Chương 3
Tác giả: Người Thứ 8
Bói bài để tìm hiểu tương lai không phải là thói quen của người vô công rỗi nghề. Kẻ sống nguy hiểm nhất lại cũng là kẻ thích bói bài nhất.
Cách Vạn Tường 3 giờ máy bay, những nhân viên thân tín của ông Hoàng đang cặm cụi trước cỗ ích-xì nhiều màu rực rỡ. Tâm tri họ không nghĩ đến cùng việc chồng chất nữa. Mà là nghĩ đến 32 con bài xinh xắn, những con rô, bích, cơ, chuồn, xì, đầm, già và bồi.
Nhìn những con bài phủ đầy bàn. Nguyên Hương cảm thấy rạo rực, như vừa được Văn Bình hôn. Giờ này, chàng đang yên vị trong cái ghế bành màu đỏ, trong văn phòng ông tổng giám đốc.
15 phút trước, chàng tạt qua bàn nàng như ngọn gió. Chàng đứng lại, nâng cằm nàng lên, và cười một cách ý nhị. Không nói gì hết, nàng cúi gằm xuống, những sợi tóc mềm mại phất phơ trước mặt. Mặc dầu thức đêm nhiều, và làm việc quên ăn quên ngủ, nàng vẫn đẹp, sắc đẹp luôn luôn tươi mát như trái lê cất trong tủ lạnh.
Lê Diệp chống nạnh nhìn nàng, và tủm tỉm cười:
- Thế nào?
Lê Diệp thường hỏi bang quơ như vậy. Mỗi lần Văn Bình ghé Sở để nhận công tác, Lê Diệp thường dùng hai tiếng « thế nào » ri rỏm và nghịch ngợm để hỏi mát nàng. Trong quá khứ, nàng đáp lại bằng cái nhún vai. Đôi khi nàng rưng rưng nước mắt, rồi cúi xuống cái máy chữ điện IBM đồ sộ. Lần này, nàng ngửng phắt đầu, nói giọng chắc nịch:
- Bói bài.
Lê Diệp chắt lưỡi:
- Hừ, bói bài làm gì vô ích. Mãi hắn vẫn không chừa. Tôi sợ lần này lên Lào hắn lại rước thêm một bà nữa.
Giọng nàng vẫn đầy vẻ tin tưởng:
- Không đâu. Tôi thấy tốt lắm.
Lê Diệp lắc đầu:
- Bói bài lấy cho mình không linh ứng. Để tôi bói dùm cho cô. Vừa rồi, cô được những con nào?
Lối bói của Nguyên Hương rất giản dị: lấy một bộ 32 con bài, bỏ bớt 1 con, xóc đều rồi cúp nhiều lần, sau đó lấy 11 con bên trên cất một bên trải 20 con còn lại thành hình móng ngựa. Nếu trong 20 con này, còn 4 con 9 nút, là sắp sửa có sự ly biệt. Nhưng nếu là 4 con đầm thì vạn sự như ý.
Nàng dề môi:
- 4 đầm.
Lê Diệp cười ha hả:
- Phải bói 3 lần mới đúng. Nào cô đưa cỗ bài cho tôi.
Chàng sếu vườn của sở Mật vụ xóc bài thoăn thoắt như tay chơi thực thụ. Trên thực tế, Lê Diệp không phải là con thiêu thân đổ bác, song nếu cần – cũng như Văn Bình Z.2S – chàng có thể đương đầu với phường đại bịp quốc tế. Chàng chia xấp bài cho Nguyên Hương:
- Mời cô cúp.
Thấy nàng giơ tay phải, chàng gạt đi:
- Không được. Theo phong tục bói bài, phải cúp bằng tay trái, nghĩa là tay gần trái tim. Cúp bằng tay phải là hỏng.
- Ồ, hồi nãy tôi cúp bằng tay phải.
- Nghĩa là hỏng rồi.
20 con bài nằm ngoan ngoãn trên bàn. Đột nhiên, mặt Nguyên Hương đỏ ửng. Nàng cảm thấy xấu hổ. Nếu việc này đến tai Văn Bình, chàng sẽ cười nàng hàng tháng.
Giọng Lê Diệp đều đều:
- Cô lật bài lên.
Nàng suýt thét lên. Trời ơi, 4 con bài 9 nát phơi mặt chềnh ềnh dưới ánh đèn nê – ông. Nghĩa là Văn Bình sẽ bỏ nàng… Rồi nàng bưng mặt khóc…
Nhưng chỉ một phút sau, nàng vùng đứng dậy. Vội vàng, Lê Diệp lùi lại, song không kịp nữa. Bình mực đỏ đã rót vào ngực chàng. Cái áo sơ mi trắng tinh mới lấy ở tiệm giặt về trở thành đỏ ối. Nguyên Hương túm lấy cánh tay Lê Diệp:
- Hừ, anh thông đồng với Văn Bình để lừa tôi. Anh cố tình xóc gian. Bài của anh đâu đưa hết cho tôi.
Lê Diệp biểu diễn đã nhanh, song vì quá nhanh nên sơ xuất. Chàng thay 4 con bài bằng 4 con khác 9 nút giấu sẵn trong túi nhưng lại để một con tòn ten ở mép túi. Nàng đấm thùm thụp vào lưng chàng.
Cửa ra vào được mở đúng lúc để cứu Lê Diệp. Quỳnh Loan, nữ nhân viên ưu tú ban Biệt vụ, một ban gồm toàn nữ điệp viên, đứng sững trên ngưỡng cửa.
Thấy cái áo sơ mi nhuộm đỏ và bộ mặt nhăn nhó một cách hài hước của Lê Diệp nàng phá lên cười. Sự có mặt của bạn gái trong phòng làm Nguyên Hương tăng thêm tức giận. Nàng vờ lấy bình mực xanh toàn ném thì Lê Diệp đã chạy vụt ra ngoài. Nàng không dám rượt theo vì ngọn đèn đỏ trên bàn buya-rô phựt cháy.
Ông tổng giám đốc vừa mở đèn đỏ ngụ ý: tối hệ, cấm vào. Ngọn đèn màu lục kế bên cũng nhấp nháy.
Chết rồi, ông Hoàng đã biết rõ sự việc vừa xảy ra trên màn ảnh vô tuyến truyền hình đặc biệt. Đèn màu lục có nghĩa là « yêu cầu văn phòng bí thư trưởng giữ im lặng ».
Tấn kịch trong phòng Nguyên Hương kết thúc, kịch nghiêm chỉnh và trọn đại bắt đầu.
Văn Bình, Z.28 vẫn giữ vai trò chính.
«««
Văn Bình buôn mình xuống chiếc ghế bành đồ sộ, đặt trước buya-rô hình bán nguyệt của ông Hoàng. Vừa cắt xong điếu xì gà Ha van to tướng, ông tổng giám đốc Gián điệp đưa lên mũi hít hà một cách trịnh trọng trước khi châm lửa.
