Mây vẫn Còn Bay (Bút Ký )
Tác giả: Việt Dương Nhân
Bút Ký
‘’Tiếng Việt còn. Nước Việt còn...’’
Trời vào đông năm nay không lạnh lắm, nhưng sương mù lờ mờ và mây xám giăng giăng...
Xế trưa, ngày Lễ Giáng Sinh (25-12-2002). Tôi đem rác xuống sân bỏ vào thùng, sực nhớ hôm qua không lấy thư. Tôi đến mở hộp thư, thấy phong bì hơi dầy màu hồng, tôi nhận ra ngay tuồng chữ của Kim, đứa con gái lai Tây, tâm tánh rất hiền ngoan, năm nay được 34 tuổi. Tôi biết đó là thiệp chúc Giáng-sinh và Tết Dương-lịch của Kim. Tôi không lên nhà mà liền mở thư ra đứng đọc giữa sân :
‘" Jeudi 19 Décembre 2002
Ma chère Maman,
Con chúc Má một mùa Giáng Sinh vui vẻ và một năm mới 2003 hạnh phúc may măn (mắn) và dồi dào sức khỏe !
Con thương Má nhiều lắm ! !
Hẹn gặp nhau ở Ivry nay mai năm mới !
Con âm (hôn) Má nhiều !
Kim’’
(Thủ bút của Kim)
Tôi đọc xong mấy dòng chữ nguệch ngoạc trong tấm thiệp thật đẹp. Ôi ! Nỗi vui mừng của tôi lâng lâng không sao tả được. Tôi áp tấm thiệp vào bên ngực trái, nước mắt rưng rưng, nhìn lên không trung : ‘’Con tạ ơn Trời ! Tạ ơn Trời đã ban cho con của con biết nói và viết được chữ Việt...’’. Tôi nghe nhẹ lòng, tâm hồn bớt ray rức. Vì từ bấy lâu nay, tôi tự thấy hổ thẹn với lòng : ‘’Mình làm mẹ mà con mình không biết nói được tiếng của mình. Thật là đáng trách !’’.
*
Cách đây khoảng 15 năm, Kim có học chữ Việt với Cô Mai một thời gian rất ngắn, vì căn bệnh... tái phát nên Kim phải đành bỏ dở dang...
Năm rồi, một buổi trưa Chủ Nhật giữa mùa hè cây cỏ xanh tươi, ngàn hoa khoe sắc, nắng vàng tỏa sáng khắp nơi nơi. Kim về nhà ăn cơm với tôi. Bất chợt, Kim nói (bằng tiếng Pháp): ‘’Con muốn học chữ Việt. Má biết chỗ nào dạy không ?’’. Đúng lúc, tôi vừa nhận tờ Nguyệt San Nhân Bản, đọc thấy có đăng dạy tiếng Việt mỗi chiều thứ Bảy, từ 16 giờ đến 18 giờ, do Cô Phương Khanh phụ trách... Tôi đưa cho Kim xem, Kim liền ghi địa chỉ, ngày, giờ đàng hoàng. Rồi sau đó, Kim ráng rặng từng tiếng Việt nói chuyện với tôi...(...)
Lối cuối tháng 9, Kim đi ghi tên, đóng tiền. Và từ đó, Kim không bỏ buổi học nào. Từ hè đến giờ, Kim thường về ăn cơm với tôi vào trưa Chủ Nhật. Và, tôi có chị bạn thân, tên Marie-Colombe Bạch Thị Ngọc Sương có trình độ giáo-khoa khá cao nên Kim nhờ chị chỉ dạy kèm thêm. Theo ước tính của tôi, thì Kim mới học được 9 hay 10 buổi học gì đó ?... Mà tối hôm qua (1-1-2003), từ nhà Ba của Kim ở dưới Cannes (Côte d’Azure), Kim điện thoại về chúc năm mới. Kim vừa nói 2, 3 câu tiếng Pháp. Tôi liền hỏi bằng tiếng Việt : ‘’Ủa ! Con quên hết tiếng Việt rồi sao ?’’. Kim vội vàng đổi giọng, nói chầm chậm : ‘’Không, không. Con không quên đâu Má ơi ! Má khỏe không ? Má chơi đêm Giáng Sinh và tối qua có vui không ? Con chúc Má năm mới được vui vẻ...’’. Và sau đó, hai mẹ con tôi nói chuyện hoàn toàn bằng tiếng Việt... Chỉ câu cuối cùng là Kim nói : ‘’Au revoir et Chủ Nhật tới, con về ăn cơm với Má...’’. Xin quý vị và các bạn chia sẻ niềm vui này cùng với tôi !
