Chương kết
Tác giả: Henryk Sienkiewicz
Niềm vui sướng trong trại của đại uý Glen vừa bác sĩ Clery thật là vô hạn, nhưng sự tò mò của hai người Anh này cũng bị đặt trước những thử thách nghiêm trọng. Nếu như trước đây họ không thể nào tin được rằng bọn trẻ lại có thể vượt qua những vùng rừng thẳm và sa mạc mênh mông ngăn cách những vùng sông Nin ấy và Phasôđa, thì giờ đây họ lại hoàn toàn không thể hiểu nổi bằng cách nào “chàng Ba Lan nhỏ bé” ấy - như họ thường gọi Xtas - không những chỉ làm được chuyện ấy mà lại còn xuất hiện trước mặt họ với cương vị thủ lĩnh của cả một đoàn người được vũ trang bằng vũ khí châu Âu, với một thớt voi mang bành, với lũ ngựa, lều trại và rất nhiều lương thực dự trữ. Đại uý chỉ biết chìa tay bất lực trước những cảnh ấy, chốc chốc lại nói: “Clery này, mình đã trông thấy nhiều chuyện, nhưng chưa bao giờ được gặp một đứa bé như thế này!” Còn bác sĩ thì lặp đi lặp lại vẻ không ít kinh ngạc hơn:
“Nó giành lại cô bé từ cảnh nô lệ, rồi cứu thoát cô bé nữa chứ!” - Rồi ông lại chạy đến khu lều trại xem thử bọn trẻ có việc gì không và chúng ngủ có ngon giấc không.
Còn bọn trẻ, được uống đẫy, được cho ăn no và đặt nằm ngủ, chúng ngủ say như chết suốt cả ngày hôm sau. Những người trong đoàn cũng vậy. Đại uý Glen cố gắng hỏi Cali về những chuyện xảy ra trong khi đi đường và về những chiến công của Xtas, nhưng cậu bé da đen chỉ mở một mắt đáp gọn lỏn: “Ông lớn có thể làm được mọi chuyện!” - rồi nó lại ngủ tiếp. Cuối cùng đành phải xếp những câu hỏi và lời giải thích sang những ngày sau.
Trong lúc đó, hai người bạn bàn bạc với nhau về con đường quay trở về Mombaxa. Họ đã thâm nhập được xa hơn và nghiên cứu được một vùng rộng hơn so với yêu cầu, nên họ quyết định quay trở về ngay. Quả tình đại uý cũng rất mong muốn được biết cái hồ chưa có tên trong địa lí kia, nhưng sự lo lắng cho sức khỏe bọn trẻ và mong muốn được nhanh chóng trả chúng vào tay các ông bố đang đau buồn đã chiến thắng. Tuy nhiên bác sĩ cho rằng trước hết cần nghỉ ngơi trên những cao nguyên mát mẻ của dãy núi Kênia hoặc Kilima Ndarô. Từ đó sẽ gửi tin đến cho các ông bố và gọi họ đến Mombaxa.
Sau khi được nghỉ ngơi đầy đủ và được tắm trong nguồn suố i nước nóng, ba ngày sau họ bắt đầu lên đường quay về. Đó cũng là ngày chia tay với Cali. Xtas đã thuyết phục cô bé rằng nếu cứ kéo cậu da đen đi theo chúng xa hơn nữa, đến bờ đại dương hay tới Ai Cập, thì sẽ là chuyện tự tiện không phải lối về phía bọn trẻ. Cậu bé nói rằng ở Ai cập, thậm chí ở nước Anh, Cali sẽ không phải là ai khác ngoài vai trò đầy tớ, trong khi đó, nếu nắm quyền cai trị dân tộc mình, cậu bé có thể sẽ truyền bá và củng cố đạo Thiên Chúa, và là vua, cậu bé sẽ làm dịu bớt những phong tục hoang dã của người Vahima, biến họ không những chỉ trở nên văn minh mà còn trở nên tốt nữa. Em cũng nói ít nhiều tương tự như thế đối với Cali.
