Chương 89 -90
Tác giả: Dan Brown
89.
Trên bầu trời xứ Main, chiếc máy bay G4 vẫn đang tăng tốc tiến về Washington. Trên máy bay, Michael Tolland và Corky Marlinson chăm chú lắng nghe Rachel Sexton thuyết minh cho giả thuyết của cô về lý do khiến cho hàm lượng hydro trong lớp vỏ nóng chảy của tảng thiên thạch.
- NASA có một cơ sở kiểm tra của riêng họ, mang tên trạm Plum Brook. - Rachel nói, chính cô cũng không dám tin là bản thân mình đang tiết lộ bí mật quốc gia. Cô chưa bao giờ tiết lộ bí mật cho những ai không có quyền tiếp cận thông tin. Nhưng trong tình huống này, Tolland và Corky có quyền được biết. - Plum Brook là nơi NASA tiến hành chạy thử tất cả các loại động cơ mà họ mới chế tạo được. Cách đây hai năm, chính tay tôi đã viết một tóm tắt tin nói về loại động cơ mà NASA đang cho chạy thử ở đó - hình như là một loại động cơ chu kỳ rộng thì phải.
Corky nhìn cô nghi hoặc:
- Động cơ chu kỳ rộng vẫn còn trong giai đoạn lý thuyết. Mới có trên giấy thôi. Chưa có ai chạy thử được thứ đó. Phải vài thập niên nữa.
Rachel lắc đầu:
- Xin lỗi anh, Corky, NASA quả thực đã có mô hình đó trong tay rồi. Họ đang trong giai đoạn thử nghiệm mà.
- Cái gì? - Corky vẫn hoài nghi. - Loại động cơ đó chạy bằng khí oxy hydro hoá lỏng, mà khí đó lên đến vũ trụ thì đông đặc lại ngay, cho nên NASA có dùng được đâu! Họ đã thông báo là sẽ không chế tạo động cơ đó cho đến khi khắc phục được vấn đề nhiên liệu đông cứng cơ mà?
- Họ đã khắc phục được rồi. Họ bỏ thành phần oxy đi, rồi đưa khí hydro vào một dạng hỗn hợp bùn - tức là một hỗn hợp nhiên liệu đông lạnh có chứa hydro ở tình trạng bán đông lạnh. Động cơ này cực mạnh, và cháy rất sạch. Và rất có thể được sử dụng nếu NASA cho phóng tàu vũ trụ lên sao Hoả.
Corky vẫn chưa hết kinh ngạc:
- Không thể nào!
- Hoàn toàn là sự thật đấy. Tôi đã tóm tắt, tin cho Tổng thống mà. Và Giám đốc của tôi đã phải lao tâm khổ tứ vì NASA muốn công bố rộng rãi thành công vang dội đó của họ, còn Pickering thì muốn Nhà Trắng buộc NASA giữ bí mật về thế hệ động cơ này.
- Tại sao?
- Cái đó không quan trọng. - Rachel nói.
Cô đã tiết lộ thông tin mật vì buộc phải làm thế, và không có ý định tiến xa hơn nữa. Sự thật là Pickering muốn giữ bí mật loại động cơ này là do hiện đang có mối quan ngại về an ninh quốc gia ngày càng gia tăng - Trung Quốc đang phát triển khoa học và công nghệ vũ trụ với tốc độ nhanh chóng khôn lường. Gần đây Trung quốc còn cho xây dựng một sân bay vũ trụ "cho thuê" và ai bỏ giá thầu lớn thì sẽ mua được quyền sử dụng, mà hầu hết những nhà thầu đó chắc chắn sẽ là kẻ thù của Mỹ. Cho nên an ninh quốc gia của Mỹ đang bị uy hiếp.
May mắn thay, NRO biết được rằng Trung Quốc đang nghiên cứu chế tạo động cơ nhiên liệu đẩy để sử dụng cho sân bay vũ trụ đó. Cho nên Pickering thấy không có lý do gì để đánh động cho Trung Quốc biết NASA đã có thứ họ đang ao ước.
- Tức là, - Tolland nói, vẻ rất không thoải mái - cô nói rằng NASA đã có trong tay loại động cơ đẩy dùng khí hydro tinh khiết làm nhiên liệu à?
Rachel gật đầu.