Có những đêm nằm trằn trọc nhớ con, và nghe lòng buồn buồn, tôi tự than : ‘’Mình làm thơ, viết truyện mà con mình không đọc được những gì mình viết... !’’. Nhưng rồi cũng tự mình an ủi : ‘’Ở xứ người, phần nhiều những đứa con nít lớn lên, gần như hầu hết không nói, đọc được chữ Việt, vì cha mẹ bận rộn chuyện ‘’áo cơm’’... Nhưng... tôi lại nhớ đến Anh bạn... làm việc trong một bệnh viện ... tại Paris. Anh là ‘’gà trống nuôi con’’ từ thuở cậu con trai mới lên 5 tuổi. Nay cậu nối nghiệp cha, đang theo học ngành Y-khoa năm thứ 5, thứ 6 gì rồi. Anh bạn của tôi dạy cho con học, đọc, nói và viết chữ Việt đàng hoàng. Tôi rất khâm phục Anh... Cách đây, khoảng chừng 3 năm, tôi gặp cậu đi với cha, cậu chào và nói chuyện với tôi y như một thanh niên từ Việt Nam mới qua Tây. Vì không ai có thể nghĩ là cậu sanh và lớn lên tại Pháp. Còn Kim, con tôi sanh ở Sài-gòn, qua Pháp lúc 6 tuổi và nói thạo tiếng Việt đến 8, 9 tuổi. Sau này, có những lúc buồn, tôi ngồi bóp trán, lắc đầu tự hỏi : ‘’Vì sao, con tôi mất tiếng Việt ?’’. Tôi xin tạ lỗi cùng Tổ Tiên và Mẹ Việt Nam. Vì lúc đó (1978), cha Kim bỏ đi, tôi chỉ lo đi làm, rồi cuối tuần còn đi họp hội, hát hò văn-nghệ... Mỗi ngày gặp được con vài tiếng đồng hồ, xem bài vở sơ sơ, tôi để mặc tình con nói tiếng Pháp với tôi. Thật sự, sau này tôi giận tôi vô cùng.
Hồi mới qua Pháp, giữa năm 1976, tôi liên lạc được Ông Việt Định Phương, chủ nhiệm Tuần Báo Trắng Đen, tôi có viết cho Ông một lá thư, nhưng không ngờ Ông lại đăng hết lá thư ấy trong : ‘’Mất Quê Hương’’ Hồi ký của Việt Định Phương
. (Xin trích một đoạn...) ‘’... Nếu tôi mà có gặp người đó lại thì tôi gọi là ‘’thằng cha mất gốc không có cội nguồn...’’. Vì vậy mà tôi không nói tiếng Pháp với con tôi, và lớn lên tụi nó phải biết viết và đọc chữ V.N. để có đi đâu hay đi làm xa phải viết thơ bằng chữ Việt cho tôi đọc, mặc dù chữ Anh-Pháp, tôi cũng biết sơ sơ. Nhưng hy vọng con tôi viết thơ cho tôi bằng chữ Việt...’’ (Mùa Phật Đản 2520 Tuần Báo Trắng Đen Weekly Magazine số 11 năm 1976, trang 34).
Những năm gần đây, mỗi lần đọc lại trang báo đó, tôi tự thấy xấu hổ và thẹn với lòng. Vì lời nói với việc làm không đi đôi ! Nay, Kim đã nói trở lại tiếng Việt, và còn viết được chữ Việt, thì thử hỏi với quý vị và các bạn. Tôi không vui mừng sao được ?