Trong cuộc chia tay đã có biết bao lệ đổ ra, nhưng cả Xtas cũng không thấy xấu hổ vì nhữnggiọt lệ đó, vì em và Nen đều đã cùng với Cali sống qua ngần ấy giờ phút sướng khổ, cả hai không những chỉ học được cách đánh giá cao trái tim trong sạch của cậu bé da đen mà còn yêu thương nó chân thành. Cậu bé da đen nằm rất lâu bên chân vị bvana kubva cùng Mdimu Tốt của mình. Hai lần liền nó quay lại để nhìn hai trẻ, nhưng rồi phút giây chia li đã tới và hai đoàn người đi về hai hướng ngược nhau.
Mãi đến khi đi đường, những chuyện phiêu lưu của hai nhà bộ hành trẻ tuổi mới được bắt đầu kể lại. Ngày trước Xtas hơi có khuynh hướng tự thổi phồng mình, thì giờ đây em hoàn toàn không mộtchút kiêu căng. Đã có quá nhiều việc em thực hiện, quá nhiều chuyện em phải trải qua, em đã phát triển đến mức hiểu được rằng lời nói không nên lớn hơn việc làm. Thực ra cũng chỉ cần kể lại - dù là rất khiêm tốn - riêng những việc làm đó cũng quá đủ rồi. Cứ hàng ngày, trong những “giờ trắng” nóng bức, và ban đêm, bên nhữ ng chỗ nghỉ chân, trước mắt đại uý Glen và bác sĩ Clery dường như lần lượt diễu qua bức tranh của những sự kiện và những chuyện bất ngờ mà bọn trẻ đã trải qua. Họ như trông thấy cuộc bắt cóc ở Mêđinét En Phaium và con đường khủng khiếp trên lưng lạc đà vượt qua sa mạc, và Kháctum, rồi Omđuaman, giống như địa ngục trần gian, rồi tên Mahơđi gian ác. Khi Xtas kể chuyện em đã trả lời Mahơđi như thế nào lúc tên này khuyên em thay đổi tín ngưỡng thì cả hai người bạn bèn đứng ngay dậy và lần lượt từng người bắtchặt tay phải Xtas. Đại uý nói:
- Mahơđi chết rồi!
- Mahơđi chết rồi ư? - Xtas kinh ngạc nhắc lại.
- Phải! - Bác sĩ lên tiếng. - Y bị chết bởi chính mỡ của y, hay nói khác đi, y bị chết vì bệnh tim, vàÁpđulahi kế ngôi y.
Một sự im lặng kéo dài.
- Ha! - Xtas nói. - Khi đày chúng cháu đi chết ở Phasôđa, y không ngờ rằng cái chết sẽ chạm đến y trước...
Rồi lát sau em nói thêm:
- Nhưng tên Ápđulahi còn tàn ác hơn Mahơđi.
- Vì thế cũng đã bắt đầu có những vụ nổi loạn và những cuộc tàn sát, - đại uý nói, - và cả cái công trình mà Mahơđi đã dựng lên chóng hay chầy cũng sẽ phải sụp đổ.
..........
Trong chặng đường tiếp đó, Xtas kể về con đường đi tới Phasôđa, về cái chết của bà Đina, về cuộc khởi hành từ Phasôđa tới nhữ ng vùng đất khôngngười, và về chuyện tìm kiếm gã Xmainơ tại những vùng đó. Khi em kể đến đoạn giết con sư tử, rồi Ghebơrơ, Khamix cù ng hai tên Bêđuin, đại uý chỉ ngắt lời em bằng hai tiếng: “All right”1, rồi lại xiết chặt bàn tay phải em và cùng với bác sĩ Clery nghe tiếp với vẻ ngày càng chăm chú hơn về sự thuần dưỡng con King, về sự sinh sống trong “Cracốp”, về bệnh sốt rét của Nen, về việc tìm thấy ông Linđe và về những chiếc diều mà bọn trẻ thả lên từ núi Caramôiô. Bác sĩ - người càng ngày càng gắn bó với cô bé Nen hơn - vì quá lo lắng khi nghe những chuyện đe dọa tính mạng của cô bé nên chốc chốc lại phải nhấp một vài ngụ m rượu mạnh brandi, và khi Xtas kể đến chuyện chỉ chút xíu nữa Nen đã làm mồi cho con vôbô khủng khiếp, - tức là con abaxantô - ông bèn bế bổng cô bé lên lòng và rất lâu không muốn buông cô bé xuống, dường như sợ có một con thú dữ nào đó sẽ lại đe dọa tính mạng cô bé chăng.