Nhìn cái quẹt máy, Văn Bình tỏ vẻ sung sướng: chiếc bật lửa Trung cộng này, chàng mua ở Hà Nội tháng trước. Nó không đáng là bao, song ông Hoàng đã vứt quẹt máy chạy ga đắt tiền, và dùng chiếc bật lửa tầm thường do Văn Bình tặng.
Rít hơi thuốc Salem, chàng chăm chú nhìn ông Hoàng. Mái tóc của ông đã bạc hết, bộ âu phục màu đen đã chuyển sang màu nước dưa, cánh tay bị rách một miếng. Cái cà vạt đen, cũng tự tay chàng mua sáu năm trước tại Vọng các, bây giờ đã sờn chỉ. Bùi ngùi, nhìn xuống chân Văn Bình thấy đôi giày của ông Hoàng bắt đầu há mõm, tất cả vá chằng chịt mà không giấu được lỗ hổng.
Trông cách phục sức cổ xưa và nghèo nàn của ông Hoàng, không ai dám ngờ ông là một trong những người tiêu xài nhiều tiền nhất nhì thế giới. Dĩ nhiên là không tiêu xài cho bản thân, vì ông không có vợ con, ông cũng không thèm cao lương mỹ vị. Ông sống tầm thường như hàng ngàn, hàng vạn công chức tầm thường khác.
Có lẽ đời sống của ông còn tầm thường hơn nữa. Bữa cơm của ông luôn luôn đạm bạc, gần như chay trường. Ông chỉ phạm hai điều xa xỉ: ấy là uống cà phê đặc xịt suốt ngày thay nước trà, và hút xì gà Ha van loại đặc biệt không bao giờ nghỉ. Nhiều đêm bận công việc, ông hút thuốc đến khi môi miệng cháy bỏng mà vẫn không chịu ngừng.
Trong số nhân viên dưới quyền, Văn Bình – cũng như Nguyên Hương và Lê Diệp – được biết số tiền chi tiêu khổng lồ của ông Hoàng. Có tháng, ông vung ra mấy trăm triệu bạc. Người ngoài không thể tìm ra ông lấy tiền ở đâu vì lẽ ngân sách quốc gia không dành mục nào cho sở Mật vụ.
Trên thực tế, phần lớn chi tiêu của Sở đều do ông tổng giám đốc và các cộng sự viên ruột thịt tự lực làm ra. Có lẽ cũng vì lý do này mà ông Hoàng ngồi hết tháng này qua năm khác trong ghế tổng giám đốc Mật vụ. Vả lại, nếu các chi phí khoản đều được ngân sách quốc gia cung cấp thì cũng không thể tìm được ai thay nổi ông Hoàng, con người được giới điệp báo quốc tế coi là siêu nhân.
Gõ tàn xì gà vào cái đĩa sứ trắng, ông Hoàng hỏi giọng thân mật:
- Z.28. Đã lấy lại phong độ rồi chứ?
Lời nói của ông Hoàng nhắc chàng nhớ lại những ngày gian nan tại Hà Nội, đi theo vết chân của tử tội Bôrin. Công tác thành công nhưng chàng bị thương nặng, phải nghỉ dưỡng sức một thời gian ở Đà Lạt.
Cũng như mọi lần, chàng lo ngay ngáy đang đêm trong khi chàng hú hí với giai nhân, Lê Diệp sẽ lù lù dẫn xác vào, lôi chàng về. Nhưng lần này, chàng được hưởng ngoại lệ. Ông Hoàng mặc cho chàng bù khú trên đất cao nguyên mát lạnh.
Tưởng ông giám đốc mắc bệnh hay quên. Văn Bình đã mừng rơn. Song chàng mừng không được lâu. Hạn nghỉ vừa hết, một chiếc phi cơ hạng nhẹ đã chờ chàng ở Liêng Khàng. Chàng đành thở dài từ giả người đẹp – đúng hơn, một trong một tá người đẹp mà chàng gặp trong những ngày được mệnh danh một cách văn vẻ là dưỡng sức – vội vã đóng va li, trèo lên máy bay.
Lê Diệp cũng như Nguyên Hương đều không có mặt ở phi trường và « hộ tống » chàng về Sài Gòn như thường lệ. Đó là lần đầu chàng được hưởng đặc ân. Đến Tân Sơn Nhất, một chiếc xe hôm đen đã nằm lù lù ở phi dạo, với một khối thịt hơn trăm kilo sau vô-lăng. Tài xế không phải chàng sếu vườn lầm lì quen thuộc mà là gã vệ sĩ to xác, sợ chàng như sợ cọp.
Thấy chàng, hắn nhanh nhảu:
- Gớm, lâu quá!
Chàng cười khì khì:
- Lâu quá, chưa bắt tay phải không?
Cách đây không lâu, chàng lợi dụng cơ hội bắt tay đã vận nội công bóp hắn suýt nát xương. Chàng trừng phạt hắn về lội xen vào chuyện riêng : giữa chàng với cô bí thư trưởng trẻ đẹp và hay ghen tuông. Từ lần bị trẹo tay, hắn không dám sàm sỡ với chàng nữa.
Dọc đường về đại lộ Nguyễn Huệ, hắn ngăm tăm, không nói nửa lời. Đến trụ sở Công ty Điện tử, tổng hành doanh của sở Gián điệp mới xây cất, Văn Bình được đưa thẳng vào phòng ông tổng giám đốc.
Chàng trả lời ông Hoàng bằng cái nhún vai cố hữu:
- Thưa tôi đã bình phục hoàn toàn.
Thật vậy, vết thương ở vai chàng đã khỏi hẳn. Khỏi hẳn, mặc dầu chàng không theo đúng chỉ thị của y sĩ riêng của Sở. Y sĩ bắt bó bột thì chàng gạt phắt. Chàng chỉ dán thuốc cao của một viên đông y gia truyền, rồi bỏ một mạch lên cao nguyên.
Thời gian ở Đà Lạt, chàng không hề thay thuốc cao. Vậy mà vết thương lành lặn như được điều trị bằng thuốc của Hoa Đà. Mà quả thật là chàng được Hoa Đà điều trị. Hoa Đà đối với chàng là hàng chục chai huýt-ky hạng tốt, uống sếch không pha nước, là hàng chục đêm không ngủ bên bàn mạt chược, hoặc nếu ngủ thì không bao giờ ngủ một mình. Hoa Đà đối với chàng là đàn bà…
Văn Bình đinh ninh ông Hoàng sẽ trễ giọng ra để mắng yêu chàng vài câu lấy lệ. Nhưng không, ông tổng giám đốc đón tiếp câu nói của chàng một cách chăm chú. Có lẽ ông bắt đầu tin chàng nói thật. Hoặc giả ông đã quá quen với lối thề cá trê chui ống của chàng. Hoặc giả ông đang bận giải quyết một công tác thập phần quan trọng mà lời nói bưng bít của chàng không đủ sức mạnh để đánh thức bản chất hài hước trong lòng ông nữa.