- Tới không có con số chính xác, nhưng nhiệt độ khí thải của loại động cơ này cao hơn nhiệt độ của bất kỳ thứ gì con người từng tạo ra được trong lịch sử. Cho nên NASA đã phải nghiên cứu một loại ống xả bằng chất liệu đặc biệt. - Cô ngừng một lát - Để một tảng đá lớn đằng sau động cơ nổ đẩy kiểu này, tảng đá đó sẽ bị nóng chảy bởi khí thải ở nhiệt độ cực kỳ lớn phả ra từ động cơ thể là có một lớp vỏ nóng chảy.
- Thế đấy! - Corky nói. - Cô lại quay về với giả thuyết tảng thiên thạch giả rồi.
Tolland chợt trầm tư.
- Ý tưởng đó rất đáng suy nghĩ đấy. Cũng tương tự như việc đặt tảng đá bên dưới bệ phóng tên lửa trong một lần phóng vệ tinh lên vũ trụ thôi mà.
- Lạy Chúa tôi, - Corky ca cẩm, - Tôi đang bay cùng hai kẻ gàn dở không can nổi.
- Corky này. - Tolland nói tiếp. - trên lý thuyết thì khi đặt tảng đá trước luồng khí thải của động cơ nóng như vậy cũng sẽ tạo ra các vằn dọc giống như khi tảng thiên thạch rơi tự do trong bầu khí quyển, đúng không nào? Bề ngoài sẽ giống nhau, cả vằn dọc lẫn những lớp bề mặt nóng chảy bị thổi tạt về phía sau.
Corky làu bàu:
- Chắc thế.
- Và động cơ sử dụng khí hydro tinh khiết cũng sẽ không để lại cặn bã gì hết. Chỉ duy nhất khí hydro thôi. Hàm lượng hydro bị ion hoá trên lớp bề mặt nóng chảy sẽ cao hơn bình thường.
Corky trợn trừng mắt:
- Nghe này, nếu những động cơ đẩy đó là có thật và chạy bằng nguyên liệu hydro tinh khiết thật, thì điều đó là có thể. Nhưng những động đó còn lâu chúng ta mới có được!
- Tại sao? - Tolland cật vấn. - Quy trình cũng khá đơn giản mà.
Rachel gật đầu tán đồng:
- Tất cả những gì ta cần là một tảng đá có hoá thạch niên đại 190 triệu năm. Đem nung nóng bằng động cơ đẩy Sau đó vùi vào trong băng hà. Thế là có thiên thạch ăn liền.
- Có thể khách du lịch sẽ tin vào câu chuyện đó. - Corky phản đối - Nhưng không thể nói thế với các nhà khoa học của NASA được. Thế các chrondrule thì giải thích sao đây?
Rachel cố nhớ lại xem Corky đã giải thích với cô về các chrondrule thế nào.
- Anh đã nói rằng các chrondrule được hình thành do quá trình nung nóng và làm lạnh trong vũ trụ đúng không nào?
Corky thở dài:
- Chrondrule hình thành khi một tảng đá, có nhiệt độ rất thấp ngang với nhiệt độ môi trường trong vũ trụ, đột ngột bị nung lên đến nhiệt độ nóng chảy không toàn phần - 1550 độ C.
Sau đó tảng đá nguội đi, cực kỳ nhanh, làm cho các túi đá nóng chảy đông cứng ngay lại thành các chrondrule.
Tolland chằm chằm nhìn ông bạn:
- Và tất cả quá trình đó không thể xảy ra trên mặt đất được sao?
- Không thể. - Corky tuyên bố. - Môi trường nhiệt trên trái đất không cho phép điều đó xảy ra. Chúng ta đang nói tới nhiệt độ trong lò phản ứng hạt nhân và độ không tuyệt đối trong môi trường chân không. Những thái cực đó không có được trên hành tinh của chúng ta đâu.
Rachel tỏ ra băn khoăn:
- Ít ra là không có được trong tự nhiên.
Corky quay sang cô:
- Thế có nghĩa là sao?
- Tại sao quá mình nung nóng và làm lạnh đó không thể xảy ra trong điều kiện nhân tạo trên trái đất được? - Rachel chất vấn. - Người ta có thể dùng động cơ nổ đẩy để nung nóng nó lên, rồi đặt vào thiết bị làm lạnh.
Corky trợn mắt:
- Các chrondrule nhân tạo sao?
- Biết đâu đấy.
