Chương 16
Tác giả: Henri Haggard
Trong khi chúng tôi mải quan sát những điều kì diệu khủng khiếp của Lâu đài thần chết và đang cố trấn tĩnh mình khỏi lo sợ thì Gagula bận làm những việc hoàn toàn khác. Bằng một cách nào đó, trong nháy mắt mụ đã leo lên chiếc bàn khổng lồ (khi cần, mụ có thể trở nên rất nhanh nhẹn). Mụ phù thủy già bò đến những chỗ có giọt nước rơi đều đặn lên xác người bạn quá cố của mụ là Tuala, để như Huđơ nói, xem hắn đã “thu xếp ổn thỏa” như thế nào ở đấy, hoặc vì những liù do khác chỉ một mình mụ mới biết. Sau đó mụ bò quay lại, chốc chốc lại nói với vài hình người được bọc trong lớp thạch nhũ trắng đang ngồi quanh bàn những câu gì đó mà tôi không nghe rõ. Lúc ấy mụ có vẻ mặt hệt như khi tôi và bạn gặp lại một người quen thân xa xưa nào đó. Làm xong cái nghi lễ thần bí và rùng rợn ấy, mụ ngồi xổm ngay trước bộ xương của Thần chết Trắng và như tôi biết bắt đầu cầu khẩn. Nhìn cái con người già khụ, độc ác đó đang cầu khấn kẻ thù độc ác nhất của loài người, chúng tôi cảm thấy khó chịu đến mức muốn vội vàng đi ra khỏi Lâu đài thần Chết.
- Nào, Gagula, - tôi nói bằng giọng rất khẽ, bởi đây là nơi không ai dám nói to hơn, - hãy dẫn chúng tôi sang kho báu!
Mụ già nhanh nhẹn trườn từ bàn xuống đất.
- Thế là ông chủ không sợ sao. - Mụ liếc nhìn và hỏi.
- Cứ dẫn chúng tôi đi tiếp!
- Được, thưa các ông chủ - nói rồi mụ đi cà nhắc một vòng xung quanh bàn rồi dừng lại ở chân tường phía sau hình Thần Chết. - Đây là lối vào hầm kho bí mật. Mời các ông chủ đốt đèn và đi vào. - Rồi đặt chiếc vỏ quả bầu đựng đầy dầu xuống đất, mụ đứng ép người vào tường, tôi cầm bao diêm (trong hộp còn lại mấy que) thắp sáng sợi bấc làm bằng ruột cây sậy và bắt đầu đưa mắt tìm lối vào, nhưng trước mặt tôi không hề có cái gì ngoài bức tường.
Gagula cười châm biếm:
- Cửa vào đấy, thưa các ông chủ! Ha! Ha! Ha!
- Đừng có đùa với chúng tôi!- Tôi nghiêm khắc bảo mụ.
- Tôi không đùa, thưa các ông chủ. Xin hãy nhìn đây! - và mụ chỉ tay lên bức tường.
Tôi giơ đèn lên, và chúng tôi nhìn thấy một tảng đá khổng lồ nào đó đang từ từ nâng lên chui sâu lên đỉnh hang, chắc ở đấy người ta đục một lối đi riêng cho nó. Tảng đá này rộng bằng một cánh cửa lớn, cao gần ba mét, dài một mét rưỡi và ít nhất cũng nặng hai mươi hoặc ba mươi tấn. Tất nhiên nó chuyển động theo nguyên tắc đòn bẩy đơn giản. Nhưng làm thế nào để tạo được đòn bẩy ấy và làm nó hoạt đột thì không một ai trong chúng tôi biết được, vì Gagula đã không cho chúng tôi biết. Nhưng tôi tin chắc rằng ở đâu đó bên trong có một chiếc đòn bẩy đơn giản, chỉ cần ấn tay vào nút bấm bí mật là một vật lớn được giấu kín sẽ đè lên đòn bẩy, và thế là tảng đá kia được nâng lên. Cánh cửa đá cứ nâng lên dần một cách chậm chạp và nhẹ nhàng cho đến khi biến mất hẳn trên cao, để lộ trước mắt chúng tôi một lỗ hổng lớn ảm đạm.
Thật khó mà nói hết sự hồi hộp đang bao trùm lên chúng tôi khi cánh cửa vào kho báu của vua Xolomon được mở rộng. Còn tôi thì run lên, xương sống lạnh toát.
