Món quá tặng
Tác giả: Dương Tường
Khi đội trưởng của chúng tôi, đồng chí Novgoroski, biết tin rằng, đã hơn một tuần nay, vợ đồng chí và con gái, cháu Masha tuổi mới lên năm, đang sốt ruột chờ đợi tại một sân bay trong đất liền, chờ thời tiết tốt cho máy bay cất cánh, có thể nói đồng chí ăn mất ngon ngủ mất yên. Một người xa lạ hẳn sẽ ngạc nhiên khi thấy một con người cao lớn như thế, thường ngày tính nết điềm đạm, hơi âm thầm nữa, với bộ râu đen nhánh mọc trùm cả hai má lên tận mắt, một người như thế nay bỗng dưng thỉnh thoảng lại tới bên cửa sổ, nhìn lên bầu trời đầy mây đen nặng trĩu, hoặc thỉnh thoảng người ấy lại kéo râu một cách bứt rứt khi nghe tin thời tiết, thật ngạc nhiên, ngạc nhiên quá đi chứ! Còn chúng tôi, chúng tôi biết rõ Novgoroski. Đã một năm nay, đồng chí không rời đảo này, nơi đồng chí làm cái việc nặng nhọc là nghề thợ khoan. Chuyến thăm nhân vụ nghỉ của vợ con - cả một tháng - đối với đồng chí là cả một niềm hạnh phúc không gì sánh bằng.
Thế rồi, trời quang được vài giờ, như thể trời cũng thương cho đội trưởng của chúng tôi, các nhà khí tượng đã cho phép máy bay cất cánh. Chiếc trực thăng Mi-8, có nhiệm vụ cung cấp lương thực thực phẩm cho chúng tôi, đồng thời đưa tới đây các vị khách vô cùng quý mến, đã bay qua eo biển hết một tiếng rưỡi đồng hồ. Trước hết máy bay đỗ xuống khu vực các nhà sinh vật học ở đầu đảo đằng kia, trút xuống đó một nửa trọng tải, sau đó lại cất cánh và đỗ xuống gần khu trại chúng tôi.
Mười hai anh đàn ông râu xồm, có phần nào “ hoang dã hoá ”, vì sống lâu ngày ở vùng vắng vẻ, đứng xếp hàng trước nơi máy bay hạ cánh, mảnh đất lởm chởm đá và hẹp, nơi đó đã có những lá cờ đỏ con con làm mốc. Chính Novgoroski yêu cầu chúng tôi như vậy. Đồng chí ấy muốn biết xem con mình có nhận ra bố hay không. Cháu bé gái, xúc động, đưa mắt nhìn khắp lượt chúng tôi. Cháu nhìn hơi lâu vào cha mình – lúc đó ông ta tựa như một chú bé sắp khóc – đã định quay mặt đi, rồi nó lại quay lại chằm chằm nhìn cha. Cháu cười mỉm vẻ nhút nhát, lấy ngón tay chỉ vào cha, rồi úp mặt núp vào váy mẹ.
- Nó nhận ra cha rồi! Nhận ra rồi! – Chúng tôi reo lên vui vẻ.
Tất cả chúng tôi đều thích Masha. Tất cả chúng tôi đều đã có con nhỏ, cháu bé gái này hầu như đã thu ngắn lại cái khoảng cách giữa chúng tôi và gia đình mình.
Công việc mà Masha thích thú nhất hạng là được cùng cha đi chơi thong dong ven bờ Bắc Băng Dương. Cảnh đẹp cũng đáng được để mắt. Cháu bé thích hơn cả là được cùng cha tới “ trại chim ”. Hàng chục ngàn, có dễ hàng trăm ngàn chim chóc các màu, thân mình nhỏ bé hoặc to lớn kếch sù, đã lập trại trên một doi đất cao nhô ra đại dương. Tiếng người mất hút đi trong tiếng quàng quạc, ríu rít, suốt ngày suốt đêm ở trại. Lúc đó đang là mùa chim làm tổ. Trên đảo không có đủ chỗ cho chim làm tổ, nên rất nhiều giống chim làm tổ, đẻ và ấp trứng trên một vùng đất lổn nhổn đá phía trên doi đất. Khi thấy bóng người, các con chim cái bay lên cao, lượn vòng đầy lo âu bên trên tổ và cất tiếng kêu váng lên. Những con chim dạn dĩ hơn cả bổ nhào vào những người tới phá quấy và dùng cánh đánh vào đầu họ, cố công cố sức xua đuổi những kẻ chúng không ưa.
