Trang 7
Tác giả: Nguyễn nhược Thị
31- Tôn-Thất Thuyết đánh quân Pháp
Khuyên can chúng thảy hết điều,
Cắt thầm, Tôn-Thuyết dấy liều nửa đêm.
Phen này may rủi thử xem,
Đã đành cô chú quyết đem đánh vầy.
Chẳng cho ai biết ai hay,
Cũng chăng tấu đạt, một tay thiện hành .
Chiến công đều Phấn-nghĩa binh,
Chỉn dùng những phúc tâm mình mà thôi.
Chắc gì bẻ nạng chống trời,
Hay là làm chước thoát nơi cửa thành.
Hay làm bất ý thình lình,
Họa là may đặng công thành tiên ky.
Thất kinh ai nấy hồn phi,
Đêm khuya nào biết sự thì làm sao.
Quanh co hơ-hải cùng nhau,
Lệnh truyền thách cửa hỏi mau cho tường.
Giờ lâu mới thấy gửi sang,
Rằng nguyên ở đó thị cường bắn lên.
Ta nay không nhẽ điềm nhiên,
Phải toan cự địch, hư nên nhờ trời.
Ầm ầm tiếng súng khắp vời,
Khói um mù đất, lửa ngời lòa mây.
Canh tư thắng phụ chưa hay,
Canh năm nghe báo rất may mừng lòng.
.
Bình-đài thu phục đã xong,
Lầu Tây đương đốt, lửa chong bốn bề.
Phen này Tây ắt phải về,
Ngửa nhờ trời đất phù-trì lắm thay .
Nói cười chưa kịp trở tay,
Phút liền súng nổ đạn bay kinh hồn.
Ai ngờ Tây rất quá khôn,
Để ta bắn trước thảy luồn nấp đi.
Ở ta dại chẳng biết ky ,
Những mà hết sức dương uy bắn dồn.
Liệu chừng thuốc đạn đã mòn,
Dấy lên Tây mới thành môn bắn vào.
Dường như sấm sét ầm-ào,
Dẫu là núi cũng phải nao huống thành.
Quân ta khôn sức đua tranh,
Đem nhau trốn chạy tan tành bèo trôi.
Bấy giờ trời đã sáng rồi,
Văn-Tường liền khiến gửi lời tâu xin.
Khiêm-cung nay phải ngự lên,
Lánh nơi pháo đạn chẳng nên trễ-tràng.
32- Xa-giá xuất ngoại
Vua tôi hoảng hốt vội vàng,
Hỗ-phù Thánh-giá một đoàn kíp ra.
Tới nơi cửa hữu xem qua,
Hai bên lê-thứ trẻ già quá đông.
Chen nhau dìu-dắt mang bồng,
Chực theo Từ-giá thoát vòng nguy nan.
Thấy người trước đón lên đường,
Gửi rằng có Nguyễn văn Tường chực đây.
Phán rằng: "Sự đã dường này,
Ngươi tua ở lại ngõ rày xử phân."
Vâng lời Tường mới lui chân,
Giá ra khỏi cửa, dần dần dõi theo.
Thoát trông rất đỗi nghiêng-nghèo,
Gươm huy trước mặt người xiêu bên đường.
Những mong thoát chốn tai ương,
Lần theo chẳng tưởng chạy băng đạp vầy.
Trẻ già la khóc vang rây,
Xa trông mù-mịt, khói bay lửa hồng.
Chặt cầu đốt quán tưng-bừng,
Là mưu Tôn-Thuyết dứt chừng truy binh.
Than thay dân sự tan tành,
Loạn ly mới biết thảm tình nỗi nây.
Kim long vừa mới tới nơi,
Rốn xin dừng lại, đạo nay có lòng.
Song mà ai khửng tin cùng,
Chỉ đường Hồ Hiển thẳng dong giục truyền.
Kíp hầu bốn giá đi liền,
Đến nơi Thiên-mỗ đò thuyền vắng tanh.
Đánh thua, Tôn-Thuyết hậu hành,
Giục truyền hầu giá lui quanh trở đường.
Trường thi chốn ấy sẵn sàng,
Hầu ngài tới đó tạm an sẽ bàn.
Là vì ý gã dốc toan,
Hầu ra Tân-sở liệu phương phục-thù.
Các quan những kẻ theo phò,
Sợ oai vâng mệnh dám mô cãi lời.
Xế trưa đi mới tới nơi,
Tôi đòi chạy dõi rã-rời tay chân,
Vả thêm đói khát quá chừng,
Lỡ-làng hẩm-hút cũng dâng tạm dùng.
