Chương 17
Tác giả: Henri Haggard
Tôi không thể nào miêu tả hết tất cả sự kinh khủng mà chúng tôi phải chịu vào cái đêm tiếp đó. Chỉ giấc ngủ chập chờn thỉnh thoảng lại kéo đến mới giúp được chúng tôi tạm quên đi ít nhiều. Nhưng thậm chí cả trong cái tình trạng vô vọng như thế, sự mệt mỏi về cơ thể cũng không chịu lắng yên. Tuy vậy tôi vẫn nằm mãi không sao ngủ được. Ý nghĩ khủng khiếp về cái chết không thể tránh khỏi luôn bám chặt tôi không chịu rời một phút nào. Ý nghĩ này có thể làm hoảng sợ cả những người dũng cảm nhất thế giới, mà tôi thì chẳng bao giờ muốn người ta xem mình là người dũng cảm. Vả lại, xung quanh là một sự yên tĩnh tuyệt đối và nặng nề, làm tôi không sao chợp mắt nổi.
Thưa bạn đọc, có thể bạn đọc đã từng vùng dậy khỏi giường và bỏ chạy trong đêm vì sự im lặng khó chịu không cho bạn ngủ thiếp đi, nhưng tôi tin chắc bạn không thể hình dung nổi thế nào là một sự im lặng tuyệt đối kinh khủng và hầu như không thể chịu nổi. Trên bề mặt của trái đất bao giờ cũng có những âm thanh và chuyển động nào đó, mặc dù rất nhỏ không nghe thấy, nhưng tất nhiên nó giảm bớt sự nặng nề khó chịu của sự im lặng tuyệt đối. Còn ở đây thì không có bất cứ một tiếng động nào. Chúng tôi bị chôn sống trong lòng một ngọn núi đá xung quanh có tuyết bao phủ. Phía trên cao cách chúng tôi hàng mấy trăm mét, gió lạnh đang thổi bay bụi tuyết trắng, nhưng tiếng động của nó không lọt được đến tai chúng tôi. Con đường hầm dài và bức tường đá dày một mét rưỡi đã ngăn cách chúng tôi ngay cả với Lâu đài Thần chết > mà những người chết thì, như bạn biết, bao giờ cũng im lặng. Thậm chí cả tiếng đại bác lẫn tiếng sấm trên toàn trái đất cũng không lọt vào đây được. Chúng tôi đã bị chôn sống, và ngôi mộ của chúng tôi bị tách biệt khỏi thế giới bên ngoài.
Bỗng nhiên tôi cảm thấy một cách rất sâu sắc tất cả sự mỉa mai của hoàn cảnh mà chúng tôi đang gặp phải. Bao quanh chúng tôi là những kho báu khổng lồ đủ để trả các món nợ lớn của Nhà nước hay xây dựng cả một chiến hạm, thế mà bây giờ chúng tôi sẵn sàng đem đổi tất cả kho báu để lấy dù chỉ một tia hi vọng mong manh thoát ra khỏi đây. Chẳng bao lâu sau không một chút do dự, chúng tôi đã sẵn sàng đem chúng đổi lấy một mẩu thức ăn hay một cốc nước, và rồi sau đó - đổi lấy cái chết để sớm chấm dứt những sự đau đớn của mình. Quả thế thật, cái gia tài mà chúng ta giành cả cuộc đời để thu vén, bỗng chốc mất hết ý nghĩa khi cái chết cập kề bên cạnh.
Đêm ấy thời gian trôi qua một cách vô cùng chậm chạp.
- Huđơ - bỗng Henry lên tiếng, giọng của ông vang lên một cách đáng sợ trong bóng tối yên tĩnh, - ông còn lại mấy que diêm nữa?
- Tám que!
- Ông hãy đánh lên một que để xem bây giờ là mấy giờ.
Huđơ quẹt diêm và vì ở lâu trong bóng tối đen kịt, ánh lửa làm chúng tôi lóa mắt.
