Chương 53 -55
Tác giả: Dan Brown
Khu căn hộ Westbrooke toạ lạc ở số 2201 phố Đông, bắc Washington. Đây là một trong số hiếm hoi những địa chỉ không ai có thể nhầm được ở thủ đô. Gabrielle hối hả sải bước qua cánh cửa quay mạ kim loại và bước vào hành lang lát đá cẩm thạch có tiếng nước chảy róc rách.
Người gác cổng ngồi bên bàn có vẻ ngạc nhiên khi trông thấy cô.
- Cô Ashe đấy à? Tôi tưởng tối nay cô không tới.
- Tôi bị muộn một chút. - Gabrielle nhanh chóng ký tên vào sổ ra vào. Đồng hồ treo tường chỉ đúng 6 giờ 22 phút.
Người gác cổng gãi đầu:
- Ngài Thượng nghị sĩ đưa cho tôi một danh sách, nhưng không thấy tên cô.
Những người được việc nhất lại thường bị bỏ quên như thế đấy. Cô vội mỉm cười nhìn anh ta và sải bước đến thang máy.
Lúc này, người gác cổng có vẻ rất băn khoăn.
- Để tôi gọi lên trên đó.
- Cảm ơn anh. - Gabrielle nói, chân bước vào buồng thang máy và bấm nút. - Hôm nay ngài Thượng nghị sĩ ngắt điện thoại rồi còn đâu.
Lên đến tầng chín, Gabrielle ra khỏi thang máy và bước dọc hành lang lát đá sang trọng. Cuối hành lang, bên cánh cửa căn hộ của Sexton, cô trông thấy anh chàng vệ sĩ cao lớn đang ngồi trong sảnh. Có vẻ đang buồn chán. Gabrielle ngạc nhiên thấy anh chàng này hôm nay không được nghỉ, và anh ta còn ngạc nhiên hơn nhiều khi nhìn thấy cô. Thấy Gabrielle tiến lại, anh ta đứng phắt dậy.
- Tôi biết rồi. - Chưa đến nơi cô đã lên tiếng. - Tối hôm nay được dành cho việc riêng. Thượng nghị sĩ không muốn bị ai quấy rầy cả.
Anh chàng vệ sĩ gật đầu.
- Ông ấy đã lệnh cho tôi là không cho phép ai…
- Trường hợp này khẩn cấp lắm.
Anh ta đứng chắn cửa ra vào.
- Ông ấy đang có cuộc họp riêng.
- Thế à? - Gabrielle rút phong bì màu đỏ kẹp bên mạng sườn ra.
- Tôi vừa từ phòng bầu dục về. Và phải chuyển những thông tin này đến tận tay Thượng nghị sĩ. Bạn cũ thân đến mấy thì cũng có thể nói chuyện với nhau mà không có người ta vài phút. Nào, cho tôi vào.
Anh chàng vệ sĩ tỏ vẻ khuất phục khi nhìn thấy biểu tượng của Nhà Trắng in trên phong bì…
Đừng để tôi phải mở phong bì ra đấy, Gabrielle thầm nghĩ.
- Để phong bì đó lại, tôi sẽ chuyển vào cho ông ấy.
- Không thể được. Tôi được chỉ thị của Nhà Trắng là phải trực tiếp giao tận tay ông ấy. Nếu anh nhất định không chịu thì để ngày mai cả tôi và anh sẽ phải đi tìm việc ở chỗ khác đấy. Anh có hiểu không, hả?
Anh chàng vệ sĩ có vẻ đang cân nhắc tình hình một cách khó nhọc, và Gabrielle cảm giác hôm nay Thượng nghị sĩ chắc đã tỏ ra dứt khoát hơn hẳn mọi ngày về chuyện không tiếp khách. Cô quyết định tung ngón đòn cuối cùng. Chìa phong bì ra ngay trước mũi anh ta, cô hạ giọng gần như thì thào những từ mà cánh vệ sĩ ở thủ đô ghét nhất.
- Anh không hiểu tình hình đâu.