- Một ý tưởng kỳ quặc. - Corky đáp liền, giằng mẫu đá trên tay Rachel. - Chắc cô đã quên mất chi tiết rằng những chrondrule này có niên đại 190 triệu năm. - Ông ta nhấn mạnh từng tiếng - Theo như tôi hiểu, thưa cô Sexton, cách đây 190 triệu năm không có người nào trên trái đất này điều khiển động cơ nổ đẩy và thiết bị làm lạnh nào hết.
Dù gì đi nữa, Tolland thầm nghĩ, mỗi lúc chứng cứ một nhiều lên.
Ông đã yên lặng khá lâu sau khi nghe Rachel nói về loại động cơ nổ đẩy dạng sóng. Giả thuyết của cô, dù vô cùng táo bạo, đã mở ra mọi cánh cửa, khiến cho ý nghĩ của ông chạy lan man theo mọi hướng. Nếu lớp vỏ bị nóng chảy có thể nhân tạo được, thì liệu còn gì khác nữa không?
- Sao anh yên lặng thế? - Rachel hỏi ông.
Tolland nhìn cô gái. Trong khoảnh khắc, dưới ánh đèn từ trần cabin phả xuống, ông chợt thấy trong mắt Rachel ánh lên cái nhìn hiển dịu của Celia. Ông lắc đầu, gạt ký ức ra khỏi tâm trí, rồi thở dài mệt mỏi.
- À, tôi chỉ đang nghĩ…
- Về tảng thiên thạch phải không? - Cô mỉm cười. -Còn chi tiết nào nữa đây? Anh đang cố nghĩ xem còn chi tiết nào bị bỏ sót không chứ gì?
- Đại loại thế…
- Thế anh có nghĩ ra cái gì không?
- Chưa có gì đặc biệt. Nhưng tôi không được thoải mái lắm khi thấy nhiều chi tiết bị đổ đến như thế, đơn thuần chỉ vì chúng ta biết được lỗ khoan bên dưới tảng thiên thạch?
- Tập hợp dữ liệu thu được dựa trên những yếu tố được mặc định trước luôn là thế. - Rachel nói. - Chỉ cần lật lại chi tiết đầu tiên, thế là tất cả lung lay. Vị trí của tảng thiên thạch là chi tiết đầu tiên của chúng ta..
Mình sẽ nói cho cô ấy biết.
- Khi tôi đặt chân lên phiến băng Milne, ông Giám đốc đã nói rằng họ vừa tìm thấy một tảng thiên thạch nằm trong túi băng hoàn toàn kín. Tảng đá đó có độ đậm đặc cao hơn tất cả các loại đá khác trong vùng. Và tôi đã coi đó là bằng chứng về nguồn gốc vũ trụ của tảng đá.
- Và chúng tôi nữa chứ.
- Hàm lượng nickel trung bình, dù cũng là một căn cứ, nhưng vẫn chưa đủ để kết luận.
- Hàm lượng đó rất gần mức trung bình mà. - Corky chêm vào, hoá ra ông ta vẫn lắng nghe tất cả.
- Nhưng không hoàn toàn chính xác.
Corky gật đầu đồng tình, nhưng khá miễn cưỡng:
- Lại nữa, - Tolland nói - những con bọ vũ trụ chưa ai thấy bao giờ đó. Dù rất dị thường, có thể chỉ là một loài giáp xác tầm thường trong đại dương.
Rachel gật đầu:
- Và bây giờ đến lượt lớp vỏ bị nóng chảy…
Tôi không muốn thừa nhận điều này chút nào, - Tolland quay sang nói với Corky - nhưng dường như những bằng chứng tiêu cực bắt đầu trở thành đa số mất rồi.
- Không thể dựa vào linh cảm để làm khoa học được. - Corky nói - phải căn cứ vào các dữ liệu cụ thể chứ. Các chrondrule ở tảng đá này khẳng định nó chính là thiên thạch. Tôi thừa nhận là có rất nhiều chi tiết khiến chúng ta phải suy nghĩ, nhưng không thể bỏ qua các chrondrule. Những bằng chứng tích cực đều rất quan trọng, đã thế những bằng chứng chống lại tảng thiên thạch đều chỉ dựa trên suy diễn mà thôi.
Rachel nhíu mày:
- Thế thì ta phải kết luận thế nào đây?
- Chẳng thế nào cả. - Corky nói. - Các chrondrule đã chứng tỏ chúng ta có trong tay tảng thiên thạch. Vấn đề chỉ là tạỉ sao nó lại được đưa vào trong lòng băng hà mà thôi.