Bữa hôm, tôi gọi điện thoại hỏi thăm Cô Phương Khanh, nói chuyện qua loa, rồi Cô cho tôi biết : ‘’Em hỏi Kim học tiếng Việt để làm gì ? Kim trả lời, học chữ Việt để đọc sách của chị và muốn biết những gì chị viết...’’. Tôi nghe Cô Phương Khanh nói lại, làm tôi vui lắm. Chân thành cảm ơn Cô Phương Khanh đã tận tình dạy cho Kim (nói riêng) và cho tất cả Học Sinh (nói chung) học tiếng Việt Nam mau hiểu, mau nói và viết... Và, tôi cũng không quên ơn Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris đã tổ chức ‘’Lớp Học Tiếng Việt’’ vào mỗi chiều thứ Bảy. Tôi hy vọng nơi đó sẽ thâu nhận Học Sinh càng ngày càng đông đảo thêm. ‘’Tiếng Việt là hơi thở của Mẹ Việt Nam. Xin đừng để cho Mẹ tắt thở...’’(Lời của Giáo Sư Vũ Ký trong ‘’Luận Cương Về Văn Hóa Việt Nam’’).
Đây là những lời chân thật, là nỗi vui mừng tận đáy lòng của tôi, là niềm vui của một người mẹ vừa được đứa con gái, tên Thiên Kim Agnès Hiver trao tặng một món quà tinh thần to lớn nhứt đời vào dịp Lễ Giáng Sinh, năm mới 2003 và Tết Nguyên Đán Quý Mùi.
Từ khi, tôi tập tành làm thơ, viết lách, tôi có lo nghĩ : ‘’Rồi đây không biết còn có ai trong gia đình mình đọc được và gìn giữ những gì mình đã viết... ? Chắc là phải đem gởi cho mây khói sẽ tan vào hư-không !’’. Nhưng nay, sự mong ước của tôi đã trở thành sự thật... Đêm nay, bên ngoài đầy giông bão, sấm chớp nổ vang rền. Còn trong nhà thì nghe se lạnh. Nhìn một khoảng trời xa thấy Mây Vẫn Còn Bay...
(Ivry-sur-Seine, đêm đông mưa gió 02-01-2003)
Thư Gửi Thiên Kim
Nguyễn Thị Vinh
Thay Lời Bạt
Tập truyện ‘’Đàn Chim Việt’’
của
Việt Dương Nhân
*
Thiên Kim thân mến,
Đọc bản thảo Đàn Chim Việt của mẹ cháu, nhà văn Việt Dương Nhân, hầu như cốt truyện nào cũng mang hình bóng ít nhất một người làm thơ, dăm ba người ngâm thơ hoặc nhiều người thích thơ; truyện nào của mẹ cháu, nói cho cùng rồi cũng hướng tới một chất thơ, mà tôi tạm gọi là thơ của đời sống, nằm ở ngoài mọi chữ nghĩa: Mong sao con người được tôn trọng và cùng sống tử tế với nhau, dù ở quê nhà hay quê người. Nhưng chính Thiên Kim, một đôi cánh trong đàn chim Việt, đã giúp mẹ cháu viết nên một bài thơ xuôi, mang tên Mây Vẫn Còn Bay, khiến người đọc như tôi hết sức bồi hồi. Cảm động trước một tình mẫu tử vừa thiêng liêng, vừa cao đẹp. Nơi mà người mẹ bị cuốn hút vào trăm công ngàn việc của cuộc sống tỵ nạn, thể nhập và đấu tranh; có việc cần phải làm gấp, có việc nên làm và có việc chưa cần lắm, để cuối cùng mang trong lòng một niềm ân hận khôn nguôi: "Con mình đã mất tiếng Việt!". Dường như mẹ cháu, nhà văn Việt Dương Nhân, chỉ mới tiếc cho năm mươi phần trăm gốc Việt nơi Thiên Kim mà bà đau lòng như vậy; nói chi các bậc cha mẹ khi thấy con mình, Việt ròng mà mất gốc, thì sự áy náy hẳn sẽ vô cùng mạnh mẽ hơn? Con cháu, của những người Việt nặng lòng với quê hương, bản quán, mà lại không ăn một món ăn Việt nào, không nói được tiếng Việt, không viết được chữ Việt, nếu học cao bất quá họ trở thành các chuyên viên, các nhà trí thức Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Na Uy... gốc Việt; trong khi các bậc sinh thành ao ước họ trở thành các nhà trí thức, các chuyên viên Việt Nam ở nơi đất khách. Những cuộc rời làng, xa nước nào mà không có sự hy sinh, mất mát? Có những thứ mất đi, của đời làm cha mẹ, để đổi lấy sự tự do, no ấm và học hành cho chính mình và trên hết là cho con cháu. Nhưng mất luôn cả "tâm hồn Việt" thì mục đích ban đầu "vì tương lai của thế hệ sau" cuối cùng sẽ chỉ là niềm tiếc hận mãi?