Theo đồng hồ của tôi thì đã năm giờ sáng. Chắc lúc này cao trên đầu chúng tôi, trên những đỉnh núi quanh năm phủ tuyết là bình minh màu hồng tuyệt đẹp và cơn gió nhẹ đang bắt đầu xua sương mù vào các khe núi.
- Chúng ta cần phải ăn để lấy sức, - tôi nói
- Để làm gì? - Huđơ lên tiếng.- Cái chết đến càng sớm càng tốt.
- Chừng nào đang sống, con người không được mất hi vọng. - Henry nói.
Chúng tôi ăn rồi uống mỗi người một ngụm nước. Một chốc sau, Henry đề nghị đi đến sát cánh cửa và kêu thật to, vì chúng tôi hi vọng một cách mong manh rằng có ai đó bên ngoài sẽ nghe tiếng. Vì thế Huđơ là người trong nhiều năm phục vụ ở hạm đội đã tạo được cho mình một giọng nói khá to và thanh, liền sờ sẫm lần đến cánh cửa và làm ầm ĩ điếc tai ở đó một lúc. Trong đời chưa bao giờ tôi được nghe những tiếng kêu hét tương tự, thế mà lúc này chúng cũng chỉ như tiếng muỗi bay.
Một chốc sau, Huđơ thôi hét và quay lại cảm thấy khát đến nỗi phải uống một ngụm nữa. Sau đó chúng tôi quyết định không kêu thét thêm, vì làm thế chỉ tốn nước vô ích.
Chúng tôi lại ngồi xuống, tựa lưng vào những hòm đựng đầy kim cương mà bây giờ không ai cần đến, cứ thế ngồi yên không có việc gì để làm. Trong hoàn cảnh của chúng tôi, đó là điều không thể chịu nổi. Xin thú thật rằng lúc ấy tôi đã buông mình hoàn toàn cho thất vọng.
Tôi gục đầu vào vai Henry và khóc to thành tiếng. Tôi thấy hình như cả Huđơ lúc ấy đang ngồi ở một góc khác cũng đang cố kìm giữ nước mắt một cách vất vả, miệng vẫn không ngớt nguyền rủa mình mềm yếu.
Nhưng Henry, con người tuyệt vời, mới dũng cảm và tốt bụng làm sao. Nếu chúng tôi là hai đứa trẻ đang sợ hãi thì ông là một bà vú vô cùng dịu dàng mà trong trường hợp này ít ai sánh nổi. Hoàn toàn quên về những nỗi lo âu riêng của mình, ông đã làm tất cả những gì có thể làm được để ít nhiều củng cố lại những sợi dây thần kinh đã quá rệu rã của chúng tôi. Ông kể cho chúng tôi nghe về những người rơi vào cái hoàn cảnh tương tự, và cuối cùng đã thoát ra khỏi một cách may mắn kì diệu.
Khi thấy những câu chuyện ấy không làm chúng tôi vui lên, ông liền bắt đầu nói về việc hoàn cảnh của chúng tôi mới chỉ là cảm giác ban đầu của một sự kết thúc không tránh khỏi đang chờ đợi chúng tôi, và rằng tất cả những điều này sẽ nhanh chóng kết thúc và chết vì khát và đói là một trong những cái chết dễ chịu nhất (điều này thì rõ ràng ông đã nói dối một cách kinh khủng).
Sau đó ông hơi lúng túng đề nghị chúng tôi cứ giao phó số phận mình vào tay Thượng Đế. Về việc này thì tôi liền sẵn sàng nghe theo ông ngay.
Tính tình của Henry cũng rất tuyệt vời - luôn bình tĩnh và mạnh mẽ.
Thế là hết đêm ngày lại đến, nếu như nói chung có thể dùng từ “ngày” để chỉ cái bóng đen đang bao trùm xung quanh chúng tôi. Khi tôi quẹt một que diêm nữa để xem đồng hồ thì đã là tám giờ.
