Chương 34
Tác giả: Henryk Sienkiewicz
Mặt trời buổi sáng hôm sau soi sáng một cảnh tượng kì lạ.
Xtas đi dọc theo vách đá, dừng lại trước từng người da đen, vẩy nước lên trán họ và đọc lời kinh cầ u nguyện cho họ. Còn họ vẫn cứ ngủ say, taychân co giật, đầu rũ xuống ngực hay ngước lên trời, hãy còn sống đấy mà trông đã giống như nhữ ng xác chết rồi. Và cứ thế, trong ánh mặt trời, trong sự thanh bình ban mai, trong cái câm lặng của sa mạc,lễ rử a tội cho những người đang ngủ diễn ra như thế đó. Ngày hôm đó, trời không mây thanh cao, màu xanh xám như cũng sầu thương.
Ông Linđe hãy còn tỉnh táo, nhưng mỗi lúc một yếu hơn. Sau khi thay băng, ông giao cho Xtas các thứ giấy tờ đựng trong hộp sắt tây, uỷ nhiệm choem bảo quản và không nói gì thêm. Ông không thể ăn được nữa, nhưng cái khát giày vò ông kinh khủng.
Trước khi mặt trời lặn ông bắt đầu mê sảng. Ông gọi tên những đứa trẻ nào đó, bảo chúng đừng bơi quá xa ra giữa hồ, cuối cùng giật người lên từng cơn và đưa hai tay ôm lấy đầu.
Hôm sau nữa, ông hoàn toàn không nhận ra Xtas, và ba ngày sau đó ông qua đời vào chính ngọ, không hề tỉnh lại lần nào.
Xtas chân thành thương khóc ông, rồi cả hai cùng với Cali mang ông tới một cái hang hẹp lòng gần đấy, lấy đá và gai góc bịt kín cửa hang.
Xtas mang cậu bé Nasibu về “Cracốp”, bảo Cali ở lại chỗ đó canh giữ đồ đạc và ban đêm đốt lửa thật to bên cạnh những người đang ngủ. Còn em cứ đi về liên tục giữa hai khe núi, chuyên chở các túi đồ, vũ khí, đặc biệt là đạn cho những khẩu rêmingtơn để tháo lấy thuốc súng làm mìn phá tảng đá đang bịt đường ra của King. May mắn thay, sau những liều thuốc kí ninh dùng hàng ngày, sức khỏe của Nen được cải thiện rõ rệt, và đủ loại thức ăn khiến cô mạnh lên. Tuy nhiên, bao giờ rời Nen, Xtas cũng không muốn, vì lo ngại, và trước khi ra đi em cấm cô bé không được ra khỏi cây, lấy dây xiêm gai bịt kín lỗ cửa ra vào. Song do hàng núi công việc đang đè lên vai, em phải để Nen lại cho Mêa trông nom cùng với Nasibu và Xaba, mà thực ra, em trông cậy nhiều nhất ở con Xaba. Em thà đi hàng chục lần trong ngày sang trại ông Linđe để lấy đồ đạc hơn là để cô bé phải ở một mình quá lâu. Em làm việc kinh người nhưng sức khỏe sắt thép củ a em chịu đựng được hết mọi nỗi khó nhọc. Tuy vậy, mãi mươi ngày sau, các bọc đồ mới được chia làm hai trọn vẹn, những thứ ít cần thiết hơn được chôn giấu trong các hang núi, những thứ cần thiết hơn được mang về “Cracốp”, lũ ngựa cũng được đem về mũi đất, trên lưng ngựa là phần lớn những khẩu sú ng rêmingtơn mà con King sẽ phải chở đi theo.
Trong thời gian đó, ở trại của ông Linđe, thỉnh thoảng lại có một người nào trong số những ngườ i đang ngủ trong cơn mê cuồng trước khi chết, vùng dậy chạy trốn vào rừng và không quay trở lại nữa. Cũng có những kẻ chết ngay tại chỗ, một số người khác thì bị đập đầu vào đá chết ngay trong trại hoặc ở gần đó vì chạy trong khi đang ngủ. Những người này được Cali chôn cất. Sau hai tuần, chỉ còn lại có mỗi một người, nhưng người này cũng chết ngay trong khi ngủ do kiệt sức.
Mãi rồi cũng tới lúc phá tung khối đá để giải phóng cho King.