Thiên Kim thân mến, cháu và những ai như cháu, tìm về tiếng Việt là tìm về với người Việt, trong đó có mẹ cháu, là tìm về nước Việt, nơi cháu đã được sinh ra, nơi mà dòng sữa của mẹ cháu có cả mùi gạo hẩm, cơm ôi, lẫn mùi thơm của gạo Tám Thơm, Nanh Chồn, Nàng Hương; nghĩa là có cả đau khổ lẫn hạnh phúc.
Cảm ơn cháu, Thiên Kim ạ, tâm hồn cháu như phù sa sông Cửu, đã bồi thêm đất hạnh phúc cho mẹ, cho nhiều người khác, trong đó có tôi; với hành trình ngôn ngữ Việt, của cháu từ năm lên sáu, đứt quãng rồi nối tiếp không dễ dàng, tới năm ba mươi tư tuổi, giả dụ chỉ với một câu: "Con thương má nhiều lắm!!", bằng chữ Việt nguệch ngoạc của cháu, cũng đã là một câu thơ; và với tôi, nó trở thành bài thơ vì hai cái chấm than (!!).
Tôi, may mắn thay, đã được đọc vài bài thơ cháu viết bằng Pháp văn, trôi chảy và trong sáng, hàm chứa một Tấm Lòng yêu con người và cuộc sống. Mấy bài thơ đó hay, nhưng chưa làm tôi xúc động bằng những câu của Thiên Kim, một người con chúc mẹ năm mới sức khỏe, may mắn và hạnh phúc. Lời chúc, nghĩ cho cùng, chính là tên gọi khác của ước mơ. Mơ ước đẹp của Thiên Kim, mà cô giáo Phương Khanh đã ghi lại: ''Em hỏi Kim học tiếng Việt để làm gì? Kim trả lời, học chữ Việt để đọc sách của chị và muốn biết những gì chị viết...''. Cảm ơn những thầy cô giáo tiếng Việt ở nơi đất khách, mất bao thời giờ, công sức đôi khi cả tiền bạc riêng tư, chỉ để nhận lại một niềm vui toát ra từ những trang vở học trò: "Hãy nói và viết tiếng Việt như ăn Phở, như ăn Chả Giò, tự nhiên như tình yêu của người Mẹ Việt giành cho mình". Nhiều người nước ngoài còn đi học nói và viết tiếng Việt. Cao hơn nữa, họ còn dịch sách Việt qua ngoại văn, chuyển Truyện Kiều sang Đức ngữ, Anh, Pháp văn; có người còn vào Thư viện Quốc Gia Pháp để tìm cho ra những tác phẩm của Vũ Trọng Phụng chưa in thành sách; có là người Việt hay không, chưa hẳn đã tùy thuộc vào việc nói sõi tiếng Việt và viết rành chữ Việt! Là hay không là, người Việt, ở chỗ có tìm về tiếng Mẹ Đẻ hay không. Không gần gũi với Tiếng Mẹ Đẻ thì dễ dàng xa cách với Tình Mẹ? Không nhất thiết đều là như vậy... Nhưng chắc chắn, theo những gì tôi thấy được ở cuộc sống, sẽ không có một tình Yêu Nước gắn bó và nồng nàn!
Thiên Kim thân mến, trong các bài thơ của cháu mà tôi được đọc, nhiều, rất nhiều câu hay, bởi "văn hóa là sự hợp tác", như:
"...Nous nous aimons
C'est la seule loi
A laquelle nous obéissons
Et nous sommes libres
De notre choix
Toi et moi,
Unis pour la vie!.."
(Trích "Je t'ai attrapé" của Kim Agnès Hiver.)
Tôi đã tạm thoát dịch, theo cảm nhận, được gói tròn như sau:
Nguyện theo một luật Thương Yêu
Đời ta hòa hợp với nhiều tự do.
