watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Xã hội mở-Cải cách chủ nghĩa tư bản toàn cầu-Chương 6 - tác giả George Soros George Soros

George Soros

Chương 6

Tác giả: George Soros

Trong chương này, tôi sẽ khảo sát vấn đề về các giá trị xã hội sâu hơn. Điều này sẽ đặt nền móng cho việc xem xét phê phán hệ thống tư bản chủ nghĩa toàn cầu như nó thịnh hành ngày nay.
Các giá trị thị trường đối lại các giá trị xã hội

Mối quan hệ giữa các giá trị thị trường và giá trị xã hội không dễ tháo gỡ. Vấn đề không phải là xác lập rằng có sự khác biệt giữa hai thứ; mà là trong quyết định khi nào chúng ta phải được hướng dẫn bởi một thứ và khi nào bởi thứ khác. Những người theo thuyết thị trường chính thống cố thử bỏ qua các giá trị xã hội bằng lí lẽ rằng các giá trị đó - bất luận chúng là gì - được thể hiện trong ứng xử thị trường. Thí dụ, nếu người ta muốn quan tâm đến những người khác hay bảo vệ môi trường, họ có thể phát biểu ý kiến đó bằng chi tiêu tiền; chủ nghĩa vị tha của họ trở thành một phần của tổng sản phẩm quốc nội (GNP) hệt như tiêu dùng dễ thấy của họ. Tất nhiên, có các vấn đề cần đến các quyết định tập thể, nhưng các lựa chọn xã hội được hướng dẫn bởi cùng các nguyên lí như lựa chọn cá nhân.
Để chứng minh rằng lí lẽ này là sai, tôi không cần viện dẫn đến trừu tượng hoá, mà chúng ta đã có quá nhiều rồi; tôi có thể rút ra từ kinh nghiệm cá nhân của mình.
Với tư cách một người tham gia ẩn danh trong các thị trường tài chính, tôi chẳng bao giờ phải cân nhắc các hậu quả xã hội của các hành động của tôi. Tôi đã luôn ý thức được rằng, trong những hoàn cành nào đó, các hậu quả có thể có hại, nhưng tôi đã cảm thấy được biện minh trong việc bỏ qua chúng trên cơ sở là tôi đã chơi theo luật. Trò chơi là cạnh tranh, và nếu tôi áp đặt các ràng buộc thêm lên mình, tôi có thể kết thúc như một người thua cuộc. Hơn nữa, tôi đã hiểu rõ rằng sự đắn đo cá nhân chẳng tạo ra sự khác biệt về kết quả: Nếu tôi kiêng kị, ai đó khác sẽ lấy chỗ của tôi. Trong quyết định mua hay bán cổ phiếu hay đồng tiền nào, tôi được chỉ dẫn bởi duy nhất một cân nhắc: để tối ưu hoá tiền lời của tôi trên vốn bằng cách cân nhắc rủi ro đối lại phần thưởng. Tuy nhiên, các quyết định của tôi đã có các hậu quả xã hội: Khi tôi mua cổ phần của Lockheed và Northrop sau khi các ban quản lí bị buộc tội tham nhũng, tôi đã giúp duy trì giá của cổ phiếu của họ. Khi tôi bán non đồng Bảng anh năm 1992, Ngân hàng Anh quốc đã ở phía bên kia của các giao dịch của tôi, và tôi thực tế đã lấy tiền từ túi của những người Anh đóng thuế. Nhưng nếu giả như tôi đã thử tính đến các hậu quả xã hội, nó sẽ vứt tính toán rủi ro-phần thưởng của tôi đi, và lợi nhuận của tôi đã giảm xuống. May thay, tôi đã không cần cân nhắc các hậu quả xã hội, vì chúng đằng nào cũng xảy ra: Nếu giả như tôi đã không mua Lockheed và Northrop, thì ai đó khác đã mua. Người Anh phá giá đồng Bảng, bất luận tôi đã sinh ra hay không. “Nếu tôi không làm việc đó, ai khác đó sẽ làm” là sự giũ trách nhiệm thông thường; nhưng trong trường hợp này nó có căn cứ vững vàng. Các thị trường tài chính có nhiều người tham gia đến mức không một người tham gia đơn lẻ, ẩn danh nào có thể có một ảnh hưởng, có thể cảm nhận được về kết quả. Kéo lương tâm xã hội của tôi vào quá trình ra quyết định sẽ chẳng làm nên sự khác biệt nào trong thế giới thực; nhưng nó có thể tác động xấu đến kết quả riêng của tôi.
Lí lẽ này đúng chỉ cho các thị trường tài chính. Nếu giả như tôi đối phó với con người chứ không phải các thị trường, tôi có thể đã không tránh lựa chọn đạo đức và, là người hơi khó tính, có thể đã không thành công đến vậy trong kiếm tiền. Đội ơn vận may đã dẫn tôi đến các thị trường tài chính và để cho tôi giữ cho bàn tay tôi sạch: Pecunia non olet (tiền không có mùi). Những người tham gia thị trường nói chung được miễn trừ các lựa chọn đạo đức chừng nào họ chơi theo luật. Trong nghĩa này, các thị trường tài chính không trái đạo đức; chúng là phi đạo đức. Những người hoàn toàn đáng kính mua và bán cổ phần và hàng hoá có thể ảnh hưởng đến vận may của người dân ở những nơi xa xăm: các thợ mỏ đồng ở Châu Phi hay các công nhân xây dựng ở Indonesia có thể mất kế sinh nhai vì một sự thay đổi về giá hàng hoá hay tỉ giá hối đoái. Nhưng các kết quả này không bị ảnh hưởng bởi các quyết định của những người tham gia thị trường riêng biệt; cho nên chúng không cần đi vào tính toán của họ. Các vấn đề do biến động thị trường gây ra chỉ có thể được đề cập ở mức chính sách.
Tôi hiểu rõ là lí lẽ này không còn áp dụng được bây giờ khi tôi đã trở thành một nhân vật được nhiều người biết đến mà các hành động và tuyên bố của tôi có thể tác động đến các thị trường. Điều này làm nảy sinh các vấn đề đạo đức mà trước đây tôi đã được miễn trừ và làm cho địa vị của tôi như một người tham gia thị trường phức tạp hơn nhiều.
Đây là một thí dụ: Tôi đã là một người ủng hộ tích cực hiệp ước cấm mìn, nhưng các quỹ của tôi đã có cổ phần trong một công ti sản xuất mìn. Tôi cảm thấy bắt buộc phải bán các cổ phần đó, dẫu cho tôi đã coi chúng là một khoản đầu tư hấp dẫn, và thực ra chúng đã lên giá đáng kể sau khi tôi bán nó. Tôi đã có thể không bán nó trước khi tôi thành một nhân vật nổi tiếng. Thật ra mà nói, việc bán cổ phần của tôi đã chẳng có ảnh hưởng gì đến sản xuất mìn, nhưng tôi không còn có thể biện minh cho sự sở hữu chúng bằng cách cho rằng mình là một người tham gia thị trường ẩn danh.
Không còn là ẩn danh, tôi phải cực kì cẩn trọng về cái tôi nói. Tôi nêu rõ một điểm là không nói bất cứ thứ gì có thể mang lợi cho tôi như một nhà đầu tư. Dù sao đi nữa, tôi vẫn thường bị rắc rối. Bức thư của tôi cho tờ Financial Times tại thời điểm của khủng hoảng Nga (xem Chương 9) là một trường hợp như vậy. Thế lưỡng nan thậm chí còn gay gắt hơn nữa, lúc tôi phải quyết định có nên nói hay không những điều mà, khi ở vị thế cuả nhà đầu tư , chúng sẽ quay lại hại chính tôi. Thí dụ, khi ủng hộ thuế Toobin (xem Chương 10), tôi đã trực tiếp đi chống lại các lợi ích kinh doanh của chính mình. Thường tôi bênh vực Tu chính lần thứ Năm [1] (Fifth Amendment ); tức là, tôi cố không làm hại lợi ích riêng của tôi, song đôi khi tôi không thể tránh nói cái tôi tin. Sự thực, là một nhân vật nổi tiếng trên thực tiễn làm cho không thể đồng thời là một nhà đầu tư tích cực. [2] May thay, tôi không còn tích cực trong quản lí các quỹ của tôi, và tôi đã uỷ quyền cho các nhà quản lí tích cực bỏ qua vị trí của tôi như một nhân vật nổi tiếng khi ra các quyết định đầu tư. Song đây là một thoả hiệp rầy rà, và nó làm cho tôi đánh giá cao lợi thế của ẩn danh.