“Thế nếu bỗng tất cả những cái này chỉ là một trò giả dối bịm bợm thì sao? - tôi nghĩ.- Hay những gì ông già Xinvextơra viết lại đúng là có thật? Có đúng là trong kho hầm bí mật nhỏ bé này đang giấu một tài sản rất lớn có thể biến chúng tôi thành những người giàu nhất thế giới? Chỉ một hai phút nữa chúng tôi phải biết được điều đó.
- Xin mời vào, hỡi những người da trắng từ trên các vì sao xuống! - Mụ dẫn đường độc ác của chúng tôi vừa nói vừa bước vào. - Nhưng trước hết xin các ông chủ hãy lắng nghe Gagula, người nô lệ già của mình nói. Những viên đá lấp lánh mà bây giờ các ông sẽ thấy vốn được đào lên từ chiếc giếng mà bên trên các Thần Im lặng đang ngồi. Rồi chúng được đưa vào đây, ai đưa thì tôi không biết. Những người ấy đã vội vàng rời khỏi nơi đây, không mang chúng theo mình. Từ đấy họ chỉ quay lại đây một lần. Lời đồn về những viên đá lấp lánh được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. ƠŒ nước chúng tôi không một ai biết được kho báu nằm ở đâu và đâu là lối vào. Một lần có một người da trắng đã vượt núi đến được đất nước này, - có thể cũng từ các vì sao xuống như các ông, và vua Cucuan thời ấy đã tiếp ông ta rất chân thành. Ông ta kia, đang ngồi kia, - rồi mụ chỉ về hình người thứ năm tính từ ngoài vào. - Người da trắng ấy không hiểu thế nào lại được một người phụ nữ chúng tôi dẫn đến đây. Ngẫu nhiên bà ta biết được cánh cửa bí mật, mà các ông có tìm một nghìn năm cũng chẳng thấy. Người da trắng khi vào đây cùng với bà ta, rồi nhét kim cương đầy một chiếc túi da dê mà người đàn bà ấy cho. Khi rời khỏi kho báu, ông ta còn cúi nhặt một viên rất to và giữ nó trong tay. - Nói đến đây mụ già bỗng im lặng.
- Rồi sao? - Tôi hỏi, hầu như nghẹt thở vì hồi hộp. Các bạn của tôi cũng thế.- Rồi chuyện gì xảy ra với Hoxe Xinvext?
Vừa nghe cái tên này, mụ phù thủy già liền rùng mình.
- Sao ông biết được tên của một người đã chết từ lâu? - Mụ hỏi tôi một cách gay gắt, rồi không cần trả lời, nói tiếp - Không ai biết chuyện gì đã xẩy ra, nhưng chắc chắn là người da trắng bỗng hoảng sợ vì một cái gì đó, vứt chiếc túi da dê đựng đầy đá quý xuống đất, rồi bỏ chạy với chỉ một viên đá lấp lánh trên tay. Vua đã tước viên đá này của ông ta, và thưa Macumazan, nó chính là viên đá ông đã gỡ từ trên trán Tuala.
- Và từ bấy đến nay không có ai đến nữa? - Tôi vừa hỏi vừa liếc nhìn lối ra vào xẩm tối.
- Không ai, thưa các ông chủ. Nhưng điều bí mật của cánh cửa vẫn được giữ kín, và mặc dù tất cả các ông vua đều biết nó nhưng không ai dám vào, vì tục truyền rằng ai vào đây, một tháng sau sẽ chết, như người da trắng kia đã chết trong núi, trong hang đá mà các ông đã gặp. Đấy là nguyên nhân vì sao các ông vua của chúng tôi không bao giờ vào đây! Ha! Ha! Ha! Tôi bao giờ cũng nói đúng sự thật!
Đúng là lúc này thì mắt tôi và mắt mụ gặp nhau, làm tôi lạnh toát người. Từ đâu mụ phù thủy già này lại biết tất cả những điều ấy.
- Xin mời vào, thưa các ông chủ. Nếu còn chiếc túi da dê đựng đầy đá quý nằm trên sàn đất, nghĩa là tôi nói đúng. Còn đúng hay không, việc ai vào đây người ấy sẽ chết, thì tự các ông sau này sẽ biết. Ha! Ha! Ha! Ha! - Rồi bước qua cửa, mụ chống gậy đi trước, tay cầm chiếc đèn.
