ông Đồng trời
Tác giả: Nguyễn Thụy Long
Ông "Đồng Trời" vuốt bộ râu ngả bạc, vấn lại cái búi tó củ hành, giắt lại cái răng lợn rừng lên tóc.
Ông cúi xuống xắn ống quần móng lợn, buộc lại chiếc thắt lưng điều. Mặc dầu trời lạnh, ông vẫn cởi trần, da ông nhăn nheo vì tuổi tác, nhưng khoẻ mạnh rắn rỏi.
Ông Đồng Trời rút phắt thanh mã tấu cắm ở thân cầy chuối, hoa một đường bao quanh người, dừng lại rồi nhìn cung kính về hướng mặt trời mọc. Phía bên này núi Tam Đảo là vùng Vĩnh Phúc Yên. Rặng núi chưa tan hết sương mù.
Tôi nhìn thấy ở mũi mã tấu một dòng nhựa chuối chảy ròng ròng. Tôi tưởng tượng ngay thanh mã tấu đó vừa chém ngập vào thân thể một thằng giặc Tây, và chất nhựa kia là dòng máu đỏ lòm của hắn ta. A, tại sao tôi lại căm thù thực dân đến vậy? Tôi nhớ đến gương hy sinh anh dũng của một anh Kim Đồng nào đó, như đã nghe kể lại, xem diễn kịch ngoài đình.
Tôi ngắm ông Đồng Trời.
Ông có dáng uy nghi của ông tướng hát tuồng ở rạp Quảng Lạc Hà Nội. Con người ông đầy sắc thái của một con người thái cổ. Mắt xếch, lông mày xếch mũi mác, những móng tay ông dài nhọn, khoằm như vuốt chim ưng. Tóc bới gọn ra sau và được chêm bằng một cái răng lợn rừng (theo lời ông kể lại). Ông chính là một tì tướng của cụ Hoàng Hoa Thám (cũng chính lời ông kể).
Tôi cung kính nhìn ông Đồng Trời biểu diễn và phục lăn.
Sau khi ông Đồng Trời biểu diễn bái tổ xong, ông bước một bước ra trước, xoạc cẳng đứng tấn vững chãi. Lưỡi đao kẹp đọc sau cánh tay theo thế sắp tấn công của một con bọ ngựa. Đôi mắt ông quắc lên, thình lình hét lên một tiếng:
- Cha chả, sát!...
Tôi chỉ kịp thấy thân hình gọn ghẽ của ông tung lên như ngọn pháo thăng thiên, lưỡi đao chém gió vụt một cái, và nửa cây chuối đổ xầm xuống. Lưỡi đao ngọt quá đến độ một giây sau cây chuối mới đổ. Ông Đồng Trời xoay người một vòng như con vụ đứng theo thế chụm chân lúc đầu, mũi đao chỉ xuống đất tay kia xoè ra áp lên tay cầm chuôi đao. Ông chào theo thế con nhà võ, một kiếm khách.
Tôi lại phục lăn. Bọn nhi đồng đứng xem reo rầm lên:
- Hoan hô đồng chí " ông Đồng Trời".
Tôi rút phắt thanh kiếm gỗ ra khỏi sợi dây buộc ở cạp quần, múa mấy đường ngậu xị hạ những thằng Tây tưởng tượng. Ông Đồng Trời cưới hê hê khoái trá.
Bọn nhi đồng nhô con lên tiếng can tôi:
- Thôi, xin can đồng chí Long vàng,. mười hai thằng lính Tây chết tiệt rồi.
Cơn "hăng máu của tôi" hạ xuống.vì những lời chế giễu của bạn bè.
Tôi vốn là thằng bé cứng đầu và bắng nhắng ở khu phố Nỉ nhỏ bé này. Hỗn danh của tôi là thằng Long vàng, vì hay mặc quần đùi màu vàng, chạy chơi la hét om xòm từ đầu phố đến cuối phố.
Tôi nói phét mình biết võ... gia truyền, đã từng đá lòi phèo một tràng Tây con ở Hà Nội. Bọn nhóc tì ở vùng quê mùa này tin rầm rầm, tin răm rắp. Tôi với mọi tính nết xấu xa, láu cá được ngụy trang bằng những lời khoác lác, như cha tôi, bác Cả của tôi...
Tôi lại là thứ con cháu địa chủ ruộng đất ăn từ Vĩnh Phúc Yên lên đến Thái Nguyên. Những lần đồn điền ông bà ngoại tôi mổ bò khao quân là dịp tôi được các anh bộ đội bế ăm, dậy hát.
Cha tôi chưa tới bốn mươi tuổi đã được gọi là "đồng chí cụ, mẹ tôi tuổi xuân còn hơ hớ đã được gọi là mẹ chiến sĩ. Ông bà ngoại tôi được gọi là đồng chí "cụ cố, ông bác Cả của tôi lại được dịp ngồi khề khà uống rượu, vuốt râu, nhắm với lòng lợn tiết canh, chấm mắm tôm với một anh tiểu đoàn trưởng răng đen mã tấu, nói phét sướng mồm:
"Ngày xưa khi tôi còn làm cách mạng với Cụ ở Pắc Bó..."
Đồng chí phó Ngọt bước ra, tay anh lăm lăm thanh mã tấu đẽo bằng gỗ thật đẹp, vì anh vốn là thợ mộc ở khu phố Nỉ. Bây giờ anh là du kích xã. Nhất nhất anh theo từng động tác của ông Đồng Trời, anh chỉ không có râu để quết, không có tóc dài để búi tó củ hành. Ông Đồng Trời hô sát, anh cũng hô sát. Một lúc sau anh thở hồng hộc. Ông Đồng Trời lắc đầu:
- Đồng chí yếu thế làm sao chém đứt đầu được thằng Tây, cổ nó to gấp hai cổ người mình, bằng cổ con bò mộng.
Đồng chí phó Ngọt nhe hàm răng cải mả cười ngu ngơ:
- Đồng chí "Đồng Giời" cứ quyện cho em một ít nâu nà em giỏi giền.
Tôi nhại theo giọng nói ngọng của anh phó Ngọt rồi ôm bụng cười bò lăn bò càng.
Nắng đã lên cao, sương mù tan hết, bọn nhi đồng tản đi chơi. Cô Thắm, con gái ông Đồng Trời tất tả chạy ra gọi:
- Thầy ơi, về có người gọi đi cúng giải sao.
Mắt ông Đồng Trời sáng rực, ông hấp tấp nhặt thanh mã tấu và chiếc áo:
- Mày chạy về trước nói với người ta chờ tao một nhát!
Còn lại đồng chí phó Ngọt. Anh ta nhìn ông Đồng Trời, rồi nhìn xuống thanh mã tấu gỗ của mình. Anh lại nhe răng cười ngu ngơ.
Tôi nhăn mặt, nhe răng nhại đồng chí phó Ngọt rồi ú té chạy, tôi la hét om xòm trong dãy phố Nỉ, vung kiếm gỗ chém lung tung vào bụi cỏ bên đường...
Mùa đông đã đến đây rồi...gửi mau áo rét...cho người... chiến binh... Nào ai vui thú gia đình... gửi cho chiến sĩ chút tình... nhớ thương...
Tiếng đồng ca của bọn nhi đồng âm vang sân đình. Đêm lạnh như cắt da, chiếc áo len đan theo kiểu trấn thủ của tôi không đủ ấm. Tôi phải hát thật to để quên rét, vậy mà răng tôi vẫn đập vào nhau cầm cập. Tôi ôm lấy một thằng bạn nhỏ để hai đứa truyền hơi ấm cho nhau.
Ngọn gió Thượng Lào năm nay thổi về Việt Bắc quá sớm. Rét đến độ làm nứt nẻ chân tay, cây cũng trụi lá.
Bài hát gợi nhớ cho tôi, và có thể những đứa trẻ bằng lứa tuổi tôi đang ngồi quây quần bên nhau, mơ tưởng đến những anh chiến sĩ ngoài tiền tuyến. Những giai thoại về anh Kim Đồng nào đó vẫn bừng bừng trong đầu óc non nới của chúng tôi. Những gương hy sinh dũng cảm làm sôi động tâm hồn tôi. Những chiến công ôm bom ba càng lao vào xe tăng địch, những quyết tử quân lấy xác mình bịt lỗ châu mai. Những hình ảnh oai hùng đó được tôi mường tượng qua hình ảnh đồng chí Viên, người hiện đang coi sóc đám nhi đồng chúng tôi, cán bộ Thông Tin Văn Hoá phố Nỉ.
Anh Viên chỉ còn một chân. Anh là chiến sĩ thuộc trung đoàn bảo vệ thủ đô, từng dự những trận đánh long trời lở đất với giặc Pháp ở Hà Nội khi bùng khói lửa. Anh đã để lại cố đô Thăng Long một bàn chân. Đồng chí Viên hát hay, đánh đàn măng đô lin như gió.
Bài hát dứt, đồng chí Viên ngừng đánh nhịp. Tiếng bọn nhi đồng nhao nhao yêu cầu:
- Yêu cầu đồng chí Viên kể chuyện bộ đội Bình Xuyên ở Nam Bộ.
Trong ánh sáng nhấp nhá của sao đêm, tôi nhìn thấy nụ cười tươi tắn của đồng chí Viên, giọng nói của đồng chí đầm ấm:
- Chuyện bộ đội Bình Xuyên chiến đấu anh dũng ở Nam Bộ anh đã kể cho các em nghe nhiều rồi. Hôm nay anh kể chuyện khác, cũng xảy ra ở Nam Bộ...
- Hoan hô đồng chí Viên!
Đồng chí Viên tủm tỉm cười, nhìn sang đám thiếu nữ, mắt anh dừng lại ở chị Thắm, con gái ông Đồng Trời:
- Anh sẽ kể cho các em nghe, nhưng với điều kiện khi anh kể xong, một chị phụ nữ phải hát.
Bọn nhi đồng và thiếu nữ nhao nhao:
- Chị Thắm xung phong hát Cò Lả!