Thật quan trọng khi phân biệt giữa phi đạo đức (amorality ) và trái đạo đức (immorality ). Coi các thị trường tài chính như trái đạo đức có thể can thiệp vào vận hành bình thường của chúng và tước mất một trong các thuộc tính hữu dụng nhất của chúng - cụ thể là, tính phi đạo đức của nó. Tính phi (ngoài) đạo đức giúp cho các thị trường tài chính hoạt động hiệu quả hơn. Đạo đức nêu ra các vấn đề khó mà những người tham gia trong các thị trường tài chính có thể lảng tránh một cách thuận tiện bằng cách dựa vào lí lẽ mà tôi đã dùng.
Lí lẽ đứng vững, dù các nhà đầu tư có lo âu về đạo đức hay không. Cho đến khá gần đây, nhiều nhà đầu tư đã tránh mua cổ phần của các nhà máy rượu, nhưng các quyết định của họ như các nhà đầu tư đã tạo ra sự khác biệt rất nhỏ đối với tiêu thụ rượu cồn. Cũng thế với môi trường. Đúng, đã có những thay đổi quan trọng trong thái độ của các công ti, nhưng những thay đổi này xảy ra như kết quả của áp lực xã hội, chính trị, và pháp lí, chứ không phải quyết định của cá nhân các nhà đầu tư. Cổ phần thuốc lá không được ưa thích, nhưng sự sa sút của chúng là do quyết định của toà án gây ra, cái được phản ánh đúng trong đánh giá của thị trường.
Phải thừa nhận, các thị trường tài chính không chỉ phản ánh thụ động những cái căn bản; chúng cũng có thể có vai trò tích cực trong định hình thực tại. Tuy vậy, chúng ta cần phân biệt ứng xử tập thể và ứng xử cá nhân. Ứng xử tập thể của các thị trường có các hệ quả sâu rộng; ứng xử cá nhân của những người tham gia thị trường chỉ có một tác động nhỏ nhoi, vì luôn có người chơi khác sẵn sàng vào cuộc với một giá khác chút ít. Chính định nghĩa của thị trường hiệu quả là không người tham gia đơn độc nào có thể ảnh hưởng đến giá.
Các thị trường tài chính có thể được dùng như vũ đài của hành động tập thể. Thí dụ, sự tẩy chay các khoản đầu tư Nam Phi hoá ra đã thành công để thúc đẩy sự thay đổi chế độ ở Nam Phi. Nhưng hành động tập thể là ngoại lệ hơn là lệ thường, và nó phải như vậy, vì công trạng chủ yếu của các thị trường là khả năng của chúng để biểu lộ các sở thích cá nhân. Các lợi ích tập thể phải được bảo vệ bằng hành động chính trị và công dân. Sử dụng các thị trường tài chính cho hành động công dân là một khả năng, nhưng đó không phải là việc sử dụng chính của chúng. Chấp nhận sự thực rằng các thị trường là thuần khiết phi đạo đức phải dẫn đến sự thừa nhận rằng chúng ta không thể hoạt động được mà không có khu vực phi thị trường. Tính phi đạo đức của thị trường làm cho việc các giá trị xã hội được diễn đạt trong các qui tắc chi phối thị trường (cũng như các khía cạnh khác của xã hội) càng quan trọng hơn bao giờ hết. Người tham gia ẩn danh có thể bỏ qua những cân nhắc đạo đức, chính trị, và xã hội, song nếu chúng ta ngó tới tác động do các thị trường tài chính gây ra, chúng ta không thể không tính đến những cân nhắc như vậy. Như đã thấy trong khủng hoảng 1997-1999, các thị trường tài chính có thể hành động như trái đạn phá, phá đổ các nền kinh tế. Mặc dù chúng ta được biện minh là chơi theo luật, chúng ta cũng phải chú ý đến luật mà chúng ta chơi. Qui tắc do các nhà chức trách tạo ra, nhưng trong các nền dân chủ, các nhà chức trách bị ảnh hưởng bởi những người chơi.
Một phân biệt quan trọng

Tham gia thị trường và đề ra qui tắc là hai chức năng khác nhau. Thật là sai lầm khi đi đánh đồng động cơ lợi nhuận hướng dẫn những người tham gia cá nhân với những cân nhắc xã hội phải hướng dẫn việc lập qui tắc. Đây chính là sai lầm mà một số người theo thuyết thị trường chính thống vấp phải, khi họ cố mở rộng tính toán kinh tế sang các lĩnh vực hoạt động khác, như chính trị hoặc luật hợp đồng. Làm sao họ có thể xoay xở xong việc này? Tuyến bảo vệ thứ nhất của họ là họ chỉ mô hình hoá người dân ứng xử ra sao: “Người ta có thể nói về cái đúng và cái sai, nhưng khi vơi tiền, họ hành động theo lợi ích của họ”. Đáng tiếc, có nhiều sự thật trong luận điểm này. Việc ra quyết định tập thể trong các nền dân chủ đương thời chủ yếu là một cuộc chơi quyền lực giữa các quyền lợi cạnh tranh nhau. Người ta cố bẻ cong qui tắc để có lợi cho riêng họ.
Nhưng lí lẽ theo thuyết thị trường chính thống không vững chắc. Thứ nhất, chúng không mô hình hoá ứng xử thực sự; đúng hơn, chúng tạo các mô hình trên giả thiết đặc biệt về tính duy lí. Thứ hai, các giá trị là phản thân, và thuyết thị trường chính thống có khuynh hướng củng cố ứng xử tự phục vụ trong chính trị. Ảnh hưởng của thuyết thị trường chính thống càng lớn, mô hình của họ về ứng xử của con người trở nên càng thực tế hơn. Thứ ba, ngay cho dù các mô hình của họ có tương ứng với thực tại, thì điều đó cũng chẳng làm cho lí lẽ của họ đúng. Các hành động kinh tế có những hệ quả xã hội không thể bỏ qua, với lí do: Con người là ích kỉ.
Đó là chỗ tuyến bảo vệ thứ hai của thuyết thị trường chính thống góp phần: “Các thị trường có khuynh hướng tiến tới cân bằng, vì thế theo đuổi tư lợi cũng phục vụ cho lợi ích chung”. Những người theo thuyết thị trường chính thống cho rằng họ quan tâm đến phúc lợi chung như bất kể ai khác, và lí thuyết cân bằng chung là một sự phát kiến về phúc lợi. Nó được cho là trung lập với giá trị, nhưng nó cho các thị trường tự do một sắc thái đạo đức mạnh mẽ bằng cách lí lẽ rằng, cân bằng chung là tối đa hoá phúc lợi. Tôi tin tôi đã chứng tỏ một số thiếu sót của lí thuyết cân bằng. Ở đây, tôi phải chỉ ra rằng nó mâu thuẫn trực tiếp với khái niệm xã hội mở. Lí thuyết cân bằng chung áp dụng chỉ cho một thế giới hoàn hảo, còn giáo lí căn bản của xã hội mở là sự hoàn hảo ở ngoài tầm với của chúng ta. Suy ra rằng tuyến bảo vệ thứ hai này không áp dụng cho thế giới thực tế. Do thiếu cân bằng chung, theo đuổi tư lợi có thể có những hệ quả xã hội xấu.
Người theo thuyết thị trường chính thống có thể gạt bỏ sự chống đối của tôi, trên cơ sở rằng: Lợi ích của các thị trường tự do là rõ ràng cho mọi người trông thấy. Tôi sẽ là người đầu tiên công nhận rằng các thị trường tự do cổ vũ việc tạo ra của cải; chúng cũng là thành phần cốt yếu của xã hội mở vì chúng cho người dân thực hiện lựa chọn. Nhưng những người theo thuyết thị trường chính thống, bằng cách cầu khẩn đến khái niệm cân bằng, diễn giải sai quá trình. Không phải xu hướng tiến tới cân bằng là sự tạo ra của cải mà là sự giải phóng năng lực sáng tạo. Tạo của cải là một quá trình động. Nó không tự điều chỉnh, và nó không đảm bảo công bằng xã hội.
Tất cả điều này là khá dễ hiểu; những khó khăn thực sự bắt đầu một khi có sự phân biệt giữa các giá trị thị trường và giá trị xã hội. Chúng liên hệ với nhau ra sao? Rõ ràng các giá trị thị trường phản ánh lợi ích của cá nhân người tham gia thị trường, trong khi các giá trị xã hội đụng đến các lợi ích xã hội như được các thành viên của nó cảm nhận. Các giá trị thị trường có thể được đo bằng tiền, nhưng các giá trị xã hội thì phức tạp hơn: Chúng khó quan sát và càng khó đo lường hơn. Đo lợi nhuận là dễ - chỉ nhìn vào dòng cuối. [3] Nhưng làm sao để đo các hệ quả xã hội của một đường lối hành động? Hành động có các hệ quả chủ ý và không chủ ý trải ra giữa các dòng phía trên dòng cuối. Chúng không thể rút gọn về một dòng đơn nhất, vì chúng tác động đến những người khác nhau một cách khác nhau. Điều đó làm cho đánh giá kết quả khó hơn nhiều. Lợi ích chung là một khái niệm mơ hồ hơn tư lợi cá nhân nhiều, và nó dễ bị lờ đi. Các chính trị gia luôn làm thế, và do khái niệm mơ hồ đến như vậy, họ tránh khỏi nó.