Vệ sĩ của các chính trị gia không bao giờ nắm bắt được tình hình, và họ ghét điều đó. Họ là những tên lính đánh thuê, đứng trong bóng tối, không bao giờ biết chắc nên nghiêm túc thi hành mệnh lệnh hay đánh liều mất việc khi phớt lờ những vấn đề sờ sờ trước mắt.
Người vệ sĩ nuốt khan, đưa mắt nhìn chiếc phong bì lần nữa.
- Thôi được nhưng tôi sẽ báo với ngài Thượng nghị sĩ là cô nằng nặc đòi vào.
Anh ta mở khoá, Gabrielle vào ngay đề phòng anh chàng đổi ý. Cô bước vào trong căn hộ, khẽ khàng khép cửa rồi khoá lại.
Giờ đây, đứng trong sảnh, Gabrielle có thể loáng thoáng nghe thấy tiếng người nói trong phòng của Thượng nghị sĩ - toàn giọng đàn ông. Buổi tối dành cho việc riêng hôm nay rõ ràng không giống với những buổi tối khác được đánh dấu tương tự trong lịch làm việc của ngài nghị sĩ.
Chậm rãi tiến về phía cuối sảnh, Gabrielle đi ngang qua một ngăn tủ không có nắp và trông thấy khoảng năm sáu chiếc áo khoác ngoài của đàn ông treo bên trong - toàn loại vải len và tuýt.
Trên sàn nhà có mấy cái ca táp. Rõ ràng là hôm nay ông ấy đang làm việc. Gabrielle suýt nữa đã bước thẳng qua nếu không bị một chiếc ca táp thu hút sự chú ý. Tấm biển đề tên gắn trên đó in nổi bật lô gô của một công ty: quả tên lửa màu đỏ tươi.
Cô dừng bước, quỳ xuống để đọc cho rõ:
TẬP ĐOÀN VŨ TRỤ MỸ.
Bối rối, cô xem những chiếc cặp khác.
CÔNG TY VŨ TRỤ BEAL, CÔNG TY VĨ MÔ, CÔNG TY TÊN LỬA ROTARY, CÔNG TY VŨ TRỤ CHÂU ÂU KISTLER.
Chất giọng thế thé của Marjorie Tench vẳng lại trong tâm trí Gabrielle. Cô có biết là ông Thượng nghị sĩ đang nhận những khoản hối lộ bất hợp pháp của các công ty vũ trụ tư nhân không?
Mạch Gabrielle đập liên hồi khi cô nhìn xuống cuối hành lang mờ tối dẫn vào phòng riêng của Thượng nghị sĩ. Trí não mách bảo cô nên lên tiếng để mọi người biết rằng cô đã ở đây, nhưng không hiểu sao đôi chân cứ lặng lẽ nhích lên từng bước một. Cô đến bên cánh cửa tối sẫm và im lìm đứng trong bóng tối, lắng nghe tiếng nói chuyện từ bên trong vọng ra.
55.
Trong khi Delta-Ba còn đang dừng lại để nhặt xác của Norah Mangor và gom chiếc xe trượt, hai người lính còn lại liền tăng tốc trượt xuôi dốc băng nhằm bám theo con mồi.
Chân họ đi giày trượt hiệu Elektro Tread. Được chế tạo theo mô hình thanh trượt có động cơ Fast Trax, đây là loại giày trượt đặc dụng cho vùng băng tuyết có gắn xích loại nhỏ - loại xích của những chiếc xe chạy vùng băng tuyết vẫn được lắp bao quanh bánh xe. Tốc độ được điều chỉnh bằng cách ép ngón tay trỏ và tay cái vào nhau, tác động lên hai đĩa tốc độ được gắn trong găng tay bên phải. Một loại pin bằng gel lỏng được đúc trong giày, bao quanh chân, vừa làm tăng độ cách ly lại vừa cho phép người sử dụng có thể trượt cách rất êm. Đặc biệt là lượng điện sản ra bởi trọng lực của chân và bởi tốc độ quay của chiếc xích khi người trượt di chuyển xuôi dốc sẽ được tích lại trong pin để dùng cho lần leo dốc tiếp theo.
