CHƯƠNG 22
Tác giả: Alexandre Dumas
Louise càng gần tới ngày đi tôi càng băn khoăn. Hỏi thăm ở Moscou đường tới Tobolsk trong mùa này, ai cũng nói không những khó khăn mà còn nguy hiểm nữa. Tôi suy nghĩ không thể bỏ mặc một cô gái khốn khổ vì hy sinh, không gia đình, bà con, không bạn bè nào khác ngoài tôi. Trong gần mười tám tháng ở Saint-Peterbourg, tôi đã chia xẻ với cô những vui, buồn. Bá tước Alexis đã uỷ thác cho tôi bảo vệ cô, việc giúp đỡ tôi để có được vị trí Hoàng đế đã ban cho, hơn tất cả mọi cái là tiếng nói bên trong nhắc nhở bổn phận một người đàn ông trong hoàn cảnh cuộc sống mà lợi ích đấu tranh với lương tâm, tất cả đều bảo tôi phải đi với Louise đến cuối cuộc hành trình và giao cô lại cho Alexis. Chia tay với cô ở Moscou, nếu dọc đường có tai nạn gì xảy ra với cô thì đối với tôi không chỉ đau đớn mà còn rất ân hận. Vậy là tôi tìm mọi cách để Louise chậm cuộc hành trình lại cho đến mùa xuân và nếu cô cứ quyết tâm đi, tôi sẽ đi cùng cô
Nhân dịp một buổi tối chúng tôi ngồi uống trà có bà Bá tước và các cô con gái, Louise và tôi, bà Bá tước nắm lấy bàn tay cô kể những mối nguy hiểm mà người ta có thể gặp dọc đường và tuy khao khát có một người an ủi bên cạnh con trai mình, bà khẩn cầu Louise ở lại qua mùa đông với bà và các cô con gái. Tôi lợi dụng việc mở đầu ấy thuyết phục cô tạm hoãn chuyến đi. Với nụ cười hiền dịu và buồn bã, cô trả lời "Xin mọi người yên tâm, tôi sẽ đến nơi". Chúng tôi nài ép cô chờ thời kỳ trượt tuyết nhưng cô lại lắc đầu nói "Như vậy quá lâu". Thực vậy mùa thu ẩm ướt, mưa nhiều, không dự tính được bao giờ trời sẽ lạnh và đóng băng. Thấy chúng tôi vẫn nằn nì, cô sốt ruột nói "Vậy mọi người muốn anh ấy chết ở đấy còn tôi chết ở đây à?"
Thế là cô ấy đã quyết tâm và tôi cũng không ngần ngừ chi nữa.
Louise sẽ đi vào ngày hôm sau lúc mười giờ, sau bữa ăn sáng, chúng tôi được mời cùng dự ở nhà bà Bá tước. Tôi dậy sớm đi mua một áo dài, chiếc mũ trùm, đôi ủng to lót lông thú, một súng các bin và đôi súng ngắn. Tôi giao cho Ivan bỏ tất cả vào chiếc xe đi đường, đây là một chiếc xe rất tốt nhưng có thể phải thay bằng một chiếc trượt tuyết nhưng chúng tôi định vẫn sử dụng trong lúc thời tiết và đường đi cho phép. Tôi viết một bức thư trình lên Hoàng đế, thấy người đàn bà khốn khổ mà Người chiếu cố bảo vệ cho phép tiến hành cuộc hành trình dài và nguy hiểm nên tôi, người đồng hương và là người bạn, không có can đảm để cô ra đi một mình. Tôi mong mỏi Hoàng đế tha thứ cho một quyết định đã không xin ý kiến của Người trước trong hoàn cảnh đột xuất. Sau đó tôi đến nhà bà Bá tước.
Bữa ăn sáng buồn và nặng nề. Chỉ có Louise có vẻ rạng rỡ. Gần mối nguy hiểm và ý nghĩ được bù lại sau đó khiến cô có cái gì đó như là sự liên tưởng của tín đồ công giáo, sẵn sàng xuống đấu trường trời sẽ rộng mở: cuối cùng lòng thành kính ấy lan sang tôi và cũng như Louise, tôi tràn đầy hy vọng và lòng tin vào Chúa.
Bà Bá tước và các cô con gái đưa Louise ra sân chỗ xe đang chờ, ở đấy những lời vĩnh biệt được lập lại dịu dàng và đối với họ đau đớn hơn, đối với Louise cam chịu hơn. Đến lượt tôi, cô đưa tay, tôi dẫn cô lại xe.
