Chương 5
Tác giả: Yukio - Mishima
Tuy nhiên, lúc đó nàng không đi trong sân đại học. Bên ngoài những sân chơi còn có những con đường chạy san sát khu trú xá. Con đường thấp hơn mặt sân chơi độ khoảng nửa thước tây. Nàng đang đi trên con đường đó.
Người thiếu nữ bước ra từ cổng bên một ngôi nhà đồ sộ kiến trúc theo lối Tây Ban Nha. Căn nhà này trong khá mong manh, có hai ông khói, nhiều cửa sổ chấn song đan chéo nghiêng nghiêng và có mái kính che ôn thất để ươm cây; tuy nhiên toàn cảnh đã bị cái hàng rào sắt làm hư hỏng hết cả; hàng rào này, vươn lên cao ngất phía bên kia đường gần khu sân chơi đại học, hiển nhiên là đã được dựng lên vì những lời kháng nghị của chủ căn nhà đó.
Kashiwagi và tôi đang ngồi trên một cái ghế đu bên ngoài hàng rào sắt. Tôi nhòm khuôn mặt người thiếu nữ và thấy ngạc nhiên vô cùng. Khuôn mặt nàng thanh tú thật giống với tướng người Kashiwagi đã tả khi nói về loại con gái “thích những thằng con trai què quặt’. Sau này khi nghĩ lại sự ngạc nhiên mà lúc ấy tôi đã trải qua, tôi thấy mình thực là ngớ ngẩn và tự hỏi không biết Kashiwagi có quen biết hay nằm mơ thấy khuôn mặt ấy từ trước hay không.
Chúng tôi ngồi đó chờ đợi người thiếu nữ. Dưới tia sáng chan hòa mặt trời mùa Xuân đỉnh Tỉ Duệ xanh biếc nhô lên ở phía xa trong khi người thiếu nữ đang dần dần tiến lại gần chỗ chúng tôi ngồi. Tôi vẫn chưa hết nôn nao trong dạ vì những lời nói mới rồi của Kashiwagi - nó bảo cặp chân què quặt của nó và những người con gái của nó đã sờ sờ hiện ra đó đây trong thế giới của thực tướng, giống như hai ngôi sao ở trên trời, chẳng bao giờ va chạm vào nhau, và những lời nói kỳ quái của nó về truyện vẫn có thể thỏa mãn dục vọng trong khi tự thân vẫn chôn vùi trong thế giới mong manh và dường như thế giới của chúng tôi đã bắt đầu bất thần phơi bầy khía cạnh giả tưởng của nó. Mọi vật đều có vẻ mịt mờ màu tro than và ngay cả sự hiện hữu của chính tôi nữa cũng có vẻ mịt mờ. Dường như chi có đỉnh núi Tỉ Duệ tía hồng và người thiếu nữ xinh đẹp kia đang tiến lại gần chúng tôi là đang chói rạng trong thế giới của thực tướng và có một kiếp sống xác thực.
Chắc chắn là người thiếu nữ đang đi về phía chúng tôi. Nhưng với những giây phút trôi qua thời gian trở thành như một nỗi thống khổ mỗi lúc một to lớn, và nàng càng tiến lại gần chúng tôi thì một nét mặt khác lại càng hiện ra rõ rệt mỗi lúc một tươi sáng hơn - nét mặt của người khác không mang liên hệ gì với nàng.
Kashiwagi đứng phắt dậy, ghé vào tai tôi thì thào hổn hển: “Cất bước đi đi, Tao bảo mày mà. ”
Tôi phải cất bước theo lời nó. Hai đứa chúng tôi đi dọc theo bức tường bằng đá, cao hơn mặt đường khoảng chừng nữa thước tây, song song với người thiếu nữ và đi cùng về một hướng với nàng.
“Bây giờ nhẩy xuống đó!” Kashiwagi vừa nói vừa bấm móng tay sắc nhọn vào lưng tôi. Tôi bước qua bức tường đá thấp và nhẩy xuống đường, không khó khăn gì vì chỉ có nhẩy nửa thước tây xuống dưới. Nhưng khi mới vừa nhẩy xuống thì Kashiwagi đã ngã lăn đánh rầm một tiếng ngay bên cạnh. Vì cố gắng nhẩy bằng đôi chân què nên nó đã lăn kềnh ra. Cúi xuống nhìn tôi thấy cái lưng áo đồng phục đen của nó rập rờn như sóng lượn trên mặt đất. Trong khi nằm thừ lừ một đống, nó trông không có vẻ gì là một con người; trong một lúc tôi thấy nó giống như một vệt nhơ to tướng, đen ngòm, vô vị, giống như một trong những cái ổ gà đục ngầu những nước mà người ta thấy trên mặt đường sau khi trời mưa.
Kashiwagi đã nằm thù lù một đống ngay trước chỗ người thiếu nữ đang đi. Nàng đứng ngay sững như trời trồng tại đó. Khi quì xuống để nâng nó đứng dậy, tôi ngước mắt nhìn nàng - khi nom thấy cái mũi man mát và cao cao, cặp mắt vươn buồn của nàng, trong chớp nhoáng tôi thấy xuất hiện trước mình một khuôn mặt tôi đã nhìn thấy dưới ánh trăng, khuôn mặt Uiko ngày nào.
Ảo ảnh tan biến ngay tức khắc và giờ đây tôi trông thấy một thiếu nữ chưa quá hai mươi tuổi đang đưa mắt nhìn xuống tôi một cách khinh miệt. Tôi thấy hình như nàng sắp sửa nặng lời. Đối với những truyện này Kashiwagi lại còn nhậy cảm hơn tôi nữa. Nó bắt đầu lớn giọng kêu la. Tiếng kêu của nó âm vang khắp khu phố biệt thự vắng lặng ngắt.
“Hỡi con người lòng dạ sắt đá trơ trơ kia! Nỡ lòng nào bước bỏ mặc người ta như thế này ư? Vì ai mà người ta mới đến nông nổi này!”
Thiếu nữ quay trở lại. Nàng sợ run cả người, và đưa những ngón tay thon thon, khô ráo nàng hình như đang xoa cặp má trắng bệch của mình. Một lúc sau nàng quay về phía tôi và nói: “Tôi biết làm gì bây giờ?”
Tức thì Kashiwagi ngước lên trừng trừng nhìn người thiếu nữ. Rồi nó dằn giọng nói rõ từng tiếng một:
“Có phải là cô muốn bảo trong nhà cô cũng không có lấy một tí thuốc nào hay không?”
Thiếu nữ đứng đó lặng thinh trong giây lát. Đoạn nàng quay lưng và bắt đầu đi về phía mà vừa nẫy nàng đã từ đó đi ra. Tôi nâng Kashiwagi đứng dậy. Trước khi nó đứng hẳn dậy. Trước khi nó đứng hẳn lên, người nó nặng kinh khủng, hơi thở nó ngắt quãng, mệt nhọc, đau đớn. Nhưng khi tôi chìa vai cho nó tựa vào mà đi thì tôi thấy nó cất bước chân đi thật nhẹ nhàng mau mắn không sao ngờ nổi.
Tôi chạy tới chỗ xe điện ngừng trước bến xe Karasumaru rồi nhẩy tót lên một chiếc. Mãi tới lúc xe điện bắt đầu chạy về hướng Kim Các Tự tôi mới thể được ra hơi. Hai bàn tay tôi ướt đầm mồ hôi.
Vừa khi dìu Kashiwagi bước qua cổng bên căn nhà xây theo kiểu Tây Ban Nha ấy, tôi thấy vô cùng khiếp đảm. Tôi đã để mặc nó đứng đó với người thiếu nữ - nàng đứng trước mắt nó - rồi chẳng hề nhìn lại đằng sau, tôi co giò chạy thẳng. Tôi không có thì giờ dừng lại ở đại học, nhưng cứ cắm cổ chạy dọc theo đường phố vắng tanh, qua các hiệu thuốc, các hiệu bánh và các hiệu bán đồ điện. Tôi nhớ lại, qua khóe mắt mình, đã nhìn thấy cái gì màu tim tím và đo đỏ phất phơ trong gió nhẹ. Dường như khi qua trước cửa phân giáo hội Hoàng Đức thuộc Thiên Lý giáo, tôi đã nhìn thấy những cái đèn lồng với chụp đèn màu hoa mai nổi bật trên bức tường đen và những bức mành màu tím treo ở cổng ra vào cũng có chụp đèn màu hoa mai tương tự. Tôi chẳng rõ là mình đang chạy đi đâu. Khi xe điện dần dần tới ga Murasakino, tôi nhận thấy rằng nỗi lòng rối beng đang đem tôi trở lại Kim Các Tự.
Bây giờ chúng tôi đang ở giữa mùa du ngoạn: tuy hôm đó là ngày thường, song có rất nhiều người đến vãn cảnh chùa. Ông lão đưa đường già nua nhìn tôi một cách nghi ngờ khi tôi lách mình qua đám đông để chạy về chùa.
