ta quên béng mất rồi. Chẳng nhớ Triệu, Ngụy, Tề, Lỗ, Tống gì cả!
Nói xong, Anh nhi mau mắn dẫn Nhương Thư đi về hướng Ðông. Ðộ vài chục dặm thì đến một khách xá cao chừng mười trượng, dường như là sườn Tây của một nếp đất đột ngột nhô cao do địa chấn. Tuy nói là đi nhưng thực ra làm gì có đường xá. Anh nhi di chuyển bằng cách đu dây lêo hay quăng mình từ cành này sang cành khác. Ðộng tác nhanh nhẹn, nhẹ nhàng chẳng thua loài khỉ vượn. Nhương Thư không chịu kém, bắt chước làm theo lòng rất thích thú.
Nhà của Anh nhi là một động khẩu lớn, cao đến hai trượng và rộng cũng chừng ấy. Khu vực trước cửa động là một bãi cỏ phẳng phiu, thưa thớt cây cối nên ánh dương quang lọt được vào trong, khiến khung cảnh thạch động sáng sủa, chẳng đến nỗi âm u.
Nhờ vậy, Nhương Thư sớm nhận ra hai con hổ vằn to lớn đang nằm chễm chệ trên sân động, nhìn mình với ánh mắt nghi hoặc và đầy đe dọa.
Anh nhi thấy chàng giật mình, bèn cười khanh khách:
- Ðừng sợ! Tiểu Thư và Tiểu Hùng là vật nuôi của ta đấy!
Rồi nàng vui vẻ bảo hai con hổ một lớn một nhỏ:
- Hắn chính là khách của ta! Hai ngươi đi ra ngoài để ta tiếp khách!
Hai con ác thú ngoan ngoãn đứng lên, lừng lững đi ra. Lúc ngang qua Nhương Thư, chúng khẽ gầm gừ để thị uy.
Anh nhi đắc ý giới thiệu:
- Con lớn là Tiểu Hùng, cũng giống đực như ngươi vậy! Còn Tiểu Thư là giống cái nên nhỏ hơn! Ba năm trước ta giết cha mẹ chúng rồi bắt chúng về nuôi cho vui!
Nhương Thư nghe nhắc đến đực - cái, chột dạ nhớ lúc mình tắm suối, bị con bé thổ tả này rình. Chàng ậm ừ cho qua chuyện rồi bước vào sâu quan sát.
Trong động không hề có vật dụng gì ngoài hai chiếc phản gỗ thô sơ, xấu xí, một phủ đầy bụi, có lẽ là của người đã chết. May mà Anh nhi không ăn thịt sống vì giữa động có một bếp than, cạnh cắm hai chạng ba nhỏ dùng để gác thanh sắt nướng thịt.
Nhương Thư bước đến vách tường Bắc vì nơi đây có đặt một cỗ quan tài bằng thân cây nguyên vỏ. Nó được xẻ đôi khoét rỗng ruột, đặt tử thi vào rồi trám lại bằng nhựa cây. Với loại gỗ long não này thì chẳng loại mối mọt nào hủy hoại được.
Trên vách đá hai bên linh cữu có khắc đôi liễn, nét bút cứng cáp, hùng mạnh:
Huy ngô bửu kiếm tỳ hưu viễn tích nam san!
Tạm dịch:
Ta dương buồm gấm, cá dữ dạt ra biển Bắc.
Ta múa gươm thiêng, ác thú chạy tít núi Nam!"
Hai câu đối ngang tàng, cao ngạo này rất quen thuộc với Nhương Thư. Chàng đã thầm đoán ra lai lịch thân phụ của Anh nhi. Ông chính là Cẩm Phàm Kiếm Khách Ðoan Mộc Toàn, bá chủ Ðộng Ðình Hồ và một đoạn sáu trăm dặm sông Trường Giang.
Mẫu thân Nhương Thư là người thành Trường Sa, phủ Hồ Nam, nên biết rõ nhân vật này, từng kể cho chàng nghe. Ðoan Mộc Toàn thành danh từ năm hai mươi bốn tuổi, do xuất thân từ nhà đại phú nên cho đóng một chiếc thuyền lớn, trang trí hoa lệ, buồm bằng gấm dầy màu xanh, lúc thì lưỡng lờ trên Ðộng Ðình Hồ, lúc xuôi ngược Trường Giang, oai phong lẫm lẫm. Về võ công, Ðoan Mộc Toàn đứng đầu võ lâm phương Nam nhờ pho Thiên Cương Kiếm Pháp và cả thanh Thiên Cương Thần Kiếm cứng rắn tuyệt luân.
Ông ta lại anh tuấn hơn người, đúng câu tài mạo song toàn, vì thế mà cao ngạo, khó khăn cả trong việc chọn người phối ngẫu, gần bốn mươi vẫn phòng không chiếc bóng.
Ðột nhiên, đến năm Kỷ Tỵ, nhằm năm chính thống thứ mười bốn, lúc Nhương Thư tròn một tuổi, Cẩm Phàm Kiếm Khách mắc phải quái bệnh, mặt mũi, thân thể lở lói, u nần như người bị phong cùi. Và sau đó không lâu, Ðoan Mộc Toàn biến mất, chẳng rõ đi đâu.