Thú thật đến lúc này tôi vẫn do dự một lần nữa là có nên đi theo mụ hay không?
- Quỷ tha ma bắt mụ đi! - Huđơ nói to - Nào, ta đi! Con mụ quỷ sứ này không làm tôi sợ được đâu! - Nói rồi ông ta tiến lên phía trước, đi theo Gagula.
Bám theo Huđơ vẫn là Phulata, người có lẽ không lấy gì làm thích thú lắm cái cảnh này. Cô gái tội nghiệp phải run lên toàn thân vì kinh sợ. Tôi và Henry cũng vội vã bước theo họ.
Đi được khoảng mấy mét dọc lối đi đục xuyên đá, Gagula dừng lại. Mụ chờ chúng tôi.
- Thưa các ông chủ, - mụ nói, tay cầm đèn trước mặt, - nhìn đây các ông cũng biết rằng những người giấu của cải ở đây đã buộc phải vội vã rời khỏi nơi này. Họ sợ người khác sẽ biết được cánh cửa bí mật, nên quyết định xây ở đây một bức tường để ngăn lối ra vào, nhưng họ không đủ thời gian để làm việc đó.
Rồi mụ chỉ tay vào một bức tường xây dở bằng các hòn đá vuông cao hơn sáu mươi xăngtimét.
Dọc lối ra vào còn có những tảng đá đã được bào nhẵn cũng để dùng cho việc xây tường. Và điều liù thú nhất là chúng tôi phát hiện thấy một ít vữa vôi và hai chiếc xẻng, xem kĩ thấy hoàn toàn không khác gì những chiếc xẻng ta đang dùng hiện nay.
Lúc này Phulata vẫn còn run sợ và hồi hộp bỗng cảm thấy khó chịu và nói rằng sẽ ngồi chờ chúng tôi ở đây vì không thể đi tiếp được nữa. Chúng tôi đặt cô ta ngồi cạnh bức tường xây giở cùng chiếc giỏ đựng thức ăn và cho cô ta ngồi một mình để dần dần bình tĩnh trở lại!
Đi theo đường hầm thêm mười lăm bước nữa, chúng tôi bỗng thấy mình đứng trước một cánh cửa bằng gỗ được sơn cẩn thận. Cánh cửa mở rộng, chắc người đến đây cuối cùng đã quên hoặc không có thời gian để đóng lại.
Bên cạnh cửa ấy có chiếc túi da dê quả đựng đầy kim cương. - Hi! Hi! Hi! Hỡi những người da trắng - Gagula cười ré lên khi ánh sáng rọi vào người mụ, - tôi đã nói với các ông rằng người da trắng nọ đã hoảng sợ chạy khỏi nơi này và vứt xuống đất chiếc túi của người phụ nữ. Mời các ông nhìn, nó đây!
Huđơ cúi xuống cầm chiếc túi lên. Chiếc túi nặng và khi được nhấc lên nghe có tiếng gì đó va vào nhau khe khẽ.
- Tôi xin thề có trời đất rằng theo tôi chiếc túi này đựng đầy kim cương, - ông ta khẽ nói thầm một cách sung sướng.
Điều ấy đúng không có gì là lạ vì chỉ ý nghĩ rằng chiếc túi da dê nhỏ này đựng đầy kim cương đã để làm bất cứ ai cũng phải run lên vì sung sướng.
- Ta đi tiếp - Henry nói vẻ sốt ruột. - Này thưa bà đáng kính, hãy đưa cho tôi chiếc đèn - Rồi lấy chiếc đèn từ tay mụ, ông giơ cao trên đầu và bước qua bậc cửa đi vào phía trong.
Chúng tôi vội vã bước theo ông, tạm thời quên chiếc túi kim cương, và một chốc sau đã đứng giữa kho báu của Xolomon. Dưới ánh đèn lờ mờ, trước hết chúng tôi nhìn thấy đó là một căn phòng được đẽo sâu trong lòng một núi đá có diện tích không to hơn mười lăm mét vuông. Sau đó chúng tôi nhìn thấy một đống các ngà voi tuyệt đẹp xếp chồng lên nhau đến tận trần. Thật khó mà nói chính xác tất cả có bao nhiêu vì chúng tôi không thể nhìn thấy những hàng xếp phía sau, nhưng số nhìn được có không ít hơn bốn hoặc năm trăm chiếc ngà loại tốt. Chỉ một chiếc ngà như thế cũng đủ để trở thành một người giàu có suốt đời.