Và rồi tôi đứng đó - đứng trước Kim Các Tự, vào buổi chiều mũa Xuân này, giữa đám cát bụi quay cuồng và đám người lúc nhúc vây quanh. Trong lúc tiếng người dẫn đường lớn giọng vang xa, ngôi chùa dường như luôn luôn che giấu một nửa vẻ đẹp của nó và làm ra vẻ ngây ngô, ngốc nghếch. Chỉ có những hình ảnh rọi trên mặt ao là trong sáng mà thôi. Nhưng nếu nhìn ở một hướng nào đó thì những đám bụi trông sẽ giống như những đám mây, óng ánh sắc vàng bao quanh, các vị Bồ-tát trong bức tranh vẽ Chư Thánh họa cảnh đức Phật Di Đà giáng trần có những vị Bồ-tát vây quanh. Kim Các Tự cũng giống như thế trong khi đứng mịt mờ giữa các đám mây bụi trông nó giống như một bức họa cũ kỹ phai màu loang lổ. Kể cũng chẳng có gì kỳ dị khi bao nhiêu tiếng huyên náo hỗn tạp xung quanh đều tan chìm trong những hàng cột mảnh mai của ngôi chùa, loãng dần rồi tan biến vào bầu trời trăng trắng tiếp giáp với Cứu Cánh đính nhỏ bé cùng con chim phượng hoàng trên mái chùa trong khi chúng vươn mình lao vút trên mái chùa trong khi chúng vươn mình lao vút lên không gian. Nguyên một việc đứng sững ở đó, tòa kiến trúc này cũng đã là một sức mạnh tóm thâu và khuôn phép. Tiếng ồn ào chung quanh càng gia tăng thì Kim Các Tự - tòa kiến trúc mảnh mai, bất quân xứng ấy với Thấu Thanh ở một bên và trên đó là Cứu Cánh đính hai tầng bổng dưng thót lại ở trên đỉnh - lại càng có tác dụng một cái màng lọc biến nước đục thành nước trong. Ngôi chùa không hề gạt bỏ tiếng nói cười vui vẻ của khách vãn cảnh, nhưng thay vào đó nó gạn lọc những âm thanh ấy để cho chúng tan biến vào giữa những hàng cột thẩm thấu âm thanh và để trở nên thành phần của sự êm lặng và trong sáng. Như thế ngôi chùa đã thành tựu trên mặt đất đúng cái mà những bóng rọi trên mặt ao phẳng lặng đã thành tựu dưới nước vậy.
Tim tôi đã ôn hòa trở lại và cuối cùng sự sợ hãi của tôi cũng tan biến dần đi. Đối với tôi, vẻ đẹp là cái gì có bản chất như thế. Vẻ đẹp như vẻ đẹp này có thể tách rời tôi khỏi cuộc đời và che chở tôi trước cuộc đời.
“Nếu cuộc đời con mà giống cuộc đời Kashiwagi thì xin hãy che chở con. Bởi vì con không thể chịu đựng được nó. ” Đó là lời cầu nguyện tôi vẫn hằng thốt ra khi đứng đó đối diện với ngôi chùa. Điều mà Kashiwagi đã gợi cho tôi hay trong câu truyện của nó và điều mà nó đã trực tiếp diễn ra ngay trước mắt tôi chỉ có thể có nghĩa coi sinh và diệt là một và có cùng một ý vị như nhau. Một cuộc sống như thế thiếu tất cả những gì tự nhiên và cũng thiếu cả vẻ đẹp của một tòa nhà giống như Kim Các Tự; thực vậy, chẳng qua chỉ là một thứ run rẩy co quắp đau đớn. Tôi chẳng chối cãi rằng tôi đã bị một cuộc sống như vậy lôi cuốn ghê gớm và tôi tìm thấy trong cuộc sống ấy hướng đi của chính mình; tuy nhiên, kể cũng ghê tởm khi nghĩ rằng trước hết người ta phải khổ công xoay xỏa đến đổ máu bàn tay vì những mảnh vụn gai góc của cuộc đời. Kashiwagi khinh miệt cả bản năng lẫn lý trí con người. Giống như một quả bóng da có hình thù kỳ quái, chính cuộc sống của nó đã lăn lộn nhiều lần và cố gắng phá vỡ bức tường thực tại. Cuộc sống ấy chẳng hề dính dáng gì đến một hành vi nào hết. Tóm lại, cái cuộc sống mà nó đã gợi ra cho tôi là một trò hề nguy hiểm để con người cố gắng phá tan cái thực tại đã đánh lừa mình bằng một bộ áo giả trang chưa ai hay biết, và với cái này con người tảo thanh thế giới để cho trần thế không phải bao giờ chứa đựng cái gì chưa ai hay biết nữa.
Tôi hiểu tất cả những cái này là nhờ về sau có nhìn thấy một bức tranh ở căn nhà trọ của Kashiwagi. Đó là một tấm tranh thạch bản đẹp đẽ in hình dẫy núi Alpes của Nhật Bản do một hiệp hội du lịch ấn hành. Trên những đỉnh núi trắng nhô lên cao lên bầu trời xanh, có một hàn chữ viết ngang “Xin mời quí vị đi tới thế giới chưa ai hay biết!” Kashiwagi đã lấy loại mực đỏ rất đậm bôi xóa hết những hàng chữ nầy. Và bên cạnh đó, với nét chữ bay bướm đặc biệt của nó, nét chữ làm tôi nhớ đến dáng điệu đôi chân tật nguyền của nó, nó đã phóng bút: “Ta không thể chịu được một cuộc sống không ai hay biết.”
Ngày hôm sau khi đi đến trường, tôi rất đổi lo lắng về Kashiwagi. Nghĩ cho cùng kể ra bỏ nó mà chạy như thế thực là không nên không phải với bạn bè, tuy vậy tôi không hề cảm thấy có một trách nhiệm đặc biệt nào. Tôi thấy khó chịu là khi nghĩ là sáng hôm đó nó có thể không đến lớp để nghe giảng. Tuy nhiên, ngay khi bài giảng sắp sửa bắt đầu, thì tôi thấy Kashiwagi nghênh ngang lết vào trong phòng học vẫn với dáng điệu không tự nhiên thường lệ.
Vừa đến lúc nghỉ sau giờ giảng tôi liền mau mắn chạy đến nắm lấy tay Kashiwagi. Một cử chỉ khoái hoạt như vậy, tự nó đối với tôi, thật đã có vẻ lạ lùng. Kashiwagi nhếch mép mỉm cười, rồi theo tôi đi ra hành lang.
“Mày không bị đau lắm đấy chứ?”
“Bị đau?” Kashiwagi vừa nhìn tôi vừa mỉm cười một cách thương hại. “Tao bị đau lúc nào vậy? Hê? Cái gì đã khiến cho mày nghĩ là tao bị đau hả?”
Tôi đứng câm như hến chẳng nói được câu nào trước những lời nói ấy. Sau khi đã châm chọc tôi bằng thích. Kashiwagi mới giải rõ: “Trò đó chỉ là đóng kịch mà thôi. Tao đã tập luyện cách ngã xuống con đường ấy không biết bao nhiêu lần rồi. Giờ tao đạt đến cái công phu có thể ngã lăn lóc khiến ai cũng lầm tưởng là tao ngã đến gẫy xương. Tao phải thú nhận tao chưa hề tính tới truyện cô bé ấy làm quá đến cái độ bước qua chúng mình với nét mặt lãnh đạm hoàn toàn như thế. Nhưng mày phải thấy những gì đã xẩy ra sau đó mới được. Cô ả đã bắt đầu phải lòng tao rồi. Hoặc hơn thế nữa, nói cho đúng ra, cô ả đã bắt đầu phải lòng đôi chân què quặt của tao. Mày ạ, em bé đã tự tay lấy thuốc đỏ bôi vào đôi chân tao đó!”
Nó kéo ống quần lên cho tôi xem ống chân bôi thuốc loe loét vàng khè. Bây giờ tôi mới hiểu rõ cái trá thuật của nó. Hiển nhiên, khi cố ý ngã lăn xuống mặt đường là nó muốn làm cho cô bé phải thích nó, nhưng há nó đã chẳng che giấu đôi chân què quặt bằng cách giả vờ bị thương đó hay sao? Nhưng sự thắc mắc này chẳng những đã không làm tôi khinh miệt nó mà ngược lại còn khiến tôi càng thêm thân thiết với nó hơn. Ngoài ra, tôi lại có cảm nghĩ rằng - một cảm nghĩ thật trẻ con - triết lý của nó càng có nhiều trò lừa dối bao nhiêu thì lại càng chứng tỏ là nó thành thật với cuộc đời bấy nhiêu.
Tsurukawa không bằng lòng cho tôi chơi với Kashiwagi và nó đã lấy tình thân mà ngay thẳng khuyên can tôi nhiều lần; tuy nhiên những lời khuyên can ấy chỉ làm tôi khó chịu. Để trả lời sự phản đối của nó tôi đã đi xa đến độ nói rằng đối với một người như nó muốn tìm những người bạn tốt thì chẳng khó khăn gì, nhưng tôi cũng cho nó biết là riêng phần tôi, Kashiwagi là một người bạn rất là tương ứng. Sau này tôi hối hận biết bao khi hồi tưởng lại vẻ buồn không nói nên lời trong ánh mắt Tsurukawa vào lúc ấy!
Vào tháng năm, Kashiwagi dự định tổ chức một cuộc du ngoạn đến vùng Arashiyama kế cận Kyoto. Vì ghét những ngày nghỉ quá đông người đi, nó quyết định bỏ học để đi chơi trong một ngày thường. Điều lạ đời là nó bảo rằng nếu trời đẹp thì nó sẽ không đi, và chỉ hôm đó mây trời u ám, vần vũ. Nó sẽ dắt theo cô bé ở căn nhà kiến trúc Tây Ban Nha, đồng thời thu xếp để dẫn theo cho tôi một cô bé ở căn phòng bên cùng nhà trọ với nó.
Chúng tôi sẽ chờ gặp nhau ở ga Kitano trên đường xe điện đi đến Keifuku. May thay hôm đó là một ngày khác thường trong năm - u ám và ủ dột đúng như ý muốn Kashiwagi.
Đúng vào lúc Tsurukawa đang có truyện rắc rối trong nhà nên đã nghỉ học một tuần để đi về Tokyo. Thật là tiện lợi cho tôi. Tuy Tsurukawa chắc chắn không phải là loại người về chùa mách tội tôi song tôi cảm thấy yên lòng là không cần phải lẻn đi mà không cho nó biết sau khi đi cùng với nó đến trường vào buổi sáng.