Trong đám thiếu nữ có tiếng cười rúc rích:
- Nhận lời đi đồng chí Thắm.
Mãi một lát sau, chị Thắm mới dụi dè đứng dậy:
- Thưa đồng chí Viên, em xin nhận lời yêu cầu của đồng chí.
Tiếng vỗ tay rào rào cùng lời hoan hô. Đồng chí Viên giơ tay ra hiệu cho chúng tôi giữ trật tự, im lặng.
Tất cả im phăng phắc, tiếng nạng gỗ của đồng chí Viên khua lọc cọc trên sân đình, anh chống nạng đi đi lại lại
Anh ngồi xuống một cái bệ:
- Hôm nay anh muốn kể cho các em nghe về chuyện trung tướng Nguyễn Bình, tư lệnh quân đội Nam Bộ, chuyện mới toanh anh mới nhận được và được lệnh phổ biến trong quần chúng.
Chúng tôi như cái máy ca tụng nào biết Nguyễn Bình là ai, được nói đến phải là người anh hùng, đồng thanh hô:
Hoan hô đồng chí Nguyễn Bình!
- Hoan hô!
Đồng chí Viên giơ tay:
- Khoan đã nào!
Anh ta thở dài:
- Tôi tiếc cho sự nghiệp đồng chí Nguyễn Bình, nếu ông ta là anh hùng thật sự của Việt Nam yêu dấu thì những lời hoan hô của các em đẹp biết bao nhiêu.
Tôi lo lắng thay cho vị trung tướng đó, ông ta đã làm gì, đầu hàng giặc Pháp chăng, hay lại dại dột làm Việt gian?
Đồng chí Viên hình như đoán biết sự lo lắng của đám trẻ. Anh ta chậm rãi nói:
- Trung tướng Nguyễn Bình là một tướng tài giỏi, một người chỉ huy trăm trận đánh trăm trận thắng. Ông ta từng làm nên bao chiến công hiển hách. Nhân dân nhớ ơn ông ta. Chúng tôi thở phào sung sướng.
Anh Viên ngưng kể ngước nhìn trời sao lưa thưa như cố nhớ lại. Lát sau anh tiếp:
- Chúng ta đã xét đến cái công của trung tướng Nguyễn Bình, bây giờ chúng ta xét đến cái tội. Thật tình tôi tiếc cho tài năng của ông ta là một tướng tài nên kiêu căng, sau những chiến thắng và chiến công, ông ta thật khốn khổ tệ hại. Hơn nữa ông ta còn giết hại đồng bào nào làm trái ý ông, một tật xấu nhất là ông ta thường bắt phụ nữ hãm hiếp. Tôi được lệnh phải học tập và phổ biến để tránh chuyện ngộ nhận, hay những nguồn tin tức xuyên tạc của bọn Việt gian tung ra. Sự thật là thế...
Thật anh tôi không biết danh từ hãm hiếp là gì, nhưng tôi tưởng tượng ra chuyện đó phải dã man tàn bạo lắm. Tôi hăng hái giơ tay hét lên:
- Đả đảo, xử tử Nguyễn Bình.
Bọn nhi đồng đả đảo rùm trời. Đồng chí Viên mãi một lúc mới vãn hồi được trật tự, khí thế đấu tranh bừng bừng trong những cái đầu bọn nhô con vắt mũi chưa sạch. Anh ta nhìn thẳng vào chúng tôi:
- Bác Hồ đã nghĩ đến điều đó, bác Hồ đã ra lệnh gọi trung tướng Nguyễn Bình về chiến khu Việt Bắc để khuyên nhủ và giáo dục lại tư cách của một chiến sĩ. Nhưng trên đường về, trung tướng Nguyễn Bình bị nhân dân ghét bỏ nên nhân dân đã giết chết. Thật tiếc cho một vị tướng hữu tài mà vô hạnh.
Bọn nhi đồng chúng tôi thở phào, câu chuyện dứt, chúng tôi bàn tán, thảo luận lao nhao về công, tội của tướng Nguyễn Bình. Có một lập luận tướng Bình còn nguy hiểm hơn cả bọn Việt gian bán nước. Đồng chí Viên đánh giá cao lời nhận xét đó. Rồi tôi thấy anh ta nhìn về phía chị Thắm tủm tỉm cười. Chị Thắm e lệ cúi xuống, chiếc khăn vuông mỏ quạ của chị đội xùm xụp trên đầu. Bọn thiếu nữ huých đẩy giục giã mãi chị Thắm mới đứng dậy hát.
Giọng hát trong trẻo của chị như kết bằng gió, bằng hương thơm đồng nội:
- Con cò...cò bay lả bay la...Bay về...về ông nội...bay ra...ra...chiến trường...tình tinh tang... tang tính tình... cô mình ràng, cô mình ơi, ràng có nhớ...nhớ anh chăng... ràng có nhớ... nhớ anh chàng... ràng có nhớ... nhớ anh chăng...
Đêm khuya dần, tiếng hát câu ca không còn hăng hái như lúc đầu. Nhi đồng giải tán, đứa nào về nhà đứa nấy.
Gió đêm lạnh buốt vi vút thổi trong khu phố vắng.
Tôi liếc nhìn về phía nhà tôi, nhà vẫn có ánh sáng đèn. Tôi nghe thấy tiếng cười của bác tôi vẳng ra. Tôi yên tâm, mình có thể đi chơi một lúc nữa. Tôi thu hai tay vào trong bọc lủi thủi đi trên đường phố, tôi nhìn vào khu chợ Nỉ nơi có nhiều cây cổ thụ. Người ta đồn rằng ngày xưa nơi đó có nhiều yêu tinh.
Tôi mím chặt môi, sờ vào túi áo đụng chiếc súng cao su và một túi đạn đá xanh. Tôi vững bụng hơn dấn bước vào chợ, tự nhủ mình sẽ đi vòng đường tắt về nhà. Tôi men theo những lều quán chợ trống dưới bóng cây đa âm u. Tôi bỗng hồi hộp, dón dén bước nhẹ nhàng như bước chân mèo hoang. Tay tôi cầm chắc chiếc chạc súng cao su, viên sỏi nạp san trong miếng da đệm. Tôi luồn lỏi đi, đôi mắt dào dác cố chọc thủng màn đêm.
Tôi bỗng choáng người, lẫn trong tiếng gió thổi rì rào, tôi nghe có tiếng người thì thào nói chuyện. Run bắn lên, ngồi thụp xuống và thấy lạnh gáy, tôi thụt cổ lại mong cái cổ mình như cổ con rùa. Tôi nghe giạng chân đi trong chợ và nhìn về phía đó một đôi trai gái ôm nhau đi về cái quán có quầy rộng ở dưới gốc cây đa. Tôi nghe rõ tiếng nạng lọc
- Mình ngồi lại đây em? ở đây khuất gió.
Người con gái lo lắng, đúng là tiếng chị Thắm:
- Khuya rồi em phải về, không thầy quở.
Tôi suýt reo lên vì mừng. Hai người ấy không ai xa lạ, chính là đồng chí Viên và chị Thắm. Nhưng tôi bình tĩnh ngay, tôi tò mò muốn xem họ làm gì. Tôi men đến gần, nấp sau gốc đa. Tôi thấy đồng chí Viên ôm chị Thắm, hôn chùn chụt lên má chị, bàn tay anh thoăn thoắt trong chiếc áo bông của chị, làm chị cười lên khanh khách:
- Nỡm, làm người ta buồn buồn là ý?
Chị Thắm nguây nguẩy:
- Thôi em về đây, đừng làm thế thầy biết thì chết đòn.
Tôi nghe rõ tiếng thở hổn hển của đồng chí Viên:
- Thầy em biết sao được, thầy em đang ngồi tán hươu tán vượn ở nhà thằng tiểu tư sản phản động kia kìa, đến hư thân vì chúng nó mất thôi, huyện đang điều tra.
Thì ra đồng chí Viên gọi bố tôi, bác tôi là thằng tiểu tư sản phản động. Tôi nghe tiếng chị Thắm ứ hự, tôi nhìn lén, đồng chí Viên vật chị Thắm ngã xuống phản rộng.
Chị Thắm khóc rấm rút:
- Anh đã phá hoại đời tôi rồi, trời ơi, thầy tôi biết thì tôi chết mất.
Đồng chí Viên đỡ chị Thắm ngồi dậy:
- Đồng chí thật hủ lậu, bây giờ là đời sống mới, chuyện luyến ái là chuyện thường, có gì đâu mà phải quan trọng quá vậy, đồng chí cần phải học tập nhiều, tôi sẽ đích thân chỉ dẫn cho đồng chí, mình là người tiến bộ, chỉ có hạng địa chủ, phong kiến phản động mới quan trọng hóa vấn đề, mình là giai cấp bần cố nông của Xã Hội Chủ Nghĩa Mác Lê Nin.
Mặt tôi nóng ran, tức tối, tôi nghĩ đến danh từ địa chủ phản động của gã gán cho gia đình tôi. Tôi căng dây cao su, nhắm trúng chiếc chân cụt của hắn, buông đạn.
Nghe tiếng la ối của đồng chí Viên, tôi lủi nhanh, chuồn thẳng ra cánh đồng, đi tắt cửa sau vào nhà. Bác tôi đang ngồi nói chuyện với ông Đồng Trời, bác vuốt những sợi râu bạc loe ngoe:
- Sao lại có tin vô lý vậy được, Tây nó muốn nhảy dù, việc trước hết là chúng phải khai quang nơi nào chúng định đổ quân, gần như thành bình địa. Chứ có đâu mà khơi khơi nhảy dù xuống. Lệnh cắm chông khắp cả đối núi và bãi trống là lệnh tầm bậy. Bao nhiêu là sức người sức của, tre rừng đốn về rồi đẽo rồi gọt để cắm cả những đồi núi mênh mông này thật là vô lý. Như vậy mà phát động phong trào bắt dân phải bỏ sức người sức của và tự nguyện làm cu ly để làm một chuyện vô lý thì tài thật đấy. Ai không có công có sức thì phải góp tiền bạc, để rồi đi đâu, vào túi ai, chẳng ai cần biết. Công việc đồng áng, tăng gia sản xuất bỏ tuốt...