Còn về những gì mà cả bác sĩ lẫn đại uý nghĩ về Xtas thì có thể suy ra qua hai bức điện mà hai tuần sau khi tới chân núi Kilima Ndarô họ đã gửi cho những người tin cẩn mang tới tay viên phó chỉ huy của đại uý tại Mombaxa, với lệnh gửi tiếp cho hai ông bố. Bức điện thứ nhất, được cân nhắc rất kĩ vì lo nó sẽ gây ra ấn tượng quá mạnh chăng, được gửi tới Port Xaiđơ, chỉ mang vẻn vẹn mấy chữ sau:
“Nhờ có cậu bé đã có tin tốt lành về hai trẻ. Mời các ngài đến Mombaxa”.
Bức điện thứ hai, rõ ràng hoàn toàn, với địa chỉ “Ađen” có nội dung:
“Hai trẻ đang ở chỗ chúng tôi - mạnh khỏe - cậu bé thật anh hùng”.
Họ dừng chân mười lăm ngày trên những cao nguyên mát mẻ dưới chân núi Calima Ndarô vì bác sĩ Clery nhất thiết yêu cầu như thế nhằm bảo vệ sức khỏe cho Nen, và cả cho Xtas nữa. Bọn trẻ thật sự ngạc nhiên về ngọn núi này: nó có tất cả những vùng khí hậu của toàn thế giới. Hai đỉnh núi của dãy núi này: Kibô và Kima Venđe, ban ngày thường chìm trong làn sương mù dày đặc, nhưng trong những chiều đẹp trời, khi sương mù đột nhiên tan đi hết, khi lớp tuyết lưu cữu trên đỉnh Kima Venđe ánh lên màu hồng dưới ánh nắng mặt trời trong khi toàn bộ thế giới đã chìm vào bóng tối, thì ngọn núi nom giống như một cái bàn thờ thượng đế, và bàn tay hai trẻ bất giác chắp lại để nguyện cầu khi trông thấy cảnh ấy.
...........
Đối với Xtas, đã qua đi những ngày lo lắng và nỗ lực. Bọn trẻ còn một tháng trường đi tới Mombaxa, và con đường đi ngang qua khu rừng Taveta đẹp tuyệt vời nhưng không có lợi cho sức khỏe, song giờ đây thật là dễ dàng bao nhiêu khi được đi cùng với một đoàn thám hiểm đông đảo và được cung cấp đầy đủ mọi thứ, theo những tuyến đường đã quen thuộc, chứ không còn phải lang thang giữa vùng rừng hoang vu chưa từng được ai biết đến, chỉ với Cali và Mêa. Mà thực ra bây giờ đại uý Glen mới là người chịu trách nhiệm về chuyến đi. Còn Xtas thì chỉ nghỉ ngơi và săn bắn. Khi tìm thấy một cái đục và một cái búa con trong số những vật dụng của đoàn, trong những giờ mát mẻ, em tập trung vào việc khắc trên một tảng đá dòng chữ: “Ba Lan vẫn còn...”(2) Vì em muốn lưu lại một chút dấu vết về thời gian sinh sống của các em tại vùng đất ấy. Những người Anh được em dịch lại cho biết nội dung dòng khắc ấy đều ngạc nhiên: tại sao cậu bé không nghĩ tới chuyện khắc tên họ của em để in vĩnh viễn trên tảng đá Phi châu này. Nhưng em chỉ muốn khắc điều đã khắc mà thôi.
Tuy nhiên, em vẫn không ngừng chăm lo cho Nen và vẫn khiến cô bé tin tưởng vô hạn, đến nỗi một lần bác sĩ Clery hỏi cô bé xem cô có sợ những cơn bão biển trên biển Đỏ không, cô bé bèn ngước cặp mắt bình thản tuyệt đẹp của mình lên nhìn ông và chỉ đáp gọn lỏn: “Đã có anh Xtas lo chuyện đó”. Đại uý Glen khẳng định rằng không ai có thể nói một lời khen ngợi nào cao hơn và cho được một bằng chứng nào chân chính hơn về những gì mà Xtas đã làm đối với cô bé.