Như một nhà từ thiện, tôi cố phục vụ cái tôi coi là lợi ích chung, nhưng tôi nhận thức sâu sắc tất cả các hệ quả không chủ ý mà hành động của tôi có thể gây ra. Tôi cố cân nhắc chúng khi ra đưa ra các quyết định của mình. Tôi đã phạm nhiều sai lầm, nhưng chí ít tôi có lợi thế là chủ của chính mình, vì thế tôi có thể sửa chúng với sự miễn phạt. Các nhà chính trị không được hưởng sự xa hoa như vậy: Thú nhận sai lầm hẳn có thể bị phạt ở thời kì bầu cử. Vì thế họ cố biện minh cho các hành động của mình bằng bất kể lí lẽ nào họ có thể tập hợp được, và lợi ích chung bị mất hút trong quá trình. Do thiếu một tiêu chuẩn khách quan giống như lợi nhuận, cuộc tranh luận biến tướng thành chỗ buộc tội lẫn nhau giữa chúng ta và chúng nó, cho đến khi công dân bình thường tin rằng tất cả chính trị đều thối nát.
Đây là mặt trái của việc cố đòi sự hoàn hảo: Chúng ta đặt ra các tiêu chuẩn mà các nhà lãnh đạo của mình không thể có được, rồi lại chê trách họ thiếu tư cách. Bất kể người biết điều nào đều có thể thống nhất rằng sự hoàn hảo là không thể đạt được. Thế mà hệ tư tưởng theo thuyết thị trường chính thống cố dàn xếp để thiết lập sự hoàn hảo như tiêu chuẩn. Nó cho rằng thị trường là hoàn hảo, ở nghĩa là nó có khuynh hướng tới cân bằng hoặc chí ít hiệu chỉnh những thái quá riêng của nó; vì thế chúng ta phải dựa vào thị trường trong các quyết định chính trị của chúng ta ở mức lớn nhất có thể và đo thành tích chính trị tương phản với thành tích của các thị trường. Lí lẽ là sai trong mọi khía cạnh, nhưng nó trở nên chi phối sự đàm luận công khai.
Sự thực là quá trình ra quyết định không thể cũng hoạt động tốt trong chính trị và đời sống xã hội như trong khoa học tự nhiên hoặc các thị trường. Khoa học có một tiêu chuẩn độc lập, khách quan, cụ thể là các sự thực, là cái cho phép sự thật bộc lộ cho dù nó trái với lẽ phải thông thường. Các thị trường cũng có một tiêu chuẩn khách quan: lợi nhuận. Trong đời sống chính trị và xã hội, tiêu chuẩn sẵn có duy nhất có tính chủ quan: người dân nghĩ cái gì. Vì hai lí do, đây không phải là cơ sở tin cậy cho quá trình giữa các cá nhân về tư duy phê phán. Một lí do là khó xác minh thực sự người dân nghĩ gì. Thật quá dễ để che giấu. Như chúng ta đã thấy, khoa học xã hội ít có kết quả hơn khoa học tự nhiên vì vấn đề động cơ tham gia vào thảo luận. Các nhà Marxist, thí dụ, thường làm lệch hướng sự phê bình giáo lí của họ bằng kết tội những người phản biện là họ được hướng dẫn bởi lợi ích giai cấp. Các nhà phân tâm học thường nói rằng những người phản kháng phân tâm học là “chối từ”. Vì thế quá trình phê phán ít hiệu quả hơn khi nó liên quan đến động cơ hơn là sự thực. Lí do thứ hai là các sự thực không dùng được như một tiêu chuẩn độc lập, theo đó, sự thật hay tính hiệu lực của các niềm tin có thể được đánh giá. Điều này gợi lại một điểm trước đây: Các quá trình phản thân có thể là tự hợp lệ hoá. Sự thực rằng một chiến lược hay chính sách hoạt động không chứng minh rằng nó hợp lệ; sai sót sẽ trở nên rõ ràng chỉ sau khi nó ngưng hoạt động. Lấy một ví dụ đơn giản: tăng nhanh thâm hụt ngân sách hay thâm hụt thương mại. Nó cảm thấy hay chừng nào nó còn duy trì, nhưng có thể là địa ngục nếu trả muộn hơn.
Một sự so sánh trực tiếp giữa cạnh tranh dân chủ và cơ chế thị trường sẽ chứng tỏ chính trị có khuynh hướng hoạt động không tốt bằng các thị trường. Đây không phải là sự so sánh thường được đưa ra, vì thế nó có thể cho sự thấu hiểu lí thú nào đó.
Dân chủ đại diện

Dân chủ cung cấp một cơ chế để ra các quyết định tập thể. Nó có ý định đạt cùng mục tiêu cho lựa chọn tập thể, như cơ chế thị trường đạt được cho lựa chọn cá nhân. Các công dân chọn các đại diện những người tụ họp để ra các quyết định tập thể bằng cách bỏ phiếu. Đây là nguyên lí đại diện.
Dân chủ đại diện giả thiết trước một mối quan hệ loại nào đó giữa các công dân và những người đại diện. Các ứng viên đi diễn thuyết và nói cho các công dân họ ủng hộ cái gì; sau đó, các công dân chọn người mà họ tin và kính trọng nhất. Đó là loại đại diện mà Thomas Jefferson đã thực hiện trong những ngày tốt đẹp xưa kia, trừ việc ông đã ở nhà trong đợt vận động. Vì vậy, dân chủ dựa trên giả thiết rằng các ứng cử viên sẽ thẳng thắn với cử tri, điều tất nhiên là không thực tế. Các ứng cử viên đã phát hiện ra từ lâu rằng cơ hội trúng cử của họ cao hơn nếu, thay vào đó, họ nói cho cử tri cái cử tri muốn nghe. Sai sót này không gây tai hoạ, vì hệ thống cho phép nó; nếu các ứng viên không giữ lời hứa, họ có thể bị gạt khỏi chức vụ. Trong trường hợp đó, tình hình ở gần cân bằng. Các cử tri không luôn có được những người đại diện họ muốn, nhưng họ có thể sửa sai lầm của mình ở vòng bầu cử tiếp theo.
Tình hình, tuy vậy, có thể trở chiều khá xa cân bằng thông qua quá trình phản thân. Các ứng viên phát triển các kĩ thuật để khai thác khoảng cách giữa lời hứa và hành động. Họ tiến hành khảo sát công luận và các cuộc hội họp của các nhóm có trọng điểm để phát hiện ra cử tri muốn nghe gì và sau đó tạo thành một thông điệp khớp với mong muốn của cử tri. Quá trình tạo ra sự tương ứng giữa các tuyên bố của ứng viên và mong muốn của cử tri, nhưng nó làm thế để cho khớp lời hứa của ứng viên với kì vọng của cử tri hơn là thoả mãn các kì vọng đó. Thay cho việc tạo ra sự lãnh đạo, các chính trị gia theo dư luận, và đất nước không có sự lãnh đạo mà nó thực sự cần. Cử tri trở nên thất vọng và mất niềm tin vào quá trình.
Các cử tri không phải không đáng trách. Họ được cho là ủng hộ các đại diện đặt lợi ích tốt nhất của cộng đồng tận đáy lòng, nhưng họ lại thường đặt tư lợi thiển cận lên trên lợi ích chung. Các ứng viên đến lượt mình lại lôi cuốn tư lợi của người dân, và vì họ không thể thoả mãn tất cả mọi người, họ mặc cả với các nhóm quyền lợi đặc biệt. Quá trình xuống cấp khi các cử tri thôi không để ý đến sự lừa đảo và dối trá của các ứng viên của mình, miễn là họ phục vụ lợi ích cá nhân của cử tri. Thước đo không phải là tính chính trực hay thông minh mà là khả năng kiếm phiếu bầu. Sự méo mó được tiền củng cố.
Quảng cáo TV là đồi bại cả hai mặt: Chúng thay các tuyên bố chân thật bằng những lời dối trá, chua cay, và chúng được trả bằng tiền của người biếu (hãy hiểu là các giới có quyền lợi). Chắc chắn ở Hoa Kì, các ứng viên không thể có đủ tiền để được bầu mà không có mặc cả với các giới có quyền lợi. Hệ thống là tự duy trì mãi mãi vì nó thiên vị những người đương nhiệm, và họ không muốn thay đổi nó. Đây là tình hình thịnh hành ngày nay.
