Chương 35
Tác giả: Henryk Sienkiewicz
Ngày hôm sau, mưa rơi chút ít, nhưng cũng có những giờ trời quang đãng, nên ngay từ sáng sớm Xtas đã đi thăm thú trang ấp, và cho tới trưa, em đã xem xét kĩ lưỡng tất cả mọi nơi. Nói chung, kết quả tham quan thật tuyệt diệu. Trước nhất, về phương diện an toàn, núi Linđe dường như là chỗ có một không hai trong toàn bộ Phi châu. Các sườn núi họa may chỉ có loài vượn là leo lên nổi. Cả sư tử lẫn báo đều không thể trèo lên đỉnh theo các sườn núi được.
Còn nếu nói về cái sống đá, thì chỉ cần bố trí cho con King nằ m cạnh lối vào là có thể ngủ yên giấc. Xtas đi đến kết luận rằng tại đây em có thể chống lại ngay cả những đơn vị tương đối nhỏ của bọn phiến loạn, vì đường lên núi hẹp đến nỗi con King chỉ vừa đi lọt, và một người được trang bị khí giới tốt có thể ngăn không cho một kẻ nào lọtqua mà còn sống sót. Ở giữa “đảo” có một nguồn suối nước mát, sạch như pha lê, nguồn này chuyển thành dòng suối chảy len lỏi giữa các lùm chuối rồi đổ từ trên cao xuống sông, tạo nên một cái thác mảnh, tựa như một dải vải bằng bạc. Về phía Nam của “đảo” là nhữ ng cánh đồng sắn tốt tươi, củ sắn cung cấp cho người da đen thứ lương thực ngon lành, còn phía bên kia cánh đồng vút lên những khóm dừa thật cao, có ngọn trông giống như những ngù lông tuyệt đẹp.
“Hòn đảo” được cả một biển rừng vây quanh, từ đây có thể nhìn đượ c rất xa. Về phía Đông xám mờ rặng núi Caramôiô. Phía Nam cũ ng có những vùng cao, trên đó nổi bật lên màu sẫm, hẳn là đất, ở đó có rừng bao phủ. Ngược lại, về phía Tây tầm mắt chạy thẳng tới đường chân trời, nơi rừng tiếp giáp với bầu trời. Nhờ cái ống nhòm của ông Linđe, Xtas trông thấy có nhiều khe núi và những cây gỗ to lớn mọc rải rác, giống như nhữ ng cái nhà thờ nhô lên trên thảm cỏ. Tại những nơi cỏ không lên tốt lắm, ngay cả mắt thường cũng có thể trông thấy những đàn linh dươngvà ngựa vằn, hay hàng đàn voi và trâu. Đôi nơi, bọn hươu cao cổ đang nhấp nhô trên bề mặt màu xanh xám của rừng, giống như những con tàu đang rẽ sóng biển. Ngay sát bên sông một nhóm mươi con dê nước đang đùa nghịch, những con khác chốc chốc lại nhô cái đầu mọc sừng từ dưới lên. Còn nơi nước lặng, cứ chốc chốc những con cá mà Cali thường câu được lại nhảy vọt lên, loáng qua như một ngôi sao bằng bạc trong không khí rồi rơi lại vào làn nước.
Xtas tự nhủ, khi nào trời đẹp, sẽ đưa Nen tới đây để chỉ cho em thấy cái vườn thú này.
Ngược lại, trên cả “hòn đảo” không hề có những con thú lớn, thay vào đó là hằng hà sa số chim và bướm. Những con vẹt to tướng, trắng như tuyết, có cái mỏ đen tuyền và chỏm đầu vàng, bay trên những khóm cây, những con chim mái nhỏ bé, màu lông tuyệt vời lắc lư trên những cành sắn mảnh mai, ẩn hiện và lóng lánh như những đồ trang sức; từ những hàng dừa cao vút vọng về tiếng những chàng chim cu Phi châu và tiếng chim tu huýt hiền dịu, nghe giống như tiếng than thầm.
Xtas quay về sau chuyến đi tham quan, lòng đầy sung sướng:
“Không khí trong lành - em tự nhủ hoàn toàn yên ổn, thực phẩm đầy đủ, và tươi đẹp như thiên đường!” Quay về lều của Nen, em lại thấy rằng, tuy thế trên “hòn đảo” này cũng vẫn có những loài thú to, thậm chí là hai con liền, vì cậu bé Nasibu phát hiện ra, trong thời gian đó, một con dê cái và một chú dê con trong lùm chuối, hẳn là bọ n phiến loạn không kịp cướp nốt đi. Con dê mẹ đã hơi trở thành hoang dã, nhưng chú dê con lập tức quen ngay với Nasibu, cậu bé rất tự hào về điều phát hiện của mình, vì rằng, nhờ đó, hàng này cô bé sẽ có một thứ sữa tươi ngon tuyệt.