Nghĩ đến cái buổi đi chơi núi hôm ấy là tôi lại thấy khó chịu. Cả bốn đứa chúng tôi đi chơi hôm đó đều trẻ tuổi cả, nhưng hình như suốt ngày hôm đó chỉ thấy toàn những điều u ám, bực bội, khó chịu, trống rỗng riêng của tuổi trẻ. Chắc hẳn là Kashiwagi đã tiên liệu điều này nên đã dụng ý chọn một ngày khi trời mây thật u ám. Có một trận gió từ hướng tây nam thổi lại; đúng vào lúc mình tưởng nó sẽ thổi hết sức mạnh mẽ thì bất thình lình trận gió lại tan đi để sau đó chỉ còn những làn gió khó chịu. Bầu trời vần vũ, nhưng thỉnh thoảng mặt trời cũng ló ra ánh sáng chói lọi. Có những đám mây sáng rực trắng xóa, y như bộ ngực trắng nõn của một người đàn bà mà mình có thể loáng thoáng nhìn ra qua bao nhiêu lớp vải, nhưng ở phía xa hơn, màu trắng ấy trở nên mơ hồ, và tuy mình vẫn có thể ngó mặt trời ở chỗ nào, song thực ra mặt trời đã chìm tan với màu sắc đều đặn buồn bã của bầu trời.
Kashiwagi không hề nói dối trong những lời ước hẹn. Nó đã xuất hiện đúng giờ ở cửa ga, hai người con gái trẻ tuổi cặp kè hai bên. Một trong hai người quả thực là người mà chúng tôi đã gặp. Một thiếu nữ xinh đẹp, với sóng mũi cao cao, man mát và cái miệng hơi trề; nàng mang một bình nước trên vai áo đầm, theo như tôi thấy, may bằng vải nhập cảng. Bên cạnh nàng là cô gái hơi mập ở nhà trọ, kém cả y phục và dung mạo. Chỉ có cái cầm nhỏ bé và cặp môi trông như thể mím chặt lại và có vẻ hấp dẫn của con gái mà thôi.
Không khí cuộc đi chơi núi đáng lẽ phải vui vẻ lại đã hỏng bét ngay khi còn ở trong xe. Tôi chẳng nghe rõ Kashiwagi và thiếu nữ trẻ đẹp nói gì với nhau, song suốt thời gian ấy tôi chỉ thấy họ cãi lộn. Thỉnh thoảng nàng lại bấm chặt môi lại như thể ngăn chặn cho khỏi rơi nước mắt. Thiếu nữ từ nhà trọ có vẻ chẳng thèm quan tâm đến bất cứ truyện gì, cô nàng ngồi đó khe khẽ cất giọng ngân nga bài dân ca. Rồi đột nhiên, quay lại phía tôi, cô nàng kể câu truyện: ‘Gần chỗ ở của bọn này có một bà đẹp lắm dậy cách cắm hoa. Hôm nọ bà kể cho tôi nghe một thiên tình sử thật là buồn. Trong thời chiến bà có quen rồi yêu một sĩ quan lục quân, thế rồi chàng phải lên đường ra chiến địa. Hai người chỉ có đủ thì giờ tiễn đưa ngắn ngủi ở chùa Nam Thiền. Cha mẹ đôi bên tuy không chịu nhưng vẫn không ngăn cản nổi họ vì trước khi chia cách ít lâu người thiếu nữ đã có mang. Tội nghiệp cho đứa bé, nó qua đời ngay khi lọt lòng. Khi hay tin người sĩ quan than thở không cùng, và rồi đến lúc chia tay với người yêu, chàng bảo rằng nếu không có được đứa con thì ít nhất chàng cũng muốn chất sữa vắt ra từ vú người mẹ. Hai người không có thì giờ để đi ngay chỗ nào khác, bởi thế lúc đó và ngay đấy nàng đã vắt sữa từ vú mình vào cốc trà và đưa chàng uống. Chừng một tháng sau, người yêu của nàng chết trận. Từ đó trở đi, nàng chỉ sống một mình và không nghĩ đến truyện yêu thương gì với ai khác. Bà ta thực là một người xinh đẹp và hãy còn trẻ lắm.
Tôi nghi ngờ ngay cả tai mình. Cái tình cảnh khó tin ấy mà tôi đã cùng Tsurukawa chứng kiến vào lúc chiến tranh sắp kết thúc từ trên nóc sơn môn của Nam Thiền tự vụt tái hiện trong trí. Tôi đã định tâm không kể lại những hồi tưởng của mình cho cô gái nghe. Bỡi lẽ tôi cảm thấy nếu lúc này tôi kể những hồi tưởng ấy cho cô bé nghe sau khi nghe cô bé kể chuyện, tôi sẽ cảm động mà để lộ mối cảm động thần bí đã làm hai đứa chúng tôi say sưa, ngây ngất vào hôm đó tại chùa Nam Thiền. Giữ kín câu truyện của mình, tôi thấy dường như chẳng ai đã không đưa ra lời giải cho cái câu đố thần bí ấy mà thực ra lại còn đào sâu, tô đậm câu truyện ấy thần bí thêm bội phần.
Lúc đó tầu điện đang chạy gần khu rừng lớn đầy tre kế cận thác nước Narutaki. Vì vào cuối tháng năm, nên lá tre đang ngả sắc vàng. Gió sột soạt lùa qua cành cây, thổi những lá vàng khô rơi xuống trải đầy trên mặt đất; tuy nhiên phần gốc các cây tre, dường như không dây dưa gì với việc này, lặng lẽ quấn chằng chịt những gióng đốt to lớn với nhau. Chỉ đến lúc xe điện chạy vút sát bên cạnh những cây tre mới nghiêng ngả, lắc lư dữ dội. Giữa bụi tre có một cây tre non bóng lộn hiện ra lồ lộ. Nhìn nó uốn mình tôi thấy một ấn tượng đẹp đẽ lạ lùng trong sự vận động; tôi nhìn nó vặn vẹo uốn mình; rồi nó rời xa và biến dạng.
Khi tới Arashiyama chúng tôi đi bộ về phía cầu Togetsu rồi đến mộ nàng Kogo, mà không một đứa nào trong bọn để ý nhìn thấy từ trước. Ngày xửa ngày xưa cung nữ Kogo phải đến ẩn thân ở Sagano để tránh cơn giận dữ của Tairo Kiyomori. Vâng theo sắc mệnh, Minamoto Nakakuni đi dò xét tìm kiếm và một đêm trăng sáng giữa mùa thu nghe tiếng đàn văng vẳng dặt dìu, đã tìm ra nơi nàng cư ẩn. Đó là khúc đàn “Tưởng Phu Luyến”. Dao khúc Kogo có ghi: “Khi dấn mình vào trong bóng đêm thiết tha mong mỏi ánh trăng, chàng tới Horin và chính tại đây chàng nghe thấy tiếng đàn vẳng tới. Chàng chẳng rõ đó là tiếng phong ba đang thét gầm trên đỉnh núi hay làn gió đang nỉ non qua hàng thông. Tìm hỏi tiếng đàn nó là khúc nhạc gì, chàng được cho hay đó là điệu “Tưởng Phu Luyến”. Thấy vậy chàng mừng rỡ khôn tả, bởi vì điệu nhạc cho thấy người dạo đàn đang tha thiết thương yêu tưởng nhớ chồng mình.” Cung nữ Kogo đã sống trọn nữa sau đời mình ở Sagano để cầu nguyện cho vong hồn Hoàng đế Takakura.
Nấm mộ nằm ở cuối lối mòn nhỏ hẹp chỉ là một ngọn thạch tháp nhỏ bé dựng lên ở giữa cây phong to lớn và cây mai mục nát, héo khô. Kashiwagi và tôi đọc một bài kinh ngắn để làm lễ cho vong hồn nàng. Trong cách đọc kinh của Kashiwagi có một giọng cực kỳ báng bổ. Và rồi tôi cũng lây luôn cái giọng đọc đó, tôi cũng đọc một cách nhởn nhơ theo lối ngân nga bằng mũi của bọn học sinh khi tụng kinh vậy. Chút giọng báng bổ này đã làm cho tôi cảm thấy thực là cởi mở và hăng hái.
“Một nấm mồ ưu nhã như thế này mà trông có vẻ tàn tạ quá đỗi phải không?” Kashiwagi nói. “Bọn có quyền lực chính trị và kim tiền khi chết đều nằm ở những nấm mồ đẹp đẽ hơn cả. Mày thấy đó, thực là một nấm mồ đường đường tráng lệ phải không. Nhưng bọn nó trong lúc sinh tiền chẳng bao giờ có một chút tưởng tượng nào, và tất nhiên, bọn nó thường thường chỉ sống bằng sức tưởng tượng, vì thế chúng để lại những nấm mồ này thể nào cũng khuấy động sức tưởng tượng của người đời. Sau khi chết rồi, mày ạ, bọn nó vẫn còn tiếp tục van xin người đời dùng đến sức tưởng tượng của họ nữa.”
“Mày muốn nói sự ưu nhã chỉ có trong sức mạnh của trí tưởng tượng?” Tôi vui vẻ góp truyện. “Mày vẫn thường hay nói đến thực tướng. Thế theo mày nghĩ thì thực tướng của sự ưu nhã là cái quái gì?”
“Là cái này!” Kashiwagi vừa nói vừa lấy tay vỗ vào đỉnh ngọn thạch tháp phủ đầy rêu. “Đó là đá hoặc xương - bộ phận vô cơ mà con người bỏ lại sau khi đã nhắm mắt lìa trần. ”
“Mày có giọng con nhà Phật ghê gớm nhỉ?”
