Phía Tây thành phố
Tác giả: Đào Duy Hiệp
Có ba người đàn ông: một người to, một người nhỏ, một người trung bình. Đàn ông chẳng bao giờ là không giống nhau. Ba cái đầu nhìn vào quyển thực đơn giả da màu mận chín để trên bàn. Ánh nắng qua cửa sổ chiếu lên những chữ mạ vàng lấp lánh. Chẳng phải bao giờ cái gì lấp lánh cũng đều là vàng.
Cuốn Kinh phúc âm của dạ dày được lần lượt mở ra. Dòng sông thức ăn sơn hào hải vị tràn trề. Những dòng chữ đen lấp loá như dòng cát bùn lẫn sỏi sạn tuôn ra từ lòng mỏ để đãi lấy những hạt vàng. “Ai ơi bưng bát cơm đầy. Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”. Trong đời, mỗi người một nghề. Khói, lửa, mồ hôi, đôi khi cả máu… để được no lòng. Còn hạnh phúc lại là một chuyện khác. Phía Tây có nhiều chuyện lạ. Quyển sổ dừng ở trang đồ uống. Đồ uống bao giờ cũng giản dị, ngắn gọn. Nghe tên không kêu bằng món ăn. Kêu và cũng khó hiểu nữa. Ở một quán rượu trong phố có rượu dân tộc và rượu quốc tế. Rượu “dân tộc” có Chúa Trịnh đứng đầu bảng, rồi Tây Môn Khánh, Hoàng Đế, Minh Mạng (Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử)… Hàng chục loại khác nghe như tên các danh nhân. Ba ngón tay cùng chụm vào một hàng chữ. Sau rút về. Trên các ngón tay có đeo nhẫn vàng. Có cái gắn ngọc màu đỏ. Bàn tay đó đặt chặn lên cuốn kinh giả da đã gấp lại.
Họ ngẩng lên nhìn trần nhà theo khói thuốc. Trần nhà màu kem nhẹ nhõm, hoa văn nổi nối đuôi nhau đến tận sát tường có gắn điều hoà nhiệt độ. Một chấm đèn sáng xanh bằng đầu que hương: máy đang làm việc. Khói thuốc tan loãng. Kính cửa sổ đóng kín. Màn lụa mỡ gà mỏng nhẹ phất phơ. Dưới kia dòng người xuôi ngược. Đời bao giờ mà chẳng phải tất bật, lo toan? Cả nhớ nhung nữa. Bây giờ nàng đang làm gì, ở đâu? Mọi sự rồi thành chả ra sao cả. Chỉ thấy thương, mà cũng tội nữa. Nói dối cũng là việc cùng chẳng đã. Nói dối thì đau mình, lại đau người. Người yếu đuối thì hay làm thế. Tươm tất phủ lên những nhếch nhác, ê chề. Người con trai kia đang nói chuyện gì với người con gái? Tất cả rồi cũng phải kết thúc thôi. “Tình ngỡ đã quên đi, nhưng tình vẫn lại về”…
Việc nhiều quá mà chưa xong. Những sự hiếu, hỉ, đáp lễ nhau rất mất thì giờ. Tý nữa phải tạt qua buy-rô xem có công văn giấy tờ gì không. Con bé thư ký bắt đầu hỗn rồi. Có lẽ phải thay đứa được việc hơn. Không cần xinh lắm. Mất rất nhiều thời gian. Mai thằng ấy ở trong Nam ra, bàn lại. “Típ, típ”… lại nhắn cái gì thế này? Được gọi cho nó bảo đang tiếp khách quốc tế. Có tiếng rao thuốc bả chuột: “Chuột đồng chuột cống chuột chù ăn vào gật gù một tí chết ngay. Kể cả chuột Tây chuột ta chuột Bồ Đào Nha chuột Nga chuột Pháp chuột Tuynidi chuột Thổ Nhĩ Kỳ chuột gỉ chuột gi chuột gì cũng chết”… Lại rao: “Ai mà chẳng có đôi tai, Mẹ ơi con muốn có hai cái vòng, Bao ngày con đợi con mong, Giờ đây con đã có vòng đeo tai”. Đấy là rao xỏ lỗ tai, bấm máy.