- Thế nào? Ông không vĩnh biệt tôi ư?
- Để làm gì? – tôi trả lời.
- Sao? Tôi đi đây.
- Tôi cũng thế, tôi đi với cô; tôi giao cô lại cho Bá tước mạnh khoẻ, yên lành, rồi tôi trở lại.
Louise có một cử chỉ như muốn ngăn cản tôi rồi sau một lúc im lặng, cô nói:
- Tôi không có quyền ngăn cản ông làm một việc thánh thiện và đẹp đẽ. Nếu ông tin vào Chúa như tôi, nếu ông đã quyết tâm như tôi thì mời ông cùng đi.
Bà Bá tước và hai cô gái khóc. Tôi bảo họ:
- Bà và hai cô yên tâm, tôi sẽ nói cho ông ấy biết nếu bà và hai cô không đến chính là vì bà và hai cô không thể đến.
- Ồ! Vâng, xin ông nói với nó đúng như thế! – Bà mẹ kêu lên – Chúng tôi đã nhờ xin nhưng người ta trả lời không có trường hợp được gia ân đến mức ấy. Ông nói cho nếu người ta cho phép, chúng tôi đã đến với nó, dù phải đi bộ, dù phải đi xin ăn dọc đường.
- Đem con tôi lại đây! – Louise kêu lên, vốn cứng rắn cho đến lúc ấy, đã oà khóc nức nở - Đưa con tôi lại đây để tôi ôm hôn nó lần cuối cùng.
Đây là lúc đau đớn nhất. Người ta bế đứa bé lại, cô hôn con khắp các chỗ; cuối cùng tôi dứt đứa bé trong tay cô đưa cho bà Bá tước rồi nhảy lên xe, đóng cánh cửa lại và hét lên "Chúng ta đi nào!" Ivan đã ngồi trên ghế, người đánh xe không chờ nhắc lại, phi ngựa nhanh và giữa tiếng bánh xe trên đường, chúng tôi còn nghe những lời vĩnh biệt của gia đình. Mười phút sau chúng tôi đã ra khỏi Moscou.
Tôi đã báo trước với Ivan ý định đêm, ngày không dừng lại và lần này sự nóng nảy của Louise trùng hợp với sự cẩn trọng vì mùa thu mưa nhiều và chúng tôi không thể đến Tobolsk trước khi tuyết rơi, tránh nguy hiểm dọc đường và đi trong mười lăm ngày. Vậy là với tốc độ tuyệt vời của những chuyến đi ở Nga, chúng tôi đi qua một số tỉnh, đêm hôm sau nữa thì đến Nijni-Novgorod. Đến đây, tôi là người đầu tiên buộc Louise nghỉ ngơi mấy tiếng liền, rất cần sau những đau đớn và xúc động. Tuy thành phố rằng lạ chúng tôi cũng không thể dành thì giờ đi thăm viếng và tám giờ sáng lại ra đi, cũng với tốc độ ấy nên chiều tối hôm ấy chúng tôi đến Kosmodemiansk. Cho đến đây con đường đi Sibérie vẫn tốt đẹp. Các ngôi làng đều giàu có, nhiều nhà thờ, nông dân có vẻ hạnh phúc, nhà cửa của họ như lâu đài ở các tỉnh khác và trong mỗi nhà đều rất sạch sẽ. chúng tôi ngạc nhiên thấy có một phòng tắm và một phòng sang trọng dành cho việc uống trà. Tóm lại khắp nơi chúng tôi được tiếp đón vồn vã, độ lượng, không phải do có lệnh của Hoàng đế mà chúng tôi chưa đưa ra, mà do lòng tốt tự nhiên của nông dân Nga.
Tuy vậy không còn mưa nữa, một số đợt gió lạnh hình như từ biển băng giá thổi đến làm chúng tôi run cả người, bầu trời như một tấm thiếc nặng, dày đặc và thành phố Kazan tuy cảnh vật lạ lùng với bộ mặt Tartare cổ, không giữ chúng tôi lại trên hai tiếng đồng hồ. Ở hoàn cảnh khác tôi đã rất muốn dỡ một trong những tấm voan lớn của người đàn bà Kazan mà người ta nói rất đẹp, nhưng lúc này không phải lúc tìm hiểu việc đó. Thời tiết mỗi ngày thêm xấu đi, chúng tôi chỉ còn nghe tiếng Ivan qua mỗi trạm thay người đánh xe mới, giọng nói đầy uy lực "Nhanh hơn nữa! Nhanh hơn nữa!", xe chạy nhanh đến mức chúng tôi bay trên cánh đồng bao la này. Rõ ràng người hướng dẫn chúng tôi muốn vượt dãy núi Ourals trước khi tuyết xuống, không có mục đích nào khác.