Chúng tôi lại ăn uống, và bất chợt một ý nghĩ nảy ra trong đầu tôi.
- Tại sao không khí ở đây bao giờ cũng trong lành nhỉ? - Tôi hỏi. - ƠŒ đây chật chội nhưng không khí vẫn như trước.
- Ôi, lạy Chúa! - Huđơ nhổm dậy kêu lên. - Tại sao trước đây tôi không nghĩ tới điều này? Không khí không thể lọt qua cửa được. Nếu không có không khí thay đổi, chắc chúng ta đã chết ngạt từ lâu. Ta hãy thử đi tìm xem!
Tia hi vọng mỏng manh này đã gây nên một sự thay đổi kì diệu trong tâm trạng của chúng tôi. Một giây sau tất cả chúng tôi đã lổm ngổm bò bằng bốn tay chân, cẩn thận sờ soạng từng hòn đá một, mong tìm thấy một lỗ hổng nào đó. Bỗng sự nhiệt tình của tôi tiêu tan đâu mất. Bàn tay sờ phải một cái gì đấy lành lạnh. Đó là khuôn mặt Phulata đáng thương đã chết. Cứ thế chúng tôi tìm kiếm suốt một giờ liền, cho đến khi cuối cùng tôi và Henry quyết định thôi, với tâm trạng lại hoàn toàn thất vọng và cơ thể bị xây xát quá nhiều do trong bóng tối chúng tôi luôn đụng phải khi ngà voi khi thì hòm đựng tiền hoặc tường đá. Nhưng Huđơ vẫn tiếp tục tìm kiếm, miệng nói khá hăng hái rằng làm thế vẫn còn hơn khoanh tay chờ chết.
- Này các bạn - ông ta bỗng nói bằng một giọng lạ lùng, hồi hộp. - Hãy đi lại đây!
Tất nhiên là chúng tôi vội vàng đi tới chỗ ông ta luôn vấp ngã trong bóng tối.
- Quotécmên, ông hãy đặt bàn tay ông lên đây, lên chỗ tôi đang để tay ấy. Nào, ông có cảm giác thấy gì không?
- Tôi cảm thấy có không khí chạy qua.
- Bây giờ ông hãy lắng nghe xem. - Huđơ giơ chân dậm mạnh xuống đất, tiếng vang nghe nằng nặng. Trong trái tim chúng tôi đã bắt đầu lóe lên tia hi vọng.
Bằng những ngón tay run run, tôi quẹt diêm và thấy chúng tôi đang ở góc xa của căn phòng: hình như từ nãy đến giờ chúng tôi chưa lần nào đến đây. Góc phòng trống rỗng. Trong lúc que diêm cháy sáng chúng tôi quan sát kĩ sàn đá. Trên mặt sàn đá chúng tôi nhìn thấy một vết nứt nhỏ và lạy chúa! - một chiếc vòng bằng đá nhỏ nằm sâu trong nền đá. Chúng tôi không thốt lên được một lời nào vì hồi hộp, trái tim đập mạnh đến nỗi cả ba đứng ngơ ngác trong im lặng.
Huđơ có một chiếc dao nhỏ, ở cuống dao có cái móc và ông định dùng nó kéo vòng đá lên. Cuối cùng ông móc được chiếc móc vào vòng đá rồi bắt đầu thận trọng kéo lên vì sợ chiếc móc gẫy. Chiếc vòng động đậy. Và vì nó bằng đá nên mặc dù đã hàng nghìn năm trôi qua, vẫn có thể kéo nó lên được, là điều tất nhiên không thể làm nổi nếu nó được làm bằng sắt. Một lúc sau chiếc vòng ở thế dựng đứng. Huđơ cho tay vào vòng và cố hết sức kéo lên nhưng không được.
- Ông để tôi thử xem, - tôi sốt ruột nói:
Mặc dù đã cố hết sức, tảng đá vẫn không nhúc nhích. Sau đó Henry cũng thử, nhưng kết quả vẫn không hơn gì.