Có thể từ kho dự trữ khổng lồ này - tôi nghĩ - vua Xolomon đã lấy ngà voi để làm nên Ngai vàng bằng ngà vĩ đại của mình, cái mà không một ông vua nào khác trên đời có được. ƠŒ phía đối diện của căn phòng có khoảng vài chục chiếc hòm trông như những chiếc hòm đạn của hãng Máctinmi và Henry có điều lớn hơn một chút và được sơn màu đỏ.
- Kim cương! - Tôi kêu lên - Đưa đèn lại đây.
Henry cầm đèn đi tới và soi sáng phần trên của chiếc hòm. Nắp hòm đã bị mục rữa vì thời gian, một chỗ bị cạy phá, chắc là Da Xinvextra. Tôi vội cho tay vào lỗ hổng rồi lôi ra một nắm đầy, nhưng không phải là kim cương mà là những đồng tiền vàng có hình thù rất lạ. Chúng tôi chưa bao giờ nhìn thấy những đồng tiền thế này, và có cảm giác như trên đó được khắc những dòng chữ Do Thái cổ.
- Ít ra thì chúng ta cũng không phải tay không ra khỏi đây - tôi vừa nói vừa bỏ tiền vào hòm. Trong mỗi hòm chắc phải có ít nhất là hai nghìn đồng, mà ở đây có mười tám hòm tất cả. Tôi nghĩ có lẽ tiền này dùng để thanh toán cho những người khai thác và những nhà buôn.
- Còn tôi thì lại cho rằng nó chính là kho báu của Xolomon. Huđơ ngắt lời tôi, - vì tôi không thấy kim cương đâu cả, hay chẳng lẽ ông già người Bồ Đào Nha kia đã lấy hết chúng và gói gọn trong chiếc túi da dê?
- Xin mời các ông chủ của tôi hãy nhìn vào góc tối kia, có thể sẽ tìm thấy đá quý ở đấy, - Gagula lên tiếng sau khi nhìn nét mặt đoán hiểu chúng tôi đang nói gì. - ƠŒ đấy các ông chủ sẽ thấy một hố sâu trong đó có ba hòm bằng đá, hai hòm đóng chặt và một hòm để mở.
Trước khi dịch lời của mụ cho Henry nghe, lúc này ông đang cầm đèn, tôi không cưỡng nổi sự tò mò và đã hỏi vì sao mụ biết điều ấy, nếu chưa hề có ai vào đây đã mấy đời nay kể từ khi người da trắng bỏ chạy.
- Ôi, Macumazan, đúng ông là người tỉnh táo vào cả lúc ban đêm! - Gagula cười đáp một cách mỉa mai. - Không lẽ các ông, những người từ các vì sao xuống, không biết rằng mắt của một số người có thể nhìn xuyên qua núi đá? Ha! Ha! Ha!
- Henry, ông thử soi chỗ góc kia xem sao, - tôi nói, chỉ tay vào chỗ Gagula vừa mách.
- Các bạn ơi! - Henry kêu lên. - Ơ đây có chỗ đục lõm vào tường. Lạy Chúa! Các ông lại đây mà xem!
Chúng tôi liền chạy tới chỗ Henry. Trong chỗ được đục lõm hình một cửa sổ nhỏ, có ba hòm bằng đá, mỗi hòm rộng khoảng nửa mét. Hai trong số hòm đậy bằng chiếc nắp cũng bằng đá, hòm thứ ba thì nắp mở, đựng kề bên cạnh.
- Các ông hãy nhìn đây! - Henry nói với giọng hồi hộp rõ rệt, tay cầm chiếc đèn soi lên hòm đá!
Chúng tôi nhìn xuống, nhưng lúc đầu không phân biệt được gì vì bị một thứ ánh sáng làm lóa mắt. Khi nhìn quen chúng tôi thấy ba phần tư chiếc hòm ấy được đổ đầy các viên kim cương chưa gia công, chủ yếu là những viên có kích thước lớn. Tôi cúi xuống cho mấy viên lên tay. Không còn nghi ngờ gì nữa: đây là kim cương.
Tôi hầu như cảm thấy ngạt thở thực sự khi vứt chúng xuống hòm.