Dù rất muốn tin vào lập luận của bạn mình, Tolland vẫn cảm thấy có gì đó không ổn.
- Anh có vẻ vẫn chưa tin hẳn. Mike ạ. - Corky nhận xét.
Tolland bối rối nhìn Corky:
- Tôi cũng chẳng biết nữa. Hai trong số ba dữ liệu không hề ít đâu. Chúng ta chỉ còn sử dụng được một trong ba dữ liệu quan trọng. Có lẽ chúng ta vẫn bỏ sót chi hết nào đó.
90.
Mình đi đời rồi, Chris Harper thầm nghĩ, lòng tê tái khi nghĩ đến cảnh tù đày. Thượng nghị sĩ Sexton đã biết rằng trình nói dối về phần mềm của PODS.
Dẫn Gabrielle vào phòng làm việc của mình và đóng cửa lại, ông thấy căm ghét Giám đốc NASA. Đêm nay thì Harper đã biết những lời dối trá của ông Giám đốc có thể thậm tệ đến thế nào.
Không chỉ ép ông nói dối về dự án PODS. Ông ta còn nguỵ tạo bằng chứng để sẵn sàng hãm hại ông trong trường hợp ông thay đổi thái độ và không muốn tiếp tục nói dối nữa.
Bằng chứng về hành vi biển thủ công quỹ. Harper thầm nghĩ. Để doạ. Thật quỷ quyệt. Suy cho cùng thì sẽ chẳng một ai đem đặt lòng tin vào kẻ tha hoá muốn làm hỏng giây phút huy hoàng nhất trong lịch sử chương trình nghiên cứu vũ trụ của Hoa Kỳ. Vốn đã biết rằng Giám đốc dám làm mọi chuyện để bảo vệ NASA, ông vẫn cảm thấy choáng váng khi nghe Tổng thống tuyên bố về tảng thiên thạch có hoá thạch bên trong.
Harper đi đi lại lại bên chiếc bàn lớn đặt mô hình thu nhỏ vệ tinh PODS - một vật hình lăng trụ với rất nhiều ăng ten và kính phản quang. Gabrielle ngồi xuống, chăm chú nhìn ông ta, chờ đợi.
Cảm giác nôn nao trong dạ lại một lần nữa khiến Harper nhớ lại những gì ông ta cảm thấy trong suốt buổi họp báo ấy. Ông ta đã trình bày một cách rất không thuyết phục, và rất nhiều người đã thắc mắc với ông về điều đó. Thế là Harper buộc phải tiếp tục nói dối rằng hôm ấy ông bị ốm nặng. Cả cánh phóng viên lẫn các đồng nghiệp của ông đều tỏ ra không hài lòng, nhưng rồi đều nhanh chóng quên bẵng đi cuộc họp báo kỳ quặc đó.
Giờ đây, lời dối trá đó quay lại ám ảnh tâm trí ông.
Gabrielle Ashe tỏ ra nhã nhặn hơn:
- Ngài Harper này, giờ Giám đốc đã trở thành đối thủ của ông rồi, nên ông cần phải có một đồng minh. Và Thượng nghị sĩ Sexton sẽ là người bạn duy nhất mà ông có được trong bối cảnh này. Chúng ta hãy bắt đầu với câu chuyện về phần mềm của PODS. Hãy cho tôi biết những diễn biến cụ thể.
Harper thở dài. Ông biết đã đến lúc phải thú nhận sự thật.
Đáng ra hôm ấy mình chẳng nên nói dối!
- Công đoạn phóng vệ tinh PODS diễn ra suôn sẻ. - Ông bắt đầu. - Vệ tinh bay trên một quỹ đạo quanh vùng cực, đúng như dự định.
Thật nhàm chán. Cái đó thì Gabrielle Ashe đã biết trước rồi.
- Ông nói tiếp đi.
- Sau đó vấn đề nảy sinh. Chúng tôi bắt đầu nghiên cứu vùng băng hà vĩnh cửu để tìm các vị trí có độ đậm đặc khác thường. Và phần mềm phát hiện độ đậm đặc trên vệ tinh không hoạt động.
- Rồi, cái đó tôi đã biết.