Mặc dù bức điện đầu tiên gửi tới Port Xaiđơ cho ông Tarcôpxki đã được cân nhắc rất cẩn thận nhưng nó vẫn gây ra những ấn tượng mạnh đến nỗi suýt nữa thì nỗi sung sướng giết chết cha của Nen. Ngay cả ông Tarcôpxki, một con người được tôi luyện nhiều, phút đầu tiên khi đọc điện cũng đã quỳ xuống cầu nguyện và xin Chúa cho cái tin tức đó không phải là một thứ ảo giác bệnh hoạn nảy sinh ra từ nỗi thương tiếc, nhớ nhung và đau đớn. Cả hai ông bố đã làm ngần ấy việc để được biết dù chỉ là tin bọn trẻ còn sống hay không mà thôi. Ông Rôlixơn đã phái nhiều đoàn đi Xuđan, còn ông Tarcôpxki thì mặc giả người Ả Rập, không màng nguy hiểm, lần mò tới tận Kháctum. Nhưng tất cả đều chẳng mang lại một kết quả gì cả. Những người có thể cung cấp tin tức cho họ đều đã bị chết vì bệnh đậu mùa, vì đói hay bị giết trong những vụ tàn sát bất tận, còn bọn trẻ thì mất tăm như đã rơi vào nước. Cuối cùng cả hai ông bố đã mất hoàn toàn hi vọng, chỉ còn sống bằng những hồi ức mà thôi. Họ tin tưởng sâu sắc rằng chẳng còn có gì chờ đợi họ trong cõi đời này nữa và chỉ cái chết mới có thể cho phép họ được sum họp lại với nhữ ng sinh linh yêu quý vô vàn ấy, những sinh linh đã từng là tất cả đối với họ trên cõi trần này.
Đúng lúc đó, niềm vui sướng gần như quá sức đến với họ một cách thật bất ngờ. Niềm vui ấy gắn liền với nỗ i nghi hoặc và sự kinh ngạc. Cả hai ông bố đều không hiểu nổi tại sao tin tức lại đến với họ từ cái phía bên này của Phi châu, nghĩa là từ Mombaxa.
Ông Tarcôpxki cho rằng có lẽ một đoàn thương khách Ả Rập nào đó đã mua hoặc đánh tháo cho bọn trẻ, đoàn này từ bờ biển phía Đông đã vào sâu trong lục địa săn ngà voi và tới tận sông Nin. Lời lẽ của bức điện “Nhờ có cậu bé” thì được họ giải thích cho nhau rằng chắ c Xtas đã viết thư báo cho đại uý và bác sĩ biết nơi mình và Nen đang ở. Tuy vậy có nhiề u điều không thể nào luận ra nổi.
Ngược lại, ông Tarcôpxki hiểu hoàn toàn rõ rằng, tin tức đó không những chỉ tốt lành mà còn vô cù ng tốt lành nữa, vì nếu không thì đại uý và bác sĩ không khi nào dám đánh thức niềm hi vọng trong lòng họ và nhất là sẽ không khi nào mời họ tới Mombaxa làm gì.
Việc chuẩn bị lên đường kéo dài không lâu và ngay hôm sau ngày nhận được điện, cả hai kĩ sư cùng với cô giáo của Nen đã có mặt trên boong chiếc tàu thủy khổng lồ Peninsular and Orient Company. Tàu này chạy tới Ấn Độ, dọc đường sẽ ghé vào Ađen, Mombaxa và Dandiba. Tại Ađen, bức điện thứ hai đang chờ sẵn họ với nội dung: “Hai trẻ đang ở chỗ chúng tôi - mạnh khỏe - cậu bé thật anh hùng”. Sau khi đọc xong bức điện ông Rôlixơn gần như mất trí vì sung sướng, và vừa xiết chặt tay ông Tarcôpxki ông vừa nhắc đi nhắc lại: “Anh thấy chưa, chính nó đã cứu con bé! Tôi thật biết ơn nó vì tính mạng con bé!”. Còn ông Tarcôpxki, không muốn để lộ sự yếu lòng của mình, chỉ đáp lại qua hai hàm răng nghiến chặt: “Vâng. Thằng bé đã hành động rất can trường”. Nhưng đến khi còn lại một mình trong cabin, ông khóc lên vì sung sướng.