Nhưng cả Novgoroski lẫn con gái đâu có nghĩ tới chuyện ăn trộm trứng chim và ăn trộm chim non. Họ chỉ tò mò muốn xem xét những bông tròn nho nhỏ đầy lông tơ lúc nhúc trong các tổ chim. Masha vuốt ve chúng và lấy vụn bánh mì cho chúng ăn. Với cô bé và mẹ em, vốn sinh sống tại vùng giữa nước Nga và đây là lần đầu tiên họ sống dài ngày trên vùng đất Bắc Băng Dương, những chú chim non kia đối với họ thật quả là điều đặc biệt. Chưa từng khi nào hai mẹ con được thấy những thứ như thế. Thêm vào đó, tên gọi chúng cũng thật lạ tai: chim cộc vùng Berinh, nhạn Thái Bình Dương, chim giẻ Laponi…
Một bữa kia, trong lúc Novgoroski đang cùng con gái dạo chơi vùng trại chim, một con gió băng giá thổi từ miền cực về bất ngờ, và trời đầy mây xám đen nặng chịch. Vài phút sau đổ xuống một cơn bão tuyết. Vào tháng sáu, vùng cực thường có những chuyện bất ngờ như vậy. Masha mặc một chiếc áo choàng ngắn mùa thu, chỉ vì một giờ trước đó trời vẫn còn nắng ấm, nhiệt độ khoảng năm độ. Novgoroski liền bế con gái và chạy về trại. Cũng phải khá lâu mới tới trại, vì đường cũng xa tới một cây số. Khi hai cha con về tới trại, mọi người liền cho em bé uống nước trà nóng với mật, sau đó em được đặt vào nằm trong một túi chăn làm bằng da chó. Thế nhưng chuyến đi chơi trong bão tuyết tỏ ra hiệu nghiệm. Masha rên rỉ và ho suốt đêm. Em được cặp nhiệt độ: 40 độ! Và ngay tại đó lại không có bác sĩ. Những người thợ khoan vốn dày dạn trong gió lạnh phương Bắc, đâu có cần tới các y sĩ. Mọi người bèn liên lạc bằng vô tuyến với khu các nhà sinh vật học. Chiều xuống, một nữ bác sĩ tới sau khi đã vượt trên trăm cây số bằng một chiếc xe chạy được mọi loại đường. Nữ bác sĩ trực bên giường em suốt ba ngày ba đêm. Rồi một con bệnh nguy kịch nổi lên. Masha giẫy giụa trong túi chăn, mê man, miệng nói sảng, luôn luôn đòi một con chim non. Novgoroski, mặt rầu rĩ, lặng lẽ chịu đựng mọi chuyện. Còn chúng tôi thì đi lại hết sức sẽ sàng. Còn có cực hình nào khủng khiếp hơn với một người cha là nhìn thấy con mình ốm nặng và mình thì bất lực.
Thế rồi cơn nguy kịch của Masha qua khỏi. Thể trạng em tốt dần. Chúng tôi vui sướng hết chỗ nói. Mỗi người đều thấy mình có nhiệm vụ làm cho Masha vui, cố làm cho em nở được nụ cười. Chú này thì nhăn mặt làm trò, chú kia thì bò bốn chân, miệng sủa hoặc kêu eng éc. Nữ bác sĩ đã ra đi. Còn em bé vì dùng quá nhiều thuốc kháng sinh, vẫn còn yếu.
Tôi không rõ nữa, ai là người đầu tiên nảy ra cái ý đem một con chim non về làm quà tặng cho Masha. Mọi người chỉ nghĩ rằng, em cần được vui vẻ để mau lành bệnh hẳn.
Nghĩ là làm luôn, sau giờ làm việc Novgoroski cùng tôi – hai chúng tôi tới trại chim. Chúng tôi chọn rất lâu vì cả hai người đều muốn kén chọn tử tế. Cuối cùng chúng tôi đồng lòng chọn một con Uria nhỏ. Con chim non còn vụng dại, mình phủ đầy lông tơ đen và vàng, cái đầu to tướng và đôi cánh mới nhú. Dĩ nhiên đó là một việc không nên làm, việc bắt đi con chim non duy nhất của loài Uria ( loại chim này mỗi lần đẻ, chỉ nuôi một con chim non thôi ) là những bậc cha mẹ cực kỳ quý con. Nhưng còn có việc gì mà không làm để đem lại sức khoẻ cho một bé gái ốm đau? Chúng tôi bèn quyết định như sau: con chim non chỉ sống vài ngày trong lán trại, cho tới khi Masha khỏi bệnh hoàn toàn thôi. Sau đó chúng tôi sẽ mang trả con chim non về tổ cho cha mẹ nó. Và nếu như chẳng may lúc đó nó thiếu cha mẹ, vì cha mẹ đã bỏ đi, thì những con Uria già khác sẽ trông nom nó. Tình cảm tương tự rất mạnh trong loài chim đó.