Nhương Thư đang trầm ngâm suy nghĩ thì Anh nhi đã mang ra một túi nhỏ bằng da nai, trao cho chàng và nói:
- Trước khi chết! Cha ta có dặn rằng khi nào có người nào đến đây thì cho họ xem cái túi này!
Nhương Thư mở nút thắt dây buộc bụng miệng túi, đổ những vật bên trong ra phản, gồm một kim bài có dây đeo, một quyển sách và một mảnh lụa tròn.
Chàng xem xét tấm kim bài vàng óng kia trước, thấy một mặt khắc nổi hai câu liễn giống trên vách, mặt kia là một chiếc thuyền buồm.
Nhương Thư trao thẻ bài ấy cho Anh nhi rồi trải cuộn lụa ra. Nó chính là di thư của Cẩm Phàm Kiếm Khách, có lẽ được viết bằng câu nhọn chấm máu tươi, vì nơi đây làm gì có bút mực. Ngay mảnh lụa cũng chỉ là một vạt áo cắt ra.
Nội dung của di thư thế này:
"Duyên nhân nhã giám! Lão phu vốn thực là Cẩm Phàm Kiếm Khách Ðoan Mộc Toàn đất Hồ Nam. Năm tứ thập, lão phu mắc quái chứng, dung mạo bị phá hủy, bèn bỏ Ðộng Ðình Hồ đi tìm danh y. Triệu Châu Thần Y đã tận tình điều trị cho lão phu hết nửa năm mà không có kết quả. Mùa xuân năm chính thống thứ mười lăm, Bố Y Thần Yoán Tô Hữu Tề đến Triều Châu thăm Tạ Thần Y, biết chuyện của lão phu liền bói dùm một quẻ. Ông ta khuyên lão phu nên đi lên hướng Bắc, khi nào nghe chim tu hú kêu bảy tiếng thì dừng chân ắt gặp thuốc thang!
Lão phu liền nghe lời họ Tôn nên có mặt ở Cưu Sơn này. Mật của loài Ðộc Hoàng Phong đã chữa lành quái bệnh, song không thể trả lại dung mạo anh tuấn cho lão phu.
Trước khi lâm bệnh, lão phu đã có lời minh sơn thệ hải với Nghi Xương Thần Nữ Khúc Phi Anh. Do vậy, lão phu không dám vác gương mặt lồi lõm, đầy sẹo về Hồ Nam gặp nàng, đành chôn vùi đời mình chốn rừng sâu.
Tám năm sau, trong lúc đi săn thịt, lão phu chợt phát hiện có một đứa bé gái độ bốn tuổi đang sống chung với bầy vượn. Lão phu liền bắt về nuôi, đặt tên là Ðoan Mộc Anh, để tưởng nhớ đến người yêu cũ.
Anh nhi hiếu thảo và ngoan ngoãn đã khiến cuộc đời lão phu có được những ngày hạnh phúc. Năm Anh nhi mười hai tuổi lão phu đã quyết định đưa nó về với nhân quần xã hội, nào ngờ, chưa kịp thực hiện thì lão phu bị một con rắn cực độc cắn vào đùi.
Biết mình không thể sống sót, lão phu xé áo, cắt tay viết bức di thư này để lại. Ai là người hữu duyên vào được chốn tuyệt địa, đọc thư này, xin hãy khai ân đưa đứa con gái nuôi của lão phu về Ðoan Mộc Gia Trang ở Trường Sa. Túc hạ cứ đưa tấm kim bài và di thư này ra, sẽ được hậu tạ ngàn lượng hoàng kim.
Ðoan Mộc Toàn tái bút!"
Ðọc xong, Nhương Thư giảng giải sơ lược cho Anh nhi nghe rồi dặn dò:
- Nay ta còn phải lên núi Cưu Sơn một chuyến, Anh nhi hãy ở đây chờ đợi vài ngày nữa ta sẽ quay lại rước nàng!
Ðoan Mộc Anh tròn mắt thắc mắc:
- Vách núi dựng đứng cao ngất, làm sao ngươi lên được!
Nhương Thư mỉm cười:
- Sẽ có người thả dây kéo ta lên!
Ðoan Mộc Anh lộ vẻ đắc ý:
- Ta chẳng cần dây cũng lên được. Ngươi thật là dở tệ!
Nhương Thư biết nàng không nói dối vì đã mấy năm sống với bầy vượn, khả năng leo trèo phải khác thường.
Hoàng hôn đã tắt lịm, lát nữa đây không gian sẽ tối đen, Nhương Thư đòi đi ngay. Anh nhi hăng hái:
- Ta sẽ dẫn ngươi đi cho nhanh. Song chỗ hẹn có đặc điểm gì để nhận ra?
Nhương Thư đáp:
- Ban ngày họ cắm lá cờ trắng, ban đêm thì đốt lửa trên đỉnh vách!
Anh nhi cười hì hì:
- Thế thì không lo! Chúng ta ăn cho no cái đã!
Trong thư, đệ tử Cái Bang ở Cưu Sơn đã nói rằng Kỵ Ba Thần Quân không thể đóng xong thang trong vòng năm sáu ngày tới. Do vậy, Nhương Thư chẳng gấp lắm, ở lại ăn bữa chiều với Anh nhi. Thực ra bụng chàng cũng đói meo.
Ðoan Mộc Anh thổi bùng bếp than, bẻ thêm củi khô vào để nướng chiếc đùi nai. Gia vị chỉ có loại muối là tro của thảo mộc, chẳng mặn mà cho lắm.