Bác tôi tặc lưỡi một cái:
- Thôi tôi hiểu rồi, đây là một công việc vác ngà voi ăn cơm nhà vác ngà voi, chính sách như thế, chỉ con chó trắng nói con chó đen, dân nói theo, xúi trẻ con ăn cứt gà được, cuộc kháng chiến này ắt thành công.
Bác tôi nói xong cười khè khè, ông Đồng Trời lại hỏi:
- Thưa cụ nói gì thế ạ!
- Tôi nói cuộc kháng chiến này ắt thành công, khi người ta dậy được dần nghe theo. Ông Đồng Trời hình như hiểu câu được câu không, nhưng cũng gật đầu:
- Vâng, chính vậy.
Bao giờ thì cụ phải đi đốn tre về vót chông cắm lên núi chống Tây nhảy dù?
- Dạ, cũng mai kia thôi, khi nào các ông ấy bảo thì đi, không nghe lời họ không được cụ ạ.
- Chính thế.
Bác tôi nói chuyện khác, bây giờ là chuyện vui, ông cười hô hố, nói phét sướng miệng. Tôi đang định len lén vào giường ngủ, bác tôi gọi giật lại:
- Long, cháu đi đâu về đó?
- Dạ, cháu ra đình họp nhi đồng rồi tập hát!
Bác tôi kéo tôi vào lòng xoa mái tóc ẩm sương đêm của tôi:
- Tối nào cũng bắt con người ta tập hát tập hỏng đến ốm chết thôi, cháu ạ!
Hơi ấm từ người bác tôi tỏa ra, làm tôi trở nên lười biếng. Tôi nằm im trong lòng bác và thấy tâm hồn mình thoải mái. Phút chốc tôi quên chuyện xảy ra hối nãy. Tôi rúc đầu vào chiếc áo bông của bác, quên chuyện mách ông Đồng Trời về chị Thắm bị đồng chí Viên hành hạ đến phát khóc ngoài chợ.
ậ
Quân đội viễn chinh Pháp thình lình tấn công từ mạn Phủ Lỗ lên. Lệnh tiêu thổ kháng chiến ban hành khẩn cấp. Cha tôi gạt nước mắt châm ngọn lửa vào cơ nghiệp của mình. Gia đình tôi chạy tản cư vào đồn điền Nam Lý của ông ngoại tôi. Đêm ra đi tôi nhìn lửa bốc cháy khu phố Nỉ mà lòng thấy rưng rưng buồn.
Quân Pháp chỉ càn qua một trận rồi rút lui, chúng chiếm núi Đôi làm đồn bót. Gia đình tôi trở lại phố Nỉ ngay sau khi dút tiếng súng.
Điều đầu tiên hàng xóm hỏi thăm nhau là ai còn ai mất.
Ông Tổng Tề làng Trung Giã thượng bị Tây chặt đầu bằng dao cùn ngắc ngoải mãi mới chết.
Cô Thắm con gái ông Đồng Trời chạy không kịp bị hàng chục thằng Tây hiếp và còn nhiều nữa, chẳng hạn một số người bị qui tội là Việt gian phản động bị bắt đi chôn sống đâu đó.
Sinh hoạt của dân chúng phố Nỉ trở lại trong cảnh điêu tàn. Những mới lá dựng lên tạm thời sơ sài để che mưa nắng. Tôi cùng bọn trẻ còn lại, tiếp tục hoạt động nhi đồng. Ngôi đình rộng năm gian ngày nay chỉ còn lại đống gạch vụn, đêm đêm chúng tôi đến đó tập hát, những bài hát mới mẻ hơn, căm thù giặc Pháp cướp nước hơn và nhất là yêu bác Hồ hơn:
- Bác Hồ ơi!... Bác Hồ có biết... sau lũy tre xanh có đoàn em bé chi biết yêu bác Hồ Chí Minh...
Hoặc bài hát chế giễu mấy ông sư mà đồng chí Viên thường xui bọn chúng tôi đến trước cửa chùa hát: Ba cô đội gạo lên chùa... một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư... sư về sư ốm tương tư, ôm lăn ôm lóc cho sư trọc đầu... Tôi thấy vị sư già trụ trì chắp tay trước ngực đôi mắt buồn vời vợi nhìn chúng tôi. Và chúng tôi cười vang khi thấy hai dòng lệ của vị sư già ứa ra, những vết nhăn ở mắt ngăn lại và loang ra bóng nhoáng... Bọn nhi đồng quái quỉ chúng tôi hỗn như ranh còn khám phá ra nhiều chuyện động trời khác, chẳng hạn đồng chí Viên từng rủ các chị phụ nữ vào chợ hằng đêm, những chiếc váy sồi ngắn cũn cỡn đối với việc làm ma mãnh của đồng chí Viên thật dễ dàng. Nhưng chuyện đó chúng tôi tự khuyên bảo nhau nên kín miệng, hở ra không chừng bị người lớn cho ăn đòn. Tôi cũng khám phá ra một thằng nhô leo lên cây soạn đầu nhà nghe ngóng bác tôi, bố tôi nói chuyện để tố cáo với đồng chí Viên. Tôi cho cu cậu một viên đạn vào mông đít, cu cậu sợ đến són đái.
Tôi nổi danh thằng Long vàng bắn súng cao su, trăm phát bắn trăm phát trúng.
Buổi tối hôm đó chúng tôi lại tụ tập ở sân đình học hát.
Bỗng tất cả đều im bặt, khi thấy bóng dáng chị Thắm. Chị đứng dựa bên một bức tường đổ, nhìn chúng tôi, cái nhìn sao buồn bã lạ...
Không ai nói với chị một lời và chỉ nhìn lại. Chị lạc lõng, xa lạ ngay chính với những người bạn của chị. Tôi nhận thấy trong thời gian gần đây, không ai còn muốn nhận chị là bạn hoặc người cùng đoàn thể.
Tôi nghe thấy một tiếng nói trong đám phụ nữ:
- Con Tây hiếp còn vác mặt đến đây làm gì.
Đồng chí Viên ngước lên nhìn chị Thắm rồi im lặng. Chị đứng một lúc rồi bỏ đi. Tiếng hát lại cất lên, đuổi theo từng bước chân lạc lõng trong phố Nỉ điêu tàn.
Bóng dáng chị Thắm mờ dần trong sương đêm. ánh trăng đêm nay sáng vằng vặc, bầu trời như được nạm bạc bằng lớp mây vẩy tê tê. Tự nhiên tôi thấy thương chị Thắm quá. Sau ngày bị Tây hiếp, vẻ vui tươi ngày xưa của chị không còn nữa.
Tôi cũng không được nghe điệu hát cò lả của chị. Tôi không hiệu tại sao hôm nay chị lại mò ra đây, chị nhớ thương gì ở ngôi chùa bị tàn phá này chăng?
Sau buổi tập hát, tôi được đồng chí Viên giữ lại để nói chuyện cần. Đồng chí Viên rủ tôi ra bãi đá bóng ngồi chơi. Khung cảnh ở đây rộng rãi, thoáng đãng, tôi có thể nhìn rõ ngọn Tam Đảo hơn. Những đám rừng cháy xa xa trên sườn non như những vệt lân tinh của con dời bò trườn trên tường. Hình ảnh đó với tôi thật quen thuộc. Chiếc chân cụt của đồng chí Viên gác lên chiếc nạng gỗ đu đưa, đồng chí Viên thân mật khoác vai tôi:
- Em có ghét giặc Tây không?
Tôi gật đầu, đong chí Viên hỏi tiếp:
- Em có ghét những kẻ theo Tây không? Những kẻ Việt gian bán nước?
- Có!
Đồng chí Viên cười nhẹ, nhìn thẳng vào mặt tôi:
- Ai nói xấu bác Hồ của các em nhi đồng, em có ghét không?
- Có ạ!
Đồng chí Viên xoa đầu tôi:
- Em ngoan lắm, em sẽ được bác Hồ thương yêu, em được làm cháu ngoan bác Hồ.
Tôi nghĩ đến nhân vật bác Hồ, người từng gây ấn tượng đẹp đẽ trong đầu tôi qua những câu ca lời hát: Bác chúng em dáng thanh thanh, người cao cao, râu dài...
Tôi lột chiếc mũ chào mào nhung đen xuống, ở trên đó tôi gắn một ngôi sao vàng bằng đồng, trong lòng ngôi sao có tấm ảnh bác Hồ nhỏ xíu. Tôi giữ huy hiệu này như báu vật. Tôi từng khoe bọn nhi đồng quê mùa ở khu phố Nỉ:
- Bố tao mua cho tao hồi cách mạng tháng Tám ở Hà Nội đấy, tao có trông thấy bác Hồ thật rồi, vào đêm rằm tháng Tám ở thủ đô. Nhi đồng Thủ đô tụi tao diễn kịch ông Đinh Bộ Lĩnh cưỡi trâu quanh hồ Hoàn Kiếm, tao được bác Hồ xoa đầu...
Thật ra tôi nói phét để loè bọn nhi đồng nhà quê, tôi chưa bao giờ được bác Hồ xoa đầu, tôi chỉ nhìn thấy bác Hồ từ phía xa, giữa lớp sóng người trùng điệp lô nhô
Đồng chí Viên đội lại chiếc mũ chào mào lên đầu tôi, thân mật vỗ vai:
- Em hãy tố cáo tất cả kẻ nào nói xấu bác Hồ, nếu cha mẹ chú bác em có phản động em cũng đừng ngần ngại, mình đã làm cách mạng bắt buộc phải gạt bỏ tình cảm riêng tư.
Lời nhắn nhủ của đồng chí Viên làm tôi lạnh toát người, tôi hiểu ngụ ý của câu nói ấy. Tôi đứng dậy, kiếm cớ:
- Em về đây!