Đến Perm, Louise rất mệt mỏi buộc chúng tôi đề nghị Ivan nghỉ lại một đêm. Ông ngập ngừng rồi nhìn bầu trời xám xịt hơn bình thường, nói:
- Vâng, tuyết sắp rơi và chúng ta thà gặp tuyết ở đây hơn là dọc đường.
Tôi khoan khoái ngủ suốt đêm, khi dậy thấy mái nhà và đường xá ở Perm đã phủ một lớp tuyết dày khoảng hai bộ.
Tôi mặc quần áo, xuống bàn với Ivan nên làm gì. Ông đang rất lo lắng, tuyết rơi nhiều đến mức tất cả những con đường biến mất, các vực, hố bị lấp đầy nhưng chưa đủ lạnh để người ta tổ chức xe trượt tuyết, lớp băng mỏng phủ trên sông ngòi chưa đủ cứng để xe chạy trên đó. Ivan khuyên chúng tôi ở lại Perm chờ băng giá, tôi lắc đầu vì biết chắc Louise sẽ không chấp nhận.
Một lúc sau cô xuống, thấy chúng tôi đang bàn làm cách nào tốt nhất để đi nên tham gia tranh luận và nói muốn ra đi. Chúng tôi nêu những khó khăn làm cản trở kế hoạch, cô nói:
- Chúng ta ở lại hai ngày thôi, Chúa đã bảo vệ chúng ta cho đến nay cũng sẽ không bỏ rơi chúng ta.
Tôi bảo Ivan chuẩn bị mọi thứ cần thiết trong hai ngày đó để theo cách đi mới. Chúng tôi để xe trước lại, mau một loại xe bốn bánh, khi lớp băng đã đủ cứng sẽ đổi lấy một chiếc xe có bàn trượt tuyết. trong ngày đã mua xong, áo khăn lông thú, vũ khí được chuyển sang xe mới. Ivan đúng là một người Nga, vâng lời không phản ứng và ngay ngày hôm ấy dù chắc chắn gặp nguy hiểm, ông vẫn chuẩn bị ra đi không phàn nàn gì.
Ở Perm chúng tôi bắt gặp những người lưu đày, những người Ba Lan có tham gia một phần hoặc che giấu cuộc âm mưu, giống như những linh hồn gặp ở cửa địa ngục, không đáng phải ở chung với những kẻ có tội nặng.
Việc lưu đày này nói chung ngoài việc mất quốc tịch và xa gia đình, có lẽ cũng dễ chịu hơn một cuộc lưu đày nào khác. Perm vào mùa hè là một thành phố đẹp và mùa đông nhiệt không xuống dưới âm ba mươi lăm, âm ba mươi tám độ còn ở Tobolsk người ta kể vào mùa này xuống đến âm năm mươi.