Trong lúc ăn, Nhương Thư vui vẻ nói:
- Anh nhi! Ta sẽ nhận nàng làm em! Từ nay ngươi gọi ta là Tần đại ca và xưng là tiểu muội!
Ðoan Mộc Anh mừng rỡ lập đi lập lại hai từ ấy, miệng cười khúc khích, để lộ hàm răng trắng nhọn của kẻ quen ăn thịt. Trước khi về với Cẩm Phàm Kiếm Khách, nàng không biết dùng lửa và ăn thịt sống.
Xong bữa, Anh nhi hớn hở đưa đường cho Nhương Thư, chỉ nửa canh giờ sau đã đến bìa rừng, nơi tiếp giáp với sườn phía Bắc núi Cưu Sơn.
Chân vách toàn đá sỏi nên cây cối rất thưa thớt, tạo một khoảng trống lớn, dọc theo chân núi. Nhờ vậy, Nhương Thư đã nhìn thấy đốm lửa lập lòe trên đỉnh vách, cách chỗ chàng đứng không xa.
Nhương Thư dịu dàng bảo:
- Anh nhi hãy về động đi, tối đa là mười ngày ta quay lại đón hiền muội!
Ðoan Mộc Anh gật đầu không nói song ánh mắt hoang dại kia sáng rực niềm tin và nỗi lưu luyến.
Thực ra thì lúc ấy trời đã tối, sương mù từ cánh rừng bốc lên che phủ không gian, song cả Nhương Thư lẫn Ðoan Mộc Anh đều có nhãn lực phi thường nên mới thấy rõ nhau, cũng như cảnh vật.
Nhương Thư rảo bước, lát sau đã đến nơi, phát hiện dưới chân ngọn lửa trên đỉnh núi là một tảng đá khổng lồ, cao nửa trượng, mặt lớn độ chục mảnh chiếu.
Nhương Thư đã mấy lần rơi xuống vực, đối với độ cao cũng âm thầm ngán ngại, chẳng khác chim rừng trúng tên, thấy cành cong là sợ. Chàng thủ nhầm:
- Hoàng Nghi Tuyệt quả khéo chọn địa điểm! Lỡ đứt dây, ta rơi xuống tảng đá này thì khó sống!
Bỗng chàng nghe tiếng động sau lưng, quay lại thì thấy Ðoan Mộc Anh, liền cau mày hỏi:
- Sao Anh muội không chịu về động?
Anh nhi lúng túng đáp:
- Tiểu muội từng té gãy xương vì dây leo đứt, lo cho đại ca.... nên đến đây xem sao?
Nhương Thư phì cười:
- Làm sao hiền muội hứng ta cho được, lúc ấy cả hai cùng chết chứ nào có ích gì? Những người trên kia là bạn của ta, chắc y đã kiểm tra dây kỹ lưỡng, làm sao đứt được!
Ðoan Mộc Anh gật gù:
- Thế thì tốt! Nhưng tiểu muội sẽ ở đây, chờ đại ca lên an toàn rồi mới đi!
Nhương Thư cảm động trước sự quan hoài của cô gái rừng hoang dã, vỗ vai nàng rồi nhảy lên tảng đá. Sợi dây chão lớn bằng cổ tay đã thả sẵn, song Nhương Thư phải báo hiệu rồi mới dám lên. Chàng ngửa cổ vận công nói:
- Tại hạ là Tần Nhật Phủ đây!
Người phía trên đáp ngay:
- Hay quá! Không ngờ Tần đại hiệp lại đến sớm như thế! Mời đại hiệp thượng sơn!
Nhương Thư yên lòng nắm dây chão lần lên, hai chân điểm vào vách, phần dây chão phía dưới được quấn hờ hơn nửa vòng quanh thân để có thể neo mình nghỉ ngơi khi cần. Lực đạo hai cánh tay chàng rất khẻo nên tốc độ tiến khá nhanh, nửa khắc đã đạt độ cao mười trượng, cách đỉnh vách chỉ ba trượng.
Bỗng từ trên đầu chàng có ba người ló ra, tay phải cầm đao, tay trái cầm đuốc soi sáng. Một gã cười khanh khách:
- Tần Nhật Phủ! Ngươi trúng kế của Thần Quân rồi!
Nhương Thư chưa kịp cảm nhận được hết sự kinh hoàng thì đối phương vung đao chặt dây chão. Nhớ đến tảng đá dưới chân, Nhương Thư chua xót tự nhủ rằng mình chắc chắn phải chết. Ngay cả khi không rơi trúng tảng đá, chàng cũng khó toàn mạng vì nền đất chân núi cứng rắn.
Nhát đao oan nghiệt kia nhanh đến mức không cho phép chàng phản ứng.
Dây đứt lìa trong tiếng rú phẫn nộ của Nhương Thư. Nỗi sợ hãi khiến chàng co rúm người lại, tay nắm chặt sợi dây, chân kẹp cứng lấy đoạn chão nãy giờ quấn quanh hông.
Trong khoảnh khắc sinh tử ấy, Nhương Thư chợt thấy sợi dây chão phía dưới căng ra và một lực đạo mãnh mẽ giật phăng thân hình chàng chấn sang mé hữu, rơi xuống tàn lá xum xuê của một cây cổ thụ ở cách tảng đá ba trượng. Chiều cao của cây này đã năm trượng nên khoảng cách rơi giảm bớt đi.