Huđơ lại cầm chiếc móc moi sạch khi hở mà không khí đi qua.
- Bây giờ thì mời Henry thử lại một lần nữa. - Ông nói. - Ông sẽ phải làm việc vất vả đấy, sức của ông bằng hai người khác. Khoan, hãy chờ cho một chút. - Rồi ông cởi chiếc khăn quàng bằng lụa đen rất bền lúc nào cũng mang trên cổ rồi luồn nó qua chiếc vòng. - Quotécmên, ông hãy ôm chặt Henry và kéo thật mạnh khi tôi ra lệnh. Nào, chuẩn bị - kéo!
Henry cố hết sức lực khổng lồ của mình, kéo mạnh. Cùng lúc, tôi và Huđơ cũng làm thế, tất nhiên là với cái sức lực mà trời đã phú cho.
- Kéo đi! Kéo nữa đi! Nó đã bắt đầu chuyển động rồi đấy! - Vừa thở hổn hển, Henry vừa kêu to và tôi quả có nghe các bắp cơ của bộ lưng đồ sộ của ông rung lên bần bật.
Tôi bỗng nghe có tiếng tách của phiến đá được mở ra, và một luồng không khí mát ập vào. Lúc này tất cả chúng tôi đang nằm úp mặt xuống sàn đá. Chỉ có sức khỏe phi thường của Henry mới kéo được nó lên, và có lẽ chưa bao giờ sức khỏe đã mang được cho con người một ích lợi thiết thực và to lớn như thế.
- Đánh diêm lên, Quotécmên, - Henry nói khi chúng tôi nhổm dậy và đang hít thở lấy sức. - Cẩn thận. - Đánh diêm lên!
Dưới ánh sáng của que diêm - ôi lạy Chúa! - Chúng tôi nhìn thấy bậc đầu tiên của một chiếc cầu thang bằng đá.
- Bây giờ thì chúng ta làm gì? - Huđơ hỏi.
- Tất nhiên là xuống theo chiếc cầu thang này và để mặc số phận của mình cho Thượng Đế quyết định.
- Khoan đã! - Henry nói. - Quotécmên, ông hãy mang theo phần thịt khô và nước uống còn lại có thể ta sẽ cần đến chúng.
Tôi lại dò dẫm đi tới chỗ chúng tôi đã ngồi lưng tựa vào các hòm tiền vàng, và khi đi, tôi bỗng có một ý nghĩ thật bất ngờ. Trong vòng hai mươi tư giờ trước đấy chúng tôi ít nghĩ tới những viên kim cương, chỉ riêng ý nghĩ về chúng đã làm chúng tôi khó chịu, vì chính chúng đã đưa chúng tôi đến tai họa. Thế nhưng lúc này tôi lại nghĩ có lẽ không thừa nếu mang theo ít viên để đề phòng trường hợp chúng tôi may mắn thoát ra được. Vì vậy, tôi liền cho tay vào hòm thứ nhất và nhét đày kim cương vào tất cả các túi của chiếc áo đi săn cũ kĩ của tôi, thêm vào đó, tôi còn lấy thêm hai trong số những viên kim cương lớn ở hòm thứ ba. Đó là một ý nghĩ không đến nỗi tồi.
- Này các bạn, tôi nói to - các bạn không lấy một ít kim cương à? Tôi đã nhét đầy các túi.
- Quỷ tha ma bắt những viên kim cương ấy đi! - Henry đáp. hi vọng rằng tôi sẽ không thấy chúng nữa, dù chỉ một viên.
Còn Huđơ thì không nói gì cả. Tôi nghĩ ông ta đang bận từ biệt với cái xác của cô gái bất hạnh đã yêu ông ta say đắm.