Ngày hôm sau nữa chúng tôi lại lên đường trong chiếc xe bốn bánh, nhờ lớp băng dày chúng tôi đi không quá vất vả. Ra khỏi Perm cảnh vật mới làm chúng tôi nao lòng. Thật vậy, dưới tấm khăn tang của bầu trời, tất cả đường lớn, đường nhỏ, sông suối đã biến mất, đấy là biển rộng bao la, nếu không có một số cây to đơn độc hướng dẫn những người đánh xe quen thuộc trong vùng, người ta phải dùng la bàn như trên một bỉên khơi thực thụ. Thỉnh thoảng một cánh rừng thông âm u cành nhánh như kim cương xuất hiện trông xa như hòn đảo, nằm rải rác bên phải , bên trái hoặc trên đường chúng tôi đi, giúp chúng tôi nhận biết đã không đi chệch con đường mở ra giữa các hàng cây. Chúng tôi đi như thế gần năm mươi dặm vào một vùng mỗi lúc càng hoang dã. Càng tiến lên những trạm chuyển tiếp càng thưa, đôi khi cách nhau đến tám dặm. Đến những trạm này không còn như trên đường từ Saint-Peterbourg đến Moscou, trước cửa là những đám đông luôn luôn tươi vui, ở đây ngược lại hầu như hoàn toàn hoang vắng. Chỉ một hoặc hai người trong những căn nhà có lò sưởi ấm, là vật dụng cần thiết trong những ngôi nhà nghèo nàn. Nghe tiếng chúng tôi tới, một trong bọn họ nhảy lên con ngựa không yên cương, tay cầm một cái sào dài, lao vào bụi thông nào đấy đuổi bầy ngựa hoang ra. Thế là người đánh xe, Ivan, đôi lúc cả tôi nữa, túm lấy bờm ngựa, dùng sức buộc chúng vào xe. Chúng kéo xe với tốc độ nhanh đáng sợ nhưng sự hăng hái ấy lắng dần vì băng chưa đóng chặt, chân chúng bị đóng vào tuyết, chúng mệt mỏi rất nhanh. Sau khi đi đường hơn mỗi đoạn trước một tiếng đồng hồ, chúng tôi đến một trạm khác và lại mất hai mươi, hai mươi lăm phút theo cách ấy. Chúng tôi đia qua như thế trên mọi vùng đất của sông Silva và Ouja, nước cuộn lên từng mảnh vàng, bạc, bạch kim và viên đá carbonate, chỉ rõ những kim loại giàu và đá quý. Khi đang trong vùng khai thác, có những làng thợ mỏ, những chỗ chúng tôi đi qua đều có vẻ đã lấy lại cuộc sống nhưng chẳng mấy chốc vượt khỏi thị trấn này chúng tôi bắt đầu thấy dãy núi Ourals ở chân trời như một bức tường tuyết lởm chởm những chỏm đen, khối rào chắn thiên nhiên dựng lên giữa châu Âu và châu Á.
Càng lại gần núi, rét lạnh càng buốt cho chúng tôi hy vọng rằng băng giá càng vững chắc để tổ chức việc trượt tuyết. Cuối cùng đến chân núi Ourals, chúng tôi dừng lại trong một ngôi làng nghèo nàn có vài chục mái nhà, không có quán hàng nào khác ngoài trạm chuyển tiếp.
Rét lạnh càng dữ dội, đợt nghỉ này cho chúng tôi thấy rõ phải thay xe lớn bốn bánh bằng xe trượt tuyết. Louise quyết định vào một ngôi nhà chờ tuyết đóng băng thêm và tìm xe trượt, chuyển đồ đạc, vào một mái nhà mà người đánh xe gọi là quán hàng.
Căn nhà rất nghèo vì lần đầu tiên chúng tôi thấy ở đây thiếu bếp lò truyền thống, giữa gian nhà là một đống lửa lớn, khói ra ngoài theo một lỗ hổng trên mái. Chúng tôi ngồi quanh đống lửa, đã có hơn mươi người vận tải cũng chờ lúc thuận tiện để vượt qua dãy Ourals như chúng tôi. Lúc đầu họ chẳng để ý gì đến chúng tôi nhưng khi tôi cởi áo choàng, bộ quân phục của tôi đã giúp chiếm một chỗ rộng, người ta lễ độ dịch ra, để cho Louise và tôi chỗ ngồi cả một nửa vòng.
Gấp gáp nhất là sưởi ấm và khi đã đủ nóng, tôi bắt đầu nghĩ đến bữa ăn. Tôi gọi chủ quán hàng tồi tàn này để mua thức ăn nhưng anh ta chỉ đưa lại nửa chiếc bánh mì đen, bảo rằng chỉ cung cấp được có chừng ấy. Tôi nhìn Louise, nụ cười hiền cam chịu, đã giơ tay ra nhưng tôi ngăn lại, nài nỉ anh chủ quán xem có tìm được thứ gì khác không. Anh đi mở hết những gì gọi là tủ và anh mời cả tôi tự đến tìm lấy. Chú ý nhìn những người vận tải, những người bạn cùng ăn, thấy mỗi người rút trong thùng ra chiếc bánh và một khẩu mỡ xát vào bánh, sau đó cẩn thận cất khúc mỡ vào thùng để giữ càng lâu càng tốt. Tôi sắp đến xin họ cho xát một ít mỡ vào bánh thì thấy Ivan đi vào, đã tìm được bánh mì đỡ xám xịt hơn và hai con gà do ông đã vặn cổ.
Chúng tôi bàn cần có súp và thịt rán. Ivan lấy một chiếc nồi đưa cho người đánh xe cọ rửa thật sạch. Louise và tôi vặt lông gà và Ivan làm que xiên thịt. Một lúc sau tất cả đã sẵn sàng; nồi súp sôi kỹ, thịt nướng quay đều đặn trên than hồng.
