Trang 3
Tác giả: Nguyễn nhược Thị
11- Tường và Thuyết bỏ Tự-quân
Tự quân chưa chỉnh ngôi trời,
Chiếu thư lại cải quên lời sách xưa.
Văn-Tường, Tôn-thuyết chẳng lơ,
Bắt chưng lỗi ấy phiến từ dâng tâu
Trần công hờ-hững biết đâu.
Kim-đằng giữ dạ ai cầu cho an.
Ký danh chẳng khứng hợp đoàn,
Phải chưng uổng sát họa mang vào mình.
12- Tường, Thuyết xin lập vua Hiệp-Hòa
Thuyết, Tường đem chúng tâu trình.
Xin tôn người khác yên tình thần dân.
Gửi : "Nay quốc-vận đương truân
Cầm quyền phải lựa trưởng quân mới đành.
Tùy nghi em nối nghiệp anh,
Đời xưa thường vậy, người lành ấy nên.
Lại rằng: "Sẵn có đấng hiền,
Quốc-công văn-lãng đáng truyền ngôi cao ."
Thánh-từ kinh dị xiết bao,
Phải chăng vậy biết, làm sao bây giờ.
Sụt-sùi châu-lệ tuôn mưa,
Chẳng nghe sợ nỗi đổ thừa về sau.
Vả chăng xã tắc làm đầu,
Miễn cho yên-ổn, ai đâu mà rằng.
Thảy đem ưng dạ triều-thần,
Thùy liêm vậy phải trao phân tiếng vàng:
"Việc ngoài đều cậy các quan,
Làm sao cho đặng vững an nước nhà.
Ta nay vả dự đàn-bà,
Lại thêm lú-lẫn tuổi già tác cao.
Rất e những nỗi Tây Tàu,
Trong mà chẳng định, người âu quấy loàn."
Các quan vâng lĩnh lời vàng,
Xin phê y tấu truyền ban tức kỳ
Tốn nhường người trước cố suy,
Nhưng lời đã định dễ từ đặng vay.
13- Phan đình Phùng can, bị giam
Có quan ngự-sử tôi ngay,
Phan đình Phùng đã thấy nay bất bình.
Trước triều ra mới nói trình :
"Tự-quân có trái lời lành, chưa can.
Bèn gia lỗi ấy sao an ,
Ngàn thu để tiếng luận bàn về sau.
Min không sợ chết cúi đầu,
Phát-minh lẽ thẳng ngõ hầu cùng nghe."
Thấy lời ai nấy sởn ghê,
Sốt gan Tường, Thuyết truyền đè xiềng ngay.
Dẫn ra ngục-thất giam vây,
Uy dường sấm sét, ai rày dám phân.
14- Vua Hiệp-Hòa lên ngôi
Vâng theo bái yết tân quân,
Trông xem chính lệnh xử phân thế nào.
Đem ông Trừ-nhị truyền giao,
Giảng-đường tạm ở ra vào giữ canh.
Ưa ai đều đặng hiển vinh,
Hưởng nhờ sang cả, phỉ tình mai nay.
15-Quân Pháp vào đánh Thuận-an
Cầm quyền chưa đặng mấy ngày,
Thuận-an lại thấy người Tây quấy rầy.
Khôn nuông sức mạnh tài hay,
Thành bền lũy cứng bổ vây chạy dài,
Bởi vì ứng tiếp không ai,
Uổng lâm hoành sử thương người oan thay.
Một cơn lửa dấy khói bay,
Cả đoàn tướng sĩ thoát rày không phương.
Lâm Hoành, Thúc Nhẫn há thương,
Dòng quyên lai-láng túng đường liều thân.
Sa trường xót bấy quan quân,
Tấm lòng vì nước muôn xuân danh ngời .
Yết-hầu hiểm yếu mất rồi,
Ví như nước vỡ bờ trôi bíu bè.
Lấy ai đột pháo xông xe,
Cầu hòa phải quyết chịu bề nhận thua.
Nào là những đấng trượng phu,
Ngày thường hay nể chẳng cho đánh bừa.
Lâm cơ mặt ngảnh tai ngơ,
Miệng hùm gan sứa bấy giờ mới hay.
Đã đành xếp mác bó tay,
Hai-mươi-bảy khoản ước rày dám sai.
Kinh-thành dầu đó tới lui,
Cải-canh việc nước suy đồi từ nay.
Chú thích:
Bắt chưng lỗi ấy phiến từ dâng tâu : Khi làm lễ đọc di-chiếu, quan Phụ-chính Trần Tiễn-Thành có đọc sai đi mấy câu, Tường và Thuyết vin lấy cớ ấy mà tâu lên bà Từ-dụ Thái-hậu, xin bỏ tự-quân và lập người khác.
Kim-đằng : là buộc dây vàng. Lấy điển trong kinh Thư nói rằng : "vua Vũ-vương đau nặng, Chu-công viết lời khấu xin chết thay, rồi đem bỏ vào cái hộp buộc dây vàng để không ai biết, Đây nói ý : giữ kín trong bụng.
chẳng khứng : là do chữ khẳng là chịu. ưng-thuận.
Gửi : là thưa, tâu.
Quốc-công Văn-Lãng đáng truyền ngôi cao : Bọn Tường và Thuyết tâu với bà Từ-dụ Thái-hậu xin lập Văn-Lãng quốc-công là em vua Dục-tông lên làm vua, thay ông Hoàng-trừ Dục-đức.
ai đâu : là nói : ai làm vua cũng là anh em trong nhà.
Thùy liêm : là buông mành. Lễ cổ khi người đàn bà lâm triều thì phải bỏ mành mành xuống. Đây nói bà Từ-dụ lâm triều để truyền chỉ-dụ cho các quan.
tức kỳ : có lẽ là tức thì, nhưng vì chữ thì là tên vua Dực-tông, nên mói kiêng mà đổi ra chữ kỳ.
Bèn gia lỗi ấy sao an : Ý nói : Tự-quân là ông Dục-đức có làm điều gì không phải, chưa có ai can ngăn, chưa đủ lấy điều ấy mà bắt lỗi được.
Min : là ta đây.
Trừ-nhị : là Hoàng Thái-tử, đây là nói ông Dục-đức.
Giảng-đường : tức là nhà học của ông Dục-đức, lúc ấy gọi là Dục-đức giảng-đường.
Uổng lâm hoành sử : có nghĩa là bất đắc kỳ tử, đây nói những người đánh trận chết.
Lâm Hoành, Thúc Nhẫn : Lúc ấy Hải-quân thiếu-tướng Courbet đi với viên Toàn-quyền Harmand vào đánh cửa Thuận-an. Thành Trấn-hải vỡ, quan ta là ông Lâm Hoành và ông Trần Thúc Nhẫn nhảy xuống bể tự-tử.
ngời : là sáng.
Hai-mươi-bảy khoản ước : Ký hòa-ước năm Quí-vị (1883) có 27 khoản do bên người Pháp có Harmand và de Champeaux và bên người Nam có Trần đình Túc và Nguyễn trọng Hợp ký.