Phầm mềm đó đáng ra phải có khả năng xem xét hàng ngàn hécta diện tích và phát hiện ra những khu vực có độ đậm đặc khác so với độ đậm đặc của băng tuyết. Trước hết là phải tìm được những khu vực mềm hơn bình thường - những bằng chứng của quá trình nóng lên toàn cầu - nhưng nếu phát hiện ra những đối tượng có độ đậm đặc khác thường thì nó cũng phải báo về. Đó cũng là một phần của kế hoạch. Mục đích chính là để PODS chụp cắt lớp Cực Bắc trong vòng vài tuần nhằm phát hiện những dấu hiệu bất thường để đánh giá mức độ ấm lên toàn cầu.
- Nhưng vì phần mềm không hoạt động, - Gabrielle tiếp lời, cho nên PODS chẳng làm được gì. Đáng ra NASA đã có thể nghiên cứu kỹ từng xăng ti mét vuông vùng Cực Bắc để phát hiện các bất thường.
Harper gật đầu, nhớ lại những cảm giác ghê sợ sau sai lầm ngớ ngẩn của mình.
- Phải mất vài thập niên mới khắc phục được, tình hình lúc đó vô cùng xấu. Vì sai sót của tôi trong khâu lập trình, PODS trở thành hoàn toàn vô dụng. Đã thế lại đúng vào giai đoạn tranh cử và Thượng nghị sĩ Sexton đã công kích NASA. - Ông ta thở dài.
- Sai sót của ông vô cùng tai hại đối với NASA và Tổng thống.
- Đó là thời điểm vô vùng nhạy cảm. Giám đốc giận tím gan. Tôi đã cam kết với ông ấy sẽ khắc phục được sự cố trong lần phóng vệ tinh tiếp theo - chỉ đơn giản là vấn đề thay vài con chíp trong máy tính mà thôi. Nhưng quá muộn. Ông ta cho tôi nghỉ phép năm, nhưng thực ra là sa thải tôi. Đó là chuyện cách đây một tháng.
Thế nhưng cách đây hai tuần, ông đã xuất hiện trên tivi và công bố rằng đã khắc phục xong sai sót đó.
Harper đổ sụp xuống ghế.
- Đó là lỗi lầm khủng khiếp. Hôm ấy, tôi đã nhận được cuộc gọi của Giám đốc. Ông ấy nói rằng có sự kiện quan trọng, vừa xảy ra, và có cách để chạy tội cho tôi. Tôi đã đến ngay văn phòng để gặp ông ấy. Và đã nhận được lệnh tổ chức họp báo để công bố rằng sẽ khắc phục xong sai sót trong phần mềm của PODS trong vòng vài tuần sau đó. Và ông ấy còn bảo sẽ giải thích sau
- Và ông đã đồng ý?
- Không. Tôi từ chối! Nhưng một giờ sau thì ông Giám đốc đã đến phòng làm việc của tôi, cùng với cố vấn của Tổng thống!
- Cái gì? - Gabrielle bàng hoàng.
Bà ta thật đáng sợ. Harper thầm nghĩ, gật đầu. Bà ta cùng ông Giám đốc bắt tôi ngồi xuống, và nói rằng vì tôi mà cả NASA và Tổng thống bị đẩy đến bên bờ vực thẳm. Tench nói với tôi rằng ngài Thượng nghị sĩ có ý định tư hữu hoá NASA nếu đắc cử. Và vì thế tôi mắc nợ cả NASA lẫn ngài Tổng thống: Sau đó bà ta giải thích mọi chuyện.
Gabrielle nhoài hẳn người về phía trước:
- Ông nói tiếp đi.
- Bà ta giải thích rằng, do may mắn tình cờ. Nhà Trắng đã nghe lén được nguồn tin rằng một tảng thiên thạch đang bị vùi lấp trong lòng phiến băng Milne. Tảng thiên thạch lớn chưa từng thấy. Và tảng thiên thạch to lớn đến thế chắc chắn sẽ được coi là một phát kiến quan trọng của NASA.
Gabrielle ngỡ ngàng.
- Gượm đã nào, ông nói rằng người ta biết trước về sự có mặt của tảng thiên thạch trước khi PODS tìm thấy nó à?
- Đúng thế PODS chẳng liên quan gì đến phát kiến này cả. Giám đốc đã biết trước về sự tồn tại của tảng thiên thạch. Ông ta chọ tôi biết toạ độ, và bảo tôi định vị PODS đúng vị trí đó để giả vờ là vệ tinh của chúng tôi đã tìm ra nó.
- Ông nói đùa?