Rồi cũng tới lúc bọn trẻ được lao vào vòng tay cha. Ông Rôlixơn bế thốc ngay lên tay cái kho báu vừa đoạt lại được của mình, còn ông Tarcôpxki thì ghì rất lâu vào ngực mình cậu bé anh hùng của ông. Nỗi bất hạnh đã qua đi, cũng như những cơn gió xoáy và bão táp trên sa mạc. Cuộc đời lại trở nên đẹp đẽ, đầy hạnh phúc, nỗi nhớ thương và chia li ngày trước chỉ càng làm cho niềm vui sướng lớn hơn mà thôi. Bọn trẻ chỉ ngạc nhiên một điều là trong thời gian chia li đầu của hai ông bố đã hoàn toàn bạc trắng.
Họ quay trở về Xuê bằng chiếc tàu thủy tuyệt diệu của Pháp, thuộc về Công ti Messageries Martinimes, chở đầy khách du lịch từ các đảo Rêuyniông, Môritany, Mađagaxca và Dandiba. Khi cái tin là trên tầu đang có bọn trẻ trốn thoát khỏi tay bọn phiến loạn loan ra, thì Xtas bỗng trở thành đối tượng củ a sự tò mò và ngưỡng mộ của mọi ngườ i. Song cái gia đình hạnh phúc ấy chỉ muốn được độc lập trong một phòng lớn mà viên thuyền trưởng đã nhường lại cho họ, và ở đó, trong những giờ mát mẻ, họ dành thì giờ để kể chuyện cho nhau. Cả Nen cũng tham gia vào những câu chuyện đó, líu lo như một con chim non làm cho mọi người rất vui sướng, cô bé bắt đầu mọi chuyện bằng chữ “rồi”. Ngồi trên đầu gối cha, ngước đôi mắt xinh đẹp lên nhìn ông, cô bé nói thế này: “Rồi ba ạ!
Rồi chú ng bắt cóc chúng con và chở đi trên lưng lạc đà - rồi Ghebơrơ đánh con - rồi anh Xtas che chở cho con rồi chúng con tới thành Kháctum - rồi ở đó người ta chết đói ghê lắm - rồi anh Xtas đi làm thuê để kiếm chà là cho con ăn - rồi chúng con đến Mahơđi - rồi anh Xtas không muốn đổi đạo - rồi Mahơđi đày chúng con tới Phasôđa - rồi anh Xtas giết chết con sư tử và tất cả bọn chúng - rồi chúng con sống trong một cây gỗ lớn mà chúng con đặt tên là ”Cracốp" rồi con King ở cùng với chúng con - thế rồi con bị sốt rét - rồi anh Xtas chữa cho con khỏi - rồi anh ấy chiến thắng người Xamburu - anh ấy bao giờ cũng tốt với con, ba ạ...".
Cứ thế cô bé kể về Cali, về Mêa, và con King, về con Xaba, về núi Linđe, về những chiếc diều và về cuộc hành trình cuối cùng cho tới khi gặp đoàn của đại uý và bác sĩ. Nghe thấy những lời thỏ thẻ ấy, ông Rôlisơn không cầm được nước mắt, chốc chốc ông lại ghì chặt cô con gái yêu vào tim, còn ông Tarcôpxki không thẻ ngồi yên chỗ vì tự hào và sung sướng, vì ngay cả trong những lời thuật lại của đứa trẻ ấy cũng có thể thấy được rằng, nếu như không có sự can đảm và nghị lự c của cậu bé thì cô bé đã chết không phải chỉ một lần mà đã phải chết hàng nghìn lần, không phương cứu thoát.
Xtas thuật lại mọi chuyện chi tiết hơn và tỉ mỉ hơn. Khi kể về cuộc hành trình từ Phasôđa đến cái thác nước, lòng em nhẹ nhõm hẳn đi, vì lúc kể tới chuyện em đã bắn Ghebơrơ cùng đồng bọn của hắn, thì em nghẹn lời và lo lắng nhìn sang cha, nhưng ông Tarcôpxki nhíu lông mày, suy nghĩ một lát rồi nói nghiêm trang:
- Hãy nghe này, Xtas con! Không được phép mang cái chết đến cho bất kì ai, nhưng nếu có kẻ nào đe dọa Tổ quốc của con, đe dọa sự sống của mẹ con, chị em con, hoặc sự sống của người phụ nữ mà người ta uỷ thác cho con phải chăm lo, thì con chớ có hỏi gì thêm mà hãy bắn vào đầu hắn, và cũng đừng băn khoăn về điều đó làm gì.