Ông Hoàng nghiêm trọng:
- May quá. Tôi chỉ lo không có ai thực hiện được công tác này. Một công tác khá nguy hiểm, trừ anh ra vị tất nhân viên nào làm nổi. À anh nghe nói tới Quốc tế Đặc vụ chưa?
- Thưa rồi. Tôi được tin dạo này Quốc tế Đặc vụ hoạt động ráo riết ở khu vực châu Á. Bọn họ công khái buôn vàng, á phiện và khí giới. Gần đây, tôi nghe họ mất nửa triệu đô la vang lậu ở Hồng Kông.
- Anh nói đúng, song đối với Quốc tế Đặc vụ, thì nửa triệu đô la bị mất chỉ là muối bỏ biển. Chắc anh đã biêté Quốc tế Đặc vụ có nhiều tiền, rất nhiều tiền. Tuy mới được thành lập, họ đã đặt xong hệ thống đại diện trên khắp ngũ đại châu. Tổ chức Á châu của họ tương đối hoạt động đắc lực nhất. Điều này rất phiền cho ta, vì sớm muộn quyền lợi của ta sẽ va chạm với quyền lợi của họ.
- Thì ta sẽ cho họ một bài học.
- Nói như vậy không được. Nghề điệp báo không phải là nghề của sức mạnh, giống như võ sĩ thượng đài, ai cân nặng, ai giỏi võ thuật thì thắng. Người yếu thắng người khỏe là thường. Yếu tố quyết định là mưu trí. Chính vì thế nên tôi không muốn đụng tới Quốc tế Đặc vụ. Vì tôi hy vọng sẽ dùng được họ. Hoặc ít ra dùng họ để lấy tin tức và làm những việc mà ta không tiện làm hoặc không làm được. Nhưng bây giờ thì hết rồi. Thái độ trịch thượng của Quốc tế Đặc vụ bắt tôi phải can thiệp.
Từ lâu, họ không dám « ăn hàng » ở Ai Lao, vì hơn ai hết, họ biết Ai Lao nằm trong địa bàn hoạt động của ta, léo hánh tới Ai Lao thì ta phải hành động. Hiện nay, họ bắt đầu gây sự ở Vạn Tượng.
- Theo tôi, có lẽ bàn tay của Bắc Kinh đã nhúng vào.
- Có lẽ. Ít nhất, họ phải có kẻ nào giựt giây mới dám vuốt râu hùm. Một chiếc phi cơ ủa chính phủ hoàng gia Lào vừa bị Quốc tế Đặc vụ chặn bắt trên đường từ Vạn Tường tới Đà Nẵng.
- Họ buộc phi công đáp xuống vùng cộng sản kiểm soát, phải không ông?
- Không. Phi hành đoàn gồm ba người, đại úy chỉ huy Kham Sen là sĩ quan giàu kinh nghiệm, và rất được tin cậy về phương diện chính trị. Phi cơ rời Vạt chai được một giờ thì Thao La, một nhân viên phi hành, dùng rượu pha thuốc độc, cho hai bạn uống. Họ chết gục trên phi cơ. Thao La bèn lái về phía nam, dọc đường đáp xuống cho Quốc tế Đặc vụ lấy hàng hóa. Thao La bay dọc sông Cửu Long, không biết định đi đâu, song chỉ mấy phút sau phi cơ nổ tung.
- Thôi, tôi hiểu rồi. Thao La bị Quốc tế Đặc vụ giết.
- Đúng, Quốc tế Đặc vụ hà tiện được một món tiền thù lao lớn, lại bảo vệ được bí mật. Tuy nhiền, cái chết của Thao La làm cuộc điều tra bị sa lầy. Nhân viên phản gián Lào tới tận nơi phi cơ làm nạn chỉ thấy một đống kim khí méo mó, trầy trụa và ba cái xác bị cháy ra than.
- Phi cơ của Kham Sen chở hàng gì, thưa ông?
Ông Hoàng bâng khuâng nhìn hơi khói xì gà cuộn thành vòng tròn trong khoảng không:
- Điều này đang làm tôi băn khoăn nhiều nhất. Vì đây là thuốc độc. Phi cơ AN-2P chở toàn thuốc độc có thể giết hàng triệu con người trong chớp mắt.
Trong dĩ vãng, Văn Bình đã điều tra về nhiều vụ phi cơ bị chặn bắt dọc đường. Song nhân viên gián điệp quốc tế hoặc quân gian chỉ chân bắt bằng hoa đắt tiền như vàng, hột xoàn, hoặc các yêu nhân khoa học, chưa bao giờ xảy ra vụ chặn bắt thuốc độc. Và có lẽ đây là lần đầu tiên chàng nghe nói tới phi cơ chở thuốc độc giết người.
Tưởng lãng tai, sau nhiều đêm hoan lạc, và uống quá nhiều huýt-ky nguyên chất, chàng vội hỏi lại:
- Thưa, phi cơ chở thuốc độc à? Chở thuốc độc xuống Đà Nẵng làm gì thưa ông?
Ông Hoàng bấm chuông điện:
- Tôi cho mời bác sĩ Trần Ngọc tới ngay bây giờ. Bác sĩ Ngọc sẽ giải thích tường tận cho anh hiểu. Tôi chỉ biết đại cương phi cơ chở thuốc độc xuống Đà Nẵng. Phi cơ ta bay dọc biên giới nhờ chiếc AN-2P suốt đêm để hộ tống mà không thấy, đành phải quay về căn cứ. Thùng độc dược này không phải của ta mà là của chính phủ Hoa Kỳ.
Cửa phòng kẹt mở, Bác sĩ Trần Ngọc bước vào. Trần Ngọc là một thanh niên trạc bốn mươi. Mắt sáng như điện, thân hình lực lưỡng trông hao hao như võ sĩ quyền Anh hạng nhẹ tên tuổi. Ông Hoàng ra hiệu cho Trần Ngọc ngồi xuống:
- Đây là Văn Bình, tức là Z.28, chắc bác sĩ đã biết.
Trần Ngọc nghiêng mình:
- Mới nghe danh, giờ được gặp mặt. Hân hạnh lắm.
Ông Hoàng nói:
- Bác sĩ Trần Ngọc vừa tốt nghiệp khóa bổ cúc dài hạn của CIA về hóa chất đặc biệt. Phiền bác sĩ giải thích rành mạch cho Z. 28, chắc bác sĩ đã biết.