“Ăn thua gì đến Phật giáo hay cái quái gì tương tự?” Kashiwagi nói. “Ưu nhã, văn hóa, những gì người đời coi là cái đẹp - thực tướng của tất cả những thứ ấy chỉ là cằn cỗi và vô cơ. Mày há chẳng thấy Long An tự đấy ư, chẳng qua chỉ là một đống đá mà thôi. Điều quan tâm duy nhất của con người thực sự có tính cách hữu cơ ấy là chính trị. Thật là xấu hổ có phải không? Người ta chỉ còn có thể nói nhân gian chẳng qua chỉ là sinh vật tự mình bôi nhọ chính mình mà thôi. ”
“Thế còn tình dục? Đặt nó vào chỗ nào vậy mày?”
“Tình dục ấy à? Ừ, nó nằm ở trung gian. Đó là một cái vòng luẩn quẩn. Nhân gian và thạch chất chỉ nằm trong một vòng luẩn quẩn, giống như trò chơi bịt mắt bắt dê vậy. ”
Bỗng dưng tôi muốn thêm thắt vào đôi điều để gạt bỏ cái vẻ đẹp trong tư tưởng của nó, nhưng hai cô gái đã chán ngấy cuộc nghị luận của chúng tôi và đang quay trở lại đi dọc lối mòn nhỏ hẹp. Chúng tôi cũng quay lại và đuổi theo họ. Từ lối đi này mình có thể trông thấy giòng sông Hozu. Chúng tôi đã đến đúng ngay chỗ cái đập phía bắc cầu Togestu. Dẫy đồi Ranzan bên kia bờ sông mọc đầy cây cối xanh um, nhưng đúng tại quãng này một giải bọt nước trắng xóa trải dài qua dòng sông và tiếng reo vang dội khắp nơi chốn.
Chúng tôi cất bước dọc theo dòng sông cho lúc đi tới công viên Kameyama ở cuối đường. Trên sông có khá nhiều thuyền; nhưng khi đến cổng công viên, chúng tôi thấy chỉ toàn là giấy bẩn vất tứ tung: hiển nhiên là trong công viên hôm đó có rất ít khách đi dạo.
Đến cổng chúng tôi quay lại, rồi một lần nữa nhìn dòng sông Hozu và màu lá xanh xanh của ngọn Arashiyama. Người ta có thể nhìn thấy ở bờ sông đối diện một thác nước nhỏ.
“Cảnh sắc đẹp đẽ là địa ngục có phải không mày?” Kashiwagi lại nói.
Tôi cảm thấy khi nói năng như thế, Kashiwagi đã nói năng bừa phứa không đắn đo gì hết. Tuy nhiên, tôi thử đưa mắt nhìn cảnh sắc ấy với con mắt của Kashiwagi và nhận thấy rằng quả đúng như lời nó nói, cảnh sắc ấy chính là địa ngục. Sự cố gắng của tôi không phải là vô ích. Bởi vì lúc này tôi có thể nhìn thấy rằng địa ngục đang thực sự run rẩy trong cái cảnh im lìm, hỗn độn nằm trước mắt tôi. Cuộn tròn gói kín trong cái lớp lá xanh non tươi thắm. Hình như địa ngục có thể xuất hiện cả ngày lẫn đêm, vào bất kỳ lúc nào, tại bất kỳ chỗ nào chỉ để đáp ứng những suy tư hay dục vọng của con người. Hình như chúng ta có thể mời gọi nó bất kỳ lúc nào chúng ta muốn và địa ngục sẽ xuất hiện ngay tức khắc.
Những cây anh đào ở Arashiyama, theo như người ta nói được mang từ rừng cây nổi tiếng ở núi Yashimo về trồng lại vào thế kỷ mười ba, đã hoàn toàn trụi hết hoa và đang bắt đầu trổ lá xanh. Khi mùa hoa anh đào chấm đứt, những cây này chỉ có thể được gọi bằng cái tên mà người ta thường dùng để gọi những mỹ nhân đã chết.
Phần lớn cây cối trong công viên Kameyama đều là những cây tùng, và ở đây, vào cuối mùa, màu lá vẫn không thay đổi. Đó là một công viên rộng lớn và có những đồi cây trùng điệp. Những cây tùng đều cao vút và trơ trụi chỉ tít trên cao mới có lá mà thôi. Xa gần có một cái gì lộn xộn, bừa bãi trong công viên này với biết bao thân cây trần trụi chằng chịt cuốn lấy nhau không theo khuôn phép gì cả. Một lối đi rộng chạy quanh công viên; lối đi này có nhiều quãng dốc gồ ghề; vì vậy khi mình tưởng nó sắp sửa đi lên thì nó lại đi xuống. Đó đây tôi thấy có những gốc cây bị đốn, những lùm cây và những cây tùng nhỏ bé. Gần chỗ những tảng đá lớn trắng toát nửa mình vùi dưới đất nửa mình nhô lên trên, cây đỗ quyên trổ hoa nửa tím nửa hồng xum xuê. Dưới bầu trời vần vũ sắc hoa trông trông như chứa đựng đầy ác ý. Chúng tôi trèo lên một ngọn đồi nhỏ rồi ngồi xuống nghỉ chân dưới một lùm cây có hình một chiếc ô. Phía dưới chúng tôi, trên một đoạn dốc thoai thoải có một chiếc ghế xích đu, trên đó một cặp tình nhân đang ngồi. Từ chỗ đang ngồi, chúng tôi có thể nhìn thấy toàn thể công viên trải dài đến tận hướng đông, và ở hướng tây, qua hàng cây, chúng tôi có thể nhìn xuống mặt nước sông Hozu. Tiếng chiếc ghế đu cót ca cót két vang tới chỗ chúng tôi ngồi dưới tàn cây nghe như tiếng răng nghiến trèo trẹo.
Cô bạn trẻ đẹp của Kashiwagi mở gói đồ ăn mà nàng đã mang theo từ trước. Chẳng phải là nói đùa, thằng này thật chí lý khi bảo rằng chúng tôi chẳng cần đi đâu để ăn cơm trưa cả. Trước mặt chúng tôi bày la liệt đủ thứ, nào là sandwich, nào là bánh bích qui nhập cảng, lúc đó hãy còn khó khăn lắm mới mua được, và cả một chai uýt ky Suntory nữa, vào lúc ấy chỉ có thể mua ở chợ đen, bởi vì chính phủ đã thông cáo tất cả đồ tiếp tế đều dành cho Quân đội Chiếm đóng. Trong vùng Osaka - Kyoto - Kobe thành phố Kyoto vẫn được người ta cho là trung tâm mua bán đồ chợ đen.
Tôi phải khó khăn lắm mới nuốt được rượu mạnh; tuy nhiên, khi cô gái mời Kashiwagi và tôi mỗi đứa một ly nhỏ, tôi đưa cả hai tay cung kính đón nhận liền. Hai thiếu nữ uống hồng trà rót từ bình nước ra. Tôi vẫn còn nửa tin nửa ngờ, băn khoăn không biết tại sao mà Kashiwagi và cô bạn nó đã đi tới chỗ thân thiết với nhau đến như thế được. Tôi không thể hiểu tại sao thiếu nữ này, trông thật kiêu kỳ, lại đã có thể trở nên thân thiết với một thằng thư sinh què quặt, nghèo kiết như Kashiwagi. Sau khi đã uống ba cốc uýt ky, nó mới bắt đầu nói như thể để giải đáp những nghi vấn hãy còn vướng mắc trong đầu tôi.
“Mày còn nhớ sáng nay ở trên xe điện hai đứa tụi tao cãi nhau ầm ĩ không?” Nó nói. “Ấy chỉ bởi vì gia đình cô bé này cứ nằng nặc bắt cô ta phải kết hôn với một thằng mà cô bé chẳng hề thương yêu. Đối với vấn đề ấy cô bé có vẻ như sắp sửa mềm lòng và sẵn sàng chịu lời ép buộc của cha mẹ vào bất cứ lúc nào. Vì thế tao đã phải an ủi cô bé, đe dọa cô bé và bảo cô bé rằng tao sẽ ngăn cản đến cùng cái đám cưới này. ”
Lẽ ra nó chẳng nên nói năng như thế trước mặt thiếu nữ này, ấy thế nhưng Kashiwagi cứ tỉnh bơ làm như thể nàng không có mặt ở đó. Thiếu nữ chẳng hề lộ một chút xúc động nào, nét mặt nàng chẳng hề thay đổi mảy may. Quanh cái cổ thon thon, mềm mại nàng đeo một chuỗi hạt ngọc thạch màu xanh. Nét mặt nàng hầu như in hằn nổi bật quá rõ trên nền trời vần vũ, nhưng đã được mớ tóc rậm và đen làm dịu bớt đi. Đôi mắt nàng sâu thẳm; chỉ có đôi mắt này thôi cũng đã cho mình một ấn tượng trần trụi, tươi sáng. Như thường lệ, cái miệng có vẻ trề của nàng hé mở. Trong khoảng cách he hé giữa hai làn môi, hàm răng nhỏ, sắc và đều của nàng trông tươi mát, ráo khô và trắng bong, giống như răng của một động vật nhỏ bé.
“Ối, đau, đau quá!” bổng đưng Kashiwagi khom mình ôm chặt lấy chân mà kêu rầm lên. Tôi hoảng hốt chạy xổ lại và tìm cách giúp đỡ nó, nhưng nó đẩy tay tôi ra, đồng thời nhe răng cười một cách lạnh lùng, châm chọc. Tôi vội rụt tay lại.