Đồng chí Viên vẫn ở nguyên chỗ cũ, tôi nhìn thấy nụ cười méo miệng bẩm sinh của anh ta, giọng nói của anh ta trở nên nghiêm nghị như ra lệnh:
- Em là cháu ngoan bác Hồ, em là nhi đồng tiến bộ ở Thủ đô nên em cần làm gương cho các em nhi đồng khác.
Tôi ù té chạy về nhà. Bác tôi vẫn ngồi uống trà. Tôi leo lên nằm rúc đầu vào lòng bác, bàn tay xương xấu của bác vuốt lên tóc tôi:
- Chó con, cứ dầm sương rồi đến ốm mất thôi! Tự nhiên tôi thấy thương yêu bác tôi hơn bao giờ hết. Tôi lắng nghe từ ngoài đường vẳng vào tiếng nạng gỗ khua lọc cọc của đồng chí Viên. Tôi ôm chặt lấy bác:
- Bác ơi, bác đừng nói xấu cụ Hồ nữa nhé.
Bác tôi ngạc nhiên nhìn sững tôi, đôi mắt bác từ từ dịu lại, bấc ôm chặt tôi vào lòng:
- Khuya rồi đó, cháu yêu của bác đi ngủ nhé!
Trong giấc ngủ chập chờn tôi nghe thấy tiếng ho của bác, bác vẫn ngồi nhìn ngọn đèn dầu lạc, tiếng ngâm thơ quen thuộc của bác lại cất lên:
Quân bật kiến Hoàng Hà chi thủy
thiên thượng lai
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi?
Đêm về khuya, thỉnh thoảng tôi lại choàng thức giấc vì tiếng súng nổ cầm canh từ đồn Tây ở núi Đôi bắn đi. Vòng tay ôm của bác tôi sao mà ấm cúng thế.
ậ
Ba chiếc máy bay cổ ngỗng quần trên bầu trời chói nắng. Tiếng loa lẫn tiếng trống ngũ liên vang rền khu phố Nỉ. Chợ Nỉ nhốn nháo, dân chúng chạy túa ra đồng, kêu gào thất thanh.
Một chiếc cổ ngỗng bay vút lên cao, tôi chỉ nghe thấy tiếng động cơ máy bay xé gió rít lên khi đâm bổ xuống, kế đến tiếng đạn đum đum nổ giòn rã. Tiếng bom rơi rung chuyển cả căn hầm tôi đang nấp, ngực tôi tức thở Tôi nghe tiếng kêu rú của đàn bà, tiếng báo cáo tình hình ngọng líu của anh du kích phó Ngọt:
- Tầu bay địch đã bắn và thả bom nàng Trung Giã, nàng đang bốc cháy, yêu cầu đồng bào trật tự, ai lằm nguyên chỗ lấy, không được chạy nộn xộn.
Tiếng máy bay hú lên, tiếng đạn bom lại nổ long trời lở đất át cả tiếng báo cáo của du kích phó Ngọt.
Máy bay quần khoảng mười lăm phút rồi bay đi, xung quanh tôi lặng lẽ đến khủng khiếp. Tôi ngửi thấy mùi khen khét của khói súng, mùi đất khô, mùi tanh lờm lợm, tôi nín thở nghe ngóng. Một hồi kẻng rung, tiếng kêu gào bùng lên:
- ới Tí ơi! Mày ở đâu lên tiếng cho bu biết?
- Thầy ơi, Bu ơi! Con còn sống!
- Làng Trung Giã cháy to quá, bà con ơi!
Tôi nhảy ra khỏi hầm, tôi cũng kêu gào cuống lên:
- Bố ơi, mẹ ơi, bác Cả ơi!
Cảnh tượng lúc đó vô cùng hỗn độn. Anh du kích phó Ngọt mặc bộ quấn áo vải nâu, ống quần buộc dây lạt túm lại, đi chân đất, ngang bụng thắt một sợi dây thừng, một tay cấm loa, một tay cầm mã tấu. Trên chiếc mũ đan tre như cái sọt ngụy trang đầy lá cây. Anh ta không ngớt kêu gọi đám đông, cảnh giác:
- Đồng bào chú ý, coi chừng máy bay địch có thể về nấy thêm bom để giết đồng bào.
Nhưng anh ta nói khản cổ mà chẳng ai buồn nghe, họ còn lo tìm kẻ còn người mất, gào khóc, chơi bới vang rân.
Làng Trung Giã cháy bùng bùng, tiếng tre nổ lốp bợp, khói bốc cao làm mờ cả bầu trời buổi trưa. Tôi chạy băng qua cánh đồng về nhà, gia đình tôi yên ổn tôi lại chạy loanh quanh những nơi bị bắn phá, người chết đứt đầu cụt tay nằm rải rác khắp cánh đồng. Những chiếc cáng, chiếc võng khiêng vội vã những người bị thương đi cứu cấp, máu nhỏ giọt khắp lối đi thấm xuống nền đất in hình những ngôi sao thẫm màu.
Bác Cả tôi là thầy thuốc đang băng bó cho người bị nạn. Tiếng than khóc vang rền khắp nơi. Tôi từng quen thuộc với cảnh tượng đó, tôi nhập bọn với đám bạn nhóc đi nhặt vỏ đạn, mảnh bom để làm đồ chơi. Mãi đến chiều mới vãn hồi được sự hỗn độn. Đồng thời du kích cũng tóm được một tên Việt gian nguy hiểm. Kẻ đó chính là ông Đồng Trời. Ông Đồng Trời mặc áo the đen, đầu chít khăn nhiễu, ngang bụng thắt một chiếc thắt lưng xanh, mặc quần trắng. Rõ ràng dấu hiệu cờ tam tài. Ông bị trói giật cánh khuỷu giong đi khắp phố Nỉ. Anh du kích phó Ngọt cầm chiếc dây thừng kéo ông Đồng Trời đi như giong con bò chướng tính, anh bô bô nói trong loa:
- Đây chính nà tên Việt gian đã chỉ điểm cho máy bay địch thả bom nàng Trung Giã giết hại đồng bào. Du kích nàng đã bắt quả tang khi tên lày đánh "móc" cho máy bay địch. Ló giả vờ cúng thổ thần thổ địa giữa trời, van vái để đánh moóc. Đây, bằng chứng cờ tam tài của giặc Pháp còn trên người hắn. Du kích nàng còn khám phá thêm là trên những thỏi vàng bạc giấy của nó đều có gắn những miếng kính tròn.
Chị Thắm bụng chửa vượt mặt chạy theo cha khóc như ri, đầu tóc chị rũ rượi như con ma, chị xồ xề như một con lợn nái:
- Thầy ơi thầy, sao thầy khổ thế thầy ơi, thầy tôi oan, làng xóm ơi!
Những tiếng mắng mỏ của đồng bào mất của, thiệt hại, đồ lên đầu bố con ông Đồng Trời:
- Con gái vừa được Tây hiếp, thằng bố đã vội đi làm Việt gian rồi. Quần bất nhân bạc ác. Giết chết chúng nó đi.
Những mụ đàn bà quai mồm chửi bới không thiếu một lời lẽ tức tằn nào. Bố con ông Đồng Trời bị xô đẩy ngã xiêu ngã vẹo trên đường giải đi. Anh du kích phó Ngọt lo le thanh mã tấu đi trước, người anh ngụy trang lá cây, hò hét luôn miệng như sắp sửa lâm trận. ông Đồng Trời không cãi tiếng nào, ông cúi gầm mặt nhìn xuống chân mình...
Tôi thấy bác Cả của tôi đứng bên lề đường, tay cầm thùng thuốc nhìn theo rồi quay đi.
Có người còn dựng đứng câu chuyện ông Đồng Trời làm Việt gian cho thêm phần quan trọng:
- Khi tàu bay địch đánh bom, tôi nằm gần đó, tôi thấy chỗ tên Việt gian Đồng Trời nhá nhá ánh sáng chiếu lên trời thành một quầng sáng toàn là "moóc" không. Chúng ghê thật, trăm phương ngàn kế. Rồi coi, du kích làng ta sẽ còn bắt nhiều tên Việt gian nữa. Phải cảnh giác có người trông tử tế lại chính là những quân Việt gian phản động hạng nặng.
Một bà mẹ chiến sĩ đội khăn vuông xùm xụp tấm tắc khen:
- Du kích làng ta giỏi thật, thế nào cũng có giấy ban khen.
Dân phố Nỉ có vẻ hả hê về thành tích bắt sống tên Việt gian liếm gót giầy cho Tây. Bác Cả tôi lắc đầu:
- Nó tìm ra con dê tế thần rồi!
Buổi tối hôm đó, đồng chí Viên tập họp tất cả nhi đồng, thiếu niên, thiếu nữ ở phố Nỉ tại sân đình. Chống nạng đi đi lại lại trong bóng tối nhá nhem, đồng chí Viên lắc đầu:
- Thật buồn quá, chúng ta sống trong tình cảnh này không còn tin được ai. Tất cả mọi người không có ai nghi ông Đồng Trời là Việt gian, vậy mà lão ta làm Việt gian cho Tây, liếm gót giầy cho Tây. Tôi báo cáo cho các em biết tên Việt gian Đồng Trời đã được tòa án nhân dân kết án tử hình chiều nay, tên này đã thú nhận tất cả tội lỗi. Ngày Tây đi qua đây hiếp con gái lão ta, cho lão ta rất nhiều bơ sữa. Thế là lão bán rẻ lương tâm, làm chó săn cho chúng, con gái lão, con đĩ Thắm đã chửa với Tây. Bố con lão phản quốc. Nhưng nhân dân vì lòng nhân đạo, tha tội cho con gái lão, chỉ tuyên án chặt đầu lão thôi.
- Đả đảo Việt gian!
Hằng trăm cánh tay giơ lên cương quyết. Đuốc được đốt sáng trưng. Tàn lửa bay tứ tung, những khuôn mặt non choẹt đằng đằng sát khí, những cái miệng còn hôi sữa hò hét giết người, sân đình ồn ào, đồng chí Viên hét lên:
- Chính lão ta đã thú nhận, lão bảo tại thương con, thương đứa trẻ sắp ra đời. Các em thử tưởng tượng xem nếu con gái Việt gian đẻ, nó có đẻ ra người Việt không?