Bác sĩ Ngọc đằng hắng một tiếng, rồi nói một mạch::
- Hễ nói tới thuốc độc, ai cũng kinh sợ vì uống vào thường mất mạng, song nhà khoa học lại coi như trăm ngàn thuốc khác. Chẳng hạn như xi-a-nuya, thử thuốc độc ghê gớm nhất mà cơ quan điệp báo nào cũng dùng, mùi the the như hạnh nhân, uống vào trong năm giây thì chết, lại là một vật liệu kỹ nghệ. Người ta dùng xi-a-nuya, để bón cây chanh cho khỏi sâu, hoặc nhuộm vải, thuộc da và chế thuốc. Hầu hết các độc dược đều được dùng trong y khoa và kỹ nghệ.
Gần đây, y học thái tây phát minh ra phương pháp chữa bệnh bằng độc dược. Đối với người châu Á, đó không phải là chuyện lạ vì tuy ngàn năm nay ta đã biết dĩ độc trị độc. Tại Âu-Mỹ, một số thuốc độc cực mạnh đã được dùng trị bệnh thần kinh. Người ta ra nhiều phương pháp để nghiên cứu và sản xuất độc dược. Cơ sở sản xuất ở Lào được coi là quan trọng nhất châu Á.
Văn Bình ngắt lời:
- Tại sao lại sản xuất thuốc độc ở Lào? Phải chăng Lào là nơi có nhiều á phiện?
Bác sĩ Ngọc đáp:
- Ông nói đúng, cách thủ đô Vạn Tường một cây số có một nhà máy riêng do người Mỹ dựng lên để chế độc dược. Phần lớn độc dược được sản xuất tại đó là á phiện. Thật ra, á phiện chứa cả thảy 25 chất độc khác nhau, và chất được nhiều người biết đến là mọt-phin. Theo thần thoại Hy Lạp, mọt-phin là tên của vị Thần Ngủ. Chất này được tìm ra vào năm 1803, có tác dụng làm bệnh nhân ngủ say, quên đau, nên được đặt tên là mọt-phin. Ngoài mọt-phin, còn có nhiều chất khác, như cô-đê-in, thê-ba-in và papavêrin.
Nhà máy độc dược gần Vạn Tường, bề ngoài đội lốt hãng chế tạo tân dược, mang cái tên rất thơ mộng là Công ty Dược phẩm Thần tiên. Công ty Thần tiên còn chế nhiều độc dược vô cùng nguy hiểm, chỉ một chút đủ giết một mạng người trong chớp mắt. Cây mã tiền được trồng ở Ấn độ, sau đó được mang qua Lào và trồng trên những ngọn đồi gần vương đô Luang Prabang.
Trái mã tiền trong giống như cam, hai nhà bác học Pháp tìm ra chất mã tiền, và dùng để kích thích thần kinh hệ. Việc sản xuất mã tiền thường đi đôi với sản xuất mọt-phin vì nó kỵ á phiện. Người bị đầu độc á phiện thường được cứu chữa bằng mã tiền. Mã tiền còn cứu sống được những người bị đầu độc bằng thuốc mê, rượu mạnh và thuốc ngủ nữa.
Văn Bình lại ngắt lời:
- Thưa, nhiệm vụ của tôi là hoạt động điệp báo. Tôi muốn anh biết rõ trước khi đảm nhận công tác. Vì ngoài á phiện, mã tiền và acônít ra, thùng độc dược chở trên phi cơ AN-2P còn chứa nhiều hóa chất nguy hiểm khác nữa.
Dường như không quan tâm tới sự sốt ruột của Văn Bình, bác sĩ Ngọc nói tiếp, giọng đều đều như giáo sư giảng bài:
- Theo thống kê, chết vì đầu độc đứng hàng thứ ba trong các tai nạn. Mỗi năm, 34.000 người Mỹ chết vì thuốc độc, vô tình hay hữu ý. Có thể phân loại thuốc độc làm 3; thứ nhất, tàn phá mọi cơ thể, thứ hai, làm cháy thịt da, thứ ba, chỉ nguy hại đối với một số bộ phận trong người. Sự nguy hại của độc dược đã được nhiều chính phủ lợi dụng triệt để, đặc biệt từ đầu thế kỷ này. Trong thế chiến thứ nhất, nước Đức đã dùng hơi độc tại mặt trận. Trong thế chiến thứ hai, lãnh tụ quốc xã Hít le đã cho sản xuất nhiều loại hơi độc kinh khủng, song không dám đem dùng.
Hít le bại trận, Nga sô chiếm đoạt các nhà máy chế hơi độc của Đức, mang về nước, và mặt vụ Sô viêté đã tiếp tục công việc của Hít-le, trên một qui mô rộng lớn và khoa học hơn. Buộc lòng Hoa kỳ cũng phải lao đầu vào công cuộc nghiên cứu, phát minh và sáu xuất hơi độc. Công ty Dược phẩm Thần Tiên là một bộ phận của côn cuộc này. Khỏi nói, ông cũng biết nó rất quan trọng.
Thứ thuốc độc hoặc hơi độc hiện được các cường quốc Nga-Mỹ thí nghiệm ráo riết không phải là thứ làm chết người tức khắc mà là thay đổi tính tình, năng lực con người. Hoa Kỳ đã chế ra một loại hơi, ngửi vào thì thông minh biến ra điên khùng, kẻ lương thiện có thể trở thành sát nhân. Người ta gọi là hơi ngạt thần kinh. Ngoài ra, còn sản xuất một thứ độc dược khả dĩ thay đổi được tâm địa con người.
Một trong các dược liệu được dùng là chất acônít. Từ lâu, người Âu châu đã biết acônít. Tưởng Mác ăn toan mang quân đi đánh, bị vây khốn, lương thực thiếu hụt, binh sĩ phải đào rễ cây mà ăn. Một số ăn lầm acônít đã mất trí nhớ, và thành điên khùng. Acônít gây ra nhiều nguy hiểm đến nỗi người ta gọi nó là (Bà Chúa thuốc độc). Thời Chiến quốc bên Tàu, các bộ lạc ở dọc Hy mã lạp sơn cũng dùng acônít để giết kẻ thù.
Năm 1762, acônít được ghi vào danh sách dược liệu Áo quốc. Người ta thường thấy cây acônít mọc ở Thụy Sĩ, Pháp, Đức và Tây Ban Nha. Trên núi ở Hoa Kỳ cũng ó cây acônít. Loại cây này thường mọc dọc dòng suối. Gần đây, nó mọc lên thật nhiều ở Lào. Hoa nó rất đẹp, trông như bim bim, màu tím hay vàng, trắng tùy theo loại. Thứ acônít ở Nêpan được coi là độc nhất. Acônít trồng ở Lào là loại cây từ Nêpan tới.
Khoa học Tây phương hiện dùng acônít để chữa bệnh thần kinh. Theo chỗ lộc biết, các cơ quan điệp báo đang biến acônít thành một thứ thuốc đặc biệt, có thể chinh phục một quốc gia, đánh ngã một dân tộc không cần bắn phát súng. Uống acônít vào, nạn nhân cảm thấy nong nóng để chịu bao tử, đói khi ói mửa, nhưng thường là mạch máu và nhịp thở chậm lại, da dẻ lạnh ngắt, rồi thân thể trở nên bất động, miệng không nói được, tay chân không giơ lên được, tóm lại con người thành tượng đài.