- Bây giờ chúng mình sẽ làm gì, anh Xtas? - Mộthôm Nen hỏi, sau khi bọn trẻ đã “làm chủ” tương đối hoàn hảo trên “hòn đảo”.
- Nhiều việc lắm, - cậu bé đáp. - rồi xoè những ngón tay ra, em bắt đầu tính toán những công việc phải làm đang chờ đợi chúng:
- Trước hết, Cali và Mêa là những người ngoại đạo, Nasibu, vốn là người Dandiba nên theo đạo Hồi. Cần phải khai sáng, giáo dục và rửa tội cho cả ba. Thứ hai, cần phải sấy thịt khô chuẩn bị cho chuyến đi, nghĩa là anh sẽ phải đi săn; thứ ba, khi đã có được nhiều súng và đạn, anh muốn dạy cho Cali tập bắn, để cả hai đứa có thể tự vệ; và thứ tư, là có lẽ em đã quên mất chuyện những chiếc diều rồi thì phải?
- Diều à?
- Phải, em sẽ dán diều, hoặc tốt hơn, là hãy khâu diều. Đó sẽ là công việc của em.
- Nhưng em không muốn chơi không.
- Đó hoàn toàn không phải là trò chơi, mà là công việc, thậm chí có thể là việc làm có ích nhất trong tất cả các việc. Em cũng đừng có nghĩ làm một cái diều là xong đâu, em sẽ phải làm năm mươi cái hay hơn nữa cơ đấy.
- Làm gì lắm thế anh? - Cô bé tò mò hỏi lại.
Thế là Xtas bắt đầu hé cho cô bé những dự kiến và hi vọng của mình. Trên mỗi chiếc diều chúng sẽ ghi lên: họ tên chúng là gì, chúng đã thoát khỏi tay bọn phiến loạn ra sao, hiện giờ đang ở đâu và định đi đâu. Chúng sẽ viết rằng chúng cần được cứu giúp và yêu cầu gửi điện báo đến Port Xaiđơ. - Rồi chúng ta sẽ thả những chiếc diều đó lên, khi nào gió thổitừ phía Tây sang phía Đông.
- Nhiều chiếc - thằng bé nói, - sẽ rơi xuống cách đây không xa, nhiều chiếc sẽ bị vướng núi, nhưng chỉ cần một chiếc bay tới bờ biển và lọt vào tayngười Âu châu là đủ - khi đó chúng mình sẽ đượccứu sống.
Nen rất thích thú với ý định ấy, cô bé nói rằng ngay cả King cũng không thể nào sánh nổi với Xtas về sự thông minh. Cô bé thậm chí còn tin chắc rằng nhiều cái trong số diều đó sẽ bay tới tận tay cha - và cô hứa sẽ dán diều từ sáng sớm đến tối mịt. Niềm vui của cô bé lớn đến nỗi Xtas lo rằng cô bé lên cơn ấm đầu nên phải hãm bớt nhiệt tình của cô bé lại.
Kể từ đó, những công việc mà Xtas đã nêu đều được bắt đầu một cách tốt đẹp. Cali được giao nhiệm vụ bắt thật nhiều cá nhảy, đã thôi không dùng cần câu nữa mà nó lấy tre làm thành một cáiđăng ngang dòng sông. Ở giữa đăng có một cái lỗ tomà lũ cá bắt buộc phải chui qua nếu muốn vượt ra khỏi vùng nước đó. Cali dùng một chiếc lưới chắc chắn bằng sợi dây dừa mắc vào cái lỗ này, thế là bằng cách ấy nó bảo đảm hôm nào cũng đánh đượcnhiều cá.
Để dồn cá vào cái lưới tinh khôn nọ, nó dùng con voi King: nó dắt voi xuống uống nước, sục nước và quẫy cho ầm lên đến nỗi không chỉ riêng những chà ng cá bạc hay nhảy mà tất cả mọi loài sinh vật khác cũng phải cố sức thoát ra khỏi vùng nước bị quấy đục. Tuy nhiên chuyện đó nhiều khi cũng mang lại hậu quả tai hại, vì đôi lần, những con cá sấu chạy trốn làm đăng bị đổ, đôi khi chính con King gây ra chuyện đó, vì hình như nó vốn nuôi sẵn một mối thù bẩm sinh nào đó với bọn cá sấu, nên luôn luôn săn đuổi chúng, và khi chúng dạt lên cạn, nó dùng vòi túm lấy chúng, vứt lên bờ rồi giẫm đạp điên cuồng.