Đồng chí Viên quắc mắt nhìn đám đông, đám đông bỗng cuống lên:
- Không, nó đẻ ra Việt gian con?
Một đứa nào đó nói chữa:
- Nó đẻ ra thằng Tây con.
Giọng đồng chí Viên đanh lại:
- Kẻ thù của chúng ta là ai?
Bọn trẻ trả lời như máy:
- Kẻ thù của chúng ta là giặc Pháp và Việt gian!
- Các em có thể để cho một thằng Tây hay Việt gian sống ở đây được không?
- Không, cương quyết không!
- Vậy chúng ta phải làm sao?
- Giết chúng!
Tiếng hô xôn xao sắt thép vang dội sân đình.
Đám trề con trở nên cuồng nộ, tôi cuồng nộ, tôi thét lên những tiếng giết ghê rợn. Rồi đám đông kéo đi. Tiếng đồng chí Viên vang vang:
- Ngày mai chúng ta kéo ra sân đá bóng xem chặt đầu tên Việt gian phản động? Giết, đả đảo Việt gian, giết Tây con.
Tiếng giết kéo dài cuồng nộ như cuồng phong thổi vào khu phố Nỉ vốn dĩ hiền hòa. Vó ngựa sắt Phù Đổng Thiên Vương đã phi qua con đường này sau khi dẹp xong giặc Ân từ bốn ngàn năm trước, dấu chân ngựa còn in lên đỉnh núi Sóc Sơn ở mạn xuôi kia. Tôi nhìn thấy ngọn núi Sóc Sơn.
ậ
Sương sớm còn phủ mờ cảnh vật. Ngọn Tam Đảo trắng xóa mây mù. Núi Sóc Sơn mạn Đông Anh chưa nhìn rõ, trên đó có đền thờ đức Phù Đổng Thiên Vương khi ngài hiển thánh bay lên trời, mà chúng tôi quen gọi là Thánh Gióng. Những bước chân âm thầm từ các ngả đường đổ về bãi đá bóng. Tất cả mọi người đều lặng lẽ, không ai nói với ai một câu, trời rét căm căm.
Tôi thu hai tay trong bọc, răng đập vào nhau cầm cập, bàn tay tôi chạm vào túi áo, ở đó có viên đá xanh to tướng. Hòn đá đó tôi đã nhặt trên đường đi, như những đứa trẻ khác. Hãy giết nó, giết nó! Câu nhắc nhở của anh Viên gào thét trong đầu tôi, thôi thúc tôi, thôi thúc những đứa trẻ hối hả đi về bãi đá bóng trong tâm địa giết người. Chắc chắn trong tôi áo mỗi thằng đều có một viên đá xanh. Cảm nghĩ chúng như tôi, phải tiêu diệt thằng Tây con ngay lúc còn trong bụng mẹ. Thế nào con Thắm cũng phải có mặt. Dù nó được nhân dân ta tha thứ, nhưng các cháu ngoan của bác không tha thứ. Dù đầu óc bị xao động, tôi vẫn thấy mình quan trọng vì sắp góp một tay vào công cuộc diệt địch của toàn dân. Đồng chí Viên đã nói với chúng tôi như vậy. Sương mù vẫn còn dầy đặc, tôi nhìn thấy một chiếc cọc tre mới đóng ở giữa sân bóng, chiếc cọc cao chừng một thước, đầu cọc bị vồ đập bẹt dí toét toè loe. Du kích làng đứng gác dung quanh bãi, họ vác mã tấu, bụng đeo lựu đần và khắp người ngụy trang lá cây như sắp ra tđa.
Bọn nhi đồng chúng tôi đứng lẫn trong đám đông đứng xem chờ đợi, ngong ngóng nhìn về phía cổng đồn. Tử tội sẽ bị điệu từ trong đó ra trói vào chiếc cọc tre kia để thọ hình.
Họ xầm xì bàn tán về tử tội:
- Không ngờ hắn ta lại có thể là Việt gian.
Một bà phụ lão dài mồm ra nói có vần có điệu:
- Con ăn phải bả Tây, bố lây lạ gì!
Họ nói nhiều chuyện động trời khác về ông Đồng Trời. Toàn chuyện xấu xa. Tôi nhìn thấy sự căm thù hiện trên mặt họ, hình như họ có sn quyết tâm. Tôi cũng căm thù vì những chuyện họ kể. Tay nắm chặt hòn đá, tôi nghếch cổ nhìn về phía cổng đồn.
Bỗng đám đông nháo nhác:
- Nó ra là, cả con nó!
Ông Đồng Trời bị trói giật cánh khuỷu, hai du kích xã cắp mã tấu đi hai bên. Ông chủ tịch xã đi đầu, phía sau ông Đồng Trời, chị Thắm lúp xúp chạy theo gào khóc. Đi sau rốt là đồng chí phó Ngọt. Anh ta vác cây mã tấu lưỡi sáng quắc trên vai. Mặt trời mọc, tôi nhìn thấy trên lười mã tấu phản chiếu ánh nắng loè sáng khi vai anh ta đung đưa theo nhịp bước chân. Đám đông lao nhao hỏi nhau:
- Hôm nay ai được trúng tuyển chém Việt gian?
- Chắc đồng chí phó Ngọt, hắn có nghề đồ tể lại có quyết tâm cao.
- ừ thảo nào hắn oai gớm.
Ông Đồng Trời càng bị điệu gần đến cây cột thọ hình, tiếng khóc của cô con gái càng thê lương:
- Con cắn rơm cắn cỏ lạy các ông các bà, thầy con oan, con xin thế mạng cho thầy con...
Hai anh du kích chạy ra giữ rịt cô Thắm lại. Cô lăn lộn trên bãi cỏ ướt sương đêm. Ông chủ tịch xã kiêm chánh án tòa án nhân dân lớn tiếng:
- Đừng nỏ mồm, tội ai làm người nấy chịu, nhân dân không lầm. Bố con mày cần nói với nhau điều gì thì nói đi. Đó là ân huệ cuối cùng của nhân dân ban cho.
Chị Thắm khóc khản cổ không ra tiếng, cái bụng bầu của chị xề xuống, chị lê lết trên bãi cỗ:
- Bố ơi, thầy ơi!
Ông Đồng Trời đã bị ấn quì xuống, những vòng dây thừng quấn vội vã ông ta vào cọc. Mặt ông hướng về phía núi Tam Đảo. Mặt trời đã lên cao được hai con sào nắng từ phía sau lưng chiếu lại làm bóng ông ta và bóng mấy người du kích đổ dài trên cỏ. Ông Đồng Trời tuyệt vọng. Ông không hề than thở hay xin xỏ một câu. Ông nhìn đứa con gái bụng chửa vượt mặt đang lồng lộn trong bốn cánh tay lực lưỡng của hai gã du kích. Ông gân cổ nói với con:
- Thôi con ơi, số mạng thầy đến đây là tận, con có khóc có xin thì thầy cũng chết. Con can đảm lên, cố sống để nuôi con, đứa con trong bụng mày, dù nó là con Tây đen, Tây trắng thì cũng là giống người.
Bỗng có tiếng hét trong đám đông:
- Đập vỡ mõm nó ra, chết đến đít mà vẫn phản động?
Chị Thắm nhếch nhải khóc:
- Thầy ơi, con của con là người Việt Nam, con đã có mang nó trước khi...
- Đả đảo phản động! Phải giết luôn con Tây hiếp phản quốc đó đi, cho tuyệt nòi tuyệt giống, nhà nước ta nhân đức quá, thà giết oan hơn tha lầm.
Những tiếng la ó của đám đông dậy khí thế đấu tranh lấn át tiếng gào la của chị Thắm. Chị bị một gã du kích bịt miệng lôi ra xa, đầu tóc xổ tung. Tiếng cán bộ nào đó phân giải:
- Muốn thế thì sẽ được thôi, ý nguyện của nhân dân, nhà nước chấp hành.
Tôi thấy đồng chí Viên len lỏi trong đám đông, tìm từng đứa nhi đồng ghé tai nói nhỏ, chúng gật đầu. Đồng chí Viên nói với tôi:
- Tí nữa chém xong là tràn ra ngay nhé? Chúng ta phải tiêu diệt giặc Pháp ngay từ trong trứng nước. Tôi hăng hái gật đầu, tôi đưa cho đồng chí Viên nhìn thấy hòn đá trong tay mình. Đồng chí Viên có vẻ hài lòng, xoa đầu tôi rồi chạy ra chỗ khác ghé tai. ở ngoài bãi, ông chủ tịch kiêm chánh án đã đọc xong bản án, lui ra. Anh du kích phó Ngọt bước lại gần nạn nhân, tay cầm thanh mã tấu. Ông Đồng Trời bình tĩnh một cách kỳ lạ:
- Có chém thì chém cho ngọt nhé, phó Ngọt, tao không sợ đâu, tao từng đi theo ngài Đề Thám chém giặc nhiều rồi. Mày nhớ mấy đường đao tao đã dậy mày...
Du kích phó Ngọt hơi ngần ngại, ông Đồng Trời vươn cổ ra chờ:
- Can đảm lên, mày chém đi!
Hình như sự dũng cảm của ông Đồng Trời làm phó Ngọt kinh hãi, anh ta giơ lưỡi mã tấu lên bằng cả hai tay nắm cán mà vẫn run bẩn bật, ánh mặt trời lấp loáng. Pháp trường im phắc, nghẹt thở.
- Phập!
Lưỡi dao vạt xuống như lằn chớp, tôi giật nẩy mình.
- Ôi!
Nạn nhân hét lên, nhát dao trúng vai, chiếc đầu vẫn đính ở cổ. Phó Ngọt cuống cuồng chém thêm nhát nữa. Tôi nghe tiếng nạn nhân ong óng kêu:
- Chém tao chết đi.. ối trời...
Pháp trường xôn xao, ông chủ tịch xã hét toáng:
- Chém cho đứt đầu đi!