Lời tiết lộ của Trần Ngọc và Văn Bình bàng hoàng. Chàng đã hiểu tại sao ông tổng giám đốc muốn chàng chăm chú theo dõi cuộc giải thích trường giang đại hải của Trần Ngọc. Cách đây không lâu, trong một cuộc họp bí mật với CIA ở Hoa Kỳ, vấn đề xử dụng acônít vào mục đích gián điệp đã được cứu xét với ông Hoàng. Vạn nhất đối phương hoàn thành được võ khí acônít, cán cân thăng bằng trong cuộc vật lộn bí mật sẽ không còn nữa.
Văn Bình chăm chú nghe bác sĩ Trần Ngọc nói khiến tan thuốc S đem rớt đầy ống quần mà chang kỳ ông biết. Ngẫm nghĩ một giây, chàng hỏi:
- Có phương thuốc nào giải độc acônits không?
Bác sĩ Ngọc đáp:
- Có. Mời uống thì có thể pha mù-tạt với nước âm ấm cho bệnh nhân, để giải độc, trước khi chở vào bệnh viện. Nhưng đó là uống ít. Nếu uống nhiều thì vô phương.
Văn Bình châm điếu Salem mới:
- Ở Việt Nam có acônít không, bác sĩ?
Ông Hoàng xen vào:
- Nếu bac sĩ Ngọc trình bày một cách bình dân hơn, có lẽ anh không đặt ra câu hỏi vừa rồi. Xứ ta có rất nhiều acônít. Ai cũng biết nó. Vì nó là Phụ tử.
Văn Bình giật mình:
-Thưa, phụ tử trong thuốc Bắc ấy à?
Ông Hoàng gật đầu:
- Phải. Thầy lang nào của ta cũng từng cắt phụ tử mặc dầu không dám cho uống nhiều sợ công phạt. Ta chỉ nghe nói phụ tử rất nóng, còn nóng hơn quế chi nhiều, chứ chưa biết nó là thuốc độc nguy hiểm.
Từ hai năm nay, cơ quan gián điệp Hoa lục đã bắt đầu nghiên cứu phụ tử.
Văn Bình buột miệng:
- Thảo nào!
Ông Hoàng gật gù:
- Bây giờ anh đã hiểu tại sao tôi lưu tâm đặc biệt tới vụ mất trộm thuốc độc ở Ai Lao.
Văn Bình hỏi:
- Thưa, Quốc tế Đặc vụ chặn bắt thùng độc dược để bán lại cho Trung cộng, phải không?
Ông Hoàng thở dài:
- Tôi chưa rõ. Nếu vậy thì thật là bất hạnh. Tuy nhiên, tôi có cảm tưởng là một vụ chứa đựng rất nhiều bí ẩn. Ngay sau khi chiếc AN-2P mất tích, trung ương CIA đã liên lạc với tôi, nhớ tôi tiến hành cuộc điều tra. CIA nắm được một số đầu mối. Sau khi máy điện tử Intellofax sắp xếp xong tài liệu, tôi sẽ chuyển đến tay anh.
Tiếp theo CIA là văn phòng đặc biệt của phủ Thủ tướng Lào quốc yêu cầu ta giúp đỡ một tay. Dĩ nhiên là ta nhận lời. Nếu họ không yêu cầu, ta cũng lãnh trách nhiệm.
Bác sĩ Trần Ngọc đã ra ngoài không biết từ khi nào. Ông Hoàng lấy trong tủ nhỏ gắn vào tường ra một cái khay bạc, trên để chai rượu buo bông đầy ắp và hai cái ly pha lê. Biết tính điệp viên thượng thặng Z.28, mỗi khi chẳng tới văn phòng, ông thường để giành riêng cho chàng.
Nốc một hơi bal y huýt-ky thơm phức, Văn Bình hỏi ông tổng giám đốc:
- Tôi sẽ phải làm gì, thưa ông?
Mắt ông Hoàng trở nên mơ màng sau làn khói xì-ga Havan:
- Chính phủ Lào chuyển cho ta một bức thư quan trọng do Quốc tế Đặc vụ gửi tới. Họ vừa nhận được trưa qua. Một chuyến máy bay quân sự đặc biệt vừa mang thư này tại đây. Bức thư được gửi bằng đường bưu điện ở Vạn Tường:
Ông Hoàng đẩy lại trước mặt chàng một hồ sơ đánh máy màu vàng, bên trên có hai chữ « tối mật » bằng mực đỏ tươi. Bức thư được đánh máy trên giấy láng, trình bày rất sáng sủa và lịch sự. Ở góc trái, trên cùng, Văn Bình thấy bốn chữ « Quốc tế Đặc vụ » in mực xanh. Nội dung bức thư như sau:
Vạn Tường, ngày… tháng… năm 19…
Kính gửi Hoàng thân Thủ tướng Chính phủ Ai Lao,
Thưa Ngài,
Ngài đã nghe nói nhiều tới chúng tôi, song đây là lần thứ nhát chúng tôi được hân hạnh giao dịch với qui chính phủ, nên tôi mạn phép được tự giới thiệu. Tôi là chủ tịch Quốc tế Đặc vụ, viết tắt QTĐV. Tổ chức do tôi có vinh dự điều khiển được thành lập sau trần đại chiến thứ hai, đặt chi nhánh khắp năm châu, và chuyên về địa hạt điệp báo và thương mãi đặc biệt.
Chúng tôi không giống như Quốc tế Tin tức của đại tá Mỹ A-mết. Chúng tôi cũng không giết người thuê như Mafia, hoặc có khuynh hướng chính trị rõ rệt như đảng Hắc Long ở Nhật Bản và đảng Thanh Long ở Trung Quốc. Phương châm hoạt động của chúng tôi là kiếm ra thật nhiều tiền.
Cơ hội kiếm tiền của chúng tôi đã tới khi qui chính phủ cao chở một thùng thuốc từ Vạt chai đi Đà Nẵng. Năm giờ sau khi chiếc AN-2P của sở Mật vụ Lào bị thất lạc, một số thông tấn xã quốc tế đã hay tin. Ngoài các hãng Tây phương như Pháp tấn xã, Mỹ liên xã và Hợp chúng xã, phải viên Tất của Liên sô và Tân hoa xã của Trung Quốc cũng đã điện cùng khắp thế giới về vụ phi cơ mất tích. Phủ Thủ tướng của quí chính phủ ra một thông cáo đặc biệt nói rằng chiếc AN-2P ngộ nạn trong vùng rừng rú gần Paksé vì hỏng máy, và phi cơ này bị rơi trong một công tác liên lạc thông thường, không dính líu tới bí mật quốc phòng.