Vào lưới cũng thường có cả những chú rùa và những vị khách lưu đày trẻ tuổi của chúng ta nấu thịt rùa thành những món xúp ngon lành. Cali làm cá, thịt chúng thường được phơi nắng còn bong bóng thì nó mang về cho Nen, cô bé phanh chúng ra, căng trên tấm gỗ và biến chúng thành phần tư tờ giấy, to bằng hai lòng bàn tay.
Xtas và Mêa giúp đỡ thêm cô bé trong công việc ấy, vì thực ra đó là công việc hoàn toàn không dễ chút nào. Màng bong bóng dày hơn nhiều so với bóng cá sông của ta, nhưng sau khi phơi khô thì lại trở nên rất giòn. Mãi sau một thời gian, Xtas mới phát hiện ra rằng cần phải phơi chúng trong bóng râm. Tuy nhiên, đôi khi em mất kiên trì, và nếu em không chịu bỏ ý định làm diều bằng bóng cá thì chỉ vì em biết là loại vật liệu này nhẹ hơn giấy và chịu mưa tốt hơn nhiều. Thực ra mùa khô cũng đang đến gần nhưng em không biết chắc liệu về mùa hạ có mưa hay không, nhất là ở vùng núi.
Tuy vậy, em cũng dán cả những cái diều bằng giấy (em tìm thấy khá nhiều giấy trong số những thứ đồ đạc của ông Linđe).
Cái diều đầu tiên, to vànhẹ, được thả lên theo gió Tây, đã vọt lên rất cao, và khi Xtas cắt đứt dây, nó bị một luồng không khí rất mạnh mang đi về phía rặng núi Caramôiô. Xtas dùng ống nhòm dõi theo đường bay của nó cho tới khi nó chỉ còn nhỏ như một cánh bướm, như một con ruồi, rồ i chìm hẳn vào màu xanh nhạt của nền trời. Ngày hôm sau em lạ i thả một cái khác, được làm bằng bong bóng cá, chiếc này còn lên nhanh hơn, nhưng cũng nhanh chóng biến mất khỏi tầmmắt hơn, có lẽ là do bong bóng cá trong suốt.
Nen lao động vô cùng nhiệt tình, kết cục là những ngón tay của cô bé đã trở nên khéo léo đến nỗi Xtas lẫn Mêa cũng không sao theo kịp cô bé trong công việc này. Giờ đây thì cô bé không thiếu sức lực nữa. Khí hậu tốt lành của núi Linđe quả thực đã hồi sinh hoàn toàn cho cô bé. Thời hạn của cơn sốt thứ ba - cơn sốt chết người - trôi qua đã lâu. Ngày hôm ấy, Xtas ẩn người trong đám chuối và khóc lên vì sung sướng. Sau hai tuần ở trên núi em nhận thấy rằng, cô Mdimu Tốt trông khác hoàn toàn so với lúc ở trong rừng dưới kia. Hai má cô bé đầy lên, màu da từ sắc vàng ệch và trong suốt lại chuyển sang màu hồng phơn phớt, đôi mắt tràn đầy ánh sáng long lanh nhìn ra cuộc đời dưới mái tóc rậm. Cậu bé thầm cảm ơn những đêm mát mẻ, cảm ơn nước nguồn trong vắt và bột chuối khô - nhưng trước hết là cầu nguyện cho ông Linđe.
Còn chính Xtas thì gầy đi và đen hơn. Điều đó chứng tỏ bệnh sốt rét không chạm tới em, vì những người mắc bệnh này không bị rám nắng, em lớn lên và rắn rỏi hơn. Hoạt động và sự lao động chântay đã khiến cho lòng can đảm và sức mạnh của em được tăng cường. Bắp thịt tay của em trở nên rắnnhư thép. Đó quả thực đã là một nhà thám hiểm Phi châu trải nhiều thử thách. Do săn bắn hàng ngày và chỉ dùng đạn săn, nên em trở nên một xạthủ vô địch.
Em hoàn toàn không còn sợ các loài dã thú nữa, vì hiểu được rằng những “chàng” thợ săn lông xù hay lốm đốm trong rừng gặp em thì nguy hiểm hơn là em gặp bọn chúng. Một lần, chỉ bằng một phát đạn, em hạ ngay một con tê giác khổng lồ, con thú đang ngủ dưới cây xiêm gai tỉnh dậy bất ngờ lao vào húc em. Em cũng không ngán những đàn trâu rừng hăng máu của Phi châu, đã từng nhiều lần đánh bạt cả những đoàn khách thương...