Bạn đọc thân mến, khi bạn đọc ngồi yên ở nhà và suy nghĩ về kho báu khổng lồ mà chúng tôi đã bỏ đi không lấy như thế, chắc các bạn sẽ cho việc làm của chúng tôi là lạ lùng. Nhưng nếu chính bạn đọc bị giam suốt hai mươi tám giờ hầu như không ăn uống trong hang kín, chắc bạn đọc sẽ không muốn bắt mình mang nặng những viên kim cương trước khi chui vào lòng đất bí hiểm với hi vọng điên rồ trốn thoát khỏi một cái chết đau đớn. Nếu trong suốt cả cuộc đời tôi không tạo ra được cho mình thói quen không bao giờ vất đi cái sau này cần đến, thì tất nhiên lúc ấy tôi đã không nghĩ đến việc nhét đầy kim cương vào các túi.
- Nào đi đi! Quotécmên, - Henry nói. Lúc này ông đang đứng ở bậc thang đầu tiên của cầu thang bằng đá. - Bình tĩnh. Tôi đi trước.
- Nhớ cẩn thận, - tôi nói, - vì phía dưới có thể là những chiếc hố rất sâu.
- Có lẽ phía dưới là một hang động nữa thì đúng hơn, - Henry nói rồi từ từ bước xuống theo cầu thang, vừa đi vừa đếm các bậc.
Đếm được mười lăm bậc ông dừng lại.
- Đến đây cầu thang chấm dứt, - ông nói. - Lạy Chúa! Tôi thấy hình như ở đây có đường hầm đi ra. Các ông xuống đây nhanh lên!
Người xuống thứ hai qua cầu thang là Huđơ, tiếp đến là tôi. Đến chân cầu thang, tôi đánh một trong hai que diêm còn lại. Dưới ánh sáng của que diêm, chúng tôi thấy mình đang đứng trong một đường hầm hẹp rẽ về phía bên phải và phía trái, tạo thành góc vuông với cầu thang. Ngoài ra chúng tôi chẳng còn nhìn thấy gì, vì que diêm đã cháy đến tận cuống, suýt làm bỏng tay tôi, rồi tắt hẳn.
Một vấn đều phức tạp nảy ra: nên đi về hướng nào? Tất nhiên không thể đoán hiểu được đường hầm này dẫn đi đâu, nhưng rất có thể là một trong hai nhánh kia thì tới chỗ chết. Chúng tôi hoàn toàn không biết nên phải làm thế nào, cho đến khi Huđơ bỗng nhớ rằng khi tôi đánh diêm, gió đã thổi ngọn lửa về phía trái.
- Thế thì ta đi ngược chiều gió, - Huđơ nói - không khí từ bên ngoài lọt vào đây chứ không phải ngược lại.
Chúng tôi cũng cho là thế, rồi tay vịn vào tường cẩn thận dò trước từng bước, bắt đầu bước đi, để lại phía sau cái kho báu đáng nguyền rủa. Nếu sau này có ai còn đến được chỗ ấy, là điều mà tôi nghĩ rất khó xảy ra, như bằng chứng của việc chúng tôi đã tới trước, người ấy sẽ nhìn thấy ở đó một chiếc hòm đựng đầy đá quý đã mở, chiếc đèn trống rỗng và bộ xương trắng của Phulata tội nghiệp.
Chúng tôi cứ dò dẫm như thế đi trong đường hầm gần mười lăm phút thì bỗng gặp một chỗ rẽ ngang. Có lẽ đây là nơi giao nhau với một đường hầm khác. Chúng tôi đi tiếp và một lúc sau lại rẽ vào một đường hầm thứ ba. Cứ như thế trong mấy giờ liền. Hình như chúng tôi đã lạc vào một vòng cung trận bằng đá và sẽ không sao thoát ra khỏi. Tất nhiên tôi không biết các đường hầm này là gì, nhưng cho rằng có lẽ đó là các đường hầm ngóc ngách được đào để khai thác kim cương trong mỏ. Chỉ cách ấy mới giải thích nổi vì sao lại có nhiều đường hầm như vậy.