Tôi rất buồn khi phải thông báo với Ngài rằng chiếc AN-đã chở một món hàng trọng hệ. Ba nhân viên phi hành đều tử nạn, và thùng thép trên phi cơ đã được mang tới một nơi an toàn.
Chiếc thùng này đang nằm trong tay tôi, nếu Ngài chưa tin, tôi xin liệt kê một số đặc điểm, để ngài tưởng lầm:
Thùng hình vuông, mỗi bề một thước rưỡi, gồm ba vỏ thép, bề dày mỗi vỏ là 15 ly, trên nắp gắn một cái hộp riêng, chứa ba kilo bột G. và ngòi nổ. Hiện hộp nổ này đã được tháo ra và tiêu hủy. Trong thùng có cả thảy 115 kilô dược liệu quốc phòng, chia ra như sau:
- 60 kilô phụ tử, tức là acônít, độc dược mà Trung Quốc đang thí nghiệm để chế tạo một võ khí mới cho cuộc chiến tranh lạnh.
- 10 kilô mã tiền tính.
- 5 kilô xi-Văn Bình-nuya.
- 5 kilô nọc nhện đên Latrodeclus mactans.
- 5 kilô thạch tín và hơi độc ac-xin.
Hai chục kilo còn lại gồm những dược liệu sau đây
- Cà độc dược: dược liệu này dùng để chế atơrophin, một thứ thuốc chữa bệnh hen suyễn và chữa mắt. Cuy-ra: thứ này, dân da đỏ thưởng tẩm vào đầu mũi tên để giết kẻ thù. Trúng độc cuy-ra, nạn nhân sẽ mở mắt, cấm khẩu, cuống họng thở và buồn phổi cứng đờ, và từ 10 đến 15 phút sau sẽ ngạt thở mà chết.
Ngoài ra, còn ba hộp thép nhỏ nữa, mỗi hộp nặng một kilo.
- Hộp thứ nhất đựng nọc độc côn trùng: Hẳn ngài đã biết trên trái đất bẩn thỉu mà ta đang sống này có chừng 800 000 thứ côn trùng, một số hiền, một số độc, riêng giống muỗi cũng có 2.000 loại khác nhau. Ruồi thì có ruồi đồng, ruồi xe xê chích vào nạn nhân bị bệnh ngủ, như ở Phi châu còn có cháy rận thì có thể truyền bá bệnh.
- Hộp thứ nhì đựng độc thảo: Về độc thảo thì nơi nào cũng có, riêng nước Mỹ có tới 525 loại cây cỏ độc khac nhau. Trong hộp này có những loại cỏ đặc biệt như cỏ nhung, cỏ Dônsơn, cỏ Xuđăng, nghĩa là những thứ cỏ ăn chết người. Mặt khác còn một số nắm độc nữa. Trên thế giới có 4.600 thứ nấm thì non nửa là nấm độc, công ty Thần Tiên ở Vạn Tường đã bỏ vào trong hộp một loại nắm độc nhất vô nhị, pha vào rượu uống thơm ngon song giết người rất nhanh.
- Hộp thứ ba đựng nọc rắn: hàng năm chừng 40.000 thiệt mạng trên thế giới vì nọc rắn, mà hai phần ba xảy ra ở Á châu. Diến điện có nhiều nạn nhân nhất, cho nên chúng tôi không lấy làm lạ khi thấy công ty Thần Tiên nghiên cứu nọc rắn. Phải chăng vì Ai Lao ở sát nách Diến điện? Phải chăng vì Trung Quốc có phòng thí nghiệm về nọc rắn?
Thưa Ngài,
Chúng tôi không hề tơ hào tới một li độc dược đựng trong thùng thép. Xin quí chính phủ tin vào sự làm ăn đúng đắng của chúng tôi vì lần này còn lần khác, chúng tôi không muốn mất tín nhiệm đối với khách hàng, nhất là khách hàng nhiều tiền như quí chính phủ và đồng minh Hoa Kỳ.
Tôi xin mạn phép hỏi Ngài một câu: nhân loại sẽ đi tới đâu nếu 115 kilô độc dược này được hòa với nước, trộn với rau cá? Theo chỗ chúng tôi tính, nó đủ sức giết chết 500 triệu người. Bao trận đại chiến xảy ra, nhưng chưa bao giờ có tới mấy chục triệu người chết. Song nếu quí chính phủ qúa hà tiện, hà tiện một cách ngây ngô thì 500 triệu người sẽ chết oan và quí Ngài sẽ phải gánh chịu trách nhiệm nặng nề trước nhân loại và lịch sử.
Cơn ác mộng sẽ tiêu tan nếu Ngại chịu điều đình với chúng tôi. Vâng, nhân danh Quốc tế Đặc vụ, tôi sẵn sàng điều đình với quí chính phủ. Tôi sẽ giao hoàn 115 kilô dược tiêu lại cho Ngài nếu Ngài bằng lòng trả cho Quốc tế Đặc vụ một số tiền vỏ nghĩa là hai triệu đô la Mỹ.
Số tiền vàng này sẽ được chuyển vào một trương mục tại Thụy Sĩ (sau đây, xin đính kèm những chi tiết về vụ chuyển ngân). Nếu quí Ngài thỏa thuận, xin liên lạc với chúng tôi trên làn sóng điện 9 kilôxich mỗi đêm vào lúc 10 giờ đúng. Tần số này hiện được cơ quan mật vụ Lào xử dụng, vậy xin Ngài ra lệnh cho tướng Sulivông giành riêng cho chúng tôi trong một thời gian.
Tôi tin quí chính phủ sẽ hoàn toàn đồng ý. Vì nếu Ngài không đồng ý, chúng tôi bắt buộc phải thi hành những biện pháp cứng rắn. Chúng tôi sẽ bỏ thuốc độc chứa trong thùng thép vào các hồ chứa nước. Chúng tôi có nhân viên ở khắp nơi trên thế giới, Vạn Tường, Vọng Các, Ngưỡng Quang, Sài Gòn, Tân Gia Ba, Hồng Kông, Đông Kinh, Ba Lê, Hoa Thịnh Đốn, Luân Đôn, và hàng trăm thị trấn đông dân cư khác có thể được chúng tôi chọn làm mục phiêu. Quí ngài sẽ phải khoanh tay không biết chúng tôi hành động ở đâu.
Vả lại, nếu chúng tôi báo cho quí Ngài biết trước nơi sẽ bị đầu độc, cảnh sát và quân đội được huy động rầm rộ để bảo vệ an ninh sẽ gây ra những chi phí lớn lao, có thể gấp mười, hoặc gấp trăm lần số tiền hai triệu đô la chúng tôi đòi hỏi. Một lần nữa, chúng tôi tha thiết kêu gọi quí Ngài, sáng suốt, đừng để chuyện đáng tiếc xảy ra.