“Ối ối đau!” nó rền rĩ bằng một giọng vô cùng thảm thiết. Lúc đó tôi tình cờ đưa mắt nhìn thiếu nữ trẻ đẹp bên cạnh. Nét mặt nàng thay đổi rõ rệt. Mắt mất hẳn ánh bình thản và miệng đang run lên bần bật. Chỉ có cái mũi man mát, cao cao là hình như bất động trước những gì đang xảy ra và tạo nên một nét tương phản lạ kỳ. Vẻ điều hòa và cân xứng trên khuôn mặt ấy đã hoàn toàn tan nát.
“Ôi, chịu khó một chút!” nàng nói. “Chịu khó một chút nào! em sẽ làm cho anh bớt đau ngay lập tức mà. ” Đây là lần đầu tiên tôi nghe thấy nàng nói bằng cái giọng thất thanh này, làm như thể chỉ có nàng ở đó với thằng bạn trai mà thôi. Ngửa cái cổ thon dài, duyên dáng lên nàng nhìn thẩn thờ đó đây một lúc, rồi quỳ ngay xuống hòn đá dưới tàn cây và ôm lấy chân Kashiwagi. Nàng áp má vào chân nó, rồi cứ thế mà hôn.
Một lần nữa tôi lại bàng hoàng sợ hãi như trước. Tôi quay sang thiếu nữ ở nhà trọ. Nàng đang nhìn đi nơi khác và đang ngân nga giọng mũi mà hát một mình.
Vào lúc ấy dường như mặt trời đã xuyên thủng qua đám mây, nhưng tôi nhận thấy đó chỉ là một ảo giác. Tuy vậy, cách bố cục toàn cảnh công viên đã mất vẻ điều hòa của nó. Tôi cảm thấy nhiều nếp rạn nứt nho nhỏ đã bắt đầu hiện rõ khắp trên bề mặt bức tranh trong sáng bao gồm cả chúng tôi - cái bức tranh trong sáng ấy bao gồm rừng thông, ánh sáng phản chiếu trên mặt sông, dẫy đồi phía xa xa, những tảng đá trắng toát và những cây đỗ quyên mọc rải rác đó đây.
Hiển nhiên phép lạ hằng mong đợi đã xẩy ra và những tiếng rên la của Kashiwagi cũng nguôi dần. Nó ngẫng đầu lên đồng thời lại quay về phía tôi nhoẻn nụ cười lạnh lùng nhăn nhở.
“Khỏi hẳn rồi,” nó nói. “Em đã chữa cho anh hết đau rồi. Thật lạ kỳ có phải không? Khi nó bắt đầu làm anh đau và em làm như thế cho anh thì anh hết đau liền tức khắc. ”
Nó lùa hai tay vào mái tóc thiếu nữ và nâng mặt nàng lên. Thiếu nữ nhìn nó với dáng vẻ của một con chó trung thành, rồi mỉm cười. Vào lúc ấy ánh sáng xuyên qua những đám mây lúc tăng lúc giảm là cho nét mặt thiếu nữ xinh đẹp này trông giống hệt nét mặt bà lão sáu mươi tuổi ấy mà Kashiwagi đã có lần kể truyện cho tôi nghe.
Sau khi đã làm xong phép lạ, Kashiwagi vui mừng hớn hở. Quả vậy nó hớn hở vui mừng đến độ như điên cuồng. Nó cười hô hố, bế xốc thiếu nữ đặt lên đầu gối rồi hôn lấy hôn để. Tiếng nó cười ngân vang đến tận những cành thông ở tận chân đồi.
“Tại sao nhà ngươi không tỏ tình với cô bé ấy hử?” nó nói với tôi trông lúc tôi ngồi im lặng ở đó. Ta tổn hao công phu đem cô bé đến đây là để riêng cho nhà ngươi, ngươi có biết không. Hay là ngươi e ngại, thẹn thùng khi nghĩ cô bé sẽ cười khi nhà ngươi nói không ra lời? Mạnh dạn lên nào - nói lắp, nói lắp! Ví như nhà ngươi biết, rồi ra cô nàng sẽ chợt thấy mình đem lòng yêu một thằng nói lắp cho mà coi!”
Lời nói của nàng châm chọc tôi dữ dội và khiến tôi cảm thấy không thể ngồi yên một chỗ nữa. Nhưng, lạ lùng thay, sự ghét bỏ của tôi đối với cô gái đột nhiên biến thành một thèm muốn làm cho tôi choáng váng cả người.
“Tại sao tụi mình không thể tách thành hai nhóm nhỉ?” Kashiwagi vừa nói vừa nhìn cặp tình nhân trẻ hãy còn ngồi trên ghế đu. “Mỗi đứa dẫn em bé của mình tới một nơi vắng vẻ rồi hai giờ sau lại gặp nhau ở đây. ”
Tôi và cô gái từ nhà trọ rời Kashiwagi và người tình của nó; chúng tôi xuống đồi rồi đi lên một con dốc thoai thoải về hướng đông.
“Thằng cha sẽ bầy trò làm cho con bé ấy tưởng mình là một thánh nữ. Ấy, thằng cha ấy vẫn có cái trò như thế. ”
“Tại sao em biết?” tôi nói ấp a ấp úng thực tàn tệ hỏi lại.
“Ừ, chính em trước kia cũng có dính líu với Kashiwagi, anh ạ. ”
“Bây giờ giữa hai người thì hết rồi phải không? tôi nói. “Vậy mà em vẫn coi nhẹ việc đó quá chừng.”
“Vâng, em coi truyện đó không có gì, đúng thế. Với một người tật nguyền như vậy biết làm thế nào được.”
Lần này những lời nàng nói thay vì làm tôi cáu giận thì khiến tôi bạo dạn thêm và tôi buộc miệng khẻ hỏi: “Em yêu đôi chân tàn tật của nó phải không?”
“Xin can!” nàng nói. “Em không muốn nói đến cặp chân ếch của hắn. Nhưng em nghĩ rằng hắn có đôi mắt đẹp thật dễ yêu. ”
Đến đây một lần nữa tôi lại mất lòng tự tin. Dù cho Kashiwagi có nghĩ gì đi nữa thì cô gái này cũng đã yêu một cái đẹp nào đó của nó mà chính nó không hay; và bây giờ như chỗ tôi nhận ra, điều tôi cứ ngạo mạn tin tưởng rằng bản thân tôi chẳng có cái gì là tôi không biết thực ra là do kết quả việc tôi đã đặt riêng mình ra như một con người chẳng hề có lấy riêng mình ra chút gì là đẹp đẽ.
Khi tới đầu dốc, chúng tôi rẽ vào một thửa ruộng nhỏ, yên tịnh. Phía xa xa, qua hàng cây thông và cây sam, người ta có thể loáng thoáng nhìn thấy ngọn núi Daimonji, Nyoigatake và những ngọn núi khác. Một rừng tre xanh chạy từ quả đồi, chỗ chúng tôi đứng, xuống tới con dốc dẫn về phía thành phố. Ở ven rừng tre ấy chỉ còn có một cây anh đào nở muộn duy nhất hoa chưa hề rụng đang đứng nghênh ngang. Hẳn rằng đó là những bông hoa nở muộn và tôi tự hỏi có phải vì khi mới đâm nụ chúng cứ nói lắp mãi nên mới muộn mằn như thế.
Tôi cảm thấy tức ngực và bụng nặng chình chịch. Tuy nhiên, đó không phải vì rượu. Bây giờ thì gần tới giây phút gay cấn, sự thèm khát của tôi mỗi lúc một nặng thêm để trở thành một cấu tạo trừu tượng tách riêng khỏi chính thân xác tôi rồi đi xuống hai vai tôi khiến chân tôi cảm thấy như một cái máy bằng sắt nặng chịch, đen sì.
Như tôi đã nói nhiều lần tôi hết sức biết ơn Kashiwagi khi nó hoặc vì thân tình hoặc vì ác ý, thúc đấy tôi tiến tới cuộc đời. Từ lâu tôi đã tự mình thấy rõ rằng ngay khi còn học trung học tôi đã chủ tâm vạch nát cái bao kiếm của người đàn anh, thực không có tư cách để đáng được bước vào cuộc đời qua mặt tiền xán lạn. Chính Kashiwagi là thằng bạn đầu tiên đã dậy cho tôi biết con đường hẻm tối om để tôi men theo mà có thể bước vào cuộc đời bằng cổng hậu. Thoạt nhìn cái này có vẻ như một đường lối tất yếu dẫn tới sự phá diệt; tuy vậy, nó lại chứa đầy những thuật số chẳng ngờ; nó biến hèn yếu thành bạo dạn và có thể gọi nó là thứ thuật luyện kim, biến cái chúng ta vẫn gọi là ác đức trở lại thành cái năng lượng thuần túy ban đầu. Và cái này thực ra là một loại cuộc đời. Đó là một cuộc đời tiền tiến, một cuộc đời hoạch đắc, một cuộc đời suy di, một cuộc đời có thể táng thất. Khó lòng gọi nó là cuộc đời điển hình, tuy vậy nó may mắn có đầy đủ mọi cơ năng của một cuộc sống. Cho là tại một nơi nào đó chẳng ai trông thấy, chúng ta phải đối đầu với tiền đề rằng mọi hình thức của cuộc đời đều vô mục đích, do đó cuộc đời mà Kashiwagi đã chỉ cho tôi biết hẳn dần dần phải có một giá trị tương đương với những loại cuộc đời theo thông lệ.
Tôi nghĩ chẳng thể nào nói rằng Kashiwagi không bị say sưa. Từ lâu tôi đã nhận thức được rằng trong bất kỳ hình thức hiểu biết nào, dù cho có u tối đến đâu đi nữa, vẫn thấy thập thò sự say sưa của chính sự nhận thức. Như vậy thì chung cục rượu là cái được dùng để làm cho người ta say sưa vậy.