Bắt đầu yên tâm về bữa ăn tối, chúng tôi lo việc ra đi. Không tìm được xe trượt tuyết, Ivan khắc phục khó khăn bằng cách lật ngược chiếc xe bốn bánh đặt trên ván trượt. Người thợ đóng xe trong vùng cố làm cho xuống việc này trong lúc thời tiết càng băng giá, hy vọng sáng sớm hôm sau chúng tôi có thể ra đi được. Tin này làm chúng tôi ăn thêm ngon miệng, đã lâu tôi chưa được ăn ngon như tối hôm ấy.
Về giường nằm chúng tôi cũng chẳng hỏi xem có hay không, có khăn lông thú rất tốt chúng tôi dễ dàng thay thế giường., bọc kín áo lông, áo choàng vào người và nằm ngủ, cầu mong thời tiết thuận lợi như lúc này.
Ba giờ sáng tôi giật mình tỉnh dậy vì một tiếng động khá mạnh. Ngồi dậy, qua ánh sáng leo lét ở bếp lửa, tôi thấy một con gà đang thu thập nốt bữa ăn tối của chúng tôi còn sót lại. Theo kinh nghiệm sẽ không tìm được gì ở những hàng quán trên đường, tôi chú ý không làm con gà sợ, nằm xuống lại và để nó tự do tiếp tục tìm cái ăn. Vừa nằm xuống bất động, con gà theo thói quen nhảy từ chân tôi lên đến đầu gối, từ đầu gối lên ngực, đến đây thì không tiếp tục được nữa, một tay tôi nắm lấy chân, tay kia chộp lấy đầu và trước khi nó kêu được một tiếng, tôi đã vặn gãy cổ.
Sau một việc cần động não nhiều như thế, tôi không ngủ lại được. Hơn nữa có hai con gà trống đâu đó cứ từng phút cất tiếng chào buổi sáng. Do vậy tôi dậy hẳn và bước ra ngoài xem thời tiết, thời tiết đã như tôi mong muốn, băng đã khá cứng, bàn trượt của chiếc xe có thể trượt trên mặt được rồi.
Trở về bếp lửa tôi thấy không chỉ mình tôi được tiếng gà gáy đánh thức. Louise đã ngồi đấy bọc mình trong đống khăn áo lông, tươi cười như vừa ngủ trên chiếc giường tốt nhất, có vẻ không nghĩ đến những mối nguy hiểm chờ chúng tôi ở những thung lũng hẹp trên dãy núi Ourals. Những người vận tải cũng bắt đầu vận động, Ivan ngủ như một người đầy hạnh phúc. Những người vận tải lần lượt ra tới cửa, cân nhắc với nhau về việc ra di. Tôi đánh thức Ivan dậy ra tham gia bàn luận với họ và rút kinh nghiệm từ những người ấy, những người không ngừng qua lại châu Âu châu Á và mùa đông cũng như mùa hè luôn đi trên con đường chúng tôi đang đi.
Một số, những người già có kinh nghiệm hơn muốn ở lại thêm một, hai ngày, những người khác trẻ và táo bạo hơn lại muốn đi và Louise theo ý kiến của những người này.
Ivan đứng về phía những người muốn đi và rất có thể do ảnh hưởng của bộ quần áo lính trong một đất nước mà quân phục là tất cả, ông lôi kéo được một số người ủng hộ, vì thế đa số thắng thiểu số và ai nấy bắt tay chuẩn bị. Sự thật là Ivan muốn đi cùng bọn họ hơn là đi một mình.
Ivan được giao phụ trách việc thanh toán, tôi bảo ông thêm vào tổng số tiền chủ quán đưa ra giá mua con gà và giao nó lại cho ông, đề nghị tìm thêm một số thực phẩm, nhất là bánh mì đỡ xám xịt hơn nếu có thể. Ông đi tìm kiếm, trở về với một con gà thứ hai, một đùi lợn xông khói, bánh ăn tốt và mấy chai rượu đỏ tôi nghĩ được chiết với vỏ cây bu lô.