Cơm thô chút hãy đỡ lòng,
Mới rồi lại thấy dòng dòng hối đi.
Rằng Tây đuổi tới sau kìa,
Nếu mà chậm bước khôn đi khỏi vòng.
Xẩy nghe chi xiết hãi-hùng,
Giá sau kiệu trước băng đồng ruổi mau.
Đi tuồng hơn một gìờ lâu,
Tới nơi Văn-xá xin hầu vào đây.
Từ-đường Thích-lý chốn này,
Nghỉ quân đỡ mệt một dây tạm đình.
Giám-từ vội-vã sắm-sanh,
Dâng cần chưa kịp phỉ tình tôi con.
Lại nghe xao-xác nói ồn,
Trường thi bị đốt Tây dồn tới nơi.
Phải hầu ngự giá kíp dời,
Một đoàn tôi chúa tếch vời nhặt dong.
Mấy người yếu đuối ấu xung ,
Thảy đều lạc hậu khôn mong tiến tiền.
Dắt dìu đói khát ngả nghiêng,
Trông theo kịp giá truân chiên chi nài.
Đến làng vừa đã tối trời,
Giọn nhà Bá-hộ để ngài nghỉ-ngơi.
Dân mà có dạ hẳn-hoi,
Giọn bày cơm nước đãi mời quan quân.
Mờ mờ truyền kíp dời chân,
Đến nơi tự-quán vừa chừng buổi trưa.
Nghỉ chân cơm nước một giờ,
Qua nơi huyện Hải, huyện-thừa chực nghênh.
Kính dâng mọi sắm lễ sinh,
Lựa phu cắt việc hộ-hành thẳng ra.
Mấy nơi làng xóm trải qua,
Tấm lòng cần bộc đều ra dâng thành.
33- Xa-giá đến Quảng-trị
Xiết bao đường sá gập ghềnh,
Ngày hai mươi bốn Trị thành tới nơi.
Hành cung giọn chốn nghỉ ngơi,
Tỉnh thần Trương Đản truyền coi canh giờ.
Mông trần lao khổ tiệm thư ,
Lần nghe tin tức kinh sư dường nào.
Văn-Tường mấy thứ sớ trao,
Thảy đều giấu-diếm chẳng tâu sự tình.
Hỗ-tòng Phan Hiểu, Đễ, Hanh,
Lại cùng Nguyễn Phổ, Lương Thành theo sau.
Luận bàn luống những lo âu,
Chẳng qua mình lại họa nhau ngoa truyền.
Gửi xin Tân-sở kíp lên,
Ở đây thế ắt chẳng nên đâu là.
Trái tai Thái-hậu tâu qua :
"Đi đâu cho nhọc chẳng thà ở đây.
Dầu mà Tây có tới nay,
Đã đành sống chết rủi may nhờ trời.
Nguồn cao nước độc xa vời,
Nỡ đem tuổi tác tới nơi hiểm nghèo."
Phán rằng: "Ta vốn đã liều,
Huống đem xách cả đi theo thêm phiền.
Hãy phò thiếu chúa cho yên,
Mặc ai ở lại chỉ truyền khá vâng."
34- Tôn-Thất-Thuyết để các bà ở lại và đem vua Hàm-Nghi đi
Sợ e nín chẳng dám rằng,
Vài ngày lại thấy băng-xăng chốn nhàn.
Rằng: "Tàu tây tới biên giang,
Xin hầu chúa thượng kíp toan tiến hành."
Nghe lời cũng dạ hãi kinh,
Ngập-ngừng thiếu chúa bái trình xin đi.
Khôn cầm nướcmắt biệt ly,
Ân-cần huấn dụ khá ghi tronglòng.
Dặn-dò lời nọ chưa cùng,
Gửi dồn xin chớ thong-dong trễ-tràng.
Tạ từ lên võng vội-vàng,
Quan quân ủng-vệ trông đường ruổi mau.
Khỏi cung đặng một giờ lâu,
Trở về các giám cùng nhau tâu quì.
Rằng: "Tôn-Thuyết chẳng cho đi,
Khiến đều ở lại hộ tuỳ ba cung.
35- Được tin Nguyễn văn Tường
Hãy đương tin tức trông mong,
Bỗng đà có thấy sớ phong dâng vào.
Ngày hai-mươi-ba mới trao,
Văn-Tường nhắn gửi: "Xin mau phản hồi.