Tôi và cô gái trong nhà trọ ngồi xuống bên cạnh đám hoa đỗ nhược tàn úa và đây sâu. Tôi không hiểu tại sao cô ả lại muốn làm thân với tôi theo lối này. Tôi không hiểu - tôi cố ý dùng lời nói tàn ác này - có cái xung động nào đó đã thúc đẩy nàng muốn bị dây bẩn như thế này. Trong thế giới chúng ta này nên có sự vô-để-kháng tràn đầy hổ thẹn và dịu dàng, nhưng thiếu nữ này chỉ để cho đôi tay tôi chạm vào bàn tay nho nhỏ, mũm mĩm của nàng, giống như đàn ruồi bậu trên một người đang ngủ trưa mà thôi. Tuy nhiên, cái hôn kéo dài và làn da mềm mại, mát mịn trên cầm nàng đã đánh thức dục vọng của tôi trỗi dậy. Đó là điều tôi vẫn hằng mơ tưởng bây lâu nay, tuy vậy thực ra chính cái cảm giác này thì lại hời hợt và mong manh. Dục vọng của tôi không có vẻ tiến lên thẳng, nhưng lại chạy vòng quanh. Bầu trời đầy mây trắng, tiếng bụi tre sột soạt, cố gắng khó nhọc của con cánh cam trong lúc bò lên cây đỗ nhược - tất cả những thứ này vẫn ở trạng thái vô trật tự y hệt như lúc trước.
Tôi cố gắng trốn chạy bằng cách nghĩ rằng thiếu nữ trước mặt tôi chính là đối tượng cho dục vọng của tôi. Tôi phải nghĩ đến cái này như là lằn ranh duy nhất trên con đường tiến tới và nắm giữ của tôi. Bởi vì, nếu tôi bỏ lỡ dịp may này thì nhân sinh sẽ vĩnh viễn chẳng bao giờ đến thăm tôi nữa. Tôi nhớ lại biết bao nhiêu lần chỉ vì tật nói lắp mà lời nói của tôi đã bị chặn lại và không làm sao thoát ra khỏi miệng. Vào lúc này, hẳn tôi phải quyết tâm mở miệng. Vào lúc và nói điều gì, dù cho có phải lắp bắp cũng mặc. Như thế tôi mới có thể biến cuộc đời thành của riêng tôi. Lời thúc đẩy tàn ác của Kashiwagi, cái lời hối thúc đầy tàn ác của Kashiwagi, cái lời hối thúc thô lậu của nó: “Nói lắp, cứ nói lắp bừa phứa đi!” vang vang bên tai cổ vũ cho tôi. Sau cùng tôi lùa tay dần dà vén váy nàng lên.
Vào lúc đó Kim Các Tự hiển hiện trước mắt tôi.
Một tòa nhà kiến trúc âm u, tiêm tế, nhưng đầy vẻ uy nghi. Tòa kiến trúc có tấm lá vàng nhiều chỗ rách nát và trông tựa như nắm xương tàn của vẻ lộng lẫy xưa kia. Đúng. Kim Các Tự hiện ra trước mắt tôi - cái tòa nhà kiến trúc kỳ lạ ấy khi mình tưởng là gần kề thì lại hóa ra xa cách, cái tòa nhà luôn luôn bồng bềnh rõ rệt ở một cự li lạ lùng nào, thân thiết mà cách xa với người ngắm nhìn. Chính tòa kiến trúc đó lúc này dã tới đứng giữa tôi và cuộc đời tôi đang định tiến tới. Thoạt đầu nó nhỏ bé như một bức tranh thu gọn, nhưng một lúc sau trở nên to lớn dần đến độ hoàn toàn chôn vùi cái thế giới bao quanh tôi, lấp đầy mọi hoắm, mọi khe của thế giới này, y như trong cái mô hình khéo léo mà đã có lần tôi thấy Kim Các Tự, cái mô hình đồ sộ đến nỗi nó bao trùm hết mọi thứ khác. Nó lấp đầy thế giới như một thứ âm nhạc mênh mang nào đó, và chính âm nhạc này đã đủ để chiếm hết tất cả những ý vị của thế giới. Kim Các Tự có những lúc thường như quá ư xa lạ với tôi và vươn lên không gian vượt khỏi tầm tay tôi, đến lúc này lại hoàn toàn bao trùm lấy tôi và cho tôi một vị trí trong nội bộ cấu tạo của nó.
Cô gái trong nhà trọ vụt bay xa giống như một hạt bụi nhỏ xíu. Nàng đã bị Kim Các Tự gạt bỏ ra sao thì những cố gắng tìm kiếm cuộc đời của tôi cũng bị gạt bỏ như vậy. Làm sao tôi có thể vươn tay ra, tìm kiếm cuộc đời khi bị bao trùm trong cái đẹp như thế này? Có lẽ cái đẹp có lập trường đòi hỏi tôi phải từ bỏ những quyền lợi trước kia của mình. Vì rõ ràng là chẳng làm sao có thể đưa tay này sờ tới vĩnh viễn và tay kia sờ tới cuộc đời. Nếu như ý vị của những hành vi mà ta hướng về cuộc đời là ta có thể thề nguyền trung thực đối với một khoảnh khắc nào đó và làm cho khoảnh khắc ấy ngưng đọng hẳn lại, thì có nhẽ Kim Các Tự đã hiểu rõ được điều này và đã có lúc chối bỏ thái độ xa lạ thường lệ của nó đối với tôi. Hình như ngôi chùa đã hóa thân trong một khoảnh khắc như chính ngôi chùa đã làm lúc này. Chính vào những lúc như thế này mà sự hiện hữu vĩnh viễn của cái đẹp mới thực sự làm tắc nghẽn cuộc đời và đầu độc cuộc đời chúng ta. Cái đẹp khoảnh khắc mà cuộc ngắn ngủi và đã đến công viên này thăm tôi nên tôi mới hiểu rõ nỗi khát vọng của tôi đói với cuộc đời mới thực trống rỗng biết bao. Trong cuộc sống, cái khoảnh khắc hóa thân thân vĩnh cữu thường làm chúng ta say sưa ngây ngất; nhưng Kim Các Tự thừa hiểu rằng một khoảnh khắc như thế chẳng có ý nghĩa gì nếu đem so với những gì đã xẩy ra khi vĩnh viễn hóa thân thành một khoảnh khắc như chính ngôi chùa đã làm lúc này. Chính vào những lúc như thế này mà sự hiện hữu vĩnh viễn của cái đẹp mới thực sự làm tắc nghẽn cuộc đời và đầu độc cuộc đời chúng ta. Cái đẹp trong khoảnh khắc cho ta nhìn thấy thường vô hiệu đối với chất độc như thế. Chất độc sẽ nghiền nát và tiêu hủy nó ngay tức khắc và cuối cùng phơi bầy chính cuộc đời ra dưới ánh sáng nhợt nhạt của diệt vong.
Thực ra, tôi chỉ bị cái ảo tưởng này của Kim Các Tự bao trùm kín mít trong một chốc lát mà thôi. Khi tôi quay lại với mình, ngôi chùa đã nấp kín rồi. Đó chỉ là một tòa kiến trúc hãy còn xa tít tận phía đông bắc ở Kinugasa mà từ đây tôi không thể nhìn được. Giây phút ảo ảnh trong đó tôi tưởng tượng thấy chính mình đang được Kim Các Tự chấp nhận và ôm ấp đã trôi qua. Tôi đang nằm trên đỉnh một ngọn đồi trong công viên Kameyama. Gần chỗ tôi chẳng có một chút gì chỉ trừ một thiếu nữ đang nằm tênh hênh, buông thả giữa đám cỏ, vầng hoa và những tiếng đập cánh buồn tẻ của côn trùng. Trước vẻ rụt rè bất chợt của tôi, thiếu nữ đứng dậy và nhìn tôi chằm chằm. Tôi nom thấy cặp mông nàng chuyển động trong lúc nàng quay lưng về phía tôi rồi lấy từ trong sắc ra cái gương soi bỏ túi. Nàng không nói năng gì, nhưng sự khinh miệt của nàng xuyên thủng da thịt tôi giống như cỏ may cắm vào quần áo mình về mùa thu vậy.
Bầu trời thấp hẳn xuống. Mưa bắt đầu rơi lấm tấm trên đám cỏ xung quanh và trên những cành lá cây đỗ nhược. Chúng tôi vội vã đứng dậy đi dọc theo lối mòn trở về chỗ tàn cây phía đông con đường.
Chuyến chơi núi chấm dứt một cách tệ hại nên ngày hôm đó để lại một ấn tượng hết sức u ám trong lòng tôi. Tối đó, trước giờ khai chẩm, Lão sư phụ nhận được một bức điện tín từ Tokyo gửi đến. Nội dung bức điện tín được thông báo ngay lập tức cho tất cả mọi người trong chùa đều biết.
Tsurukawa đã chết. Bức điện tín chỉ nói vắn tắt rằng nó đã chết vì một tai nạn, nhưng về sau nhận được một lá thư chúng tôi mới biết rõ ràng vì đâu nó đã lìa đời. Vào tối hôm trước Tsurukawa đi thăm một ông bác ở Asakusa và đã uống rất nhiều rượu. Nó vốn không quen uống rượu và chắc rằng rượu đã làm nó chuếch choáng. Trên đường về nó đã bị một xe cam-nhông bất chợt từ một ngõ hẻm gần nhà ga đâm ngang và xô ngã. Nó bị vỡ xương sọ và chết ngay lúc đó. Gia đình nó cuồng cuống cả lên và chẳng biết làm gì cho mãi đến chiều hôm sau mới nhớ ra rằng phải đánh điện tín báo cho Lộc Uyển tự biết tin.