Theo bản năng sinh tồn, Nhương Thư đã dồn toàn bộ công lực bảo vệ thân thể. Sức nặng cộng với đà rơi của chàng đã làm cành cây gãy răng rắc một loạt từ trên ngọn xuống. Dĩ nhiên, da thịt của Nhương Thư chẳng thể lành lặn, rách toạc nhiều đường và mê man bất tỉnh vì đầu bị đập mạnh, nhưng chàng vẫn còn sống.
Trưa hôm sau, Nhương Thư hồi tỉnh, ngỡ ngàng nhận ra mình đang nằm sấp, thân thể lõa lồ, lưng đùi sau vương vướng cái gì đó.
Chàng vừa định ngồi lên thì có tiếng người nhắc nhở:
- Ðại ca cứ nằm im, chờ tiểu muội thay thuốc lá, băng bó xong mới được cử động!
Ðấy là tiếng của Ðoan Mộc Anh. Chàng xấu hổ quá liền nằm im thin thít. Dẫu sao nằm sấp vẫn kín đáo hơn ngồi dậy.
Hồi tưởng lại cảnh tử vong, chàng nhận ra chính Anh nhi đã cứu mạng mình. Nhương Thư liền hỏi:
- Anh muội! Ngươi làm thế nào để cứu được ta vậy?
Ðoan Mộc Anh vừa giã lá cây trong chiếc cối gỗ, vui vẻ giải đáp:
- Ðại ca biết không, tiểu muội chờ đại ca lên được nửa đường, liền nắm đầu dây trèo lên cây cổ thụ, cột chặt vào ngọn rồi giữ lấy và thu dần về!
Nhương Thư hiểu ra, lầm bầm:
- Thảo nào ta có cảm giác phần dây phía dưới hơi căng và cứ tưởng do gió đưa!
Anh nhi nói tiếp:
- Nhờ ánh sáng cây đuốc của bọn ác độc kia mà tiểu muội nhìn thấy nhát dao chặt dây, và kịp thời kéo đại ca về phía mình!
Nhương Thư cảm động nói:
- Hiền muội thực là thông minh và tốt bụng!
Bảy ngày sau, nhờ những thứ thuốc vô danh mà thần diệu trong rừng Cưu Sơn, ngoại thương của Nhương Thư đã hoàn toàn bình phục, song lòng lại nặng trĩu lo âu.
Thứ nhất, chàng lo cho an nguy của Cưu Bang. Vụ ám sát chàng chứng tỏ rằng Kỵ Ba Thần Quân đã chiếm được Cưu Sơn, trước khi chàng đến, thư cầu viện chỉ là quỷ kế.
Thứ hai, giờ đây chàng lại có thêm trách nhiệm với cô gái bạc mệnh Ðoan Mộc Anh. Trong những ngày qua, Anh nhi đã chăm sóc chàng chẳng chút thẹn thùng, và dù không nói ra nhưng ánh mắt kia ngập tràn niềm yêu thương vô hạn. Nàng đã thẳng thắn từ chối việc về Trường Sa sống với nhà họ Ðoan Mộc và đòi theo chàng mãi mãi.
Nhương Thư hiểu rằng lời thề đồng hành xuống suối vàng với Thúy Sơn sẽ chỉ được thực hiện sau nhiều năm nữa. Hình bóng ba người vợ đang mang thai luôn nhắc nhở chàng không được phép chết. Chẳng thà bất tín chứ không thể bất nhân, bất nghĩa.
Trời sanh đã quá ưu đãi, nhiều lần ban cho chàng mạng sống, sao chàng có thể tự hủy được?
Mười một viên Lân Hỏa Thần Ðạn được Nhương Thư nhét vào ngực áo nên không bị cành cây va chạm vào khi chàng rơi xuống. Ðây cũng là điều xảo diệu khôn lường, vì nếu không gặp Ðoan Mộc Anh, không tặng nàng bộ quần áo cuối cùng thì Nhương Thư đã bỏ túi thần đạn vào tay nải, và chắc chắn chúng sẽ phát nổ, thiêu chết chủ nhân.
Chàng chỉ mang theo ba bộ võ phục, một mặc trên người, hai trong bọc. Khi bỏ một, tặng một, túi hành lý rỗng không, vô dụng, được để lại trong thạch động.
Kẻ gian hùng, mưu đồ bá chủ, thường có tật luyến tài, muốn thu dụng những kẻ anh hùng về làm thủ hạ. Do vậy, Nhương Thư hi vọng bọn Hoàng Nghi Tuyệt vẫn còn bị giam giữ chứ chưa chết.
Lực lượng chính phái ở Cưu Sơn toàn là những cao thủ kiêu dũng, số còn sống sót sau cuộc chiến tất sẽ được Kỵ Ba Thần Quân dùng Nhiếp Hồn Ðại Pháp khống chế chứ không giết cho uổng phí. Tham vọng càng lớn thì càng cần nhiều nhân thủ để thực hiện.
Nghĩ vậy nên Nhương Thư quyết định dọ thám Cưu Sơn một lần xem sao. Chàng hỏi Ðoan Mộc Anh:
- Anh muội! Hôm trước ngươi bảo rằng có thể trèo lên vách đá Cưu Sơn mà không cần người kéo lên! Nay ta muốn nhờ hiền muội giúp ta lên đấy để cứu những người đang bị giam giữ!