Ngay sau khi quay trở về Port Xaiđơ, ông Rôlixơn đưa Nen trở về nước Anh, nơi ông ở cố định. Còn Xtas thì được cha gửi đến trường học ở thành phố Alécxanđria, nơi người ta ít biết về những chuyện mạo hiểm và những hành động anh hùng của em. Bọn trẻ viết thư cho nhau gần như hàng ngày, nhưng suốt mười năm chúng không có dịp nào được gặp mặt nhau. Sau khi tốt nghiệp phổ thông ở Ai Cập, cậu bé theo học trường đại học bách khoa ở Durích, rồi sau khi có bằng kĩ sư, cậu làm việc trong công trình đào đường hầm ở Thuỵ Sĩ.
Mãi mười năm sau, khi ông Tarcôpxki xin từ chức, hai bố con mới sang Anh thăm bạn bè. Ông Rôlixơn mời họ đến nhà ông, căn nhà nằm gần Hamtơn Cuốc, để ở suốt mùa hè. Nen đã hết tuổi mười tám, trở thành một thiếu nữ kiều diễm và Xtas, bằng giá của chính sự bình thản của tâm hồn, đã hiểu rằng một chàng trai vừa hai bốn tuổi có thể nghĩ về các thiếu nữ. Và anh nghĩ về cô Nen xinh đẹp nhiều đến nỗi rốt cuộc anh quyết định phải trốn đi thật xa, đến bất cứ một nơi nào khác.
Nhưng chính lúc đó, một ngày kia, ông Rôlixơn đã đặt cả hai bàn tay lên vai anh, nhìn thẳng vào mắt anh và bảo anh với lòng đôn hậu thiên thần:
- Cháu Xtas, cháu hãy nói cho bác biết: liệu trên đời này có ai khác để bác có thể tin tưởng trao cái kho báu - đứa con gái thân yêu của bác, hơn cháu hay không?
Hai vợ chồng Tarcôpxki trẻ tuổi lưu lại Anh cho đến khi ông Rôlixơn qua đời. Năm sau, họ lên đường đi một chuyến du lịch dài.
Vì họ đã hứa với nhau sẽ đi thăm lại những nơi mà thời thơ ấu họ đã từng sống, nên trước hết, họ tới Ai Cập. Vương quốc của Mahơđi và Ápđulahi đã sụ p đổ từ lâu. Người ta đã xây dựng đường sắt từ Cairô đến Khá ctum, đã dọn sạch các xuđa, nghĩa là những vùng nước đọng của sông Nin, nên đôi vợ chồng trẻ có thể đi một chiếc tàu thủy đầy đủ tiện nghi không những chỉ đến tận Phasôđa mà còn tới tận hồ lớn Víctoria Nianda. Rồi từ thành phố Phlorenxơ nằm trên bờ hồ này, họ đáp tàu hỏa tới Mombaxa. Đại uý Glen và bác sĩ Glery đã chuyển tới Nutaku, nhưng con King vẫn còn đang sống ở Mombaxa dưới sự chăm lo của chính quyền Anh tại địa phương. Con vật nhận ra ngay lập tức ông bà chủ xưa kia của mình, nhất là Nen, nó chào đón bằng những tiếng rống sung sướng đến nỗi những cây mangrôviô mọ c gần đấy rung lên như bị gió vậy. Nó cũng nhận ra cả con chó Xaba, con chó sống gần như gấp đôi tuổi thọ của loài chó, và mặc dù mắt đã hơi loà, nó vẫn đi cùng Nen và Xtas đến mọi chốn.
Tại đây, Xtas được biết rằng Cali rất khỏe mạnh, và... Cali đang cai trị cả một vùng đất nằm về phía Nam hồ Ruđônphơ.
..........
Sau chuyến du lịch cuối cùng này, hai vợ chồng Tarcôpxki trẻ tuổi quay trở về châu Âu và sống cùng với người cha đầu bạc của Xtas tại Ba Lan.
--------------.
1 Được lắm! (Tiếng Anh).
2 Đó là những tiếng đầu trong bài Quốc ca Ba Lan.