Miếng đất ấy bây giờ lãi gấp ba. Hôm nọ nhờ xem bảo đất hình Mộc (dài) phát về đường văn. Rồi đọc: “Thắt cổ bồng phồng ra huyệt kết, / Xem cho biết mộc tiết, kim loan; / Mộc tiết, văn đỗ trạng nguyên; / Kim loan, võ được tước quyền Quận công”. Văn cao nhất là Trạng nguyên, Tể tướng rồi thấp dần xuống thư ký. Lại hỏi về hướng nên làm nhà. Bảo: “Thuỷ mệnh cấn trạch, chính Tây diên niên, Tây - Nam sinh khí, tương hợp giai ngâu, gia giáo huy hảo, phúc đức tổ phùng lai”. Diên niên thì thọ, sinh khí thì khoẻ mạnh.
*
Ba cái đầu thôi không nhìn trần nhà, nhìn khói nữa. Nhìn nhau. Họ ngồi theo thế chân vạc, chia thật đều cái bàn tròn thành ba điểm cân đối. Tam giác đều. Có một người bỏ cuộc nhìn nhau, nhìn đi nơi khác. Nơi khác ấy có một người khác giới còn trẻ, đứng ở quầy bar, quay lưng lại đang trang điểm. Trong gương có một màu da giống màu rượu Johnnie Walker đỏ pha đá hay màu nước chè nhạt. Không thể nói đó là nước da vùng Amazôn, nhưng nước da thật mịn. Mỹ phẩm đắt đỏ. Đang là “mốt”. Dịch lên một chút là đôi mắt. Đôi mắt im lặng, đẹp, giông bão. Lại như dò hỏi, đo lường. (Nhìn nhau qua gương thì được lâu mà không ai biết). “Tấm gương… phản ánh… khi thì mầu xanh thẳm bầu trời, khi thì bùn nhơ…”. Nước da vùng Amazôn đó mặc áo đỏ, riềm đăng-ten đen ở cổ, váy đen dài thướt tha, bí ẩn. Người bỏ cuộc không dám nhìn lâu, đôi mắt đọng ở sâu đáy cốc. Cốc sóng sánh. Người ngồi bên cạnh phía phải lại “Típ, típ” nhắn tin. Người thứ ba đang nghịch chiếc thìa hình Mộc, phát về văn. Nhìn qua thành cốc đầy màu nước lửa thấy đĩa xa-lát rất đẹp. Những lát cà chua đỏ tươi xắt mỏng bày xung quanh. Những miếng dưa chuột cắt đôi, chẻ tư châu tuần. Rau mùi xoắn xuýt ôm lấy rau xà lách trộn dầu, ngóc lên như là ngạt thở, như là tìm ánh sáng. Bát xúp toả khói mờ, uể oải. Xúp trong sánh như bột lọc có các sợi trứng tráng mỏng, thái nhỏ như cái tăm, thịt lươn màu trắng nhìn thấy thớ nhỏ li ti, mộc nhĩ màu nâu rất đẹp, lại có những hạt sen lững lờ, hạt tiêu xay nhỏ, mịn trải đều trên mặt. Đĩa muối tiêu, chanh, ớt đặt bên cạnh. Ăn xúp bằng thìa sứ, màu trắng.