Khi ba tôi mất, tôi đã không khóc; nhưng bây giờ tôi đã rơi nước mắt. Bởi vì cuộc sống của Tsurukawa hình như có liên hệ mật thiết với những vấn đề khẩn cấp đang bao quanh tôi hơn là cuộc sống của Ba. Kể từ lúc quen biết Kashiwagi tới giờ, tôi đã có vẻ hơi lạnh nhạt với Tsurukawa; nhưng bây giờ, sau khi đã mất nó rồi, tôi mới nhận ra rằng cái chết của nó đã cắt đứt sợi dây duy nhất và độc nhất hãy còn nối tôi liền với cái thế giới rạng rỡ của ban ngày. Chính vì cái ban ngày bí mật ấy, cái ánh sáng bí mật ấy, cái mùa hè bí mật ấy mà tôi đang nhỏ lệ khóc đây.
Mặc dù muốn chấp cánh bay đi ngay Tokyo để chia buồn với gia đình Tsurukawa, song tôi lại không có tiền. Mỗi tháng tôi chỉ được Lão sư phụ cho năm trăm yen để làm tiền tiêu vặt. Dĩ nhiên, mẹ tôi rất nghèo. Cố gắng hết sức mỗi năm bà có thể đôi lần gửi cho tôi hai hoặc ba trăm yen. Sở dĩ bà bị bó buộc phải đến sống ở nhà một ông bác tại Kasagun sau khi thu xếp gia sản là vì bà làm sao có thể xoay xỏa để sống trong một năm với số tiền năm trăm yen do các đàn gia đóng góp để mua gạo (gọi là phù trì mễ) và một món tiền nhỏ mọn do phú trợ cấp.
Làm sao tôi có thể chắn chắn lòng tự nhủ lòng là Tsurukawa đã chết một khi tôi không được nhìn thấy thi hài và không được dự đám tang nó? Vấn đề cứ day dứt tôi mãi. Cái bụng dưới làn áo sơ mi tràng của nó mà tôi đã có lần nhìn thấy rập rờn, óng ánh dưới tia nắng mặt trời đổ xuyên qua lá cây giờ đây đã trở thành tro bụi. Ai có thể tưởng tượng thân xác và tinh thần của người thanh niên này được tạo tác ra chỉ để mà rực sáng và chỉ để hòa hợp với ánh sáng đến lúc này còn bị chôn vùi dưới nấm mồ? Nó không hề có tướng chết non; nó không hề bị bất an hoặc ưu sầu và không hề có một yếu tố nào na ná giống như cái chết. Có lẽ đúng vì vậy mà nó đã bị chết quá đột nhiên như thế. Có lẽ cũng chẳng thể cứu Tsurukawa khỏi tay tử thần vì rằng con người nó chỉ gồm có toàn những thành phần thuần túy của cuộc sống và cái sinh mệnh động vật có loại máu tinh thuần. Còn tôi thì hình như là, ngược lại, đã bị số phận bắt phải trường thọ cho đến cái tuổi già nua khốn khổ.
Cái cấu tạo trong sáng của thế giới mà nó trú ngụ, đối với tôi, từ trước đến giờ luôn luôn có cái vẻ sâu xa của một câu đố; nhưng bây giờ với cái chết của nó, cái vẻ sâu xa khó giải của câu đố ấy lại còn trở nên đáng sợ hơn nữa. Chiếc xe cam nhông đã nghiền nát thế giới trong suốt của nó đúng y như đã đâm sầm vào một tấm kính trong suốt nên không ai nhìn ra. Việc Tsurukawa đã không chết vì bệnh não thật ăn khớp với cái tỉ dụ này. Xét cho cùng, sở dĩ nó phải chịu một cái chết thuần túy là vì cuộc đời nó là một cấu tạo thuần túy không gì sánh kịp. Trong sự xung đột trong chớp mắt ấy đã có một sự tiếp xúc đột ngột và cuộc sống của nó đã hòa hợp, chìm tan với cái chết của nó. Một tác dụng hóa học mau chóng. Thật ra chỉ nhờ cái phương pháp quá khích như thế người thanh niên kỳ lạ, không hình ảnh này mới có thể đuổi kịp và móc nối cả hình ảnh lẫn cái chết của mình.
Thế giới trong đó Tsurukawa đã sống thì tràn đầy những tình cảm, những thiện ý trong sáng. Tuy thế, tôi có thể nói chắc rằng thực không phải do những nhận định lầm lẫn hoặc phán đoán ngọt ngào, êm dịu mà nó đã sống ở đó. Trái tim sáng ngời của nó, cái trái tim không thuộc về thế giới này, đã trở nên một sức mạnh dẻo dai, mạnh mẽ nâng đỡ; và chính những cái này đã tới để sắp đặt, điều hòa những vận động của nó. Trong cung cách phiên dịch mỗi một cảm nghĩ đen tối của tôi thành những cảm nghĩ tươi sáng, có một cái gì cực kỳ chính xác. Đôi khi tôi đâm ra nghi là thực ra Tsurukawa đã trải qua chính những cảm nghĩ của tôi, chỉ vì vẻ rực sáng của nó tương ứng thật chính xác với sự tối tăm của tôi, và vì nét tương phản giữa cảm nghĩ của hai đứa chúng tôi thật chính xác với sự tối tăm của tôi, và vì nét tương phản giữa cảm nghĩ hai đứa chúng tôi thật quá ư rõ rệt. Nhưng không. Thực không phải thế! Vẻ rực sáng trong thế giới của nó vừa thuần túy lại vừa đơn điệu. Vẻ ấy đã khai sinh ra một hệ thống tiêm tế của riêng nó và chứa đựng một sự tinh mật dường như gần với sự tinh mật của điều ác. Nếu cái thế giới trong sáng của người trẻ tuổi này đã không luôn luôn được sức mạnh thể xác kiên cường của nó chống đỡ thì sẽ sụp đổ chỉ trong nháy mắt. Nó đã mở hết tốc lực chạy về đằng trước, và chiếc xe vận tải đã đè lên cái thể xác đôn đáo của nó.
Ánh mắt vui tươi và dung mạo hồn nhiên của Tsurukawa, nguồn gốc phát ra mối hảo cảm mà nó đã gây nên ở người khác, giờ đây không còn trên thế gian này nữa, đã dẫn dắt tôi ngụp lặn trong những suy tư thần bí về những khía cạnh hữu hình của nhân gian. Tôi nghĩ thật là kỳ lạ làm sao khi một sự vật gì đó chỉ cần tồn tại và va chạm tới tầm mắt chúng ta mà đã có thể hành sử một sức mạnh trong sáng thế. Tôi nghĩ tinh thần phải học hỏi ở thể xác biết bao nhiêu mới có thể cảm thấy rõ cái thực tại bảo cái thể của Thiền là vô tướng và cái kiến tính thực sự nằm ở chỗ biết được rằng trái tim con người là vô hình, vô tướng. Tuy nhiên, năng lực và kiến tính vốn có thể quan niệm đúng mức được vô tướng, hẳn cũng phải luôn luôn mẫn duệ cực độ mới có thể chống lại cái sức mê hoặc của các hình thái. Làm sao một người đã không thể nhìn hình tướng với sự mẫn duệ cực độ mới có thể chống lại cái sức mê hoặc của các hình thái. Làm sao một người đã không thể nhìn hình tướng với mẫn duệ vô tư lại có thể thấy được vô hình, vô tướng một cách rõ ràng, sống động cho đến thế? Như thế hình thái minh liệu của một người như Tsurukawa đã từng tỏa ra ánh sáng chỉ nhờ sự tồn tại của mình, của một người mà người ta có thể vói tới bằng cả tầm tay lẫn tầm mắt, có thể thực sự được gọi là sống để mà sống - và giờ đây con người này đã chết - một tỉ dụ rõ ràng nhất để mô tả sự vô hình thái bất minh liệu; và cái cảm giác thực tại của người ấy về sự hiện hữu của chính mình có thể trở thành cái mô hình thực tại nhất về hư vô vô hình. Thực vậy, hình như chính con người nó lúc này đây đã có thể trở thành một tỉ dụ như thế không hơn không kém. Chẳng hạn, sự tương tự giữa Tsurukawa và những bông hoa tháng Năm thật tương tự với những bông hoa ấy đã được ném vào trong quan tài của nó, sau khi nó bất chợt qua đời vào tháng Năm.
Cuộc đời của tôi thiếu hẳn tính cách tượng trưng rõ rệt như cuộc đời của Tsurukawa. Vì lý do này nên nó đã trở thành tất yếu cho tôi. Và điều làm tôi ghen tị nhất với nó ấy là nó đã xoay xỏa để đi tới đoạn chót của cuộc đời mà chẳng hề ý thức lấy mảy may về một cá biệt tính hay một sứ mệnh đặc biệt nào đè nặng như bản thân tôi cả. Cái ý thức về cá biệt này đã cướp mất tính cách tượng trưng của cuộc đời tôi, nghĩa là, cái khả năng giống như của Tsurukawa, được dùng như một tỉ dụ cho cái gì ở bên ngoài nó; do đấy, nó đã cướp mất của tôi cái cảm giác liên đới với cuộc đời và trở thành nguồn gốc của cái ý thức cô độc cứ theo đuổi tôi mãi mãi chẳng buông tha. Kể cũng kỳ lạ. Tôi cũng chẳng cảm thấy có chút liên đới nào với hư vô hết nữa.