Khom người, giữ thẳng hướng với gió katabatic, Delta-Một vừa di chuyển vừa quan sát địa thế sông băng. Cặp kính nhìn xuyên bóng tối mà anh đang đeo khác rất xa loại kính dùng ban đêm Patriot của cánh lính thuỷ quân lục chiến. Anh đang quan sát địa vật bằng chiếc kính không gọng có những thấu kính sáu phần tử cỡ 40 x 90 mm, thấu kính phóng đại ba phần tử Doubler. Cảnh vật bên ngoài hiện lên với tông màu lam đục lạnh lẽo thay vì màu xanh lá cây như thường lệ - tông màu này đã được chọn lựa kỹ càng cho những địa hình có độ phản chiếu ánh sáng cao như vùng Bắc Cực này.
Đến gần ụ tuyết thứ nhất, kính xuyên đêm của Delta-Một cho thấy hình ảnh vài vệt xước mới nguyên trên mặt băng chạy dọc lên đỉnh ụ tuyết như những mũi tên bằng nê ông trong bóng đêm. Rõ ràng là ba kẻ trốn chạy kia đã không nghĩ đến chuyện tháo bỏ chiếc dù tạm thời của họ, hoặc là đã không thể làm được việc đó. Nếu vượt qua ụ tuyết thứ ba mà họ vẫn chưa tháo được dù ra thì chắc chắn lúc này họ đã ở đâu đó ngoài đại dương rồi. Delta-Một biết những bộ quần áo bảo hộ họ mặc trên người có thể kéo dài cuộc sống của họ trong môi trường nước, nhưng dòng hải lưu chảy xiết sẽ cuốn họ ra ngoài đại dương. Chết đuối là không thể tránh khỏi.
Dù rất tự tin, Delta-Một đã được huấn luyện thói quen không dựa vào suy đoán của mình. Anh phải nhìn thấy xác chết. Cúi thấp người xuống, anh ấn chặt ngón trỏ và ngón cái phải vào nhau, trượt lên con dốc đầu tiên.
Michael Tolland nằm im không nhúc nhích, mình mẩy đau ê ẩm.
Dù bị quật lên quật xuống, ông tin là mình chưa bị gãy cái xương nào. Dĩ nhiên là nhờ có bộ quần áo Mark IX này ông mới tránh được những vết thương chí tử. Mở to mắt, phải mất một lúc ông mới tập trung được suy nghĩ của mình. Mọi thứ ở chỗ này có vẻ êm đềm hơn… yên tĩnh hơn Gió vẫn hú, nhưng mãnh lực thì kém hơn nhiều.
Chẳng phải cả nhóm đã lao xuống vực rồi hay sao?
Cố thu hết tinh lực, ông nhận thấy mình đang nằm trên mặt băng, mình vắt ngang qua người Rachel, gần như tạo thành một góc vuông, những chiếc khoá móc ở thắt lưng của cả hai người đều bị vặn xoắn. Cảm nhận được hơi thở của Rachel ngay bên dưới, nhưng ông không thể nhìn thấy mặt cô. Ông lăn người sang một bên, nhưng các cơ bắp không chịu nhúc nhích.
- Rachel này… - Ông không biết chắc mình có nói được thành tiếng hay không nữa.
Tolland nhớ lại những giây phút cuối cùng trong cuộc trượt băng chí tử của nhóm - quả khinh khí cầu kéo họ lên dốc, rồi dây néo đứt, cả ba rơi thẳng xuống con dốc thoải bên kia ụ tuyết, rồi trượt qua ụ tuyết cuối cùng, trượt tiếp đến mép sông băng - rồi không còn thấy mép băng đâu nữa. Rachel và Tolland rơi tự do, nhưng cú ngã của họ ngắn lạ thường. Thay vì rơi thẳng xuống biển, họ chỉ rơi xuống khoảng ba mét và ngã xuống một phiến băng thấp hơn, rồi do có trọng lượng của Corky làm lực cản nên mới dừng lại được.