Đồng hồ chỉ quá Ngọ. Nước xốt nâu xẫm đọng trên bàn trải khăn trắng. Những giọt nâu. Đống xương chim bồ câu quanh đĩa. Những cái xương nhỏ và mảnh. Ba người đàn ông cùng cúi xuống, cùng ngẩng lên, cùng nhìn nhau, cùng ngửa cổ. Một cái miệng mấp máy; một cái giống như cười phô hàm răng ám khói; một cái nhai, ngẫm nghĩ. Thịt bò mềm, ngọt có vị oi khói rất tự nhiên, giống ngày xưa ở rừng. Rừng lúc đó ấm áp, chưa bị chặt nhiều cây. Đêm quanh đống lửa nghe con nai tác ở xa rất thảm thiết. Thịt nai nướng bùi, thơm, rất ngon. Sấy khô cho vào ba lô, ăn dần. Cây chặt nhiều để làm nhà, để đốt, để lấy rễ bán. Lại “Típ, típ”. Bàn tay xạm, tái bệnh sốt rét lập cập, nóng nảy rút cái máy ra, bấm tắt máy, cho vào túi áo ngực. Ở đằng kia, bàn tay đeo nhẫn ngọc đỏ đang búng cái thìa hình Mộc quay tít. Bàn tay khác mũm mĩm đang dày vò chiếc khăn bông mới thay tẩm nước hoa mát lạnh, rồi đưa lên lau đôi môi dày bóng nhẫy. Những ngón tay mũm mĩm cụ cựa, ngập ngừng, mơ màng nghĩ đến vùng rừng rậm Amazôn. Bàn tay đó, bàn tay xạm, bàn tay đeo nhẫn nạm ngọc đỏ, cùng nâng cốc. Người khác giới ở quầy bar nhướn gót, nhìn xuống đường. Các động mạch ở thái dương ba người đàn ông giật giật như có lửa. Máu họ có lửa, có axít chứ không phải sữa.
Ba cái đầu cùng hướng ra cửa sổ có màn mờ màu mỡ gà. Ngã tư nhốn nháo, rất đông người. Màn mờ màu mỡ gà được bàn tay Amazôn nhỏ nhắn, thanh mảnh, vén lên. Ba cái đầu lần lượt đứng lên tụ lại bên cửa sổ. Nhìn xuống đường. Nín thở. Một người thở cạnh cái đầu. Qua ánh sáng cửa sổ thấy những sợi tóc mềm bay lên, lại nằm xuống lại bay lên gấp gáp, đều đặn. Một người thở cạnh cổ. Cái cổ cao hơi ngọ nguậy. Một người thở cạnh áo. Áo vải dày không có biểu hiện gì. Áo màu đỏ riềm đăng-ten đen ở cổ. “Vũ vô kiềm toả năng lưu khách”… Trời quang, chẳng có một giọt mưa.
Mưa không quá Ngọ, gió chẳng quá Mùi. Cái gì rồi chẳng chóng qua, phấn hồng chẳng phụ phôi pha má đào. Đôi mắt sắc sảo, u buồn nữa, mà khinh bỉ thăm thẳm trên nước da nâu mịn, ánh lên bất ngờ trên khung kính cửa sổ. Đôi mắt như dò hỏi, như đo lường, như giông bão… Ba cái đầu giãn ra, giật lùi. Đàn ông chẳng bao giờ là không giống nhau. Ở dưới đường chỗ ngã tư có một chiếc xe máy nằm kềnh, xăng chảy ra. Một người con trai nằm úp mặt xuống đường. Máu ở tai rỉ ra. Một người con gái trẻ, xinh đẹp ngồi cạnh đang xoa đầu gối khóc, trông rất tội. “Ai mà chẳng có đôi tai”…
Từ cửa sổ theo đường chim bay đến chỗ họ là 31m15. Còn đi bộ theo hai cạnh tam giác, xuống cầu thang ngang qua đường, phải xa hơn, 50m80.
Từ cửa sổ đến bàn ăn là 4m25, từ bàn ăn đến quầy bar là 3m. Ba mét tai nạn chia cho ba người. Tai biến của cái đẹp vừa mơn chớn, mơ hồ, vừa tàn nhẫn, sâu sắc. Đôi mắt và làn da mịn: ở trong gương.
Một cái đầu “Típ, típ” nghĩ về tương lai, một cái đầu hình Mộc nghĩ về hiện đại, cái còn lại nghĩ về quá khứ vùng Amazôn. Cả ba cùng ngả vào nhau rập rờn, lử lả lướt qua quầy Bar, ra tiền sảnh, xuống đường.
Bắt tay nhau cùng ngửa cổ ứng thiên, cười to một tiếng… rồi chia tay.
(Rút từ tập Nước Thiên đàng xuất bản 1996)