So sánh tình hình này với conglomerate boom mà tôi đã mô tả ở Chương 3. Các ban quản lí conglomerate đã tìm được một cách để khai thác quan hệ phản thân giữa đánh giá và những cái căn bản. Họ đã phát hiện ra rằng họ có thể làm tăng lợi tức trên cổ phần bằng hứa làm tăng lợi tức trên cổ phần qua thôn tính. Điều này giống như tìm ra cái cử tri nghĩ và sau đó nói cho họ cái họ muốn nghe. Cả hai đều là các thí dụ về bất cân bằng động. Nhưng có một sự khác biệt khổng lồ. Conglomerate boom được hiệu chỉnh bằng một bust . Các thị trường có một cách để hiệu chỉnh những thái quá của chúng - các thị trường giá xuống theo sau các thị trường giá lên. Nhưng dân chủ đại diện ít có khả năng phục hồi ở khía cạnh này. Đúng, các chính phủ và cơ quan lập pháp đều đặn thay thế nhau, nhưng dân chủ dường như không có năng lực sửa các sai sót của riêng mình; ngược lại, (toàn bộ) cử tri dường như ngày càng ít thoả mãn với nó. Điều này được biểu lộ bởi sự hờ hững và ích kỉ giữa các cử tri và sự tăng lên của các ứng viên dân tuý.
Một lời thận trọng: Tôi nhấn mạnh là các thị trường có thể hiệu chỉnh các thái quá của chúng, đúng lúc khi các thị trường tài chính có thể để rơi mất khả năng đó. Các nhà đầu tư đã mất niềm tin vào những cái căn bản, nhận ra rằng cuộc chơi là vì kiếm tiền, không phải vì các giá trị cơ sở. Nhiều thước đo cổ xưa để đánh giá cổ phiếu đã vấp ngã, và những người tiếp tục tôn trọng chúng đã bị thua thiệt so với những người tin vào rạng đông của một “nền kinh tế mới”. Nhưng kết luận là chúng ta thấy mình ở lãnh địa xa cân bằng sẽ chỉ được củng cố nếu giả như các thị trường cũng mất cái neo của chúng.
Cái đúng với chính trị cũng đúng ngang thế với các giá trị xã hội. Theo cách nào đó, các giá trị xã hội tồi hơn các giá trị thị trường. Chúng không thể được định lượng - chúng thậm chí không thể được nhận diện một cách phù hợp. Chúng chắc chắn không thể được qui về một mẫu số chung là tiền. Tuy nhiên, một cộng đồng xác định rõ ràng có các giá trị xác định rành mạch; các thành viên của nó có thể tôn trọng hay vi phạm chúng, được chúng duy trì hay bị chúng áp bức, nhưng chí ít họ biết các giá trị đó là gì. Chúng ta không sống trong loại cộng đồng đó. Chúng ta có khó khăn về quyết định giữa cái đúng và sai. Như thế tính phi đạo đức của các thị trường đã làm xói mòn đạo đức thậm chí ở các lĩnh vực mà xã hội không thể hoạt động mà không có nó. Không có sự đồng thuận về các giá trị đạo đức như quyền sống hay quyền lựa chọn. Các giá trị tiền tệ ít lẫn lộn hơn nhiều. Không chỉ là chúng có thể đo được, mà chúng ta có thể cảm thấy yên tâm là chúng được đánh giá cao bởi những người xung quanh chúng ta. Chúng chào mời một sự chắc chắn mà các giá trị xã hội đã đánh mất. Đó là cách mà các giá trị chuyên nghề bị động cơ lợi nhuận thế chỗ và các nghề như luật và y - chẳng nhắc đến chính trị, học thuật, và thậm chí các tổ chức từ thiện và phi chính phủ - lại chuyển thành kinh doanh.
Các giá trị xã hội có thể mơ hồ hơn các giá trị thị trường, nhưng xã hội không thể tồn tại mà không có chúng. Các giá trị thị trường đã được thăng tiến lên vị trí của các giá trị xã hội, nhưng chúng không thực hiện chức năng đó. Chúng được thiết kế cho việc ra quyết định cá nhân trong một bối cảnh cạnh tranh và không phù hợp cho ra quyết định tập thể trong tình trạng cần hợp tác cũng như cạnh tranh.
Đã để sự lẫn lộn chức năng xảy ra, và đó là cái đã làm xói mòn quá trình ra quyết định tập thể. Các giá trị thị trường không thể lấy chỗ của tinh thần vì mọi người hay, dùng lối nói cổ, đức hạnh công dân. Mỗi khi các lợi ích chính trị và kinh doanh giao nhau, có nguy cơ là ảnh hưởng chính trị sẽ được dùng cho các mục đích kinh doanh. Có một truyền thống đứng vững, nói rằng những đại diện được bầu chú ý đến lợi ích của cử tri của họ. Nhưng chúng ta vạch ranh giới ở đâu giữa cái gì là hợp pháp và cái gì không? Sự nổi trội gán cho các lợi ích kinh doanh - và tư lợi của các chính trị gia - đã đẩy đường ranh giới quá điểm mà hầu hết cử tri thấy có thể chấp nhận được. Từ đó mà có sự vỡ mộng và bất bình của họ.
Sự lẫn lộn chức năng là đặc biệt rõ rệt trong quan hệ quốc tế. Chính sách đối ngoại thường bị những cân nhắc chính sách đối nội chế ngự. Xu hướng là đặc biệt mạnh ở Hoa Kì với các khối cử tri sắc tộc. Cũng có truyền thống đẩy các lợi ích kinh doanh bằng các công cụ chính trị. Tổng thống của một nước Đông Âu nói với tôi, ông ta bị sốc ra sao khi trong một cuộc họp với Jacques Chirac, tổng thống Pháp đã dùng hầu hết thời gian để thúc đẩy ông chiếu cố một người mua Pháp trong vụ bán một công ti xi măng quốc doanh. Tôi sẽ thậm chí không nhắc đến bán vũ khí.
Đã luôn có tham nhũng trong chính trị, song người ta được cho là xấu hổ về nó và cố che giấu. Hiện nay do động cơ lợi nhuận được thăng tiến thành một nguyên lí đạo đức, các chính trị gia ở một số nước cảm thấy hết sức xấu hổ khi họ không lợi dụng được vị trí của mình. Tôi trực tiếp quan sát thấy điều này ở các nước tôi có các quỹ tài trợ. Ukraine, người ta nói, là khét tiếng tham nhũng. Tôi cũng tiến hành một nghiên cứu ở các nước Phi Châu và thấy rằng nhân dân ở các nước giàu và nghèo tài nguyên đều nghèo như nhau; sự khác biệt duy nhất là chính phủ của các nước giàu tài nguyên tham nhũng hơn.
Thế mà đi gạt bỏ ra quyết định tập thể chính vì nó phi hiệu quả và tham nhũng là so sánh được với từ bỏ cơ chế thị trường, chính vì nó bất ổn định và không công bằng. Sự thôi thúc trong cả hai trường hợp đến từ cùng nguồn gốc: Nỗi khao khát cho sự hoàn thiện và sự bất lực để chấp nhận rằng mọi kiến trúc của con người đều có sai sót.
Các ý tưởng của chúng ta về cả cơ chế thị trường lẫn dân chủ đại diện đều được hình thành dưới ảnh hưởng của Thời Khai sáng. Chúng ta thiên về việc coi quan điểm của những người tham gia và thực tại mà chúng liên hệ đến như hai phần tử độc lập với nhau. Các thị trường tài chính được cho là chiết khấu tương lai độc lập với các đánh giá hiện tại; các đại diện được bầu, được cho là đại diện cho các giá trị nào đó, độc lập với bất kỳ khát vọng để được bầu nào. Song đó không phải là cách thế giới hoạt động. Các giá trị là phản thân. Do đó, cả cơ chế thị trường lẫn dân chủ đại diện chắc đều không làm trọn được những kì vọng gắn cho chúng. Thế nhưng, chẳng có lí do gì để từ bỏ bất kể cái nào. Cả quá trình chính trị và cơ chế thị trường cần được cải thiện, không phải huỷ bỏ.
Những người theo thuyết thị trường chính thống ghét lấy quyết định tập thể ở bất cứ dạng nào, vì nó thiếu cơ chế tự sửa sai của thị trường. Họ lí lẽ rằng lợi ích công được gián tiếp phục vụ tốt nhất, bằng cách để cho các thị trường tự do định đoạt. Có giá trị nào đó trong lí lẽ của họ, song niềm tin của họ vào thị trường bị đặt sai chỗ vì ba lí do.
Thứ nhất, các thị trường không được dự kiến để giải quyết các vấn đề về công bằng phân phối; nó coi phân bổ của cải hiện tại là cho trước.