Masha sung sướng hết chỗ nói. Novgoroski xé một chiếc áo bông, và dùng bông làm một cái tổ êm ái và thuận tiện, đặt ngay trên thành cửa sổ, vì con chim non này cần thường xuyên có ánh sáng mặt trời. Cạnh tổ, để một đĩa đầy nước. Con Uria nhỏ ăn rất ngon lành mọi thứ chúng tôi cho nó; vụn bánh, cháo mạch, thịt miếng, nước quả ép…
Mỗi lần ra khỏi lán trại, chúng tôi lại nhìn thấy cha mẹ con chim non đậu trên nóc lán. Nhìn thấy chúng tôi, chúng bốc bay, lượn vòng rộng và kêu toáng lên.
Một hôm, khi từ giếng khoan trở về, chúng tôi bắt gặp một cảnh tượng đáng để ý. Các con chim Uria mẹ và cha đậu trên bậu cửa sổ, nhìn vào trong nhà xem xét con chúng qua lần cửa kính. Thế là, cứ bay lượn mãi trên nóc lán chúng tôi, cuối cùng chúng cũng lần ra dấu vết đứa con. Con chim bố khá bình tĩnh, chỉ ngảnh đầu nhìn con bằng mắt bên này, rồi lại nhìn bằng mắt bên kia. Nhưng con mẹ thì tỏ ra hết sức kích động. Nó dùng mỏ mổ vào cửa kính, dùng cánh đập vào song cửa, song cửa này xem chừng không chắc chắn lắm. Sau vài ngày, con chim non xem chừng đã quên hẳn cha mẹ, chẳng hề bộc lộ chút tình cảm nào với cha mẹ nó nữa. Để có được hạnh phúc, nó cần gì hơn? Chẳng bao nhiêu: có thức ăn, có nước uống, có người chăm sóc. Những thứ đó nó đã có thừa thãi rồi.
- Con gái bố, giờ thì đã đến lúc ta thả con chim non ra thôi – Novgoroski nói với con bằng một giọng kiên quyết – Con hãy vĩnh biệt nó đi!
- Không! Không! – Cô con gái bé nhỏ cưỡng lại, nước mắt lưng tròng.
- Thế mà bố cứ ngỡ rằng con biết nghĩ kia đấy – Novgoroski nói với vẻ thất vọng – Con xem kìa: con Uria bên phải, con to lớn ấy, là cha của con chim non này. Còn con kia là mẹ nó. Chúng muốn đem con về nuôi. Con xem đấy, bất kỳ lúc nào, nó cũng có thể phá vỡ cửa kính…
Trong lúc mọi đang cố giảng giải cho Masha, thì đôi chim Uria cất cánh bay. Qua cửa sổ, tôi theo dõi chúng. Con trống bỗng tách khỏi con mái và đậu trên một mỏm gò cao không xa lán trại mấy. Còn con mái thì bay vọt lên trời cao, rồi bất chợt quay lại, và như một tên lửa nhỏ, nó lao vút vào cửa sổ. Tôi nín thở. Tôi cứ hy vọng một cách mong manh rằng cuối cùng nó sẽ gượng dậy và bay trở lại mái lán…Tôi tránh khỏi cửa sổ theo bản năng. Cú va chạm thật mạnh. Kính vỡ tan loảng xoảng, chấn song gẫy. Masha cất tiếng kêu sợ hãi. Con chim non rời khỏi bậu cửa sổ, miệng kêu chiêm chiếp…
Dưới chân tôi, con chim mẹ nằm bất động. Nó chết tươi: một mảnh kính cong, sắc như dao nhọn, đã đâm thọc vào ngực nó.
Tôi vội vàng đem con chim chết ra khỏi lán. Vợ của Novgoroski đi theo tôi. Tay chị cầm con chim non và đặt nó xuống đất.
Những chuyện sảy ra tiếp theo, chúng tôi được thấy qua cửa sổ lán. Mới đầu con trống tới đậu bên con mái khi đó đã chết rồi. Nó đứng đó khá lâu, không ngừng dùng mỏ nâng đầu người bạn đời nó lên. Rồi nó cất cánh bay, mỏ nó cắp lấy một cách vụng về con chim non đang cố giẫy ra, và nó bỏ đi về phía đại dương.
Từ đó, không một ai trong chúng tôi còn lò mò tới khu trại chim nữa.