- Tôi cũng đã phản ứng y như thế khi họ yêu cầu tôi tham gia vào âm mưu kia. Họ từ chối không chịu nói đã tìm thấy tảng thiên thạch đó bằng cách nào. Tench chỉ nhắc đi nhắc lại rằng điều đó không quan trọng, rằng đây là cơ hội để tôi khắc phục sai sót của mình. Nếu tôi giả vờ rằng chính PODS đã tìm ra tảng đá đó thì NASA sẽ công bố thông tin rộng rãi nhằm tuyên truyền về thắng lợi của NASA, để cho chiến dịch tranh cử của Tổng thống có thể cất cánh.
Gabrielle kinh hoàng.
- Và dĩ nhiên nếu chưa tuyên bố đã khắc phục xong lỗi phần mềm của PODS thì không thể nói rằng chính nó đã tìm thấy tảng thiên thạch.
Harper gật đầu.
- Cho nên đó là buổi họp báo dối trá. Tôi bị ép phải làm thế. Cả bà Tench lẫn Giám đốc đều xử sự một cách nhẫn tâm. Họ nhấn mạnh rằng chính tôi đã kéo tất cả mọi người xuống tận bùn đen - Tổng thống đã chi ngân sách cho dự án PODS, NASA đã mất bao năm mới hoàn tất được nó, và giờ đây tôi đẩy tất cả những công sức ấy xuống bùn đen, chỉ vì một sai lằm ngớ ngẩn.
- Thế là ông nhận lời giúp họ.
- Tôi chẳng còn cách nào khác. Nếu không làm thế thì sự nghiệp của tôi chắc chắn sẽ chấm hết. Và sự thật là nếu tôi không làm hỏng phần mềm ấy thì PODS đã tìm thấy tảng thiên thạch đó rồi. Cho nên lúc đó những gì tôi nói cũng không có gì ghê gớm lắm. Tôi tự thuyết phục bản thân rằng sau vài tháng nữa, khi tàu con thoi được phóng lên, sai sót đó sẽ được khắc phục. Vì thế tôi chỉ thông báo sự thật sớm hơn một chút mà thôi.
Gabrielle gật gù:
- Một lời nói dối vô hại để tận dụng cơ hội tảng thiên thạch.
Nhắc đến chuyện này, Harper trông như sắp phát ốm.
- Thế là tôi đã làm điều đó… theo chỉ đạo của Giám đốc. Đầu tiên, tôi tổ chức cuộc họp báo để công bố rằng đã có biện pháp khắc phục được sai sót phần mềm của PODS; đợi vài ngày sau, tôi điều khiển cho PODS nằm cố định đúng ở toạ độ có tảng thiên thạch; sau đó, theo đúng chỉ thị của ông ấy, tôi báo với Giám đốc Chương trình EOS là PODS vừa phát hiện được một vật thể có độ đậm đặc cao bất thường trên phiến băng Milne, cho ông ấy biết toạ độ chính xác, và nói thêm rằng độ đậm đặc này chỉ ra rằng rất có thể đó là một tảng thiên thạch. Trong tâm trạng phấn khích, NASA cử một toán đi khoan thăm dò để lấy mẫu đá Và đó chính là lúc sự việc trở nên ầm ỹ.
Và mãi đến tối nay ông mới được biết rằng tảng thiên thạch chứa hoá thạch bên trong?
- Ở đây chẳng ai biết một tí gì. Tất cả chúng tôi đều ngạc nhiên. Bây giờ ai cũng bảo tôi chính là người hùng đã có công tìm ra tảng thiên thạch đó, và tôi chẳng còn biết nói gì nữa.
Im lặng hồi lâu, đôi mắt đen cương nghị của Gabrielle nhìn thẳng vào ông tiến sĩ:
- Nhưng thực ra PODS không tự phát hiện được tảng thiên thạch. Làm sao ông Giám đốc biết được là nó đang ở đó?
- Đầu tiên là một người khác đã tìm thấy nó.
- Người khác? Ai thế?
Harper thở dài.
- Nhà địa chất học người Canada tên là Charles Brophy - nhà nghiên cứu trên đảo Ellesmere. Trong khi đang nghiên cứu độ sâu trên phiến băng Milne. Ông ta đã tình cờ phát hiện được một vật rất giống thiên thạch. Ông ta thông báo tin đó bằng sóng radio, và NASA nghe lén được cuộc nói chuyện.
Gabrielle trợn tròn mắt:
- Thế người Canada không phản ứng gì khi NASA cướp công của họ à?
- Không. - Harper đáp, giọng thê thảm. - Thật tiện cho NASA là ông ta đã chết rồi.