Thứ hai, lợi ích chung không được biểu lộ ở ứng xử thị trường. Các công ti không nhằm tạo công ăn việc làm; chúng sử dụng người làm (càng ít và càng rẻ càng tốt) để kiếm lợi nhuận. Các công ti chăm sóc sức khoẻ không kinh doanh để cứu mạng sống; chúng cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ để kiếm lợi nhuận. Các công ti dầu không tìm cách bảo vệ môi trường, trừ việc nhằm đáp ứng các qui chế hoặc để bảo vệ hình ảnh công cộng của chúng. Động cơ lợi nhuận có thể được dùng như một khuyến khích để tạo ra các kết quả xã hội mong muốn, như công ăn việc làm đầy đủ, y tế có giá phải chăng, hoặc một môi trường lành mạnh, nhưng nếu các qui tắc điều tiết các ngành như chăm sóc sức khoẻ lại bị lợi nhuận điều khiển, thì những hệ quả không mong muốn nào đó nhất thiết xảy đến. Thực vậy, giả như nếu cạnh tranh được phó mặc cho cơ chế thị trường thì có thể không có cạnh tranh gì cả. Các hãng cạnh tranh nhằm kiếm lợi nhuận, không phải để duy trì cạnh tranh, và nếu chúng có thể, chúng sẽ loại bỏ mọi sự cạnh tranh. Karl Marx nêu rõ điểm này khoảng 150 năm trước.
Thứ ba, các thị trường tài chính là bất ổn định một cách cố hữu. Tôi hoàn toàn hiểu rõ giá trị của các thị trường tài chính như một cơ chế phản hồi, không chỉ cho phép mà còn buộc những người tham gia sửa các sai lầm của họ, nhưng tôi phải nói thêm là bản thân các thị trường tài chính cũng tạo ra các sai lầm. Ý tưởng, rằng các thị trường luôn đúng, là sai. Bản thân thuyết thị trường chính thống cũng cần được sửa bằng một quá trình thử và sai. Các ngân hàng trung ương là đặc biệt phù hợp với công việc vì chúng tương tác với các thị trường tài chính và nhận phản hồi, cho phép chúng sửa sai lầm riêng của mình. Những người theo thuyết thị trường chính thống chỉ ra khả năng mau phục hồi xuất sắc của các thị trường tài chính để bác bỏ tính bất ổn định căn bản của chúng. Hãy xem chúng phục hồi nhanh như thế nào từ khủng hoảng 1997-1999, họ nói. Nhưng họ đã không tính đến vai trò tạo cân bằng của các nhà chức trách tiền tệ; ngược lại, họ cho là khủng hoảng nảy sinh trước hết vì IMF đã tạo ra rủi ro đạo đức khuyến khích cho vay thái quá. Như tôi sẽ lí luận ở Phần II của cuốn sách này, hệ thống tài chính toàn cầu có thể đã sụp đổ nếu không có can thiệp kịp thời của Cục Dự trữ Liên bang, và nó thậm chí đã giữ cho nền kinh tế không tròng trành kể từ đó; IMF ít thành công hơn và các nền kinh tế mới nổi đã phải trả giá đắt cho việc đó. Các nhà chức trách tiền tệ quốc tế rất cần cải cách.
Tôi cũng chia sẻ sự ác cảm thịnh hành đối với chính trị. Tôi là một thuộc hạ của các thị trường và tôi thích quyền tự do và các cơ hội mà chúng tạo ra. Như một người tham gia thị trường, tôi ra các quyết định của riêng mình và học từ những sai lầm của mình. Tôi không cần thuyết phục những người khác làm việc gì đó, và kết quả không bị hoạt động chính trị văn phòng làm bối rối. Nghe có vẻ lạ, tham gia vào các thị trường tài chính làm thoả mãn sự truy tìm chân lí của tôi. Như thế, dù cho tôi có định kiến cá nhân, ghét chính trị và các hình thức khác của việc ra quyết định tập thể, tôi thừa nhận là chúng ta không thể hoạt động mà không có chúng.

Các giá trị xã hội trong một xã hội mở

Quá trình ra quyết định tập thể có thể được cải thiện ra sao trong một xã hội mở? Tôi đề xuất một qui tắc khá đơn giản: Người ta phải tách rời vai trò người tham gia thị trường ra khỏi vai trò người tham gia chính trị. Như người tham gia thị trường, người ta phải theo đuổi tư lợi cá nhân của họ; như người tham gia quá trình chính trị, họ phải được chỉ dẫn bởi lợi ích công cộng.
Sự biện minh cho qui tắc này cũng khá đơn giản. Trong tình hình gần cạnh tranh hoàn hảo, không một người cạnh tranh đơn lẻ nào có thể ảnh hưởng đến kết quả; cho nên các quyết định thị trường riêng lẻ không có ảnh hưởng nào đến tình hình xã hội, bất luận có lo lắng đến lợi ích chung hay không. Nhưng các quyết định chính trị có ảnh hưởng đến tình hình xã hội; cho nên có sự khác biệt hoàn toàn: Liệu chúng có phục vụ cho lợi ích công hay không.
Bạn đọc tinh ý sẽ để ý đến một sai sót tiềm tàng trong lí lẽ này. Nếu những người tham gia thị trường được miễn khỏi xem xét các hệ quả xã hội của hành động của họ vì ảnh hưởng của họ lên kết quả chỉ ít ỏi, cũng các cân nhắc như vậy, có áp dụng cho công dân bình thường tham gia làm ra các qui tắc không? Chẳng phải ảnh hưởng của cử tri đơn lẻ cũng không có ý nghĩa đó sao? Đúng, song tham gia thị trường và tham gia chính trị là hai loại hoạt động khác nhau. Những người tham gia thị trường theo đuổi tư lợi riêng qua tự do trao đổi với những người khác; các cử tri biểu lộ quan điểm của mình về lợi ích tập thể. Cho nên các hoạt động khác nhau phải được đánh giá bằng các thước đo khác nhau: Các quyết định thị trường bằng các hậu quả cá nhân, tham gia chính trị bằng các hậu quả xã hội.
Có nhiều trường hợp, các quyết định chính trị chạm đến quyền lợi sống còn của các nhóm hay các cá nhân nào đó. Đòi hỏi họ được chỉ dẫn bởi lợi ích công là quá nhiều. Tuy vậy, là đủ, nếu người dân tuân thủ sự phân biệt vai trò khi không dính đến quyền lợi sống còn của họ. Quần chúng khi đó sẽ tạo thành trọng tài để phán xử những người chơi ở cả hai mặt của một vấn đề. Chừng nào trọng tài có lời nói cuối cùng, lợi ích chung có cơ hội tốt để thắng thế.
Nhiệm vụ của trọng tài rất phức tạp bởi sự thực rằng các quyết định chính trị ngày nay chủ yếu là về ngân sách, chứ không về việc làm ra qui tắc. Ngân sách là chuyện tiền bạc, và khó mà vô tư về nó. Tuy nhiên, tôi lí luận rằng sự phân biệt giữa làm luật và chơi theo luật có áp dụng. Xét vấn đề bãi bỏ thuế di sản, nổi lên đúng vào lúc viết sách này. Như một công dân tôi chống sự bãi bỏ; như một người chơi tôi lợi dụng mọi lỗ hổng pháp lí. [4]
Tôi phải nhấn mạnh rằng tôi đề xuất qui tắc của mình như một qui tắc đạo đức, không phải như lựa chọn duy lí mà người ta nhất thiết phải theo chừng nào họ là duy lí. Sẽ là tai hại, nếu trong chức năng làm luật của mình, chúng ta cho rằng người dân thực ra sẵn sàng tuân theo qui tắc đạo đức này. Các nhà sáng lập ra cộng hoà Mĩ đã không phạm sai lầm đó. Họ đã cho rằng người ta ích kỉ, và thiết lập kiểm tra và cân đối (checks and balance ) [5] để làm cùn các tác động hỗn loạn của tư lợi.
Tuy nhiên, các nhà sáng lập đã có thể coi một chút đức hạnh công dân là nghiễm nhiên. Họ đã không tính đến sự tăng lên của các thị trường giao dịch, cạnh tranh. Uy lực của động cơ lợi nhuận trên đức hạnh công dân làm xói mòn quá trình chính trị. Điều đó chẳng thành vấn đề nếu có thể dựa vào cơ chế thị trường ở mức mà những người theo thị trường chính thống đòi hỏi. Nhưng hành động có các hậu quả xã hội. Sự lan rộng của thuyết thị trường chính thống và sự thâm nhập của động cơ lợi nhuận vào các lĩnh vực mà nó không thích hợp đặt các định chế của nền dân chủ Mĩ vào mối nguy hiểm, điều về cơ bản không xảy ra suốt hai trăm năm lịch sử của nó.
Trong thực tiễn, sự phân biệt giữa làm luật và chơi theo luật hoàn toàn bị lờ đi. Vận động hành lang và bán ảnh hưởng lại được thực hành và chấp nhận rộng rãi. Nhưng chúng ta không được đơn giản bỏ cuộc và nhập vào đám đông. Sẽ luôn có những người đặt lợi ích cá nhân của họ lên trên lợi ích chung. Vấn đề “ăn không – free-rider ” này làm rối loạn sự hợp tác, nhưng vấn đề có thể được khắc phục nếu có khá đông người nhận ra sự khác biệt giữa các giá trị thị trường và giá trị xã hội.