Không hiểu sao anh phó Ngọt đưa lưỡi mã tấu lên coi, giọng anh ta báo cáo líu cả lưỡi:
- Báo cáo nưỡi dao mẻ rồi, cổ ló cứng quá!
Nạn nhân giẫy giụa rên rỉ, chiếc cọc rung lên bần bật như muốn bung khỏi mắt đất, máu phun cả lên người phó Ngọt, chiếc đầu nhầy nhụa máu, phun phè phè. Ông chủ tịch lại hét:
- Chém nữa đi Ngọt!
Phó Ngọt cuống cuồng, chém lia lịa, băm vằm rồi cuối cùng dùng cả hai tay ấn chuôi dao xuống nhay cưa. Nạn nhân dẫy đành đạch, đổ xiêu người một bên. Chiếc cổ nát bét và chiếc đầu vẫn không chịu lìa. Du kích phó Ngọt quăng con dao xuống cỏ cúi ngó nạn nhân, máu phun ướt mặt anh ta như nhuộm đỏ. Anh vuốt mặt:
- Ló chết rồi?
Tôi thấy nhiều người yếu bóng vía nhắm nghiền mắt, rùng mình. Có người rú lên ngã lăn ra. Chị Thắm ngã trên cỏ bất tỉnh, nhưng rồi chị tỉnh ngay, chồm lên lăn vào xác cha.
- Đả đảo Việt gian!
- Đả đảo! Giết nó?
Những tiếng hò hét cuồng nộ vang rần, hàng trăm bước chân chạy ra pháp trường, đá xanh bay vun vút. Tôi nghe tiếng rú của chị Thắm. Tôi nhấc chân không nổi, hòn đá trên tay tôi bây giờ nặng đến ngàn cân, những ngón tay tôi không còn giữ nổi, nó tuột khỏi tay rơi xuống đất. Một cái gì đó trong đầu tôi dậy bảo làm thế là dã man tàn bạo. Tôi bỏ mặc đám đông, thết thểu đi như một kẻ mất hồn. Có lẽ mặt tôi thất sắc, ấn tượng quá mạnh cho tuổi ấu thơ.
Mặt trời đã lên cao, sương mù vẫn chưa tan hết trên ngọn Tam Đảo. Kia lâ đinh Sóc Sơn, núi Đôi, thành Cổ Loa.
Vòng tay bác Cả ôm quanh vai tôi, dìu tôi về nhà.
Sài gòn 1958
Ông "Đồng Trời" vuốt bộ râu ngả bạc, vấn lại cái búi tó củ hành, giắt lại cái răng lợn rừng lên tóc.
Ông cúi xuống xắn ống quần móng lợn, buộc lại chiếc thắt lưng điều. Mặc dầu trời lạnh, ông vẫn cởi trần, da ông nhăn nheo vì tuổi tác, nhưng khoẻ mạnh rắn rỏi.
Ông Đồng Trời rút phắt thanh mã tấu cắm ở thân cầy chuối, hoa một đường bao quanh người, dừng lại rồi nhìn cung kính về hướng mặt trời mọc. Phía bên này núi Tam Đảo là vùng Vĩnh Phúc Yên. Rặng núi chưa tan hết sương mù.
Tôi nhìn thấy ở mũi mã tấu một dòng nhựa chuối chảy ròng ròng. Tôi tưởng tượng ngay thanh mã tấu đó vừa chém ngập vào thân thể một thằng giặc Tây, và chất nhựa kia là dòng máu đỏ lòm của hắn ta. A, tại sao tôi lại căm thù thực dân đến vậy? Tôi nhớ đến gương hy sinh anh dũng của một anh Kim Đồng nào đó, như đã nghe kể lại, xem diễn kịch ngoài đình.
Tôi ngắm ông Đồng Trời.
Ông có dáng uy nghi của ông tướng hát tuồng ở rạp Quảng Lạc Hà Nội. Con người ông đầy sắc thái của một con người thái cổ. Mắt xếch, lông mày xếch mũi mác, những móng tay ông dài nhọn, khoằm như vuốt chim ưng. Tóc bới gọn ra sau và được chêm bằng một cái răng lợn rừng (theo lời ông kể lại). Ông chính là một tì tướng của cụ Hoàng Hoa Thám (cũng chính lời ông kể).
Tôi cung kính nhìn ông Đồng Trời biểu diễn và phục lăn.
Sau khi ông Đồng Trời biểu diễn bái tổ xong, ông bước một bước ra trước, xoạc cẳng đứng tấn vững chãi. Lưỡi đao kẹp đọc sau cánh tay theo thế sắp tấn công của một con bọ ngựa. Đôi mắt ông quắc lên, thình lình hét lên một tiếng:
- Cha chả, sát!...
Tôi chỉ kịp thấy thân hình gọn ghẽ của ông tung lên như ngọn pháo thăng thiên, lưỡi đao chém gió vụt một cái, và nửa cây chuối đổ xầm xuống. Lưỡi đao ngọt quá đến độ một giây sau cây chuối mới đổ. Ông Đồng Trời xoay người một vòng như con vụ đứng theo thế chụm chân lúc đầu, mũi đao chỉ xuống đất tay kia xoè ra áp lên tay cầm chuôi đao. Ông chào theo thế con nhà võ, một kiếm khách.
Tôi lại phục lăn. Bọn nhi đồng đứng xem reo rầm lên:
- Hoan hô đồng chí " ông Đồng Trời".
Tôi rút phắt thanh kiếm gỗ ra khỏi sợi dây buộc ở cạp quần, múa mấy đường ngậu xị hạ những thằng Tây tưởng tượng. Ông Đồng Trời cưới hê hê khoái trá.
Bọn nhi đồng nhô con lên tiếng can tôi:
- Thôi, xin can đồng chí Long vàng,. mười hai thằng lính Tây chết tiệt rồi.
Cơn "hăng máu của tôi" hạ xuống.vì những lời chế giễu của bạn bè.
Tôi vốn là thằng bé cứng đầu và bắng nhắng ở khu phố Nỉ nhỏ bé này. Hỗn danh của tôi là thằng Long vàng, vì hay mặc quần đùi màu vàng, chạy chơi la hét om xòm từ đầu phố đến cuối phố.
Tôi nói phét mình biết võ... gia truyền, đã từng đá lòi phèo một tràng Tây con ở Hà Nội. Bọn nhóc tì ở vùng quê mùa này tin rầm rầm, tin răm rắp. Tôi với mọi tính nết xấu xa, láu cá được ngụy trang bằng những lời khoác lác, như cha tôi, bác Cả của tôi...
Tôi lại là thứ con cháu địa chủ ruộng đất ăn từ Vĩnh Phúc Yên lên đến Thái Nguyên. Những lần đồn điền ông bà ngoại tôi mổ bò khao quân là dịp tôi được các anh bộ đội bế ăm, dậy hát.
Cha tôi chưa tới bốn mươi tuổi đã được gọi là "đồng chí cụ, mẹ tôi tuổi xuân còn hơ hớ đã được gọi là mẹ chiến sĩ. Ông bà ngoại tôi được gọi là đồng chí "cụ cố, ông bác Cả của tôi lại được dịp ngồi khề khà uống rượu, vuốt râu, nhắm với lòng lợn tiết canh, chấm mắm tôm với một anh tiểu đoàn trưởng răng đen mã tấu, nói phét sướng mồm:
"Ngày xưa khi tôi còn làm cách mạng với Cụ ở Pắc Bó..."
Đồng chí phó Ngọt bước ra, tay anh lăm lăm thanh mã tấu đẽo bằng gỗ thật đẹp, vì anh vốn là thợ mộc ở khu phố Nỉ. Bây giờ anh là du kích xã. Nhất nhất anh theo từng động tác của ông Đồng Trời, anh chỉ không có râu để quết, không có tóc dài để búi tó củ hành. Ông Đồng Trời hô sát, anh cũng hô sát. Một lúc sau anh thở hồng hộc. Ông Đồng Trời lắc đầu:
- Đồng chí yếu thế làm sao chém đứt đầu được thằng Tây, cổ nó to gấp hai cổ người mình, bằng cổ con bò mộng.
Đồng chí phó Ngọt nhe hàm răng cải mả cười ngu ngơ:
- Đồng chí "Đồng Giời" cứ quyện cho em một ít nâu nà em giỏi giền.
Tôi nhại theo giọng nói ngọng của anh phó Ngọt rồi ôm bụng cười bò lăn bò càng.
Nắng đã lên cao, sương mù tan hết, bọn nhi đồng tản đi chơi. Cô Thắm, con gái ông Đồng Trời tất tả chạy ra gọi:
- Thầy ơi, về có người gọi đi cúng giải sao.
Mắt ông Đồng Trời sáng rực, ông hấp tấp nhặt thanh mã tấu và chiếc áo:
- Mày chạy về trước nói với người ta chờ tao một nhát!
Còn lại đồng chí phó Ngọt. Anh ta nhìn ông Đồng Trời, rồi nhìn xuống thanh mã tấu gỗ của mình. Anh lại nhe răng cười ngu ngơ.
Tôi nhăn mặt, nhe răng nhại đồng chí phó Ngọt rồi ú té chạy, tôi la hét om xòm trong dãy phố Nỉ, vung kiếm gỗ chém lung tung vào bụi cỏ bên đường...
Mùa đông đã đến đây rồi...gửi mau áo rét...cho người... chiến binh... Nào ai vui thú gia đình... gửi cho chiến sĩ chút tình... nhớ thương...
Tiếng đồng ca của bọn nhi đồng âm vang sân đình. Đêm lạnh như cắt da, chiếc áo len đan theo kiểu trấn thủ của tôi không đủ ấm. Tôi phải hát thật to để quên rét, vậy mà răng tôi vẫn đập vào nhau cầm cập. Tôi ôm lấy một thằng bạn nhỏ để hai đứa truyền hơi ấm cho nhau.
Ngọn gió Thượng Lào năm nay thổi về Việt Bắc quá sớm. Rét đến độ làm nứt nẻ chân tay, cây cũng trụi lá.