- Bây giờ chúng ta là những người giàu nhất thế giới! - Tôi kêu lên. - Montekrixto chỉ là một anh chàng nghèo so với chúng ta.
- Chúng ta sẽ cho kim cương tràn ngập thị trường. Huđơ phụ họa theo.
- Nhưng trước hết phải mang chúng về nhà đã. Henry bình tĩnh nói chen vào.
Với những khuôn mặt tái nhợt, hồi hộp và đôi mắt mở to nhìn nhau, chúng tôi đứng bên chiếc đèn dọi ánh sáng mờ mờ xuống những viên kim cương lấp lánh, trông như một lũ cướp sắp sửa thực hiện một âm mưu tội lỗi nào đó, chứ không phải là những người hạnh phúc nhất thế giới mà chúng tôi tự nhận.
- Ha! Ha! Ha! - Gagula vừa cười một cách độc ác sau lưng chúng tôi, vừa bò khắp gian phòng như một con dơi khổng lồ. - Đấy chúng đấy, đấy là những viên đá óng ánh mà các ông, những người da trắng rất thích. Chúng có nhiều, muốn lấy bao nhiêu thì lấy. Các ông cứ ngắm nghía đi, cứ cho tay ngập vào hòm đi! Cứ ăn đi! Hi! Hi! Cứ uống đi! Ha! Ha!
Lúc này những lời nói ấy của mụ nghe thật ngu ngốc, đến nỗi tôi phải phá lên cười man dại. Henry và Huđơ cũng cười theo như điên, mặc dù không biết cười gì. Cứ thế chúng tôi đứng cười rung cả người bên những chiếc hòm đựng đầy kim cương. Đó là kim cương của chúng tôi. Chúng đã được những người lao động cần cù khai thác trong chiếc giếng khổng lồ cách đây hàng nghìn năm cho chúng tôi. Và cũng cho chúng tôi được cất giấu ở đây bởi một ông quan cẩn thận nào đấy của vua Xolomon, và có thể tên ông ta là những chữ tượng hình còn in mờ mờ trên lớp nhựa cây dính ở nắp hòn đá. Những viên kim cương này không thuộc về vua Xolomon, hoặc vua Đavit, không thuộc cả Da Xinvextra - không một ai hết trên đời này! Chúng là của chúng tôi! Trước mắt chúng tôi là hàng hòm kim cương lấp lánh trị giá hàng chục triệu đồng bảng cùng hàng đống tiền vàng và ngà voi trị giá hàng chục nghìn, trăm nghìn bảng. Chúng đang chờ được chúng tôi mang đi. Bỗng giây phút ngây ngất cuồng loạn kết thúc, và chúng tôi thôi không cười nữa.
- Hãy mở các hòm khác xem sao, hỡi những người da trắng. - Gagula lại lên tiếng. - Trong các hòm ấy còn có nhiều đá lấp lánh hơn nữa. Cứ lấy đi, hỡi những người da trắng. Ha! Ha! Cứ lấy đi, lấy càng nhiều càng tốt.
Vừa nghe tiếng kêu đó của mụ, chúng tôi vừa bắt tay vào việc mở nắp của hai hòm khác, trong lòng thầm cảm thấy rằng chúng tôi đang làm phép để tháo gỡ dấu ấn đang giam giữ chúng.
Hoan hô! Hai hòm này cũng đầy kim cương, đầy đến tận mép, ít ra là hòm thứ hai. Ông lão Da Xinvextra đã không lấy một viên nào để cho vào chiếc túi da dê. Còn hòm thứ ba thì kim cương chỉ chiếm một phần ba, nhưng toàn những viên đặc biệt được chọn lựa cẩn thận, mỗi viên không bé hơn hai mươi cara, một viên lớn như trứng chim bồ câu. Tuy nhiên đưa lên đèn xem, chúng tôi thấy một số trong những viên lớn nhất có màu hơi vàng vàng, nghĩa là thuộc loại kim cương màu như ở Kimbecli người ta vẫn gọi.
Nhưng lúc ấy chúng tôi đã không nhìn thấy cái nhìn độc ác, đáng sợ mà Gagula ném về phía chúng tôi khi lặng lẽ như một con rắn, mụ trườn ra khỏi căn phòng, rồi xa hơn nữa theo đường hầm tới cánh cửa bí mật được dấu trong núi đá.