Nó đã thuần đến nỗi, theo lệnh của Xtas, nó dùng vòi túm lấy em đặt lên đầu. Nó cũng đã quen với việc chuyên chở những thứ đồ nặng mà Cali kéo theo các thang tre chất lên lưng nó. Nen thì nhất mực bảo rằng bọn trẻ bắt nó mang nặng quá, nhưng thực ra tất cả những thứ đó đối với nó chỉ nhẹ như một con ruồi, và chỉ tới khi có những bọc đồ đạc của ông Linđe nó mới thật sự chở đủ nặng. Nó cũng đã kết thân với con Xaba (ban đầu cứ trông thấy con chó là nó lại mất bình tĩnh) và đã đùa nghịch với con chó bằng cách dùng vòi lật lật con chó trên mặt đất, còn Xaba thì giả vờ cắn cái vòi. Thỉnh thoảng, nó bất thần phun nước vào con chó khiến Xaba cho rằng đó là một thứ đùa nghịch rất khó chịu.
Bọn trẻ sung sướng nhất bởi con vật thông minh và biết suy nghĩ hầu như hiểu được tất cả những gì mà chúng yêu cầu nó, nó không những chỉ hiểu mọi mệnh lệnh, mọi sự đòi hỏi mà thậm chí cả từng cử chỉ nữa. Về phương diện này thì lũ voi vượt xa mọi thứ thú nuôi khác, cò n King thì vượt hẳn con chó Xaba, con này chỉ biết ve vẩy đuôi khi nghe những lời cảnh cáo của Nen rồi sau đó nó lại làm mọi thứ theo ý mình. Sau vài tuần lễ, King hiểu được rất rõ rằng người cần phải vâng lời nhất là Xtas, người mà mọi người chăm lo nhất là Nen. Vì thế, nó thực hiện nghiêm túc nhất tất cả những mệnh lệnh của Xtas, nhưng lại yêu mến Nen hơn cả. Với Cali thì nó cầm chừng, còn Mêa thì nó hoàn toàn bỏ qua.
Sau khi làm xong bộc phá, Xtas nhét thật sâu vào khe hở, sau đó dùng đất sét bịt kín hết, chỉ để lại một lỗ nhỏ cho cái ngòi bện bằng sợi cọ khô trộn với thuốc súng. Giờ phút quyết định đã điểm: Xtas tự tay châm sợi dây đã trộn với thuốc súng, rồi cắm đầu chạy thụ c mạng đến cái cây mà trước đó nó đã bắt tất cả mọi người phải nấp vào. Nen lo rằng con King sẽ hoảng sợ quá chăng, nhưng cậu bé nói cho nó yên tâm rằng đã chọn ngày mà đêm trước có mưa dông sấm chớp ầm ầm, hai nữa, nó cam đoan rằng giống voi hoang dã từng nghe nhiều tiếng sấm gầm còn khủng khiếp hơn, khi trời ra oai trổ tài với rừng rú. Tuy vậy, bọn trẻ vẫn ngồi lo lắng, tim đập gấp gáp, tính từng phút một. Một tiếng nổ khủng khiếp rung động cả bầu không khí, mạnh đến nỗi cây bao báp rung chuyển toàn thân, từ gốc tới ngọn, những lớp gỗ mục ruỗng chưa kịp lấy đi hết đổ ụp xuống đầu cả bọn. Xtas nhảy vọt ngay ra khỏi cây, và vượt qua những khú c ngoặt của khe núi, nó lao thẳng tới chỗ họng khe.
Kết quả vụ nổ thật quá mĩ mãn. Một nửa khối đá vôi vỡ nát thành từng mảnh vụn, nửa kia vỡ ra thành nhiều khối lớn và nhỏ, những mảnh này bị sức nổ ném vung đi khá xa.
Voi đã được giải phóng!
Cậu bé sung sướng nhảy lên bờ khe núi, gặp Nen, Cali và Mêa ở đó. Con King hơi hoảng, lùi sát tận bờ khe, đứng giơ vòi về phía phát tiếng sấm khác thường nọ. Tuy nhiên, khi Nen bắt đầu gọi nó, nó liền thôi vẫy tai, và khi cô bé qua chỗ thông vừa bị phá thủng để đến với nó, nó hoàn toàn bình tĩnh lại. Còn lũ ngự a thì hoảng hơn King, hai con dông tuốt vào rừng, Cali phải tìm mãi cho đến lúc trời gần tối mới thấy chúng.
Ngay trong ngày hôm đó, Nen đưa King “ra với đời”. Con vật khổng lồ đi theo sau cô bé ngoan ngoãn như một chú cún con, sau đó, nó tắm gội dưới sông và tự lo lấy bữa chiều cho mình bằng cách tựa đầu vào một cây sung Ai Cập to tướng, nó bẻ cây này gãy nhẹ nhàng như một cây lau nhỏ, rồi sau đó xơi hết cả quả cùng lá cây.
Song đến tối nó bước đến gần cây bao báp và cứ chố c chốc lại thò cái vòi linh động của nó qua lỗ cửa vào tìm Nen một cách nóng nẩy và quấy đến nỗi rốt cuộc Xtas phải phát cho nó một cái rõ đau vào đầu vòi.