Cô gái đã trả lại cho Nhương Thư bộ võ phục, vì bộ trên người chàng đã tan nát khi rơi xuống tàn cây. Dù định lực cao như núi, Nhương Thư cũng phải giữ lễ, bắt Anh nhi khoác vào người mảnh da gấu. Thường thì nàng chỉ mặc nó khi tuyết bắt đầu rơi.
Cẩm Phàm Kiếm Khách qua đời khi con gái nuôi mới mười hai tuổi đến giờ thì những bộ quần áo da cũ đã không còn vừa vặn, nên Anh nhi phải vụng về tự chế tác lấy. Ðơn giản là nàng lột da con gấu đen, chặt đầu, chặt hai bàn tay, và thiến ngang bụng, rốt cuộc có được chiếc áo khoác lông dài đến quá gối.
Khổ thay, Anh nhi lại chẳng có thói quen khép hai vạt áo nên cái gì cần giấu lại lộ ra. Nhương Thư khổ sở nhắc nhở thì nàng cười khúc khích.
- Thế này cho mát! Vả lại đại ca đã thấy ráo trọi rồi, che giấu làm gì nữa! Còn của đại ca thì tiểu muội nào có lạ gì!
Nhắc lại, khi nghe Nhương Thư đòi lên núi, Ðoan Mộc Anh hăng hái nhận lời:
- Tiểu muội sẽ lên trước, thả dây để đại ca lên sau!
Sợi dây chão oan nghiệt hôm trước vẫn còn nằm vắt vẻo trên tàn cây cổ thụ, tuy thiếu ba trượng song vẫn đủ dùng vì Nhương Thư có thể từ một chỗ cao nào đó tung mình lên chụp lấy đầu dây.
Xế chiều hôm ấy, hai người chuẩn bị lên đường. Anh nhi trút ngay bộ lông gấu ra:
- Leo núi không thể mặc áo lùng tùng, nặng nề này được!
Nhương Thư xốn mắt trước thân hình thon lẳng, khỏe mạnh, đầy sức sống thanh xuân của Anh nhi, vội cởi áo mặc cho nàng.
- Vậy thì hiền muội hãy mặc áo này vào!
Quả là chiếc áo đủ dài để che phủ đến tận gối mà không làm cô gái vướng víu khi leo trèo.
Hai người có mặt ở chỗ cũ, Anh nhi rút lấy đầu dây chão đang lòng thòng, cuộn lại rồi dẫn Nhương Thư đi về hướng Ðông thêm vài chục trượng. Ðoạn vách đá phía này ghồ ghề, có nhiều mẩu lồi, khe nứt, khả dĩ làm điểm tựa đặt chân. Song chỉ có loài khỉ vượn mới có thể vượt vách bằng con đường cheo leo hiểm trở này.
Nhương Thư thầm lo ngại, hỏi nàng:
- Anh muội có chắc lên được hay không?
Ðoan Mộc Anh mỉm cười tự hào:
- Ðại ca yên tâm! Tiểu muội đã lên núi ba bốn lần rồi!
Sương chưa lên, ánh tà dương vẫn còn soi rõ cảnh vật, song trên đỉnh vách không người canh gác nên Nhương Thư chẳng sợ bị phát hiện. Chàng chỉ lo Anh nhi trượt tay mà thôi.
Nhương Thư thở dài:
- Hiền muội lên đi! Ðại ca sẽ cố đỡ nếu ngươi rơi xuống!
Chàng không nói khoác vì biết rõ sức mạnh của mình. Chàng định sẽ nhảy lên hứng lấy Anh nhi. Và dùng xác thân mình làm nệm cho cú rơi của nàng.
Ðoan Mộc Anh chỉ cười, nhanh nhẹn trèo lên. Gió Tây lồng lộng thổi tung vạt áo để lộ đôi mông rám nắng tròn đầy khiến Nhương Thư bật cười.
Chàng cười chính mình vì đa dục mà e dè, sợ hãi đủ điều. Trong khi Anh nhi hồn nhiên, vô tư, trong sáng như trời xanh lồng lộng. Tự bao giờ con người phải dùng y phục để che chở thân thể trước con mắt dục vọng của đồng loại? Y phục trước tiên chỉ là dụng cụ làm ấm da thịt khi lạnh giá, sau đó kín đáo hơn để chống muỗi mòng.
Nhương Thư nghe lòng thanh thản hơn, chăm chú theo dõi bước tiến của cô gái rừng. Anh nhi hành động nhanh nhẹn, chuẩn xác như loài vượn, tứ chi bám vào những điểm tựa nhỏ bé, từng bước vững vàng vượt lên. Nàng không sợ độ cao, như cá không sợ nước nên đã thành công, tất nhiên phải kể đến sức mạnh và sực khéo léo của cuộc sống hoang dã.
Hơn khắc sau, Ðoan Mộc Anh đã an toàn ngồi vắt vẻo trên đỉnh vách, thả sợi dây se bằng vỏ cây xuống. Nó rất nhẹ nên nàng phải cột đầu dây vào một cục đá.
Nhương Thư bắt lấy, cột đầu dây chão vào để Anh nhi kéo lên. Sau khi cố định đầu trên, Anh nhi ra hiệu cho Nhương Thư. Ðoạn vách này thấp hơn chỗ chàng ngộ nạn hai trượng nên Nhương Thư chỉ cần tung mình lên là nắm được ngay.