Ồ, cái gì thế nhỉ? Chúng tôi nghe có tiếng kêu từ phía đường hầm vọng lại. Đó là tiếng kêu của Phulata.
- Ôi, Buguan! Hãy lại đây! Hãy cứu tôi Cửa đá đang sập xuống.
- Thả ta ra, con bé này, nếu không ta...
- Cứu tôi với, cứu tôi với? Mụ già đâm vào người tôi!
Chúng tôi chạy dọc đường hầm và sau đây là những gì đã nhìn thấy: cánh cửa đá đang từ từ sập xuống và chỉ còn cách mặt đất gần một mét. Bên cạnh nó là Phulata và Gagula đang vật lộn nhau. Khắp người cô gái dũng cảm dính đầy máu, nhưng dù thế, cô vẫn giữ chặt mụ phù thủy già lúc này đang cào cấu như một con mèo hoang dại. Ôi! Mụ đã thoát ra được! Phulata ngã xuống, còn Gagula thì lổm ngổm bò trên sàn đá như một con rắn. Mụ đang cố lách qua khe hở mà cánh cửa bằng đá chưa sập hết. Mụ nhào mình qua, nhưng than ôi, đã quá muộn! Cả tảng đá khổng lồ đã đè xuống người mụ, và mụ kêu ré lên vì đau đớn kinh khủng. Chiếc cửa bằng đá vẫn tiếp tục sập xuống và cả trọng lượng ba mươi tấn của nó từ từ ép chặt cơ thể kinh tởm của mụ phù thủy. Mụ kêu lên những tiếng kêu cuối cùng, rùng rợn và kinh hoàng đến mức chúng tôi chưa bao giờ nghe thấy và sau đó là xương bị đè gẫy răng rắc làm ai nghe cũng phải rợn tóc gáy, và cánh cửa bằng đá khép kín đúng vào lúc chúng tôi đang đà chạy đến, đập người vào nó.
Tất cả những điều ấy chỉ xảy ra trong vòng mấy giây.
Chúng tôi bổ chạy tới Phulata. Mũi dao của Gagula đâm xuyên ngực cô, và tôi hiểu rằng chẳng bao lâu nữa cô sẽ chết.
- Ôi! Buguan, tôi đang chết! - Cô gái xinh đẹp vừa thở hắt ra, vừa khẽ nói. Gagula, mụ ấy bò ra... tôi không nhìn thấy mụ, tôi cảm thấy khó chịu... tảng đá bắt đầu hạ xuống. Sau đó mụ quay lại và nhìn vào đường hầm... tôi thấy mụ chui vào qua cánh cửa đá đang từ từ hạ xuống... Tôi liền túm lấy và cố giữ chặt... Lúc đó mụ rút dao đâm tôi. Buguan tôi sắp chết!...
- Phulata! Phulata đáng thương! - Huđơ kêu lên bất lực, rồi bỗng nhiên, như không thể làm được việc gì khác cho Phulata, Huđơ liền ôm hôn cô ta.
- Buguan, - cô gái nói sau một lúc im lặng ngắn. Macumazan có ở đấy không? Tôi thấy mọi cái đang tối sầm lại, tôi không nhìn rõ gì nữa.
- Có tôi đây, Phulata!
- Macumazan, tôi nhờ ông hãy làm chiếc lưỡi của tôi. Buguan không hiểu tiếng nói của tôi, mà tôi thì muốn nói với ông ấy đôi lời trước khi vĩnh viễn đi vào bóng tối.
- Nói đi, Phulata, tôi sẽ dịch lại cho ông ấy nghe.
- Nhờ ông hãy nói với Buguan, ông chủ của tôi rằng tôi... tôi yêu ông ấy, và rằng bây giờ tôi sung sướng được chết vì biết ông ấy không thể gắn đời mình với đời tôi, vì như mặt trời không thể kết bạn với bóng tối, người da trắng không thể lấy một cô gái da đen làm vợ. Hãy nói với ông ấy rằng nhiều khi tôi cảm thấy như trong ngực tôi có một con chim nào đó đang muốn bay ra và cất tiếng hát. Thậm chí cả lúc này khi tôi không giơ nổi cánh tay và đầu óc đang giá lạnh, tôi cũng không cảm thấy trái tim tôi sắp chết. Nó tràn đầy tình yêu, đến mức nếu tôi cố sống một nghìn năm, nó vẫn còn tươi trẻ. Hãy nói với ông ta rằng nếu tôi được sống lại có thể tôi sẽ gặp ông ta trên các vì sao... trên ấy tôi sẽ tìm ông ta khắp nơi, mặc dù lúc đó, tôi vẫn đen, và da ông ta vẫn trắng. Hãy nói với ông ấy... mà thôi, Macumazan đừng nói gì cả ngoài việc nói tôi yêu ông ấy... Ôi Buguan hãy ôm chặt em vào lòng anh, em chẳng còn thấy vòng tay của anh nữa... Ôi Buguan, Bu...