Thiên Kim thân mến, lẽ ra tôi phải viết một bài Bạt cho cuốn sách Đàn Chim Việt này về tác phẩm hoặc tác giả, theo đúng nghĩa một bài viết ở sau mỗi cuốn sách, nhưng chính mẹ cháu đã tự viết Bạt rồi, qua bài Mây Vẫn Còn Bay, người đọc đã thấy ở nơi mẹ cháu một tình thương nước, xót người đầy nỗi đau khổ: "Mình làm mẹ mà con mình không biết nói được tiếng của mình. Thật là đáng trách!'' và với niềm hạnh phúc: ''Không, không. Con không quên đâu Má ơi!’’. Không quên là có nhớ, nhớ đến lời ru, tiếng nựng của mẹ khi mình còn thơ ấu, nhớ đến giọng nhắc nhở, la rầy của mẹ khi mình lớn lên cùng với nhiều sai sót vô tình hoặc cố ý. Thế nên, cách yêu mẹ hay nhất là yêu Tiếng Mẹ Đẻ, có thể Thiên Kim và ai đó chưa chia sẻ với tôi về cách nói trên, tôi vẫn xin cảm ơn tất cả, mà trước hết là cảm ơn "Ngàn Vàng", Thiên Kim Agnès Hiver !
Nguyễn Thị Vinh
Na Uy Oslo, mùa Tuyết, tháng 1, năm 2004.
Lettre à Thiên Kim
En guise d’épilogue de la
Nouvelle : Les Oiseaux du Vietnam
De Viêt Duong Nhân
Chère Thien Kim,
Après lecture de la nouvelle Dan Chim Viet (Les Oiseaux du Vietnam) de ta mère, de l’auteur Viet Duong Nhân, j’éprouve cette impression que les récits naissent des négatifs provenant de l’esprit des amoureux des lettres. Dans toutes les histoires écrites de l’empreinte du vécu, au moins par leur auteur, de quelques lecteurs ou de ta mère, à la fin, il ressort inexorablement cette saveur poétique que j’appellerai ‘’poésie de la vie‘’, en marge de tout style littéraire : Inlassable espoir de respect mutuel et de solidarité entre les Hommes, que ce soit à l’étranger comme dans sa patrie. Au fond, toi Thien Kim, une des paire d’ailes de la bande d’Oiseaux du Vietnam, tu as donné à ta mère cette inspiration vertueuse dans la rédaction de la nouvelle Mây Vân Con Bay (ndlr : Les nuages continuent de voyager) qui a suscité chez les lecteurs tel que moi beaucoup d’émois. J’ai été émue devant cet amour maternel à la fois si naturellement inné, si beau et grandiose, bouleversée par cette mère aspirée par le tourbillon de la vie difficile qu’ont vécu les femmes réfugiées, obligées de combattre avec acharnement afin de gérer les multiples priorités quotidiennes pour en fin de compte hériter de cet inconsolable regret : ỡ mon enfant a perdu sa langue maternelle, le vietnamien !ữ. Probablement l’écrivain Viet Duong Nhân, ta mère, a juste regretté à moitié ces cinquante pour cent de part de métissage vietnamien qu’elle t’a transmise et pourtant sa douleur est déjà si grande ; Il serait inutile de parler de ces parents qui voient leurs enfants, les descendants du dragon vietnamien1, totalement déracinés. Cette rude réalité doit être certainement encore plus dramatique. Les enfants de ces compatriotes passionnés de leur pays, ne mangeant pas de nourritures vietnamiennes, ne parlant pas vietnamien, n’écrivant aucun mot vietnamien, s’ils peuvent atteindre des niveaux d’étude supérieurs ne peuvent au plus que devenir l’élite des intellectuels Anglais, Français, Américains, Allemands, NorvégiensẨ d’origine Vietnamienne ; alors que les Hommes accomplis ne souhaiteraient qu’être des intellectuels, l’élite vietnamienne expatriée dans leurs pays d’accueil. Quels exodes, quelles sont les expatriations qui ne sont pas sources de sacrifices et de perte ? Parmi les sacrifices, dans la vie d’une mère, en échange de la liberté et des besoins primaires, il y a le renoncement à son propre épanouissement mais surtout le sacrifice de l’éducation de ses enfants. Mais alors, en dépit de la perte même de cet ỡ esprit vietnamien ữ en échange du but prioritaire, ỡ l’avenir de la postérité ữ, ne reste-il en fin de compte, qu’un éternel regret ?