Có dây, chàng thoăn thoắt trèo, hơn nửa khắc đã đến nơi. Theo kế hoạch, Anh nhi ở lại bảo vệ đường rút lui, còn Nhương Thư lần ra sườn Ðông dọ thám.
Ðoan Mộc Anh có mang theo Thiên Cương Thần Kiếm, ở chỗ chật hẹp hiểm trở này, dẫu gặp cường địch cũng không đáng ngại. Nhương Thư đã khảo sát võ nghệ của nàng, mừng vì Anh nhi có sức khỏe phi thường và trình độ kiếm pháp khá cao.
Thiên Cương kiếm pháp chủ ở lực đạo mãnh liệt, đòn ra như lôi giáng. Chiêu thức không rườm rà nhưng rất hiểm độc. Nó vốn dành cho nam nhân, nhưng Ðoan Mộc Anh còn khỏe hơn lũ đàn ông. Nàng lại mang bản chất sơn dã, khi đánh nhau thì dữ như cọp.
Nhương Thư tủm tỉm cười kéo vạt áo xốc xếch của Anh nhi xuống và nói:
- Hiền muội đừng vì nóng ruột mà lần theo ta! Nếu để mất sợi dây này là nguy đấy!
Anh nhi nghiêm nghị:
- Tiểu muội chỉ chờ đến lúc bình minh! Ðại ca không ra thì tiểu muội sẽ vào đấy!
Nhương Thư cảm động gật đầu và buột miệng nói đùa:
- Muội ăn mặc thế này mà vác kiếm đánh nhau thì e rằng phe đối phương khó thoát chết!
Anh nhi ngơ ngác không hiểu, nhìn theo bước chân Nhương Thư.
Họ Tần nương theo cây cối, đi vòng ra sườn núi hướng Ðông, lòng ngạc nhiên trước vẻ tĩnh lặng khác thường của nơi này. Dù phe nào chiếm cứ cũng không thể im ắng vì giờ mới là giữa giờ Dậu, chiều đã đi nhưng màn đêm chưa buông.
Nhương Thư mạnh dạn áp sát khu nhà gỗ, không chờ đợi bóng đêm nữa. Nghe ngóng hồi lâu, chàng có thể khẳng định nơi đây chẳng một bóng người.
Nhương Thư thận trọng tiến vào hậu viện, lục soát dần ra ngoài. Tất cả những tài sản có giá trị đều đã bị lấy sạch. May thay, trong phòng nọ còn sót lại hai bộ võ phục cũ kỹ của nam nhân và cả chục bộ võ phục dành cho nữ.
Nhương Thư đoán đây là khuê phòng của vợ chồng Hoàng Nghi Tuyệt. Phe địch toàn đàn ông nên không lấy quần áo đàn bà làm gì. Nghĩ đến Ðoan Mộc Anh, Nhương Thư dồn vài bộ cả nam lẫn nữ vào một vuông vải, đeo lên vai.
Không hề có mùi máu, chứng tỏ nơi đây chẳng xảy ra cuộc chiến. Vậy thì Kỵ Ba Thần Quân đánh chiếm Cưu Sơn bằng cách nào?
Lòng đầy nghi vấn và lo lắng, Nhương Thư đi vào tòa đại sảnh bằng gỗ, trụ sở chính của Cưu Bang. Nơi đây cũng còn nguyên vẹn, chỉ mất những vật trang trí.
Nhương Thư chậm chạp đi dọc chiều dài đại sảnh, ra đến cửa chính, đứng dưới mái hiên bâng khuâng nhìn quanh chiếc sân rộng, kéo dài đến tận mép bình đài.
Ðã gần cuối giờ Dậu, không gian nhá nhem, mờ mờ, song trên nền trời vẫn nổi bật hai vật khiến chàng chú ý. Ðó là hai cột gỗ có thanh ngang ở trên như chữ thập, và dường như ai đó đang bị trói ở đấy.
Nhương Thư kinh hãi lao vút về hướng ấy, nhận ra hai thân hình tả tơi, lem luốc, y phục đầy máu khô kia chính là Hoàng Nghi Tuyệt và Từ Thanh Huệ.
Nhương Thư run giọng gọi:
- Hoàng đại huynh! Hoàng đại tẩu!
Song không ai trả lời cả. Nhương Thư sa lệ, vung kiếm đốn cột gỗ trói Hoàng Nghi Tuyệt, chỉ ba bốn nhát đã xong, chàng buông kiếm đỡ lấy cột, từ từ hạ xuống đất.
Trước tiên, chàng thò tay thăm mạch cổ họ Hoàng, hân hoang khôn xiết vì gã còn sống. Nhương Thư đến luôn cây cột thập tự giá thứ hai, càng mừng hơn khi Từ Thanh Huệ cũng chưa chết, dù mạch mong manh như sợi tơ mỏng.
Không thể mạo phạm đến vợ của bằng hữu. Nhương Thư liền đưa cả người lẫn cột vào đại sảnh. Những ngọn đuốc cắm trên tường quá rẻ tiền nên chẳng ai thèm lấy. Chàng đốt cả lên cho sáng sủa rồi chặt dây trói và tìm nước cho hai nạn nhân uống.