Bài hát gợi nhớ cho tôi, và có thể những đứa trẻ bằng lứa tuổi tôi đang ngồi quây quần bên nhau, mơ tưởng đến những anh chiến sĩ ngoài tiền tuyến. Những giai thoại về anh Kim Đồng nào đó vẫn bừng bừng trong đầu óc non nới của chúng tôi. Những gương hy sinh dũng cảm làm sôi động tâm hồn tôi. Những chiến công ôm bom ba càng lao vào xe tăng địch, những quyết tử quân lấy xác mình bịt lỗ châu mai. Những hình ảnh oai hùng đó được tôi mường tượng qua hình ảnh đồng chí Viên, người hiện đang coi sóc đám nhi đồng chúng tôi, cán bộ Thông Tin Văn Hoá phố Nỉ.
Anh Viên chỉ còn một chân. Anh là chiến sĩ thuộc trung đoàn bảo vệ thủ đô, từng dự những trận đánh long trời lở đất với giặc Pháp ở Hà Nội khi bùng khói lửa. Anh đã để lại cố đô Thăng Long một bàn chân. Đồng chí Viên hát hay, đánh đàn măng đô lin như gió.
Bài hát dứt, đồng chí Viên ngừng đánh nhịp. Tiếng bọn nhi đồng nhao nhao yêu cầu:
- Yêu cầu đồng chí Viên kể chuyện bộ đội Bình Xuyên ở Nam Bộ.
Trong ánh sáng nhấp nhá của sao đêm, tôi nhìn thấy nụ cười tươi tắn của đồng chí Viên, giọng nói của đồng chí đầm ấm:
- Chuyện bộ đội Bình Xuyên chiến đấu anh dũng ở Nam Bộ anh đã kể cho các em nghe nhiều rồi. Hôm nay anh kể chuyện khác, cũng xảy ra ở Nam Bộ...
- Hoan hô đồng chí Viên!
Đồng chí Viên tủm tỉm cười, nhìn sang đám thiếu nữ, mắt anh dừng lại ở chị Thắm, con gái ông Đồng Trời:
- Anh sẽ kể cho các em nghe, nhưng với điều kiện khi anh kể xong, một chị phụ nữ phải hát.
Bọn nhi đồng và thiếu nữ nhao nhao:
- Chị Thắm xung phong hát Cò Lả!
Trong đám thiếu nữ có tiếng cười rúc rích:
- Nhận lời đi đồng chí Thắm.
Mãi một lát sau, chị Thắm mới dụi dè đứng dậy:
- Thưa đồng chí Viên, em xin nhận lời yêu cầu của đồng chí.
Tiếng vỗ tay rào rào cùng lời hoan hô. Đồng chí Viên giơ tay ra hiệu cho chúng tôi giữ trật tự, im lặng.
Tất cả im phăng phắc, tiếng nạng gỗ của đồng chí Viên khua lọc cọc trên sân đình, anh chống nạng đi đi lại lại
Anh ngồi xuống một cái bệ:
- Hôm nay anh muốn kể cho các em nghe về chuyện trung tướng Nguyễn Bình, tư lệnh quân đội Nam Bộ, chuyện mới toanh anh mới nhận được và được lệnh phổ biến trong quần chúng.
Chúng tôi như cái máy ca tụng nào biết Nguyễn Bình là ai, được nói đến phải là người anh hùng, đồng thanh hô:
Hoan hô đồng chí Nguyễn Bình!
- Hoan hô!
Đồng chí Viên giơ tay:
- Khoan đã nào!
Anh ta thở dài:
- Tôi tiếc cho sự nghiệp đồng chí Nguyễn Bình, nếu ông ta là anh hùng thật sự của Việt Nam yêu dấu thì những lời hoan hô của các em đẹp biết bao nhiêu.
Tôi lo lắng thay cho vị trung tướng đó, ông ta đã làm gì, đầu hàng giặc Pháp chăng, hay lại dại dột làm Việt gian?
Đồng chí Viên hình như đoán biết sự lo lắng của đám trẻ. Anh ta chậm rãi nói:
- Trung tướng Nguyễn Bình là một tướng tài giỏi, một người chỉ huy trăm trận đánh trăm trận thắng. Ông ta từng làm nên bao chiến công hiển hách. Nhân dân nhớ ơn ông ta. Chúng tôi thở phào sung sướng.
Anh Viên ngưng kể ngước nhìn trời sao lưa thưa như cố nhớ lại. Lát sau anh tiếp:
- Chúng ta đã xét đến cái công của trung tướng Nguyễn Bình, bây giờ chúng ta xét đến cái tội. Thật tình tôi tiếc cho tài năng của ông ta là một tướng tài nên kiêu căng, sau những chiến thắng và chiến công, ông ta thật khốn khổ tệ hại. Hơn nữa ông ta còn giết hại đồng bào nào làm trái ý ông, một tật xấu nhất là ông ta thường bắt phụ nữ hãm hiếp. Tôi được lệnh phải học tập và phổ biến để tránh chuyện ngộ nhận, hay những nguồn tin tức xuyên tạc của bọn Việt gian tung ra. Sự thật là thế...
Thật anh tôi không biết danh từ hãm hiếp là gì, nhưng tôi tưởng tượng ra chuyện đó phải dã man tàn bạo lắm. Tôi hăng hái giơ tay hét lên:
- Đả đảo, xử tử Nguyễn Bình.
Bọn nhi đồng đả đảo rùm trời. Đồng chí Viên mãi một lúc mới vãn hồi được trật tự, khí thế đấu tranh bừng bừng trong những cái đầu bọn nhô con vắt mũi chưa sạch. Anh ta nhìn thẳng vào chúng tôi:
- Bác Hồ đã nghĩ đến điều đó, bác Hồ đã ra lệnh gọi trung tướng Nguyễn Bình về chiến khu Việt Bắc để khuyên nhủ và giáo dục lại tư cách của một chiến sĩ. Nhưng trên đường về, trung tướng Nguyễn Bình bị nhân dân ghét bỏ nên nhân dân đã giết chết. Thật tiếc cho một vị tướng hữu tài mà vô hạnh.
Bọn nhi đồng chúng tôi thở phào, câu chuyện dứt, chúng tôi bàn tán, thảo luận lao nhao về công, tội của tướng Nguyễn Bình. Có một lập luận tướng Bình còn nguy hiểm hơn cả bọn Việt gian bán nước. Đồng chí Viên đánh giá cao lời nhận xét đó. Rồi tôi thấy anh ta nhìn về phía chị Thắm tủm tỉm cười. Chị Thắm e lệ cúi xuống, chiếc khăn vuông mỏ quạ của chị đội xùm xụp trên đầu. Bọn thiếu nữ huých đẩy giục giã mãi chị Thắm mới đứng dậy hát.
Giọng hát trong trẻo của chị như kết bằng gió, bằng hương thơm đồng nội:
- Con cò...cò bay lả bay la...Bay về...về ông nội...bay ra...ra...chiến trường...tình tinh tang... tang tính tình... cô mình ràng, cô mình ơi, ràng có nhớ...nhớ anh chăng... ràng có nhớ... nhớ anh chàng... ràng có nhớ... nhớ anh chăng...
Đêm khuya dần, tiếng hát câu ca không còn hăng hái như lúc đầu. Nhi đồng giải tán, đứa nào về nhà đứa nấy.
Gió đêm lạnh buốt vi vút thổi trong khu phố vắng.
Tôi liếc nhìn về phía nhà tôi, nhà vẫn có ánh sáng đèn. Tôi nghe thấy tiếng cười của bác tôi vẳng ra. Tôi yên tâm, mình có thể đi chơi một lúc nữa. Tôi thu hai tay vào trong bọc lủi thủi đi trên đường phố, tôi nhìn vào khu chợ Nỉ nơi có nhiều cây cổ thụ. Người ta đồn rằng ngày xưa nơi đó có nhiều yêu tinh.
Tôi mím chặt môi, sờ vào túi áo đụng chiếc súng cao su và một túi đạn đá xanh. Tôi vững bụng hơn dấn bước vào chợ, tự nhủ mình sẽ đi vòng đường tắt về nhà. Tôi men theo những lều quán chợ trống dưới bóng cây đa âm u. Tôi bỗng hồi hộp, dón dén bước nhẹ nhàng như bước chân mèo hoang. Tay tôi cầm chắc chiếc chạc súng cao su, viên sỏi nạp san trong miếng da đệm. Tôi luồn lỏi đi, đôi mắt dào dác cố chọc thủng màn đêm.
Tôi bỗng choáng người, lẫn trong tiếng gió thổi rì rào, tôi nghe có tiếng người thì thào nói chuyện. Run bắn lên, ngồi thụp xuống và thấy lạnh gáy, tôi thụt cổ lại mong cái cổ mình như cổ con rùa. Tôi nghe giạng chân đi trong chợ và nhìn về phía đó một đôi trai gái ôm nhau đi về cái quán có quầy rộng ở dưới gốc cây đa. Tôi nghe rõ tiếng nạng lọc
- Mình ngồi lại đây em? ở đây khuất gió.
Người con gái lo lắng, đúng là tiếng chị Thắm:
- Khuya rồi em phải về, không thầy quở.
Tôi suýt reo lên vì mừng. Hai người ấy không ai xa lạ, chính là đồng chí Viên và chị Thắm. Nhưng tôi bình tĩnh ngay, tôi tò mò muốn xem họ làm gì. Tôi men đến gần, nấp sau gốc đa. Tôi thấy đồng chí Viên ôm chị Thắm, hôn chùn chụt lên má chị, bàn tay anh thoăn thoắt trong chiếc áo bông của chị, làm chị cười lên khanh khách:
- Nỡm, làm người ta buồn buồn là ý?
Chị Thắm nguây nguẩy:
- Thôi em về đây, đừng làm thế thầy biết thì chết đòn.
Tôi nghe rõ tiếng thở hổn hển của đồng chí Viên:
- Thầy em biết sao được, thầy em đang ngồi tán hươu tán vượn ở nhà thằng tiểu tư sản phản động kia kìa, đến hư thân vì chúng nó mất thôi, huyện đang điều tra.