Bức thư này được gửi đi từ rạng sáng 1-6. Ngày 1-6, nó sẽ được tới tay Ngài. Chúng tôi sẵn sàng chờ quí chính phủ cho đến 12 giờ đêm 8-6. quá thời hạn này, không một sức mạnh nào cản trở chúng tôi được nữa.
Lúc Ngài nhận được thư này cũng là lúc Ngài được tin thiếu ta Sim Leng từ trần. Cái chết của thiếu tá Sim Leng là một thiệt hại lớn lao cho chính phủ Lào vì ông ta là một sĩ quan ưu tú về điệp báo. Sim Leng chết vì uống lầm rượu pha thuốc độc. Sim Leng chết vì uống lầm rượu pha thuốc độc, thứ thuốc độc do xí nghiệp Thần Tiên chế tạo. Tôi xin trình với Ngài rằng thuốc độc dùng để giết Sim Leng đã được lấy tại phòng thí nghiệm Công ty Thần Tiên, chúng tôi không hề Sự kiện này chứng tỏ chúng tôi có tai mắt khắp nơi, ngay cả ở một nơi được coi là cán cứ quốc phòng tối mật ở Ai-Lao.
Chúng tôi giết thiếu tá Sim để báo cho quí Ngài biết rằng thuốc độc của hàng Thần Tiên rất bén nhạy. Mặt khác, cũng để cảnh cáo quí Ngài rằng Quốc tế Đặc vụ sẽ không lùi bước trước khó khăn.
Từ nay cho đến khi tôi hậu thư hết hạn, quí Ngài phải ra lệnh cho các cơ quan an ninh trong nước án binh bất động. Nghĩa là sở mật vụ, sở cảnh sát và an ninh quân đội không được áp dụng một biện pháp nào, dầu là tiêu cực hay tích cực, đối với Quốc tế Đặc vụ.
Nếu các điều kiện này không được quí chính phủ triệt để tôn trọng, buộc lòng chúng tôi phải dằn mặt bằng một hay nhiều vụ ám sát chính trị khác nữa. Khi đó nạn nhân sẽ là những nhân vật quan trọng hơn cố thiếu tá Sim Leng của sở Mật vụ.
Trong khi chờ đợi sự xử trí sáng suốt và thông mình của quí Ngài, nhân danh Quốc tế Đặc vụ, tôi long trọng chuyển tới quí Ngài và chính phủ hoàng gia Lào lời chào quí mến.
Tổng hành doanh Quốc tế Đặc vụ Viễn Đông.
Chủ tịch: Sam Phoun ấn ký.
«««
Văn Bình bâng khuâng buôn lá thư xuống bàn. Mùi xì-gà Ha-van quyện với mùi Salem bạc hà thành một mùi thơm lạ lùng. Văn Bình ngẩn nhìn ông tổng giám đốc:
- Thưa Sam Phoun là ai?
Ông Hoàng chậm rãi đáp:
- Hiện phản gián Mỹ đang truy nguyên căn cước của Sam Phoun. Chỉ biết hắn là chủ tịch phân bộ Viễn Đông.
- Như vậy Quốc tế Đặc vụ phải là một tổ chức hùng hậu. Nếu không họ không dám hoạt động ngang nhiên ở Lào, nhất là chọc tức chúng ta và tình báo CIA.
- Dĩ nhiên. Tôi biết họ có người ở khắp châu Á. Họ liên lạc với nhau bằng làn sóng ngắn, CIA đã khám phá ra tần số, và thu âm được một số mật điện, song chưa tìm ra nghĩa. Hẳn anh không lạ gì cơ quan NASA của Mỹ. Hầu hết mật mã trên thế giới đều bị các chuyên viên toán học cao cấp của NASA chọc thủng. Song NASA phải bó tay trước mật mã của Quốc tế Đặc vụ.
- Thưa, chính phủ Lào nắm được đầu mối nào chưa?
- Có lẽ anh cần hiểu rõ nội tình Lào quốc hơn nữa. Lào chia làm 3 phe, trung lập, hữu hái và tả phái. Tam dầu chế này làm chánh quyền vương quốc bị tê liệt. Vì thế, cơ quan an ninh Lào bị tê liệt do sự tranh chấp giữa 3 khuynh hướng điều khiển. Hoàng thân Thủ tướng đã tiên liệu được sự sa lầy này nên bí mật thành lập tại phủ Thủ tướng một cơ quan đặc biệt, đảm trách công tác mật.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do mà anh đoán biết, anh chỉ có thể liên lạc công khai với cơ quan an ninh chánh thức mà thôi. Khi nào phanh ra manh mối, sắp đánh ván bài quyết định, anh mới được phép tiếp xúc với phủ Thủ tướng.
- Thưa còn CIA?
Người Mỹ cho biết sẵn sàng nộp hai triệu đô la tiền chuộc. Đối với họ, thì hai triệu chứ hai chục triệu cũng không thành vấn đề. Họ sẽ trả tiền một cách vui vẻ, nếu Quốc tế Đặc vụ bi đánh gục. Tôi đang thường thuyết với họ về một vài chương trình quan trọng. Sự thành công của anh ở Lào sẽ giúp cuộc điều đình của tôi chóng đạt kết quả.
- Thưa, tôi sợ Quốc tế Đặc vụ đánh cắp bớt thuốc độc, trộn bột khác vào thay thế.
- Không sợ. Thuốc độc được niêm phong cẩn thận trong hộp sắt. Muốn lấy ra, phải tháo gỡ các dấu xi, và bẻ 4 cái khóa. Khóa này được chế tạo riêng trong ban Kỹ thuật CIA, nếu không có chìa thì không tài nào mở được. Riêng gỡ ác dấu xi đã khó rồi, vi xi được trộn hóa chất đặc biệt, khiến mọi phương pháp mở tân tiến đều bất lực thuê ở ngân hàng, gồm hai nấc, nấc mở bằng chìa, và nấc mở bằng chữ số.
- Thưa, Quốc tế Đặc vụ có thể khoan dung thùng thép cho ổ khóa bật ra.
- Trong trường hợp này, chất nổ giấu sau ổ khóa sẽ phát ra, độc dược sẽ biến chất. Tóm lại, họ chỉ có thể phá hủy thùng độc dược mà không thể lấy độc dược được.
- Thưa, bao giờ lên đường?
- Trong nửa giờ, phi cơ sẽ cất cánh. Máy bay riêng của ông tùy viên quân sự tòa đại sứ Lào tại Sài Gòn. Gia đình ông tùy viên về Vạn Tường nghỉ phép, anh sẽ đi nhờ. Họ không biết anh là ai. Và anh cũng không cần quen họ. À, còn điều này nữa…
Ông Hoàng mở tập hồ sơ trên bàn, nói tiếp:
- Anh biết cô Quỳnh Loan trong ban Biệt vụ không?