Chiêu an các việc xong rồi,
Pháp quan khiến khá hầu ngài hồi loan .
Thành trì đều thảy giao hoàn,
Xin làm Bảo-hộ ngỏ toan giúp phò."
Phán rằng: "Lý ấy có mô,
Họa là trời xuống phúc cho có là.
Vả nay chúa thượng dời xa,
Phải đòi trở lại cùng ta đồng đoàn."
Bèn sai thị-vệ băng ngàn,
Tin cho đặng biết phải toan gấp hồi.
Tiếp liền Tôn-Thuyết tư-lai,
Trách rằng: "Các gã lầm lời Nguyễn-Văn.
Đã không biết lý phải chăng,
Một lòng cùng giặc gian thần mà nghe.
Nếu mà nghe thửa lời kia,
Này gươm ba thước quyết lìa chẳng dung."
Các quan san-sát hãi hùng,
Tới lui hai ngả đều cùng phải e.
Kẻ theo Tôn-Thuyết một phe,
Bàn rằng việc ấy phải dè chưa tin.
Ngày ba mươi lại tiếp liền,
Văn-Tường sớ giục kíp xin phản hoàn.
Thánh Tâm quyết định mới troàn :
"Chúng ngươi tua khá liệu toan rước về .
Nói chi thời cũng chớ nghe,
Vâng ta ý chỉ sợ gì đó vay.
Các quan vâng mệnh lo thay,
Một ngươi Trương Đễ gửi rày xin đi.
Ba ngày trông chẳng thấy chi,
Hẳn là có ý diên-trì mạn-khinh.
Vì người mưu sự chẳng thành,
Lại toan kiếm chước giữ mình lánh xa.
Nếu mà chờ đợi dần-dà,
Thất cơ e nỗi việc ra khó lòng.
Bèn truyền chúng thảy hội đồng,
Phải lo hộ giá lưỡng cung tiên hồi.
Nay ta về trước thử coi,
Dường nào rồi sẽ liệu bài rước vua.
Các quan nghe lệnh sợ lo,
Xin vâng thánh chỉ dám mô trễ tràng.
Nguyễn Hanh ý hãy nói bàn :
Nay về tua phải lên đường nửa đêm.
Mới là thận mật khỏi hiềm.
Thoảng qua đã biết lòng tiềm dị mưu.
Quở rằng: "Tăm tối đi đâu ?
Hay là ngươi tính khác nhau lý nào.
Không nghe xem thử làm sao,
Lập mưu yên kiết há nào lạ chi,"
Thấy lời Thái-hậu sinh nghi,
Cúi đầu chịu quở lánh đi một bề.
Chú thích:
cô chú : là một thành-ngữ nói có bao nhiêu tiền đem đánh bạc một tiếng cuối cùng để quyết được thua.
thiện hành : là tự chuyên làm việc gì.
hư nên : là thắng bại.
Ngửa nhờ trời đất phù-trì lắm thay : Đó là một sự mơ-tưởng, đem sự mong-muốn của mình mà diễn ra như là sự thực, chứ lúc bấy giờ ban đêm Tây nấp, không ra đánh, sao mà biết là được thua ? Sáng ngày Tây tấn-công thì quân của Tôn-Thất Thuyết vỡ tan.
ky : ky ta thường đọc là cơ.
Từ-giá : là xa giá bà Từ-dụ Thái-hoàng Thái-hậu.
tua : là do chữ tu là nên đọc trệch ra.
Giá : đây nói xa-giá của các bà và vua.
Kim long : Làng Kim-long, thường gọi là Kim-luông ở gần thành Huế, dân làng ấy theo đạo Da-tô.
bốn giá : là : giá bà Từ-dụ Thái-hoàng Thái-hậu; giá vợ cả vua Dực-tông và mẹ nuôi ông Hoàng-trừ Dục-đức; giá bà vợ thứ vua Dục-tông và mẹ nuôi vua Kiến-phúc; giá vua Hàm-nghi.
Dâng cần : là dâng chút lễ thành.
ấu xung : là trẻ thơ.
truân chiên : là khó-khăn không tiến lên được.
tự-quán : là đền chùa.
Mông trần : là bị long-đong vất-vả.
tiệm thư : là tạm nguôi.
giám : là các quan thị hầu vua ở trong cung.
hồi loan : là xa-giá trở về.
Chúng ngươi tua khá liệu toan rước về : Ý nói phải tìm cách rước vua Hàm-nghi về.
yên kiết : là bắt bí và dùng sức mà bắt ép.