Cuối cùng chúng tôi đứng lại, mệt rã rời. Trái tim chúng tôi thắt lại vì ý nghĩ rằng tia hi vọng cuối cùng đã biến mất. Chúng tôi ăn hết phần thịt khô bé nhỏ còn lại và cũng uống hết ngụm nước cuối cùng. Có thể nghĩ rằng chúng tôi trốn thoát được cái chết trong bóng đen của kho báu cũng chỉ để bây giờ chết trong bóng tối dày đặc của các đường hầm chi chít.
Khi chúng tôi đang đứng thế, hoàn toàn thất vọng thì hình như tôi bỗng nghe thấy tiếng động nào đó, và cũng yêu cầu các bạn của mình lắng nghe. Đúng là có tiếng động thật, tiếng róc rách rất yếu, rất xa. Tôi không đủ từ để miêu tả sự vui mừng của chúng tôi sau bao nhiêu giờ liền chìm ngập trong sự im lặng tuyệt đối đầy chết chóc, bất chợt được nghe tiếng động này.
- Xin thề có Chúa, rằng đó là tiếng nước chảy! - Huđơ lên tiếng nói. - Ta hãy đi về phía trước.
Rồi chúng tôi lại đi về hướng có tiếng nước chảy và cũng như trước, phải dò dẫm lần theo tường đá. Càng đi chúng tôi càng nghe rõ hơn tiếng động ấy. Chúng tôi cứ tiếp tục đi về phía trước. Bây giờ thì chẳng còn nghi ngờ gì nữa, chúng tôi đã nghe rất rõ tiếng nước đang chảy mạnh.
Nhưng kể cũng lạ tại sao sâu trong lòng núi lại có một dòng nước chảy như thế? Chúng tôi đã đến rất gần và Huđơ đi đầu, ông thề rằng đã ngửi thấy mùi nước.
- Ông nhớ đi cẩn thận. Huđơ, - Henry nói, - có lẽ chúng ta đã đến gần dòng nước.
Bỗng nghe có tiếng té và tiếng Huđơ kêu. Ông đã ngã xuống nước.
- Huđơ, Huđơ! Ông ở đâu?- Chúng tôi kinh hoàng kêu to, nhưng cũng ngay lúc ấy liền thở dài nhẹ nhõm khi nghe giọng nói đứt quãng của Huđơ.
- Ổn rồi, tôi đã bám được vào một tảng đá. Hãy đánh diêm để tôi biết các ông đang ở đâu!
Tôi vội vàng đánh que diêm cuối cùng và ánh sáng yếu ớt lắt lay của nó soi rõ một dòng nước đen sẫm đang chảy ngay dưới chân chúng tôi. Chúng tôi không nhìn rõ con sông ngầm này lớn đến đâu, nhưng đã kịp nhận thấy ông bạn của chúng tôi đang bám vào một tảng đá cách xa một quãng trước mặt.
Chuẩn bị kéo tôi lên! Tôi sẽ bơi ngược về phía các ông, - Huđơ kêu to.
Sau đó chúng tôi lại nghe tiếng nước té - đó là Huđơ đang vật lộn, bơi ngược dòng nước, và một phút sau ông đã ở cạnh chúng tôi. Henry chìa tay, và chúng tôi kéo ông lên.
- May thật! - Ông nói, miệng vẫn há to để thở lấy hơi, - suýt nữa thì coi như tôi bị ngoẻo. Nếu tôi không bám được vào mỏm đá và không biết bơi thì chắc chắn đã chết từ lâu. Nước chảy mạnh kinh khủng, vì chân tôi không hề chạm tới đáy.
Rõ ràng là chúng tôi không thể đi tiếp được nữa. Chờ Huđơ nghỉ ngơi một chút, chúng tôi uống no thứ nước ngọt và mát của dòng sông ngầm, rửa sạch mặt mũi rồi dời dòng sông Xtíc(Theo thần thoại hi Lạp là dòng sông dưới địa ngục.) của Châu Phi này và quay lại theo đường hầm. Huđơ đi trước, quần áo ướt sũng, nước không ngớt chảy xuống đất.