Người sung sướng nhất vì những kết quả của ngày hôm nay đó là Cali vì nó thoát khỏi công việc kiếm thức ăn cho con vật khổng lồ, và đó hoàn toàn không phải là một việc dễ dàng. Vì vậy Xtas và Nen nghe thấy tiếng nó hát một bài ca mới đầy sung sướng trong khi đang nhen lửa làm bữa tối, bài ca gồm những lời sau:
- Ông lớn giết người và sư tử! Yah, yah! Ông lớn phá vỡ tảng đá yah! Voi tự bẻ cái cây, còn Cali chỉ ngồi chơi và đánh chén - yah, yah!
Mùa mưa - hay mùa masica như người ta gọi đã gần kết thú c. Hãy còn những ngày trời mưa và đầy mây nhưng đã có cả những ngày hoàn toàn hửng nắng. Xtas quyết định chuyển sang ngọn núi mà ông Linđe đã chỉ và nó thực hiện ý định này ngay sau khi giải phóng cho King. Sức khỏe của Nen không còn đáng lo lắm nữa, cô bé đã cảm thấy mạnh hơn nhiều.
Thế là, chọn được một buổi sáng đẹp trời, bọn trẻ lên đường đi về phía Nam. Chúng không còn sợ bị lạc đường nữa, vì trong số rất nhiều thứ đồ đạc mà cậu bé được thừa hưởng của ông Linđe, có một cái địa bàn và một cái ống nhòm rất tốt, dùng nó có thể nhìn rõ những vùng xa. Cùng đi với bọn trẻ, ngoài Xaba và con lừa, còn có năm con ngựa thồ hàng và con voi. Trừ những gùi hàng ra, con vật còn chở trên đầu cô bé Nen, cô bé ngồi giữa hai cái tai khổng lồ của nó nom cứ như ngồi trong một chiếc ghế bành vậy. Xtas rời bỏ không hề tiếc mũi đất bên sông và cái cây bao báp, vì chúng gắn liền với những hồi ức về bệnh của Nen. Ngược lại, cô bé lại buồn bã ngắm nhìn những tảng đá, cái cây, thác nước và nói rằng sẽ còn quay trở lại nơi đây khi nào “to” hơn.
Tuy nhiên, cậu bé Nasibu còn buồn bã hơn nhiều, cậu bé yêu mến chân thành ông chủ trướcđây của cậu, và giờ đây, cưỡi trên mình lừa đi cuối đoàn, cứ chốc chốc cậu lại đưa cặp mắt đẫm lệ trông về phía mà ông Linđe tội nghiệp phải ở lại cho đến ngày phán xét vĩ đại.
Gió thổi từ phương Bắc và ngày hôm ấy mát mẻ lạ lùng. Vì thế bọn trẻ không cần phải chờ cho qua buổi giữa mười giờ trưa với ba giờ chiều - cho qua cơn nóng nhất - mà có thể đi được nhiều đường đất hơn so với những đoàn khách thương khác. Con đường cũng không dài lắm, và mấy tiếng đồng hồ trước khi mặt trời lặn, Xtas đã trông thấy ngọn núi mà chúng đang hướng tới. Phía xa xa một dãy dài các đỉnh núi khác nổi lên trên nền trời, còn ngọn núi này thì đứng riêng biệt và gần hơn giống như một hòn đảo giữa rừng. Khi bọn trẻ đến gần hơn thì té ra là những sườn dốc đứng của núi bị bao bọc bởi một khúc quanh của chính con sông mà trước đóchúng đã dừng chân trên bờ . Đỉnh núi trông như bị chặt ngang, hoàn toàn bằng phẳng, và nhìn từ phía dưới, thì hình như nó được bao phủ bởi cả mộ t khu rừng rậm. Xtas ước tính rằng, nếu như mũi đất có cây bao báp của chúng nằm cao bẩy trăm mét trên mực nước biển, còn ngọn núi này cao tám trăm mét, thì chúng sẽ được ở trên độ cao một nghìn năm trăm mét, nghĩa là chắc khí hậu sẽ không nóng hơnbao nhiêu so với Ai Cập. Ý nghĩ này khiến em thêm phấn chấn và muốn mau chóng chiếm lĩnh cái pháo đài thiên nhiên ấy.
Bọn trẻ dễ dàng tìm ra cái sống đá duy nhất dẫn lên đến đỉnh, và bắt đầu theo đó leo lên. Sau một tiếng rưỡi đồng hồ, chúng đã đứng trên đỉnh núi. Khu rừng mà chúng trông thấy từ dưới chân núi quả thực là rừng, nhưng lại là rừng chuối. Cảnh tượng đó khiến cho cả bọn - kể cả con King - đều vui sướng, mà người vui sướng nhất lại là Xtas, vì em biết rằng ở châu Phi không có thứ thực phẩm nào bổ, lành, mà lại có khả năng ngừa bệnh tốt hơn bột chuối khô. Mà chuối thì bạt ngàn, ít nhất cũng đủ dùng cho chúng cả năm.