Chère Thiên Kim, toi et tes compatriotes, qui cherchent à découvrir votre langue maternelle, vous essayez, en réalité de vous approcher de vos sources. Ta maman fait partie de ces personnes amoureuses de leur patrie, lieu où vous avez vu le jour, lieu où son lait de mère est teinté de ce goủt de riz fermenté, parfois même gâté et mélangé à la fois à ces odeurs savoureuses de brisures de riz parfumé Tam Thom (brisure parfumée), Nanh Chon (de croc de fouine), Nang Huong (demoiselle parfumée) ; c'est l’endroit même où malheur et bonheur se côtoient. Je te remercie, chère Thiên Kim, ton âme est comme ces effluents du fleuve Cuu (Mékong) qui a contribué à apporter cette terre riche de bonheur à ta mère, à beaucoup d’autres personnes et parmi celles-ci, il y a moi. ; Tes capacités linguistiques en vietnamien, à partir de tes six ans, jusqu’à l’âge de trente quatre ans, ponctuées par des périodes interrompues puis difficilement renouées, à travers par exemple la seule phrase : ỡ je t’aime beaucoup maman !! ữ, usant des mots vietnamiens dont l’accent mal maîtrisé et qui t’est propre, ont suffi, pour être une poésie, en soi. Pour moi, elle devient un poème entier grâce à ces deux points d’exclamation (!!).
Quel bonheur, pour moi, d’avoir pu lire quelques uns de tes poèmes rédigés en français, chantant, harmonieux et dont les mots expriment pleinement ton amour pour les Hommes et pour la Vie. Ces vers sont exquis mais ne m’ont pas autant émue que tes paroles, celles dont tu uses pour souhaiter à maman une nouvelle année de bonne santé, année chanceuse et débordante de bonheurs. Tes vỵux, finalement, c’est l’autre façon pour désigner le rêve. Les vỵux de Thiên Kim dont la maîtresse Phuong Khanh a pu garder les traces : ỡ J’ai demandé à Kim pourquoi tu apprends le vietnamienẨ ữ Kim a répondu, j’étudie le vietnamien pour lire les livres que tu écris et je voudrais également savoir ce que tu y écrisẨ ữ. Merci à ces maîtresses et maîtres de langue vietnamienne à l’étranger, qui ont consacré beaucoup de temps, d’énergie et parfois même leur propre argent juste pour avoir le bonheur de lire les cahiers des écoliers : ỡ parle le vietnamien comme tu manges la soupe tonkinoise, comme tu manges des nems, aussi naturellement que l’amour que les mères vietnamiennes réservent à leurs enfants ữ. Même certains étrangers apprennent à parler et à écrire le vietnamien. Plus encore, certains traduisent les livres vietnamiens en langue étrangère. Ils traduisent même le Roman de ‘’Kim-Vân-Kiêu’’ de Nguyên-Du en allemand, en anglais, en français. D’autres vont à la bibliothèque François Mitterand pour trouver des écrits de Vu Trong Phung, non encore édités en livre ; Ces personnes vietnamiennes ou non n’appartiennent pas forcément à la catégorie des personnes maîtrisant bien notre langue ! Être ou ne pas être vietnamien consiste simplement en le désir de remonter à ses origines. Est-ce qu’en connaissant peu sa langue maternelle, il serait plus facile de négliger l’amour que l’on pourrait éprouver pour sa mère ? Je ne suis pas certaine qu’il en soit ainsiẨ Selon mon observation et mon expérience, il est plus sủr que les personnes ignorant leur langue maternelle ne pourront pas témoigner un amour solide et fidèle pour leur pays.
Chère Thiên Kim, parmi tes poèmes que j’ai pu lire il y a beaucoup, oui beaucoup de beaux vers, parce que ỡ la littérature est source d’union ữ, comme l’illustrent ces quelques vers :
ỡ Ẩ Nous nous aimons
C’est la seule loi
A laquelle nous obéissons
Et nous somme libres
De notre choix
Toi et moi,
Unis pour la vie !.. ữ
(Extrait de ỡ Je t’ai attrapé ữ de Kim Agnès Hiver.)
J’ai tenté de m’en sortir harmonieusement dans cette traduction, selon mon interprétation:
Nguyện theo một luật thuong yêu
Đời ta hòa hợp với nhiều tự do.