Cuối cùng chúng tôi đã đến lại được chỗ đường hầm rẽ về phía bên phải.
- Có thể sẽ rẽ theo hướng này, biết làm thế nào được! - Henry mệt mỏi nói. - ƠŒ đây mọi lối đi đều như nhau. Chúng ta chỉ còn một việc để làm là đi chừng nào chưa ngã khuỵu xuống.
Trong một thời gian lâu, rất lâu, chúng tôi khó nhọc lê chân đi theo đường hầm mới. Bây giờ người đi đầu là Henry.
Bỗng ông đứng sững lại, làm chúng tôi vấp vào nhau trong bóng tối.
- Các ông xem kìa! - Henry khẽ nói. - Hoặc là tôi đang điên và lóa mắt, hoặc đúng là trước mặt đang có ánh sáng!.
Chúng tôi mở to mắt nhìn chăm chăm vào bóng tối. Phía xa trước mặt quả có một vầng sáng mờ mờ to không hơn ô cửa sổ gần nóc nhà. Ánh sáng yếu đến nỗi chỉ mắt của chúng tôi vốn nhìn lâu trong bóng tối mới phát hiện ra nổi.
Gần như ngạt thở vì hồi hộp, và lại một lần nữa tràn trề hi vọng, chúng tôi tiến nhanh về phía trước. Năm phút sau mọi nghi ngờ đã được xua tan - đó quả là một luồng ánh sáng yếu ớt. Một phút sau chúng tôi đã cảm thấy hơi thở của luồng không khí mát mẻ. Cố cưỡng lại sự mệt mỏi, chúng tôi cứ đi tiếp, đi tiếp về phía trước. Rồi bỗng nhiên đường hầm hẹp dần lại và Henry buộc phải bò bằng bốn tay chân. Đường hầm tiếp tục hẹp thêm nữa, cho đến khi chỉ bằng cái hang cáo rộng, nhưng bây giờ thì tường đá đã kết thúc và nó được đào trong đất.
Bằng một cố gắng phi thường, Henry đã chui ra khỏi đường hầm, tiếp theo là Huđơ và tôi. Bầu trời sao tuyệt diệu đang nhấp nháy trên cao và chúng tôi hít sâu làn không khí trong lành. Bỗng nhiên đất dưới chân chúng tôi bị sụp lở và thế là cả ba lăn tròn xuống theo sườn đất ẩm, đè nát cỏ và các bụi cây thấp.
Tôi túm được một cái gì đó và dừng lại. Tôi ngồi dậy rồi cố hết sức kêu thật to. ƠŒ đâu đó phía dưới không xa có tiếng kêu đáp lại của Henry. Một kkoảng đất bằng phẳng không lớn đã giữ ông lại, không cho lăn tiếp. Tôi bò xuống và thấy mặc dù đang hổn hển thở, cơ thể ông vẫn còn nguyên vẹn. Sau đó chúng tôi bắt đầu tìm Huđơ. Chúng tôi tìm thấy ông ta bị mắc vào chùm rễ của một thân cây nào đó không xa. Ông ta bị ngất nhưng chẳng bao lâu sau đã tỉnh lại.
Chúng tôi ngồi trên cỏ, và cái phản ứng đầu tiên sau chừng ấy vất vả và kinh sợ mạnh đến nỗi chúng tôi đã òa lên khóc vì sung sướng. Thế là chúng tôi thoát ra khỏi cái ngục tối khủng khiếp suýt nữa trở thành mồ chôn sống chúng tôi. Chắc phải có một sức mạnh thần linh nào đó đã hướng bước chân chúng tôi về phía hang cáo nơi có đường hầm kết thúc, vì ngẫm nghĩ lại tôi vẫn cho đó chính là hang cáo thật. Trước mặt chúng tôi, trên các đỉnh núi lại xuất hiện ánh bình minh màu hồng rực rỡ, cái mà chúng tôi đã nghĩ sẽ không bao giờ còn thấy lại được.