Giữa những phiến lá chuối to bản ẩn kín những túp lều của người da đen, một số bị cháy trong cuộc tấn công ăn cướp, một số đã sụp đổ, nhưng số khácvẫn còn nguyên vẹn. Ở giữa làng là ngôi nhà lớn nhất, ngày trước là nhà của chúa làng, đượ c đắp rất đẹp bằng đất sét với cái mái rộng làm thành một hàng hiên chung quanh tường. Trước những túp lều, đây đó rải rác những chiếc xương hoặc những bộ xương người trắng như phấn, vì đã được lũ kiến làm cho sạch bóng, lũ kiến mà ông Linđe đã nhắc tới. Từ lúc đó đến nay đã nhiều tuần lễ trôi qua, nhưng trong lều vẫn còn thoáng ngửi thấy mùi hăng của kiến và không sao tìm ra nổi một con gián to màu đen nào vẫn thường có rất nhiều trong những túp lều của người da đen, không có một con nhện, một con bọ cạp hay một loài sâu bọ nào dù nhỏ bé đến đâu chăng nữa. Những con kiến siaphu kinh khủ ng đã quét sạch sành sanh các giống vật đó. Cũng có thể tin chắc rằng, trên toàn bộ đỉnh núi không còn một con rắn nào, vì thậm chí cả loài trăn cũng trở thành nạn nhân của các chiến sĩ tuy nhỏ bé nhưng không gì cản nổi kia.
Sau khi đưa Nen và Mêa vào lều của chúa làng, Xtas ra lệnh cho Cali và Nasibu dọn sạch các hài cốt. Bọn trẻ da đen thực hiện mệnh lệnh đó bằng cách quẳng hết xương xuống sông, dòng sông mang những hài cốt đó đi xa hơn. Trong khi làm công việc đó chúng nhận thấy rằng ông Linđe đã nhầm khi cam đoan rằng chúng sẽ không gặp trên núi một mạng sống nào. Sự tĩnh mịch bao trùm sau khi bọn phiến loạn đem hết người đi và những cây chuối đã thu hút về đây những đàn tinh tinh đông đảo, chúng dựng lên trên các cây cao những chiếc ô hay những mái nhỏ che mưa. Xtas không muốn giết chúng nhưng muốn xua đuổi chúng đi nơi khác, và thế là em bắn chỉ thiên. Tiếng nổ gây nên một cảnh hỗn loạn chung, cảnh đó càng trở nên hỗn loạn hơn khi tiếng súng được kèm thêm tiếng sủa giọng trầm của con Xaba và nhất là khi King - bị tiếng ồn ào kích động - rống lên vang động. Nhưng bọn tinh tinh để tháo lui không cần phải tìm đến cái gờ đá mà chỉ cần bám lấy những khe đá chúng cũng tuồn xuống tận sông và những cây cối mọc ven sông, nhanh đến nỗi răng con Xaba không kịp chạm tới một con nào cả.
Mặt trời đã lặn. Cali và Nasibu nhóm lên một đống lửa để làm bữa tối. Sau khi dỡ những thứ đồ đạc cần thiết cho buổi tối, Xtas cũng bước vào nhà của viên chúa làng, nơi Nen đang ở.
Trong nhà sáng sủa và vui vẻ, vì Mêa đã đốt lên không phải ngọn đèn từng soi sáng lòng cây bao báp mà là cây đèn dầu hỏa to tướng dùng khi đi đường được thừa hưởng của ông Linđe. Nen không cảm thấy mệt nhọ c gì sau một ngày đi đường mát mẻ và đang rất vui, nhất là khi Xtas thông báo với cô bé rằng những xương người làm cô sợ đã được dọn sạch.
- Ở đây tốt quá, anh Xtas ạ! - Cô bé reo lên. - Anh nhìn này, thậm chí đến nền nhà cũng được rải nhựa cây. Chúng mình sẽ ở đây rất tuyệt.
- Sáng mai anh mới đi xem xét kĩ toàn bộ khu vực, - Xtas đáp, - nhưng chỉ qua những thứ mà anh thấy hôm nay, thì có thể nói là sinh sống ở đây cả đời được.
- Giá như có cha của chú ng ta thì có thể sống cả đời cũng được. Nhưng cái trang ấp này của chúng ta sẽ gọi tên là gì, anh?
- Trong địa lí, ngọ n núi này sẽ mang tên là núi Linđe, còn cái làng này cứ để mang tên em: Nen!
- Thế là cả em cũng được ghi vào địa lí à anh? Cô bé vô cùng sung sướng hỏi lại.
- Em sẽ được ghi, chắc chắn như vậy! - Xtasnghiêm trang đáp lại.