Trong thời gian ấy những người đánh xe đi đóng ngựa, tôi cũng ra chuồng chọn ngựa cho xe mình. Nhưng thường ngựa ở trong cánh rừng bên cạnh. Chủ quán đánh thức một cậu bé khoảng mười hai, mười ba tuổi đang ngủ trong góc nhà, bảo đi đuổi ngựa về. Cậu bé dậy không phàn nàn gì rồi theo ý thức vâng lệnh thụ động của nông dân Nga, đi lấy một cây sào dài, lên một con ngựa của những người đánh xe và phi nước đại. trong lúc chờ đợi, những hướng dẫn viên phải chọn một hướng dẫn viên trưởng chịu trách nhiệm chỉ huy cả đoàn. Bầu được người rồi, ai cũng phải nghe theo kinh nghiệm và lòng dũng cảm của người ấy, tuân lệnh như người lính đối với viên tướng, một người đánh xe được lựa chọn tên là Georges.
Đây là một ông già khoảng bảy mươi tuổi, nhưng trông ông không tới bốn mươi lăm, tay chân lực sĩ, đôi mắt đen dưới đám lông mày dày hoa râm và bộ râu dài bạc trắng. Ông mặc chiếc áo sơ mi len bó chặt người bằng chiếc đai da, quần vải len mềm kẻ sọc, mũ lông và khoác chiếc áo da cừu lộn vào trong. Ở thắt lưng, một bên là hai, ba móng sắt ngựa đụng nhau lách cách, một chiếc thìa, mũ thép, con dao dài giữa chiếc dao găm và con dao săn, bên kia một chiếc búa cán ngắn và túi tiền.
Quần áo những người đánh xe khác cũng gần như thế.
Georges vừa mang chức chỉ huy đã bắt đầu nhiệm vụ bằng cách ra lệnh cho mọi người thắng ngựa không chậm trễ để có thể đến nghỉ ở một căn nhà khoản một phần ba đường, tôi đề nghị chờ ngựa chúng tôi tới để có thể cùng đi. Đề nghị được chấp nhận rất thoải mái. Cả đoàn trở vào nhà, chủ quán bỏ mấy bó thông, bu lô vào bếp lửa, lửa cháy thành ngọn làm lúc ra đi chúng tôi càng cảm thấy giá trị hơn. Vừa ngồi quanh bếp lửa chúng tôi đã nghe tiếng ngựa phi từ cánh rừng về, cùng lúc ấy cánh cửa hé mở và cậu bé khốn khổ đi đuổi ngựa kêu lên không ra tiếng, chạy vào tách vòng người đến qùy xuống trước bếp lửa, cánh tay giơ vào gần trong lửa như muốn ngốn ngấu lấy nó. Mọi cảm giác trong người nó có lẽ nở rộ dưới cảm giác đang được hưởng thụ. Cậu bé quỳ một lúc như thế bất động, im lặng, háo hức, sau đó nhắm mắt, co người lại, rên lên một tiếng và ngã ra. Tôi muốn nâng dậy, nắm tay nó nhưng tôi kinh hoàng cảm thấy những ngón tay tôi nắm vào tay nó như nắm vào thịt chín. Tôi kêu lên, Louise muốn bế nó nhưng tôi ngăn lại. Georges cúi xuống, nhìn nó và lạnh lùng nói:
- Nó chết mất.
Tôi không cho là sự thật, đứa bé rõ ràng đang sống mở mắt nhìn chúng tôi. Tôi đề nghị tìm một thầy thuốc nhưng không ai trả lời. Tuy vậy nhận một đồng năm rúp, một người vào làng tìm ông bác sĩ thú y vừa chữa người vừa chữa ngựa. Trong lúc ấy Louise và tôi cởi quần áo nạn nhân, hơ nóng một tấm da cừu cuộn người nó vào trong, đứa bé lẩm bẩm những tiếng cám ơn nhưng không cử động, có lẽ đã bại liệt hết chân tay. Những người đánh xe trở lại với ngựa và chuẩn bị ra đi. Tôi đến với Georges khẩn nài ít nhất cũng chờ một lúc cho đến khi thầy thuốc đến. Georges bảo "Ông yên tâm, chúng ta sẽ không ra đi trước mười lăm phút nữa và nó sẽ chết trong mười lăm phút". Lúc ấy bác sĩ vào, Ivan giải thích người ta cử cậu bé đi làm gì. Bác sĩ lắc đầu, lại gần bếp lửa, mở tấm da cừu. Lúc này đứa bé đã chết.
Louise hỏi bố mẹ cậu bé ở đâu, cô muốn để lại một vài trăm rúp, chủ quán trả lời không có, nó là một đứa bé mồ côi, anh ta đã nuôi vì lòng nhân đạo.