- Cô ấy chết rồi! Chết rồi! Huđơ vừa đứng dậy vừa kêu to, hai dòng nước mắt chảy trên má.
- Không cần thiết phải quá đau khổ như vậy anh bạn ạ. - Henry nói.
Huđơ rùng mình.
- Ông nói thế nghĩa là thế nào?
- Nghĩa là tôi muốn nói rằng chẳng bao lâu nữa ông cũng sẽ cùng chung một số phận với cô ta và sẽ đi theo cô ta. Chẳng lẽ ông không thấy rằng chúng ta đã bị chôn sống ở đây?
Từ nãy đến giờ, cho đến khi nghe Henry nói, vì quá xúc động trước cái chết bi thảm của Phulata chúng tôi không ý thức hết hoàn cảnh tuyệt vọng mà chúng tôi đã rơi vào. Lúc này thì chúng tôi hiểu hết tất cả. Cánh cửa đá khổng lồ đã hạ xuống và lần này có lẽ là mãi mãi, vì duy nhất chỉ có một cái đầu biết được cách mở nó thì bây giờ đã bị đè nát. Tất nhiên không nghĩ tới việc phá nó ra mà ra họa chăng để làm được điều đó phải cần một khối lượng thuốc nổ rất lớn.
Thế là chúng tôi bị rơi vào bẫy. Trong vòng mấy phút chúng tôi đứng im, sững sờ và kinh hãi bên xác Phulata, hoàn toàn bị đánh gục bởi ý nghĩ rằng chúng tôi sẽ phải chết một cái chết từ từ đau đớn vì đói và khát. Hình như tất cả sự dũng cảm đã rời bỏ chúng tôi. Bây giờ chúng tôi mới biết rằng mụ phù thủy Gagula đã nghĩ trước cái trò này. Và đó chính là một trong những trò đùa mà bộ óc bệnh hoạn ghê tởm của mụ có thể nghĩ ra được. Chỉ cái đầu hằn học độc ác của mụ mới vạch ra được một kế hoạch khủng khiếp như thế: quyết định làm hại ba người da trắng một lúc (không hiểu tại sao bao giờ mụ cũng căm thù người da trắng) và bắt họ phải chết dần ở ngay trong cái kho báu mà họ luôn luôn thèm khát. Cũng bây giờ tôi mới hiểu được ý nghĩa của những câu ám chỉ của mụ khi mụ đi lại trong căn phòng như một con dơi khổng lồ bảo chúng tôi hãy ăn hãy uống các viên kim cương. Có thể ngày xưa ai đó đã làm ông già Da Xinvextra hoảng sợ cũng bằng cách này nếu không ông ta đã chẳng bỗng nhiên vứt chiếc túi da dê đựng đầy kim cương xuống đất.
- Cần phải bình tĩnh lại và không được để mất tinh thần. - Henry nói, giọng khàn khàn vì lo lắng. Chẳng bao lâu nữa đèn sẽ tắt, nên chừng nào còn sáng, chúng ta thử đi tìm chiếc đòn bẩy nâng cánh cửa bằng đá.
Với một sự nhiệt tình tuyệt vọng chúng tôi chạy bổ tới cánh cửa và đứng trên lớp đá nhớp máu, quan sát kĩ cánh cửa và bức tường từ mọi phía. Nhưng chúng tôi không tìm thấy cái gì chứng tỏ có đòn bẩy hay lò xo gì đó.
- Xin các ông cứ tin tôi, - tôi nói - rằng không thể mở cửa từ phía này được, nếu không, Gugula đã chẳng liều mạng chui qua khe hở dưới cánh cửa bằng đá đang hạ xuống. Mụ biết rõ điều ấy nên mới tìm mọi cách thoát ra. Một mụ già đáng nguyền rủa!