Giá trị thị trường là phi đạo đức còn giá trị xã hội là tinh tuý đạo đức. Các giá trị thị trường là hướng về thắng cuộc; các giá trị đạo đức là hướng về việc làm cái đúng, thắng hay thua. Nếu được chỉ dẫn bởi điều mà những người khác làm, chúng ta sẽ hành động như những người tham gia trong một cuộc đua, nơi sự thắng cuộc được xem là việc quan trọng. Nếu thật sự tin vào các giá trị đạo đức, chúng ta phải làm cái đúng cho dù những người khác không làm . Vấn đề ăn không sẽ đơn giản không được áp dụng, vì mục tiêu không phải là kiếm được lợi thế cạnh tranh mà là làm cái đúng.
Tôi chẳng bao giờ quên những lời của Sergei Kovalev, một người Nga bất đồng quan điểm và là nhà hoạt động nhân quyền, đã nói với tôi rằng, ông tự hào đã đánh các trận luôn thất bại suốt cả đời ông. Tôi không sánh được với tiêu chuẩn của ông, nhưng tôi thực hành cái tôi thuyết giảng. Tôi cố gắng là một người thắng cuộc như một người tham gia thị trường và tôi nỗ lực phục vụ lợi ích chung như một công dân và một con người. Đôi khi khó giữ hai vai trò tách biệt, nhưng nguyên lí là rõ ràng. Chí ít nó rõ với tôi. Giả như nó rõ ràng cho khá đông người, vấn đề ăn không sẽ biến mất. Đa số sẽ làm cái đúng, bất chấp những kẻ ăn không và những kẻ ăn không sẽ ngưng chế ngự (quang) cảnh. Họ có thể thay đổi cách ứng xử của họ. Các cá nhân can dự, dùng cách nói trước đây của tôi, rất lo về việc người khác nghĩ về họ thế nào. Họ có thể chuyên tâm trong việc theo đuổi sự thành công, nhưng họ không thể coi đó là một thành công, nếu, nói chung, họ bị sỉ nhục. Được tư lợi hướng dẫn, những kẻ ăn không sẽ phải giấu giếm hơn nữa cách cư xử của mình. Điều đó sẽ là một sự cải thiện lớn so với tình trạng hiện tại, nơi ăn không được chấp nhận là hợp pháp và thiết thực.
Đạo đức thường đã đóng một vai trò quan trọng hơn trong đời sống xã hội, nhưng nó đã đi kèm rất nhiều đạo đức giả và giả vờ. Có phải tôi thực sự đề nghị quay lại tình trạng đó? Tôi không tin là có thể, hay khôn ngoan, để quay ngược đồng hồ lại. Mỗi thế hệ phải đạt sự hoà giải riêng của mình giữa các nguyên lí đạo đức và tính thiết thực. Vào thời Trung Cổ, khi tôn giáo là tối cao, đã có sự thích nghi giữa nhà thờ và nhà nước, đại diện bởi Giáo Hoàng và Hoàng đế Roma Thánh thiện. Ngày nay, khi thị trường đã trở nên có uy thế đến vậy, cần một loại thích nghi khác, một loại dàn xếp dựa trên sự phân biệt giữa làm luật và cạnh tranh.
Người dân phải có thể theo đuổi tư lợi, chừng nào họ cạnh tranh theo luật - và họ chẳng cần tỏ ra cao đạo về việc đó. Còn về làm luật, tuy nhiên, lợi ích chung phải có địa vị cao hơn. Đúng, một yếu tố đạo đức giả sẽ lẻn vào vì người ta mắc chứng làm ra vẻ tương thân tương ái trong lí lẽ biện minh trường hợp của mình, nhưng điều đó hợp hơn với sự theo đuổi tư lợi, hiển nhiên thịnh hành trong nền chính trị ngày nay.
Khổ nỗi, người dân không thể có đủ điều kiện để chú ý đến lợi ích chung. Hệ thống tư bản chủ nghĩa toàn cầu dựa trên cạnh tranh, và cạnh tranh đã trở nên căng thẳng đến mức khiến ngay cả người thành công nhất cũng phải đấu tranh cho sự tồn tại. Thực vậy, người thành công nhất là người ở dưới áp lực căng thẳng nhất, như vụ Microsoft minh hoạ. [6] Đây là một tình trạng đáng buồn. Dưới sự phân phối trước đây, người giàu và thành công đã hưởng mức độ tự trị và nhàn rỗi lớn hơn. Tầng lớp quý tộc chủ đất có thể hiến dâng mình cho các thứ cao quý hơn trong cuộc đời. Ngay cả John D. Rockefeller tại đỉnh cao thành công của mình đã có thể bỏ thời gian đi một chuyến du ngoạn Châu Âu dài. Nhưng các nhà tư bản ngày nay là những kẻ nô lệ của các thị trường tài chính. Họ phải thực hiện mọi quý. Thường đã có một số đông người không theo kịp trong sự cạnh tranh: Các nhà chuyên nghiệp, trí thức, công chức, người sống bằng lợi tức, nông dân; số lượng họ đã giảm. Xã hội của chúng ta đã giàu có hơn, song tôi tin tất cả chúng ta đã nghèo đi vì nó. Phải có nhiều hơn cho cuộc đời hơn là sự tồn tại, thế mà khôn sống mống chết đã trở thành dấu xác nhận phẩm chất của nền văn minh của chúng ta.
Tôi tin tất cả những điều này đã làm méo mó cái lẽ ra phải là một xã hội mở, nhưng tôi phải thận trọng trình bày tình thế ra sao. Tôi không thể coi mình như trọng tài cuối cùng phân xử cái gì tạo thành xã hội mở. Tất cả cái tôi có thể nói là thay thế động cơ lợi nhuận cho các giá trị xã hội là một sự lầm lạc. Người dân được hướng dẫn bởi các loại giá trị khác nhau thường mâu thuẫn với nhau. Với tư cách những kẻ cạnh tranh, họ cố gắng tối đa hoá lợi nhuận của mình; như những con người, họ cũng có những lo âu của họ. Isaiah Berlin gọi nó là “đa nguyên giá trị”. Chủ nghĩa đa nguyên giá trị có thể xem như một khía cạnh của tính có thể sai vì không có cách nào tránh xung đột giữa các giá trị và khát vọng khác nhau. Thí dụ, tình bạn và sự quan tâm khác đến con người có thể mâu thuẫn với động cơ lợi nhuận khi phải sa thải người. Thuyết thị trường chính thống, bằng định nghĩa ứng xử duy lí là theo đuổi tư lợi, thực tế đặt tất cả những cân nhắc khác xuống dưới động cơ lợi nhuận. Vì thế, thuyết thị trường chính thống vi phạm một nguyên lí cốt lõi của xã hội mở bằng cách từ chối chủ nghĩa đa nguyên giá trị.
Để lặp lại: Các thị trường tài chính là không trái đạo đức, chúng là phi đạo đức. Ngược lại, ra quyết định tập thể không thể hoạt động thích hợp mà không nêu ra sự phân biệt giữa cái đúng và sai. Chúng ta không biết cái gì là đúng. Nếu giả như chúng ta biết, chúng ta đã chẳng cần đến chính phủ dân chủ; chúng ta có thể được một ông vua triết học cai trị. Nhưng chúng ta phải có ý thức cơ bản về cái đúng và cái sai, một ánh sáng thầm kín hướng dẫn ứng xử của chúng ta như các công dân và các nhà chính trị. Không có nó, dân chủ đại diện không thể hoạt động. Động cơ lợi nhuận làm lu mờ ánh sáng đó. Tính thiết thực được đặt trên các nguyên lí đạo đức. Trong một xã hội giao dịch cạnh tranh cao, quan tâm đến lợi ích của những người khác có thể hoá thành một bất lợi. Có một quá trình chọn lọc tự nhiên có hại hoạt động: Những người không có hành lí của những cân nhắc có khuynh hướng vượt lên đỉnh. Nếu động cơ lợi nhuận được để cho chế ngự vũ đài chính trị, thì xã hội bị tước mất bất kỳ cơ sở đạo đức nào. Chừng nào còn có thể cho một xã hội tồn tại mà không có một cơ sở đạo đức, thì nó vẫn sẽ không đủ phẩm chất như một xã hội mở. Trong mọi trường hợp, ai muốn sống ở đó?