Chẳng bao lâu sau những tia sáng mặt trời đã chiếu lên sườn núi, và chúng tôi thấy mình đang ở giữa đáy của một lòng mỏ khổng lồ ngay trước lối vào hang núi. Chúng tôi cũng phân biệt được những đường nét mờ mờ của các tượng đá đang ngồi canh giữ hầm mỏ. Rõ ràng là những đường hầm hầu như không bao giờ kết thúc mà chúng tôi đã đi suốt đêm qua có thời đã được nối liền với lòng mỏ kim cương này. Còn về dòng sông ngầm chảy trong lòng núi thì chỉ có trời mới biết được nó là gì, từ đâu và chạy đi đâu. Mà tôi cũng không hoàn toàn có ý định nghiên cứu về nó.
Trời mỗi lúc một sáng hơn. Bây giờ chúng tôi đã có thể nhìn rõ mặt nhau, và phải nói rằng cả trước đây lẫn sau này tôi chưa bao giờ được nhìn thấy ai như chúng tôi vào buổi sáng đáng nhớ đó. Má của chúng tôi hóp vào, mắt hốc sâu, từ đầu tới chân phủ đầy bụi bẩn và các vết thâm tím, rách xước. Trên mặt chúng tôi còn in rõ sự sợ hãi kéo dài trước cái chết không thể tránh khỏi. Nói tóm lại là trông chúng tôi thật khủng khiếp, có lẽ cả ánh sáng mặt trời cũng sợ không dám dọi vào. Nhưng mặc dù thế, chiếc kính một mắt vẫn long lanh một cách kiêu hãnh trên mắt phải của Huđơ. Tôi không nghĩ rằng suốt thời gian qua ông ta đã tháo bỏ nó dù chỉ một lần. Cả bóng tối, cả dòng sông ngầm trong núi đá, cả bờ dốc mà ông ta phải lăn xuống đều bất lực không bắt được Huđơ chịu rời chiếc kính một mắt của mình.
Một lúc sau chúng tôi đứng dậy và vì sợ nếu ngồi lại thêm nữa, đôi chân sẽ tê dại đi, nên chậm chạp leo lên cao bờ dốc đứng của chiếc lòng chảo khổng lồ. Mỗi bước đi làm chúng tôi đau nhói. Cứ thế hơn một giờ chúng tôi kiên nhẫn leo lên cao theo lớp đất sét màu xanh, luôn bám vào cỏ hoặc các rễ cây.
Cuối cùng, chúng tôi cũng leo lên được và đứng nghỉ trên Con đường vĩ đại, ngay bên bờ lòng chảo, đối diện với các tượng đá.
Cách đường chừng một trăm mét, trước một nhóm nhà có đống lửa đang cháy, xung quanh là những hình người nào đó đang ngồi. Chúng tôi dìu nhau đi về phía họ, chốc chốc dừng lại để nghỉ.
Bỗng một trong số những người đang ngồi bên đống lửa đứng dậy, và khi nhìn thấy chúng tôi, liền sụp xuống đất kêu lên kinh hãi.
- Inphadux! Inphadux! Chúng tôi đây mà, bạn của các ông đây mà!
Ông già đứng dậy chạy về phía chúng tôi, và trân trân nhìn chúng tôi bằng đôi mắt điên dại.
Ông ta vừa run vì sợ, vừa kêu lên:
- Ôi, các ông chủ của tôi, các ông chủ của tôi! Thế là các ông đã thực sự quay lại từ thế giới của những người chết! Quay lại từ thế giới của những người chết!
Rồi người chiến binh già ấy quỳ xuống trước chúng tôi, hai tay ôm gối Henry khóc to sung sướng.