Chère Thiên Kim, en temps normal, j’aurais dủ écrire un épilogue pour le roman ‘’Les Oiseaux du Vietnam’’, à propos de la qualité littéraire ou pour parler de l’auteur, comme il en est de règle pour les fins de livres mais ta mère l’a déjà personnellement fait à travers le poème ‘’Mây Vân Con Bay’’. Les lecteurs ont pu observer, concernant ta mère, un amour évident pour son pays, le cri de douleur d’une personne accablée par cet éternel remords : ỡ Tu es mère, et ta fille ne sait pas parler ta propre langue. C’est vraiment regrettable ! ữ, mais tristesse allégée de ce bonheur ỡ Non, non. Je ne l’oublierai jamais Maman ! ữ. Ne pas oublier c’est avoir en mémoire ces bercés, ces paroles câlines d’une mère durant notre enfance, se souvenir des reproches et conseils de maman à l’occasion de toutes ces erreurs innocentes ou volontaires, durant la période d’adolescence. Ainsi, la meilleure façon d’aimer maman c’est d’aimer sa langue maternelle. Peut-être que Thiên Kim et certains d’autres n’avaient jamais partagé avec moi ces points de vue.
Cependant, je vous remercie tous et avant tout, je remercie ỡ mille précieuses fois ữ Thiên Kim Agnes Hiver. !
Nguyên Thi Vinh
Na Uy Oslo, au mois de Janvier de l’hiver de l’an 2004
Traduction en Français DANG Anh-Cuong-Romain
Việt Dương Nhân
(Nguyễn Thị-Bảy)
Sanh 11 tháng 8 năm 1946
Tại Bình Chánh - Gia Định (Việt Nam)
Làm thơ, viết văn có những bút hiệu: Việt Quốc Hùng, Quốc Hương, Thanh Thiên Tâm, Nguyễn Chánh Nhựt, Song Bình, Hỏa Phong Địa Thủy, T.C.H. Từ năm 1977 đến nay (2003) đã đăng nhiều báo Hải Ngoại : Tiếng Gọi Phục Quốc, Việt Nam Tự Do Hải Ngoại, Tiếng Dân, Nhân Bản, Y-Giới-Việt-Nam-Tự-Do, Ép Phê, Thông Luận, Á Châu, Đất Nước, Chống Cộng, Luân Lưu, Liên Lục Địa, Ngày Mới, Bản Tin Quân Nhân... (France), Văn Tiến (Belgique), Nguyệt San Nghệ Thuật, Nguyệt San Việt Nam... (Canada), Trắng Đen, Cỏ Thơm, Sóng Thần, Thế Kỷ 21, Thi Văn, Hồn Quê, Chí Linh, Đại Chúng, Con Ong Việt, Giao Mùa, Về Nguồn, Cánh Én, Thời Báo, Tự Do Dân Bản, Văn Hữu, Thời Luận, Đặc San Biển Đông, Trống Đồng, (U.S.A.). Diễn Đàn Việt Nam - VN-Forum (Đức)... , Hương Xa (NâUy)... Góp mặt cùng với 27 nhà thơ Hải Ngoại trong ‘’Tuyển Tập Thơ Mùa Tình Yêu Xuân 2000’’ Cỏ Thơm xuất bản, do Lưu Nguyễn Đạt và Nguyễn Thi-Ngọc-Dung chủ trương tại Virginia - U.S.A. Có thơ trong quyển ‘’Esquisses de l’Âme’’ La Bibliothèque Internationale De Poésie 1999.
Và rất say mê đóng kịch, hát cải lương tại Pháp. Lấy nghệ danh Quốc Hương. Đã xuất bản và trình làng thi tập ‘’BỐN PHƯƠNG CHÌM NỔI’’ tại PARIS 1998. Tập truyện ‘’Gió Xoay Chiều’’ Xuất bản NGUYÊN VIỆT 2001.
Sắp ấn bản thi tập II ‘’CÁT Bụi’’, thi tập III ‘’Thoáng Qua’’, truyện dài ‘’Mai Ly’’, tập truyện III ‘’Bến Xưa’’.
Tâm niệm : Mong muốn tất cả nhân loại đều yêu thương nhau. Lòng luôn luôn cầu nguyện Hòa-Bình Thế-Giới.
Việt Dương Nhân - Nguyễn thị-Bảy
6, Rue Pierre Brossolette
94200 IVRY-sur-Seine (France)
Tél : 01.46.71.94.81 (Paris)
Vietduongnhan2@yahoo.fr