Xem xét lại

Tôi đã phát hiện ra từ phản ứng với phiên bản ban đầu của cuốn sách này, rằng người dân gặp khó khăn trong việc chấp nhận các thị trường là phi đạo đức. Nhiều người, những người quan tâm đến đạo đức (và một số nhà báo để ý đến vì một khía cạnh tốt) coi các thị trường tài chính là trái đạo đức. Ý tưởng rằng ứng xử thị trường là (phi) ngoài đạo đức nằm ngoài khung dẫn chiếu của họ. Họ nghi rằng lí lẽ của tôi nhằm tự phục vụ: Tôi dùng nó như một lời bào chữa để biện minh cho các hoạt động trái đạo đức của tôi, với tư cách một nhà đầu cơ tài chính. Sự thực là tôi thường xuyên bắt gặp phản ứng này, điều đó khiến tôi nghĩ rằng: Có thể tôi đang nói về chuyện gì đó mới và quan trọng. Phải nhớ rằng sự phát triển của đạo đức và tôn giáo đi trước sự phát triển của các thị trường tài chính. Như một nhà đầu cơ tài chính, tôi có thể có một viễn cảnh khác những người khác khi nghĩ về những vấn đề này.
Hiện nay, tôi đang tham gia vào một cuộc chiến về đề tài này với Frederik van Zyl Slabbert, chủ tịch của Sáng kiến Xã hội Mở cho miền Nam Châu Phi (OSISA: Open Society Initiative for Southern Africa ). Ông là một người sùng đạo sâu sắc, người không thể chấp nhận ý tưởng rằng: Bất kể hành động nào có thể là phi đạo đức. Thực vậy, ông coi tính phi đạo đức là tội lỗi tồi tệ hơn tính trái đạo đức. Điều này nêu ra câu hỏi: Liệu đạo đức liên quan đến ý định hay kết quả; căn cứ vào qui luật về các hậu quả không dự tính trước được, hai thứ không giống hệt nhau. Tôi sẵn sàng thừa nhận ông ở điểm là, đạo đức phải áp dụng cho các ý định, vì kết quả không thể biết trước được. Dù có đúng như thế thì, tôi nhất quyết rằng chẳng có ý nghĩa gì trong việc áp dụng phán xử đạo đức đối với các quyết định không có kết quả - và đó là trường hợp liên quan đến ảnh hưởng xã hội của các quyết định đầu tư cá nhân. Các quyết định đó ảnh hưởng đến lợi nhuận của các cá nhân, chứ không đến giá thịnh hành trên thị trường. Đó là cái tôi muốn nói khi tôi phát biểu rằng các thị trường là phi đạo đức: Người tham gia ẩn danh không cần phải lo về các hậu quả xã hội của quyết định của mình. Ngược lại, các hành động chính trị, như bỏ phiếu hay vận động hành lang hay thậm chí lí luận, có các hậu quả xã hội. Đó là lí do vì sao chúng ta cần phân biệt vai trò của mình với tư cách người tham gia thị trường và với tư cách người tham gia chính trị, giữa làm luật và chơi theo luật. Với tư cách những người chơi, chúng ta phải được tư lợi hướng dẫn; như những người làm ra qui tắc, chúng ta phải được chỉ dẫn bởi quan điểm của mình về lợi ích chung. Nếu chúng ta theo qui tắc này, cả tư lợi lẫn lợi ích chung sẽ được đáp ứng tốt.
Tôi đi đến nguyên tắc này khi tôi còn là một người tham gia thị trường ẩn danh. Điều đó che giấu sự nghiệp của tôi về tài chính cho đến trước và trong suốt đợt phá giá đồng bảng Anh năm 1992. Tôi vứt tấm màn che khi tôi để cho mình được biết đến như “người đánh sụp Ngân hàng Anh quốc”. Kể từ đó, tôi đã có loại trải nghiệm khác. Tôi đã mất tính ẩn danh của mình. Tôi trở thành một nhân vật nổi tiếng mà lời nói ra có thể tác động đến kết quả. Tôi không còn có thể trốn thoát việc phải đưa ra phán xét đạo đức. Điều này, trên thực tiễn đã làm cho việc tôi hoạt động như một người tham gia thị trường là không thể thực hiện được.
Kinh nghiệm này đã dạy tôi về những hạn chế của qui tắc của mình. Nó không giải quyết được thế lưỡng nan của những người không là người tham gia ẩn danh, và điều đó bao gồm trên thực tiễn tất cả những người tiến hành kinh doanh và hoạt động chính trị. Hai vai trò xung đột nhau trên một dải rộng các tình huống: thí dụ, khi một người điều hành doanh nghiệp được mời tham gia một uỷ ban hành động chính trị, hoặc khi một chính trị gia được yêu cầu nêu lập trường về một vấn đề là mối quan tâm của một trong những người ủng hộ của mình. Qui tắc đặt ra các nan giải đạo đức; nó không giải quyết chúng. Điều đó, mỗi cá nhân và mỗi xã hội phải tự giải quyết lấy cho riêng mình. Hơn nữa, qui tắc không cho một sự chỉ dẫn tin cậy nào cho cách xử sự bình thường về kinh doanh. Không có các qui tắc chung phải đối xử với người, phải cân đối sự lưu tâm đến người khác và đòi hỏi về thành tích kinh doanh ra sao; mỗi người phải tự dàn xếp và sống với các hậu quả.
Những phê phán mà tôi nhận được làm cho tôi nhận thức rõ về vị trí đặc biệt mà tôi đã chiếm giữ như một người tham gia thị trường ẩn danh. Trong suốt cả sự nghiệp của mình, tôi thậm chí đã không tìm được một tổ chức kinh doanh nào để đấu tranh với nó. Tôi đã đơn độc. Tôi đã có thể tập trung vào thị trường mà không rối trí. Tôi đã coi giao thiệp với con người - ở dạng các nhà đầu tư, các đối tác, nhân viên, nhà môi giới - là một sự rối trí. Để thành công trong các thị trường tài chính, người ta cần chuyên tâm về nó. Tôi đã muốn thành công, song tôi đã không sẵn sàng từ bỏ bản sắc riêng của mình để theo đuổi thành công. Đó là lí do vì sao tôi thích giữ cuộc sống kinh doanh và cuộc sống cá nhân của mình một cách tách bạch nghiêm ngặt. Đó cũng là lí do vì sao tôi thiết lập quỹ tài trợ, một khi tôi đã có tiền nhiều hơn số tôi cần cho sử dụng cá nhân của mình. Công thức có kết quả. Tôi thấy, kiếm tiền và cho tiền dễ dàng hơn là đưa những cân nhắc đạo đức vào các hoạt động kiếm tiền của mình. Như tôi đã nói ở nơi khác, tôi trở nên giống như một đường tiêu hoá khổng lồ, nhận tiền vào ở một đầu và đẩy nó ra ở đầu kia.
Chính từ điểm lợi thế này mà tôi đã hình thành quan điểm của mình về vai trò của các thị trường tài chính như một cơ chế hiệu quả nhưng dã man, và tôi tin sự hiểu thấu của tôi có giá trị. Các thị trường tài chính là phi đạo đức, và đó là lí do vì sao chúng lại hiệu quả đến vậy trong tập hợp quan điểm của những người tham gia. Chính xác vì phẩm chất đó, chúng không được để cho chịu trách nhiệm quyết định tương lai. Tôi tin sự phân biệt giữa làm luật và chơi theo luật là có hiệu lực; nhưng nó còn xa mới là một chỉ dẫn đạo đức toàn diện. Rất ít người thấy mình có lập trường giống như của tôi, và lập trường của tôi cũng đã thay đổi.
Khi tôi trở thành một nhà từ thiện thực sự, tôi đã kiên quyết giữ các quỹ tài trợ của tôi tách biệt nghiêm ngặt khỏi công việc kinh doanh của tôi như tôi đã giữ với đời tư của tôi. Tôi tin chắc là điều này đóng góp vào thành công của chúng, vì nó cho phép tôi chú tâm vào việc làm từ thiện như tôi đã làm với công việc kinh doanh của mình. Nhưng tôi đã không có khả năng duy trì sự phân li. Các nước mà tôi có quỹ tài trợ cũng rất cần đến đầu tư, như họ cần từ thiện, và sau nhiều tự vấn lương tâm, tôi đã quyết định đầu tư vào Nga. Điều này kéo tôi vào những rắc rối khó lường, như tôi sẽ kể lại ở Chương 9. Đồng thời, các quỹ tài trợ ngày càng dính líu đến các hoạt động kinh doanh, hỗ trợ các tờ báo, xuất bản, các lò ươm doanh nghiệp, Internet, và cho vay cực nhỏ. Những phát triển này buộc tôi phải xem xét lại lập trường của mình. Tôi vẫn ranh mãnh trong việc hoà trộn kinh doanh và từ thiện, nhưng tôi nhận ra rằng điều đó không thể tránh khỏi. Tôi đã có đặc ân để có thể tránh được nó, nếu tôi muốn tránh. Bây giờ tôi chuẩn bị đi xa hơn nữa: Không phải tránh nó. Tôi đã lí luận rằng: Chúng ta không thể hoạt động mà không có chính trị, dẫu cho nó tham nhũng và phi hiệu quả. Cùng lí lẽ đó áp dụng cho trách nhiệm xã hội trong kinh doanh. Nếu chúng ta không thể tránh hoà trộn kinh doanh với đạo đức (như người tham gia ẩn danh có thể thực hiện trong một thị trường hiệu quả), chúng ta vẫn có thể cố gắng làm tốt việc đó. Kết quả nhất thiết là không thoả mãn: Các doanh nghiệp kinh doanh hẳn có thể đặt trách nhiệm xã hội xuống dưới sự theo đuổi lợi nhuận. Hình ảnh có địa vị cao hơn thực chất, và ngay cả những người có động cơ thật sự cũng buộc phải cho lợi ích kinh doanh của họ một trọng lượng xứng đáng. Nhưng có kết quả nào đó, tốt hơn là không có. Nếu áp lực xã hội khiến các công ti hành động với sự quan tâm lớn hơn đến môi trường hay những cân nhắc xã hội khác, càng nhiều càng tốt - mặc dù chúng ta không thể bỏ qua điều: Các tổ chức bảo vệ môi sinh thường đưa ra những đòi hỏi quá đáng.