Sau đó, Nhương Thư chạy ngược phía sườn Bắc, gọi Ðoan Mộc Anh:
- Anh muội mau đến giúp ta một tay! Phe đối phương đã rút hết cả rồi, chỉ để lại hai người bạn của ta!
Anh nhi đang nóng ruột đợi chờ, mừng rỡ chạy đến ngay. Ðôi mắt cú vọ của chàng nhìn rất rõ cặp đùi ngựa của Anh nhi đang phơi ra trước gió, liền tháo tay nải, nhanh tay lấy ra một chiếc quần dài.
- Hiền muội hãy mặc vào kẻo bạn ta cười đấy!
Ðoan Mộc Anh ngoan ngoãn thêm lời và còn ra vẻ lễ giáo:
- Tiểu muội đã nhớ được lời phụ thân dạy bảo lúc còn thơ, quyết từ nay không lõa thể nữa!
Nàng bỗng mỉm cười và nói thêm một câu:
- Nhưng với đại ca thì tiểu muội chẳng hề e ngại!
Nhương Thư rầu thúi ruột, chẳng hơi đâu mà cãi cọ với con bé kém văn minh này. Chàng nắm tay Anh nhi lôi đi thật nhanh.
Gần nửa đêm, hai nạn nhân đã được đưa về đến thạch động. Tuy đã được cho uống nước lúc còn trên núi. Song giờ đây một bát nước nóng pha mật ong rừng cũng là điều cần thiết. Có lẽ họ đã phải chịu đói khát vài ngày.
Sau đó, Nhương Thư dồn chân khí kiểm tra kinh mạch. Nhận ra có bảy huyệt đạo bị phong tỏa, nên gân cốt vợ chồng họ Hoàng đều mềm nhũn, không còn tính cường cơ. Còn những vết thương rướm máu kia chính là vết roi da, hậu quả của một cuộc tra tấn hành hạ.
Thương tích không nặng song đã làm độc khiến hai người sốt mê man, lại thêm kiệt lực vì chẳng được ăn uống. Họ còn sống là nhờ đã dày công luyện võ, chân nguyên thâm hậu, sức chịu đựng hơn người.
Kỵ Ba Thần Quân quả là tàn ác khi dành cho họ cái chết dần mòn đáng sợ này.
Trước tiên, Nhương Thư truyền chân nguyên, đả thông những huyệt đạo bị bế tắc, thúc đẩy chân khí bản thân họ lưu chuyển.
Thủ pháp điểm huyệt của Kỵ Ba Thần Quân rất quái dị, Nhương Thư tốn rất nhiều sức lực mới giải phá được. Cũng may Nhiên Ðăng Tâm Pháp vô cùng uyên bác, màu nhiệm, lại thêm tu vi gần hoa giáp nên Nhương Thư đã thành công.
Kinh mạch ổn định song nạn nhân vẫn chưa tỉnh lại được. Nhương Thư tiến hành bước điều trị ngoại thương.
Ðoan Mộc Anh thấy chàng cởi y phục Hoàng Nghi Tuyệt cũng lăng xăng cởi áo Thanh Huệ. Nhương Thư giật mình cản lại:
- Nàng hãy ra ngoài, chờ ta lo xong cho họ Hoàng rồi hãy vào rửa vết thương cho Hoàng đại tẩu!
Anh nhi tròn mắt thắc mắc:
- Sao chúng ta không cùng làm một lúc cho nhanh?
Nhương Thư bối rối giải thích:
- Thân xác của nữ nhân chỉ dành cho trượng phu, người ngoài không được phép nhìn hay chạm đến. Từ nương là vợ của họ Hoàng, ta đâu thể thất lễ được!
Ðoan Mộc Anh gật gù ra vẻ hiểu biết, chậm rãi đi ra ngoài. Ðược vài bước thì quay lại nói:
- Ðại ca! Nếu thế thì tiểu muội chính là vợ của đại ca phải không?
Nhương Thư biết nàng ám chỉ đến việc hai người quá quen thuộc với nhau, liền hổ thẹn, chẳng biết nói sao. May thay, Anh nhi không chờ câu phúc đáp bước đi ngay.
Ttrưa hôm sau, nhờ uống mật ong quí và được đắp lá rừng, Hoàng Nghi Tuyệt đã hồi tỉnh trước., Gã ngơ ngác nhìn đôi nam nữ lạ mặt đang đứng cạnh giường, lát sau mới đủ tỉnh táo để nhận ra đôi lông mày kép quái dị nhất thế gian. Họ Hoàng lộ sắc mừng, thều thào hỏi:
- Tần đại hiệp vẫn còn sống đấy ư? Thế mà Thành lão quỷ bảo rằng Tần đại hiệp đã chết ở sườn núi phía Bắc!
Gã chợt nhớ đến ái thê, lo lắng hỏi thêm:
- Từ nương thế nào rồi? Ðại hiệp có cứu được nàng không?
Nhương Thư gật đầu trấn an:
- Hoàng huynh yên tâm! Ðại tẩu vẫn bình an, đang nằm ở góc xa kia!
Ánh mắt Hoàng Nghi Tuyệt lộ vẻ hân hoan. Gã thở phào:
- Trời cao có mắt nên người tốt chẳng thể chết oan!
Tri ân nhưng không nói lời cảm tạ vốn là thói quen của họ Hoàng.