Một lần nữa tôi lại cảm thấy cô độc. Tôi không còn gặp lai cô gái ừ nhà trọ nữa và sự liên lạc của tôi với Kashiwagi cũng không thân mật như trước. Tuy lối sống Kashiwagi vẫn còn có ma lực lôi cuốn tôi mãnh liệt, song tôi cảm thấy rồi ra nếu cố sức một phần nào để chống lại và gắng gượng tránh xa sự quyến rũ này, ấy là tôi đã có một cái gì cúng dường vong hồn Tsurukawa vậy. Tôi viết thư cho mẹ tôi nói rõ rằng bà không nên đến thăm tôi làm gì trước khi tôi thành người thực sự. Tôi đã nói với bà như thế trước rồi. Nhưng tôi không cảm thấy yên tâm chừng nào chưa dùng những lời mạnh mẽ viết trắng cho bà hay. Bà đã trả lời bằng một thứ văn chương vụng về. Bà kể cho tôi hay bà đang phải làm việc cầy cấy vất vả ra làm sao trong trang trại của ông bác, và tiếp theo là một vài câu giáo huấn sơ đẳng. Rồi ở cuối thư bà còn thêm vào một câu này: “Chừng nào còn chưa được nhìn tận mắt thấy con thành sư trưởng trụ trì Lộc Uyển tự thì Má chưa thể nào nhắm mắt được.” Tôi ghét câu này quá chừng và nó đã làm tôi cảm thấy khó chịu, bực dọc đến mấy ngày liền.
Ngay cả trong suốt mùa hè tôi cũng không đến nơi Má đang ở nhờ một lần nào. Vì trong chùa ăn uống kham khổ, nên sức nóng hè đã làm cho tôi rất khó chịu. Vào ngày mồng mười tháng chín người ta dự báo có thể sắp có bão lớn. Cần phải có người túc trực ở Kim Các Tự và tôi đã xung phong nhận công tác này.
Tôi thấy chính vào thời gian này trong tình cảm của tôi đối với Kim Các Tự đã bắt đầu có một sự biến hóa vi diệu. Đó không phải là sự chán ghét nhưng là một dư cảm và vào một lúc nào đó sẽ không sao tránh khỏi sự trạng đã từng manh nha trong con người tôi: Kim Các Tự và tôi quyết không sao có thể dung được nhau nữa. Kể từ lúc xẩy ra câu truyện ở công viên Kameyama tình cảm này cứ dâng lên, mỗi lúc một rõ ràng, nhưng tôi sợ hãi không dám đặt cho nó một cái tên nào cả. Tuy vậy, tôi thấy sung sướng được biết rằng trong phiên túc trực vào đêm duy nhất này, ngôi chùa sẽ được trao phó cho tôi và tôi không hề giấu giếm niềm vui của mình.
Người ta trao cho tôi chìa khóa Cứu Cánh đính. Tầng thứ ba này của ngôi chùa vẫn được coi là rất quý giá, vì có một bức hoành mang bút tích của Hoàng đế Go-Komatsu treo trên xà ngang, cách mặt đất chừng mười ba mét.
Đài phát thanh nói rằng cơn bão sắp sửa đến vùng chúng tôi trong phút chốc. Mưa rả rích suốt buổi chiều, bây giờ trời đã quang đãng và vầng trăng tròn sáng hiện ra trên nền trời đêm. Mọi người đã ra ngoài vườn tản bộ và đang ngắm nhìn trời đất. Tôi nghe thấy một người trong bọn họ nói đây chỉ là sự êm đềm trước cơn bão tố.
Ngôi chùa đang ngủ yên. Lúc này chỉ có một mình tôi ở trong đó. Khi thơ thẩn tới nơi ánh trăng lọt vào, tôi hoảng hốt nghĩ rằng vẻ âm u tràn ngập, nặng chĩu của ngôi chùa đang vây kín lấy tôi. Tôi dần dà ngụp lặn mỗi lúc một sâu trong cảm giác rất hiện thực này cho đến lúc nó trở thành một thứ ảo giác. Bất thình lình tôi nhận ra rằng lúc này tôi đi vào ảo ảnh như thật - ảo ảnh đã tách tôi ra khỏi cuộc đời trong buổi chiều hôm ấy tại công viên Kameyama.
Tôi ở đó một mình và Kim Các Tự - cái Kim Các Tự tuyệt đối - đã bao trùm lấy tôi. Tôi đã chiếm được ngôi chùa làm sở hữu hay ngôi chùa đã chiếm được tôi làm sở hữu? Hoặc nói cho đúng ra có phải đã có một trạng thái quân xứng lạ kỳ xuất hiện vào lúc ấy cho phép tôi là Kim Các Tự và Kim Các Tự chính là tôi?
Sau khoảng mười một rưỡi, gió nổi lên mạnh hơn. Tôi chiếu đèn bấm và trèo lên các bậc thềm. Khi leo lên tới đỉnh, tôi lấy chìa khóa mở cửa Cứu Cánh đính.
Tôi đứng dựa lưng vào lan can của Cứu Cánh đính. Gió từ hướng đông nam thổi tới. Tuy thế, cho đến lúc này bầu trời vẫn không có gì thay đổi; mặt trăng rãi ánh sáng trên mặt nước trong khi các khoảng cách giữa những cây hoa súng trên mặt Kính Triều trì. Tiếng côn trùng rả rích và tiếng ếch nhái inh ỏi tràn ngập bầu không khí.
Lúc làn gió mạnh đầu tiên vừa thổi trúng ngay vào má tôi, tức thì tất cả các quan năng trong toàn thân tôi hầu như run rẩy, da thịt tôi nổi gai. Gió càng lúc càng mạnh mẽ vô chừng, rồi trở thành cuồng phong. Lúc này hình như có một thứ điềm báo là tôi sắp sửa sẽ bị tiêu hủy cùng với Kim Các Tự. Lòng tôi đã ở trong Kim Các Tự và đồng thời cũng ở trên cánh gió. Kim Các Tự, cái ngôi chùa đã quy định chính lối cầu tạo cho thế giới của tôi, lại không có mành che lắc lư trong gió, như cứ đứng đó thầm lặng đắm mình trong ánh trăng. Tuy thế, hiển nhiên là làn gió ấy, cái ý chí hung ác của tôi ấy, sẽ thực sự lay chuyển ngôi chùa, đánh thức nó dậy và vào giờ phút sụp đổ cướp đoạt tính kiêu ngạo của nó đi.
Sự thể là như thế. Tôi bị bao trùm trong cái đẹp, tôi chắc chắn nằm ở trong cái đẹp ấy; tuy thế tôi đâm ra nghi ngờ không biết có phải là tôi mười phần chìm đắm cả mười trong cái đẹp đến độ không cần phải được ý chí hung bạo của trận gió mỗi lúc một gia tăng sức mạnh cho đến vô cùng kia nâng đỡ hay không? Đúng như Kashiwagi đã bảo tôi: “Nói lắp! Cứ nói lắp phứa đi!”, nên bây giờ tôi đem hết sức mà thử sức mạnh trận gió bằng cách kêu lớn những tiếng người ta thường dùng để thúc dục con tuấn mã đang phi: “Nhanh lên! Nhanh nữa lên nào!” Tôi kêu lớn: “Mạnh lên! Cố sức thêm nữa nào!”
Rừng cây bắt đầu xào xạc; cành lá bên bờ ao cọ mạnh vào nhau. Màu trời ban đêm đã mất dần mầu lam lúc bình thường để ngả sang màu sẫm đục. Tiếng côn trùng vẫn chẳng hề dịu bớt mà đang rộn rã khắp đó đây. Tiếng gió từ xa đổ tới nghe thần bí như tiếng sáo dặt dìu.
Tôi ngắm nhìn vô số những đám mây đang vùn vụt bay qua đằng trước mặt trăng. Hết đám mây này đến đám mây khác từ phía sau dẫy núi ở hướng nam lần lượt nhô ra giống như những đoàn quân lớn. Có những đám mây dầy. Có những đám mây mỏng. Có những đám mây lớn lao trải rộng. Có không biết bao nhiêu những cụm mây nhỏ bé rạc rời. Chúng đều xuất hiện từ phương nam, rồi băng ngang mặt trăng, băng qua nóc Kim Các Tự, và chạy ùa về phương bắc như thể đang hối hả chạy đi làm một đại sự nào đó. Tôi tưởng như mình có nghe thấy cả tiếng con chim phượng hoàng bằng vàng kêu rít ở trên đầu.
Bỗng dưng gió lặng, rồi lại trổi mạnh ào ào. Rừng cây yên lặng lắng nghe và tỏ ra hết sức mẫn cảm, im lìm rồi lại xao động khủng khiếp. Ánh trăng chiếu trên mặt ao cũng đã thay đổi lúc tỏ lúc mờ, thỉnh thoảng cố thu góp những tia sáng lạc loài vãi vung lại rồi nhanh nhẹn lướt trên mặt nước. Những đám mây lớn chồng chất bên kia dẫy núi trải rộng ra giống như một bàn tay vĩ đại vươn qua bầu trời. Lúc lại gần nhau chúng vặn vẹo, xô đẩy nhau trông thực là khủng khiếp. Thỉnh thoảng, trên bầu trời, qua những đám mây lại có một khoảng trống không mây quang đãng, nhưng rồi mây lại giăng đày ngay lập tức. Thỉnh thoảng trong những lúc có một làn mây mỏng bay qua, tôi lại có thể loáng nhìn thấy mặt trăng giữa vầng sáng lờ mờ.
Cứ thế, cả bầu trời chuyển động suốt đêm. Không có dấu hiệu gì cho thấy là gió sẽ thổi mạnh trở lại. Tôi nằm ngủ ngay bên song sắt. Sáng sớm hôm sau - một buổi sáng quang đãng - ông lão gác chùa tới báo cho tôi hay may mắn là trận bão đã thổi qua bên ngoài thị trấn Kyoto.
Hết phần 5