Văn Bình đau nhó như bị đâm kim vào thịt. Dĩ nhiên, chàng phải biết Quỳnh Loan, vì nàng là người đẹp nghiêng nước, nghiêng thành của Sở. Nhan sắc của nàng đã làm chàng mê mẩn đến mất ăn, mất ngủ. Hơn ai hết, chàng phải biết Quỳnh Loan, nữ điệp viên ưu tú và đa mưu.
Cách đây không lâu, tưởng nàng dễ bảo, Văn Bình lựa lời tán tỉnh. Như chàng tiên liệu, nàng đã đầu hàng nhanh chóng. Chàng đinh ninh nàng rung động trước những thớ thịt rắn chắc, thân hình vạm vỡ, cân đối, khuôn mặt khôi ngô, cặp mắt đa tình, giọng nói quyến rũ, cử chỉ lịch thiệp và… bùa phép ghê gớm của chàng.
Ngờ đâu nàng cho chàng vào xiếc.
Đồng lõa với Nguyên Hương, nàng giả vờ xiêu lòng, rủ chàng đi chơi, rồi lừa chàng bị bắt, khiến Z.28, điệp viên số một của ông Hoàng, tinh hoa của làng điệp báo từng được năm châu kính nể, phải nằm khám một đêm, đánh bạn với rệp và muỗi đói.
Từ bấy đến nay, chàng vẫn chưa hết bực mình. Chàng rình cơ hội trả đũa. Ông tổng giám đốc vừa mạng lại cho chàng một dịp báo thù bằng vàng. Chàng bèn gật đầu:
- Thưa biết.
Ông tổng giám đốc nheo cặp mắt cận thị:
- Ừ nhỉ, tôi suýt quên. Cô Quỳnh Loan đi lừa anh ngủ bót cách đây ba tháng. Đúng ba tháng. Thôi, chuyện cũ xí xóa. Đàn bà nguy hiểm lắm không hiền lành như anh tưởng đâu. Công việc Lào rất tế nhị, anh cần người đủ tài, đủ thủ đoạn phụ tá. Tôi cử Quỳnh Loan làm phụ tá cho anh. Hiện tòa đại sứ khuyết chân tùy viên văn hóa…
Chuông điện thoại reo. Ông Hoàng đưa bàn tay nhăn nheo lên chào Văn Bình. Biết cuộc nói chuyện đã xong, Văn Bình trở ra phòng ngoài.
Quỳnh Loan đón chàng bằng tràng cười ròn rã:
- Chào anh.
Thấy nàng, chàng vừa giận, vừa mừng. Những vết muỗi rẹp đêm: y trong bót cảnh sát rủ nhau đau nhói lại một lượt. Chàng định quắc mắt, mắng nàng một trận cho hả cơn tức, song lại nín thing. Miệng cười hoa nở và luồng nhỡn tuyến quyến rũ của Quỳnh Loan như trận gió nằm mắt rơi thổi vào căn phòng nóng nực. Chàng đành nghiếng đầu cười lại. Lẽ ra, chàng nói « chào em, em đẹp như tiên nữ giáng trần », chàng chỉ lúng túng:
- Không dám.
Chàng chỉ có quyền nói « không dám » vì có Nguyên Hương ngồi bên. Nguyên Hương đã nghĩ và da mưu như Tào Tháo. Nếu chàng đụng tới cô gái hơ hớ Quỳnh Loan, nàng còn làm thái điên bát đảo. Coi bằng đóng kịch « ngoan ngoãn như con cừu non dại» của Thụy Sĩ Lau trọng Lư.
Nguyên Hương đứng dậy, đưa cho chàng cái phong bì màu vàng:
- Đây là giấy tờ cần thiết. Xe hơi đang chờ anh ngoài cửa. Anh đi một mình. Quỳnh Loan sẽ đáp máy bay Air-Vietnam.
Nguyên Hương nhấn mạnh bốn tiếng « anh đi một mình ». Nàng muốn bảo ngầm chàng rằng trong thời gian ở Vạn Tường, léo hánh đến Quỳnh Loan thì ăn đòn.
Quỳnh Loan nhanh nhẩu:
- Nội đêm nay, em sẽ có mặt tại sứ quán. Em mang theo một diện đài cực mạnh. Khi cần liên lạc với Sở anh hãy gọi em.
Văn Bình « vâng » một tiếng cụt ngủn, rồi cất phong bì giấy tờ vào túi. Nguyên Hương nhấc cái va li dưới đất, đặt lên bàn, rồi nói:
- Va li của anh đây. Ban kỹ thuật vừa làm xong, em dặn mạng tới cho anh đúng.
Văn Bình đỡ lấy vái va-li da màu xanh nhạt. Bề ngoài, nó không khác va-li thường, nhưng bên trong lại là kho chứa dụng cụ hành nghề gián điệp. Mở ra, chàng bấm nút, dây thứ nhất bật lên, lộ ra một cái ngăn đựng khẩu súng ngắn tự động Olempích, hai bì đạn mỗi bì mười viên, một chùm chìa khóa đặc biệt, ba cái bút máy Pạc ke giả, chứa thuốc nổ và thuốc mê.
Văn Bình thảo bao da trừu bóng loáng đeo dưới vai, lấy ra một khẩu SM9 ly. Chàng tháo đạn xem xét từng viên, bỏ lại vào bì tung khẩu súng trên lòng bàn tay để ước lượng sức nặng. Ra vẻ bằng lòng, chàng giấu súng vào chỗ cũ, gài nút vét-tông, người tinh mắt cũng không thể nhận ra.
Nguyên Hương lẳng lặng theo dõi cử chỉ của Văn Bình. Khi chàng sửa soạn cáo từ nàng mới mở ô kéo rút ra một cái hộp hình chữ nhật, bên trong có đôi giày màu vàng bằng da lợn. Nàng đưa đôi giày cho chàng.
- Em thấy anh dùng giày mũi nhọn, giày này dạo chơi ở Sài Gòn thì totó, không hợp với đất đỏ lầy lội Vạn Tường đâu. Em nhờ ban Kỹ thuật đóng riêng đôi này cho anh.
Văn Bình bàng hoàng sau khi nhìn kỹ đôi giày. Đế giày được gắn một lớp chì cứng, không káhc giày của giám thị trong khám tử hình Sing Sing bên Mỹ. Còn đặc điểm nữa, mỗi khi ấn mũi giày xuống, lưỡi dao nhỏ xíu, nhọn hoắt nhô ra. Văn Bình xử dụng bàn chân rất tài tình, nhiều lần chàng đã hạ thủ đối phương bằng ngọn cước xuất quỉ nhập thần. Nguyên Hương gãi đúng chỗ ngứa của chàng. Chàng ngước mắt nhìn nàng, tỏ sự biết ơn.
Chàng muốn ôm nàng hôn nhưng lại sợ Quỳnh Loan cười. Chắt lưỡi, chàng xách va-li ra thang máy.