Lúc này, Tolland cố ngóc cổ lên để nhìn mặt biển. Cách đó không xa là một vách băng dựng đứng - điểm tận cùng của phiến băng, ông nghe thấy tiếng ào ạt của biển từ dưới vọng lên. Quay lại sau lưng, ông căng mắt nhìn trong bóng đêm, cố thu nhận vào đồng tử hình ảnh cửa dòng sông băng. Mắt ông bắt gặp hình ảnh một bức tường băng dựng đứng cách họ khoảng sáu, bảy mét. Đến lúc này thì Tolland nhận thức được những gì vừa xảy ra. Họ vừa trượt từ phiến băng chính xuống một mặt băng thấp hơn. Tảng băng này rất phẳng, to bằng sân chơi hockey, đã sụp một phần - và có thể trượt xuống biển khơi bất cứ lúc nào.
Sự ra đời của những núi băng trôi, Tolland thầm nghĩ và quan sát mặt băng chênh vênh trước mắt. Đó là một phiến băng lớn và bằng phẳng hình tứ giác gắn vào sông băng như cái ban công khổng lồ, ba bề giáp với biển. Sau lưng họ, một cạnh của tảng băng gắn với sông băng, và Tolland thấy sự gắn kết này không hề bền vững chút nào. Ranh giới giữa tảng băng này với phiến băng Milne là một vết nứt rộng hoác với bề ngang khoảng hơn một mét. Trọng lực sắp sửa chiến thắng trong cuộc chơi này.
Nhưng vết nứt kinh hãi đó vẫn chẳng là gì so với cảm giác hãi hùng khi thấy thân thể của Corky Marlinson bất động nằm co quắp trên băng. Corky nằm cách ông mười mét, vẫn được nối với ông bằng sợi dây như ban nãy.
Tolland gượng đứng dậy, nhưng người ông vẫn còn bị buộc chặt vào Rachel. Xoay người, ông gắng sức tháo những chiếc móc gài đang buộc chặt thắt lưng của họ vào nhau.
Rachel nhỏm người, cố ngồi dậy, trông rất yếu, giọng ngơ ngác:
- Chúng ta không rơi xuống à?
- Chúng ta ngã xuống một khối băng thấp hơn. - Tolland nói, cuối cùng thì cũng tháo được những cái móc gài ra. - Phải xem xem Corky thế nào.
Nhức nhối khắp mình mẩy, Tolland cố đứng dậy, nhưng đôi chân quá yếu ớt ông túm sợi dây và ra sức kéo. Corky bắt đầu trượt về phía họ. Kéo được khoảng mươi nhịp thì Corky đã nằm trên băng, cách họ khoảng một mét.
Trông Corky Marlinson thật thảm hại. Kính bảo hộ, đã văng mất, má rách toạc, mũi bê bết máu. Tolland sợ rằng nhà cổ sinh vật này đã chết, nhưng ngay lập tức ông thấy yên dạ khi ông ta lăn người và trợn ừng mắt giận dữ.
- Lạy Chúa tôi. - Corky lắp bắp. - Thế này là thế nào?
Tolland thấy nhẹ cả người.
Lúc này Rachel đã ngồi được dậy, mặt nhăn nhó vì đau. Cô nhìn quanh.
- Chúng ta phải thoát ra khỏi chỗ này. Trông khối băng này như sắp rơi xuống đến nơi…
Tolland hoàn toàn đồng ý. Nhưng vấn để là bằng cách nào.
Họ chẳng có thời gian mà lựa chọn giải pháp: Trên đầu họ, trên phiến băng cao, nghe có tiếng vo vo. Tolland ngẩng phắt lên, nhìn thấy hai bóng áo trắng nhẹ nhàng trượt đến sát mép băng rồi cùng dừng lại. Họ đứng đó một lúc, nhìn ba con mồi thảm bại bên dưới với ánh mắt của những đấu thủ cờ vua hau háu nhìn đối phương trước khi tung đòn tối hậu.