Tuy vậy, sẽ là một sai lầm, nếu để các cân nhắc xã hội cho các công ti lo. Các công ti do công chúng sở hữu là các tổ chức có một mục đích - kiếm tiền. Cạnh tranh càng khốc liệt, họ càng ít có khả năng để đi trệch. Những người chịu trách nhiệm có thể là những người có dụng ý tốt và là các công dân ngay thẳng, song phạm vi vận động của họ bị hạn chế nghiêm ngặt bởi địa vị mà họ chiếm. Họ buộc lòng phải giữ vững lợi ích của công ti. Nếu họ nghĩ thuốc lá có hại cho sức khoẻ, hoặc cổ vũ nội chiến để kiếm được đặc nhượng khai mỏ là táng tận lương tâm, họ nên bỏ việc làm của mình. Những người sẵn lòng tiếp tục sẽ chiếm ngay chỗ của họ. Đó là quá trình chọn lọc tự nhiên có hại mà tôi nhắc tới ở trên.
Việc áp dụng cho các tổ chức phi chính phủ (NGO) cũng tương tự. Chúng, cũng thế, là các tổ chức có một mục đích không thể li thân khỏi các mục tiêu mà chúng chấp nhận. Trên phương diện nào đó, lãnh đạo của các tổ chức phi chính phủ tận tâm đối với mục đích của họ hơn các nhà điều hành doanh nghiệp với lợi nhuận, vì họ cảm thấy mình ở phía các thiên thần, trong khi những người kinh doanh có thể cảm thấy ít chính đáng hơn về các lợi ích kinh doanh của họ. Tôi biết, tôi nói về cái gì, vì tôi là người sáng lập một mạng lưới có lẽ lớn nhất thế giới của các tổ chức phi chính phủ. Tôi nghĩ: Các tổ chức phi chính phủ có thể làm rất nhiều việc tốt để bảo vệ quyền lợi của các khu vực ít được bảo vệ của xã hội, nhưng, so với khu vực kinh doanh, chúng không hề có lợi thế để được giao việc làm qui tắc. Chúng có thể chủ trương một quan điểm cá biệt nào đó, và giới kinh doanh cũng có thể làm vậy, và một chính phủ dân chủ sẽ để mở cho mọi viễn cảnh, nhưng chính các công dân sẽ đưa ra quyết định cuối cùng. Để hoàn thành vai trò như người trọng tài, các công dân phải có khả năng tách mình khỏi vai trò như người tham gia mà lợi ích bị đụng chạm. Điều này dễ thực hiện hơn là bảo các công ti do công chúng sở hữu đặt động cơ lợi nhuận xuống dưới lợi ích công. Như tôi đã nói ở trên, không nhất thiết là tất cả mọi công dân phải tuân theo qui tắc này, chừng nào một số công dân làm như vậy, bất chấp những người khác làm gì. Tôi sẽ chắc chắn tiếp tục làm vậy cho dù những người khác không làm .
Nơi tôi đã sửa đổi lập trường của mình là liên quan đến tinh thần khởi nghiệp xã hội (social entrepreneurship ). Tôi đã thường cự tuyệt nó vì bẩm sinh, tôi ghét hoà trộn kinh doanh và từ thiện. Kinh nghiệm đã dạy tôi, tuy vậy, rằng tôi đã sai: Như một nhà từ thiện, tôi đã thấy nhiều doanh nghiệp xã hội thành công, và tôi tham gia vào vài doanh nghiệp trong số đó. Cuối cùng, tôi phát hiện một sai lầm trong logic của tôi. Không có chuyện lá mặt lá trái, không có trộn lẫn các động cơ trong một doanh nghiệp xã hội vì có sự hoà hợp trách nhiệm xã hội với động cơ lợi nhuận; trong doanh nghiệp xã hội, lợi nhuận không phải là một động cơ, nó là một phương tiện cho một mục đích. Các doanh nghiệp không vì lợi nhuận đối mặt với một nhiệm vụ khó hơn các doanh nghiệp vì lợi nhuận vì thiếu một tiêu chuẩn đơn lẻ, lợi nhuận, mà theo đó thành tích của nó có thể được đánh giá. Nhưng đó không phải là lí do để e ngại lảng tránh chúng; ngược lại, chúng đặt ra thách thức lớn hơn. Việc từ thiện, công việc xã hội, và mọi dạng can thiệp chính thống bị vấy vào vũng bùn quan liêu. Thế mà có những người sáng tạo, giàu trí tưởng tượng, những người thực sự chăm lo cho tình trạng xã hội. Tôi đã thay đổi suy nghĩ là tính sáng tạo kinh doanh có thể đạt được cái mà các quá trình quan liêu không thể đạt được. Thí dụ, tôi cho một khoản bảo lãnh 50 triệu $ cho một định chế thế chấp tài chính ở Nam Phi, tổ chức đã tài trợ hơn 100.000 đơn vị nhà ở có giá rẻ. Cho đến bây giờ, không phải dùng đến một xu bảo lãnh nào của tôi, vì định chế được quản lí tốt. Khó khăn là về sự xác lập các thước đo phù hợp cho thành công. Hãy xem việc cho vay cực nhỏ (microlending ): Nó là một phương pháp hữu hiệu để xoá đói giảm nghèo. Ngân hàng Grameen và những người ngang hàng của nó đã làm thay đổi bức tranh xã hội của Bangladesh. Phiền nỗi, cho vay cực nhỏ đòi hỏi vốn từ bên ngoài cho sự tăng trưởng. Nếu những tiêu chuẩn thích hợp được phát triển, tôi chắc chắn rằng lĩnh vực này sẽ có thể thu hút được nhiều vốn bên ngoài hơn so với hiện nay.
Tóm lại, tôi giữ lại sự phân biệt của mình giữa làm luật và chơi theo luật, nhưng tôi xét lại quan điểm cự tuyệt trước đây của mình về doanh nghiệp xã hội.


[1] Chú thích của dịch giả : Tu chính lần thứ Năm của Hiến pháp Hoa Kì, nói về các quyền cá nhân
[2] Người nhậm chức vụ công thường phải đặt các khoản đầu tư của họ vào một trust tù mù.
(Chú thích của dịch giả : Blind trust : nhà đầu tư không hề biết một giao dịch nào; để chính khách tránh xung đột lợi ích).
[3] Chú thích của dịch giả : Lợi nhuận xuất hiện ở dòng cuối của bảng cân đối (theo kế toán quốc tế, và Việt nam).
[4] George Soros, “…No, Keep It Alive to Help the Needy”, The Wall Street Journa l (New York), July 14, 2000.
[5] Chú thích của dịch giả : Cơ chế phân quyền để các cơ quan khác nhau có thể kiểm tra lẫn nhau sao cho quyết định được cân đối giảm thiểu sự lạm quyền.
[6] Người ta thường chỉ trích Bill Gates, Chủ tịch Microsoft, vì ông đã không đem biếu nhiều của cải hơn. Họ không nhận ra rằng, những đòi hỏi cấp bách của công việc kinh doanh hút hết năng lực của ông ta. Giờ đây, chiến đấu chống lại phán xét chống độc quyền của Bộ Tư pháp, làm từ thiện là một phần chiến lược kinh doanh của ông ta.
Xã hội mở-Cải cách chủ nghĩa tư bản toàn cầu
Lời giới thiệu
Chương 1
Chương 1(b)
Chương 2
Chương 3
Chương 3(b)
Chương 4
Chương 5
Chương 6
Chương 7
Chương 7(b)
Chương 8
Chương 9
Chương 10
Chương 11
Chương 12