Nhương Thư cho gã uống một bát mật ong rồi hỗ trợ việc hành công. Ðến chiều thì Hoàng Nghi Tuyệt đã khôi phục được bảy phần sức lực và Từ Thanh Huệ cũng tỉnh lại song vẫn còn rất yếu ớt.
Hoàng Nghi Tuyệt đã có thể ăn uống bình thường, ngấu nghiến thanh toán món thịt nai nướng, song ăn từng ít một cách quãng nhau để khỏi chết vì bội thực như Vương An Thạch.
Trong khoảng cách giữa hai lần ăn, họ Hoàng trò chuyện với ân nhân. Nhương Thư liền hỏi:
- Kỵ Ba Thần Quân chiếm được Cưu Sơn bằng cách nào? Tại hạ thấy chiếc thang khổng lồ kia chưa đóng xong mà?
Hoàng Nghi Tuyệt quắc mắt căm hờn chậm rãi nói:
- Gã khốn kiếp Tiểu Hồ Ly Chung Kim Dục đã bán đứng bọn tại hạ. Hôm rằm tháng tám, gã bỏ thuốc mê vào thức ăn, nước uống khiến đêm ấy mọi người ngủ say như chết, và Sơn Hải Bang chiếm được Cưu Sơn mà chẳng tốn một mũi tên. Hôm sau, Kỵ Ba Thần Quân được thư của Vô Ưu Cái bang chủ, biết đại hiệp sẽ đến bằng đường sườn Bắc liền tương kế tựu kế để sát hại.
Nhương Thư hỏi tiếp:
- Lực lượng cao thủ chính phái ở Cưu Sơn đâu cả rồi, có ai bị hại không?
Hoàng Nghi Tuyệt buồn rầu đáp:
- Tất cả đều bị khống chế bằng độc dược và Nhiếp Hồn Thuật! Họ sẽ trở về để ám hại năm vị chưởng môn trong hội đồng võ lâm!
Nhương Thư giật mình kinh hãi:
- Nguy hiểm thực! Tại hạ phải đi ngay để ngăn chặn âm mưu này!
Họ Hoàng chua chát lắc đầu:
- Có lẽ đã quá trễ rồi! Tuy nhiên Thành Vô Chiến không có ý định giết chóc mà chỉ khống chế hội đồng võ lâm! Ðại hội minh chủ sắp đến, không thể thiếu họ được, và vì Kỵ Ba Thần Quân tin rằng ngôi vị tối cao ấy sẽ thuộc về mình.
Nhương Thư thở phào:
- Thế thì chưa đến nỗi! Tại hạ sẽ tìm người giải tỏa Nhiếp Hồn Pháp cho họ!
Và chàng ngạc nhiên hỏi lại:
- Vì sao Hoàng huynh lại biết rõ mọi mưu đồ của Sơn Hải Bang như thế?
Hoàng Nghi Tuyệt cười lạnh:
- Tại hạ và chiết thê đã thống lãnh Cửu Bang tiêu diệt khá nhiều thủ hạ Sơn Hải Bang nên bị Thành Vô Chiến căm ghét, không cho phép sống sót. Trong lúc giam cầm, tên cẩu tặc Tiểu Hồ Ly đã thường xuyên đến đánh đập và chọc tức bằng cách tiết lộ kế hoạch của Kỵ Ba Thần Quân. Gã này cho rằng bọn ta chẳng thể thoát chết mà kể lạí!
Nhương Thư phẫn nộ trước sự phản bội đê tiện của Chung Kim Dục, an ủi họ Hoàng:
- Tại hạ thề rằng sẽ bắt Tiểu Hồ Ly đền tội!
Chợt nhớ đến an nguy của ba người vợ bụng mang dạ chửa, Nhương Thư cau mày bảo:
- Dẫu sao tại hạ cũng phải đi ngay Lạc Dương xem tình hình thế nào. Hoàng huynh và đại tẩu cứ ở đây dưỡng thương bình phục hãy lên đường. Hẹn gặp nhau ở Tổng đà Cái Bang!
Hoàng Nghi Tuyệt liền bàn:
- Nếu Vô Ưu Cái đã bị hại thì Lạc Dương chẳng còn là nơi an toàn! Mong đại hiệp thận trọng khi vào thành! Ngoài cửa Ðông có tòa Toàn Chân Ðạo Quán của Từ Phong Chân Nhân Khúc Hoàn Sơn. Ông ta quen biết với tiên sư tất sẽ vui lòng cho Tần đại hiệp trú chân. Vợ chồng tại hạ cũng sẽ đến đấy tìm đại hiệp.
Sáng hôm sau, tức hai mươi bảy tháng tám, Nhương Thư dặn dò Ðoan Mộc Anh chăm sóc vợ chồng Hoàng Nghi Tuyệt rồi rời thạch động.
Chàng trở lại quán trọ trong thôn nghèo hôm trước lấy ngựa. Lão điếm chủ thực thà vẫn chưa bán mất tuấn mã của vị khách thất tung. Nhương Thư đền bù cho lão bằng tờ ngân phiếu trăm lượng bạch ngân.
Tần Nhương Thư
Hồi 1
Hồi 2
Hồi 3
Hồi 4
Hồi 5
Hồi 6
Hồi 7
Hồi 8
Hồi 9
Hồi 10
Hồi 11
Hồi 12
Hồi 13
Hồi 14
Hồi 15
Hồi 16
Hồi 17
Hồi 18
Hồi 19
Hồi 20