Delta-Một ngạc nhiên thấy ba kẻ trốn chạy kia vẫn còn sống. Tuy nhiên, anh biết rằng đây chỉ là trong điều kiện tạm thời. Họ đã ngã xuống một khối băng sắp sửa tách ra rồi rơi xuống biển. Đội của anh có thể khống chế và giết những người này theo cùng một kiểu với người đàn bà kia, nhưng một giải pháp sạch sẽ hơn nhiều vừa nảy ra trong óc anh. Bằng cách đó thì xác của họ sẽ không bao giờ được tìm thấy. Quan sát khối băng thấp đó, Delta-Một nhận thấy một vết nứt rộng đang há ra như một cái nêm lớn được chêm vào giữa phiến băng chính và khối băng thấp. Tảng băng lớn mà ba kẻ kia vừa rơi xuống trông rất nguy hiểm… Nó có thể rơi xuống đại dương bất kỳ lúc nào.
Thế thì sao không rơi luôn lúc này…
Trên phiến băng vĩnh cửu Milne, chốc chốc lại có tiếng nổ đinh tai nhức óc xé tan màn đêm thanh vắng - tiếng những khối băng lớn nứt tách ra khỏi sông băng và rơi xuống biển. Ai mà để ý đến những tiếng nổ này cơ chứ?
Cảm thấy lượng adrelanine trong máu lại tăng mạnh như những lần chuẩn bị ra tay hạ sát con mồi, Delta-Một thò tay vào túi dụng cụ và lấy ra một vật nặng hình quả chanh. Được chế tạo riêng cho các đội đặc nhiệm, vật này có tên là "Vụ nổ sáng loà" - loại lựu đạn gây chấn động mạnh "không sát thương" nhằm tạm thời đánh lạc hướng đối phương bằng cách tạo ra một luồng sáng chói loà đi kèm với những sóng chấn động đinh tai nhức óc. Tuy nhiên, đêm nay, Delta-Một biết chắc rằng "Vụ nổ chói loà" sẽ giết chết đối phương.
Anh đứng sát mép vực và băn khoăn không hiểu vết nứt kia sâu đến đâu. Bảy mét ư? Điều đó không quan trọng. Vết nứt nông hay sâu thì kế hoạch của anh vẫn cứ thành công.
Với sự điềm tĩnh có được sau vô số lần ra tay hạ sát đối tượng, Delta-Một chỉnh kim đồng hồ hẹn giờ đến mốc mười giây trên quả lựu đạn kéo chốt, rồi ném vào trong khe nứt. Quả lựu đạn rơi vào khe nứt tối sẫm rồi biến mất.
Sau đó. Delta-Một và đồng đội của anh lui về tận ụ tuyết và đợi. Sắp có một cảnh rất đáng xem. Dù tâm trí rối bời.
Rachel Sexton biết rất rõ hai kẻ kia vừa ném vật gì xuống khe nứt. Không biết Tolland cũng biết vật đó hay chỉ nhìn thấy ánh mắt sợ hãi của cô mà ông tái mặt, hoảng hốt nhìn tảng băng lớn dưới chân họ, rõ ràng đã nhận ra tình thế tuyệt vọng của cả nhóm.
Giống như ánh chớp loé lên từ giữa đám mây trong đêm giông bão, một luồng sáng chới loé lên từ sâu trong lớp băng dưới chân Rachel. Những tia sáng trắng kỳ lạ toả ra tứ phía. Trong phạm vi một trăm mét quanh họ, con sông băng chợt sáng loà. Tiếp đến là cơn chấn động. Không phải thứ tiếng nổ ì ầm của động đất mà là luồng sức mạnh khiến người ta váng óc, buốt ruột. Đợt sóng chấn động từ sâu trong tảng băng ấy lan truyền khắp thân thể Rachel.
Ngay lập tức, như thể có ai vừa chêm một cái nêm lớn vào giữa sơng băng và tảng băng lớn nơi họ đang ngồi, những tiếng nứt gãy hãi hùng vang lên. Rachel và Tolland nhìn nhau khiếp sợ. Corky kêu thét lên.
Đáy khối băng vỡ toác ra.
Trong một tích tắc, phiến băng nặng ngàn cân rơi xuống, Rachel thấy mình trong trạng thái không trọng lượng. Rồi sau đó, cả ba người rơi tõm xuống mặt biển lạnh giá cùng với khối băng.