- Ít ra thì mụ cũng bị trừng phạt một cách rất nhanh chóng, - Henry nói với nụ cười căng thẳng. - Cái chết của mụ thật kinh khủng, nhưng cái chết đang chờ ta cũng chẳng kèm gì. Không thể làm gì được với cánh cửa này. Ta hãy quay trở lại với kho báu.
Chúng tôi quay lại và đi. Được mấy bước tôi nhìn thấy bên bức tường xây dở, chiếc giỏ đựng thức ăn mà Phulata tội nghiệp mang theo. Tôi nhặt nó lên rồi mang vào căn phòng đáng nguyền rủa chứa đầy của cải và sắp sửa trở thành ngôi mộ của chúng tôi. Sau đó chúng tôi quay lại và vô cùng thận trọng nhấc xác Phulata để bên cạnh những chiếc hòm đựng đầy vàng, rồi chúng tôi ngồi lên mặt sàn, lưng tựa vào ba chiếc hòm bằng đá đựng đầy kim cương.
- Bây giờ ta hãy chia số thực phẩm này làm sao để có thể kéo dài được lâu nhất, - Henry đề nghị.
Ngay lập tức chúng tôi chia đều tất cả những gì có trong giỏ, hóa ra mỗi người chỉ được bốn phần rất nhỏ, hay nói một cách khác chúng tôi chỉ có đủ thức ăn để sống không quá hai ngày. Ngoài thịt phơi khô, chúng tôi có hai bầu nước, mỗi bầu gần một lít.
- Nào bây giờ thì ta sẽ ăn và uống, mặc dù biết trước thế nào chúng ta cũng chết, - Henry ảm đạm nói.
Chúng tôi ăn mỗi người một miếng nhỏ thịt khô và cùng uống một ngụm nước. Tất nhiên chúng tôi ăn một cách chẳng lấy gì làm ngon lành, nhưng do cơ thể đòi hỏi, nên ăn xong chúng tôi thấy đỡ hơn chút ít. Sau đó chúng tôi đứng dậy và bắt đầu xem xét một cách vô cùng kĩ lưỡng tất cả các bức tường trong phòng, với hi vọng tìm được một lối ra nào đó, nhưng than ôi, mọi cố gắng đều vô ích!
Và sẽ là một điều rất lạ lùng nếu có một lối thoát nào đó ở căn phòng chứa một tài sản lớn như vậy.
Ánh sáng bắt đầu mờ dần, mỡ đã cháy gần hết. Henry hỏi tôi:
- Quotécmên, đồng hồ của ông vẫn chạy đúng chứ? Bây giờ là mấy giờ?
Tôi rút đồng hồ ra xem. Đã sáu giờ chiều, khi chúng tôi vào hang là mười một giờ trưa.
- Tôi nghĩ là Inphadux sẽ lo lắng về chúng ta - tôi nói. - Nếu chiều hôm nay chúng ta không về, sáng mai ông ta sẽ cho người tìm kiếm Henry ạ.
- Cũng vô ích thôi, vì ông ta không biết cửa ở đâu và mở như thế nào. Cho đến ngày hôm qua không có ai biết được điều đó ngoài Gagula, còn bây giờ thì hoàn toàn không một người nào. Cả khi tìm thấy được cánh cửa, Inphadux cũng không thể phá nó được. Cả quân đội Cucuan cũng không đục thủng nổi một tảng đá dài một mét rưỡi. Các bạn thân mến của tôi ơi, chúng ta chẳng còn gì nữa để làm ngoài việc phải quy hàng số phận. Công việc tìm kiếm kho báu đã dẫn nhiều người tới một kết cục bi thảm, bây giờ đến lượt chúng ta. Ánh sáng ngọn đèn càng mờ hơn trước, rồi bỗng nhiên nó lóe sáng và soi rõ bức tranh xung quanh một đống cao các ngà voi, những chiếc hòm đựng vàng, bên cạnh là xác Phulata, chiếc túi da dê đựng đầy những viên kim cương lấp lánh và khuôn mặt điên dại mệt mỏi của ba người da trắng đang ngồi trên sàn chờ chết khát và đói.
Ngọn lửa nhỏ lóe lên một lần cuối cùng rồi tắt hẳn.
Ngọn lửa nhỏ lóe lên một lần cuối cùng rồi tắt hẳnNgọn lửa nhỏ lóe lên một lần cuối cùng rồi tắt hẳn.