Thì ra đồng chí Viên gọi bố tôi, bác tôi là thằng tiểu tư sản phản động. Tôi nghe tiếng chị Thắm ứ hự, tôi nhìn lén, đồng chí Viên vật chị Thắm ngã xuống phản rộng.
Chị Thắm khóc rấm rút:
- Anh đã phá hoại đời tôi rồi, trời ơi, thầy tôi biết thì tôi chết mất.
Đồng chí Viên đỡ chị Thắm ngồi dậy:
- Đồng chí thật hủ lậu, bây giờ là đời sống mới, chuyện luyến ái là chuyện thường, có gì đâu mà phải quan trọng quá vậy, đồng chí cần phải học tập nhiều, tôi sẽ đích thân chỉ dẫn cho đồng chí, mình là người tiến bộ, chỉ có hạng địa chủ, phong kiến phản động mới quan trọng hóa vấn đề, mình là giai cấp bần cố nông của Xã Hội Chủ Nghĩa Mác Lê Nin.
Mặt tôi nóng ran, tức tối, tôi nghĩ đến danh từ địa chủ phản động của gã gán cho gia đình tôi. Tôi căng dây cao su, nhắm trúng chiếc chân cụt của hắn, buông đạn.
Nghe tiếng la ối của đồng chí Viên, tôi lủi nhanh, chuồn thẳng ra cánh đồng, đi tắt cửa sau vào nhà. Bác tôi đang ngồi nói chuyện với ông Đồng Trời, bác vuốt những sợi râu bạc loe ngoe:
- Sao lại có tin vô lý vậy được, Tây nó muốn nhảy dù, việc trước hết là chúng phải khai quang nơi nào chúng định đổ quân, gần như thành bình địa. Chứ có đâu mà khơi khơi nhảy dù xuống. Lệnh cắm chông khắp cả đối núi và bãi trống là lệnh tầm bậy. Bao nhiêu là sức người sức của, tre rừng đốn về rồi đẽo rồi gọt để cắm cả những đồi núi mênh mông này thật là vô lý. Như vậy mà phát động phong trào bắt dân phải bỏ sức người sức của và tự nguyện làm cu ly để làm một chuyện vô lý thì tài thật đấy. Ai không có công có sức thì phải góp tiền bạc, để rồi đi đâu, vào túi ai, chẳng ai cần biết. Công việc đồng áng, tăng gia sản xuất bỏ tuốt...
Bác tôi tặc lưỡi một cái:
- Thôi tôi hiểu rồi, đây là một công việc vác ngà voi ăn cơm nhà vác ngà voi, chính sách như thế, chỉ con chó trắng nói con chó đen, dân nói theo, xúi trẻ con ăn cứt gà được, cuộc kháng chiến này ắt thành công.
Bác tôi nói xong cười khè khè, ông Đồng Trời lại hỏi:
- Thưa cụ nói gì thế ạ!
- Tôi nói cuộc kháng chiến này ắt thành công, khi người ta dậy được dần nghe theo. Ông Đồng Trời hình như hiểu câu được câu không, nhưng cũng gật đầu:
- Vâng, chính vậy.
Bao giờ thì cụ phải đi đốn tre về vót chông cắm lên núi chống Tây nhảy dù?
- Dạ, cũng mai kia thôi, khi nào các ông ấy bảo thì đi, không nghe lời họ không được cụ ạ.
- Chính thế.
Bác tôi nói chuyện khác, bây giờ là chuyện vui, ông cười hô hố, nói phét sướng miệng. Tôi đang định len lén vào giường ngủ, bác tôi gọi giật lại:
- Long, cháu đi đâu về đó?
- Dạ, cháu ra đình họp nhi đồng rồi tập hát!
Bác tôi kéo tôi vào lòng xoa mái tóc ẩm sương đêm của tôi:
- Tối nào cũng bắt con người ta tập hát tập hỏng đến ốm chết thôi, cháu ạ!
Hơi ấm từ người bác tôi tỏa ra, làm tôi trở nên lười biếng. Tôi nằm im trong lòng bác và thấy tâm hồn mình thoải mái. Phút chốc tôi quên chuyện xảy ra hối nãy. Tôi rúc đầu vào chiếc áo bông của bác, quên chuyện mách ông Đồng Trời về chị Thắm bị đồng chí Viên hành hạ đến phát khóc ngoài chợ.
ậ
Quân đội viễn chinh Pháp thình lình tấn công từ mạn Phủ Lỗ lên. Lệnh tiêu thổ kháng chiến ban hành khẩn cấp. Cha tôi gạt nước mắt châm ngọn lửa vào cơ nghiệp của mình. Gia đình tôi chạy tản cư vào đồn điền Nam Lý của ông ngoại tôi. Đêm ra đi tôi nhìn lửa bốc cháy khu phố Nỉ mà lòng thấy rưng rưng buồn.
Quân Pháp chỉ càn qua một trận rồi rút lui, chúng chiếm núi Đôi làm đồn bót. Gia đình tôi trở lại phố Nỉ ngay sau khi dút tiếng súng.
Điều đầu tiên hàng xóm hỏi thăm nhau là ai còn ai mất.
Ông Tổng Tề làng Trung Giã thượng bị Tây chặt đầu bằng dao cùn ngắc ngoải mãi mới chết.
Cô Thắm con gái ông Đồng Trời chạy không kịp bị hàng chục thằng Tây hiếp và còn nhiều nữa, chẳng hạn một số người bị qui tội là Việt gian phản động bị bắt đi chôn sống đâu đó.
Sinh hoạt của dân chúng phố Nỉ trở lại trong cảnh điêu tàn. Những mới lá dựng lên tạm thời sơ sài để che mưa nắng. Tôi cùng bọn trẻ còn lại, tiếp tục hoạt động nhi đồng. Ngôi đình rộng năm gian ngày nay chỉ còn lại đống gạch vụn, đêm đêm chúng tôi đến đó tập hát, những bài hát mới mẻ hơn, căm thù giặc Pháp cướp nước hơn và nhất là yêu bác Hồ hơn:
- Bác Hồ ơi!... Bác Hồ có biết... sau lũy tre xanh có đoàn em bé chi biết yêu bác Hồ Chí Minh...
Hoặc bài hát chế giễu mấy ông sư mà đồng chí Viên thường xui bọn chúng tôi đến trước cửa chùa hát: Ba cô đội gạo lên chùa... một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư... sư về sư ốm tương tư, ôm lăn ôm lóc cho sư trọc đầu... Tôi thấy vị sư già trụ trì chắp tay trước ngực đôi mắt buồn vời vợi nhìn chúng tôi. Và chúng tôi cười vang khi thấy hai dòng lệ của vị sư già ứa ra, những vết nhăn ở mắt ngăn lại và loang ra bóng nhoáng... Bọn nhi đồng quái quỉ chúng tôi hỗn như ranh còn khám phá ra nhiều chuyện động trời khác, chẳng hạn đồng chí Viên từng rủ các chị phụ nữ vào chợ hằng đêm, những chiếc váy sồi ngắn cũn cỡn đối với việc làm ma mãnh của đồng chí Viên thật dễ dàng. Nhưng chuyện đó chúng tôi tự khuyên bảo nhau nên kín miệng, hở ra không chừng bị người lớn cho ăn đòn. Tôi cũng khám phá ra một thằng nhô leo lên cây soạn đầu nhà nghe ngóng bác tôi, bố tôi nói chuyện để tố cáo với đồng chí Viên. Tôi cho cu cậu một viên đạn vào mông đít, cu cậu sợ đến són đái.
Tôi nổi danh thằng Long vàng bắn súng cao su, trăm phát bắn trăm phát trúng.
Buổi tối hôm đó chúng tôi lại tụ tập ở sân đình học hát.
Bỗng tất cả đều im bặt, khi thấy bóng dáng chị Thắm. Chị đứng dựa bên một bức tường đổ, nhìn chúng tôi, cái nhìn sao buồn bã lạ...
Không ai nói với chị một lời và chỉ nhìn lại. Chị lạc lõng, xa lạ ngay chính với những người bạn của chị. Tôi nhận thấy trong thời gian gần đây, không ai còn muốn nhận chị là bạn hoặc người cùng đoàn thể.
Tôi nghe thấy một tiếng nói trong đám phụ nữ:
- Con Tây hiếp còn vác mặt đến đây làm gì.
Đồng chí Viên ngước lên nhìn chị Thắm rồi im lặng. Chị đứng một lúc rồi bỏ đi. Tiếng hát lại cất lên, đuổi theo từng bước chân lạc lõng trong phố Nỉ điêu tàn.
Bóng dáng chị Thắm mờ dần trong sương đêm. ánh trăng đêm nay sáng vằng vặc, bầu trời như được nạm bạc bằng lớp mây vẩy tê tê. Tự nhiên tôi thấy thương chị Thắm quá. Sau ngày bị Tây hiếp, vẻ vui tươi ngày xưa của chị không còn nữa.
Tôi cũng không được nghe điệu hát cò lả của chị. Tôi không hiệu tại sao hôm nay chị lại mò ra đây, chị nhớ thương gì ở ngôi chùa bị tàn phá này chăng?
Sau buổi tập hát, tôi được đồng chí Viên giữ lại để nói chuyện cần. Đồng chí Viên rủ tôi ra bãi đá bóng ngồi chơi. Khung cảnh ở đây rộng rãi, thoáng đãng, tôi có thể nhìn rõ ngọn Tam Đảo hơn. Những đám rừng cháy xa xa trên sườn non như những vệt lân tinh của con dời bò trườn trên tường. Hình ảnh đó với tôi thật quen thuộc. Chiếc chân cụt của đồng chí Viên gác lên chiếc nạng gỗ đu đưa, đồng chí Viên thân mật khoác vai tôi:
- Em có ghét giặc Tây không?
Tôi gật đầu, đong chí Viên hỏi tiếp:
- Em có ghét những kẻ theo Tây không? Những kẻ Việt gian bán nước?
- Có!
Đồng chí Viên cười nhẹ, nhìn thẳng vào mặt tôi:
- Ai nói xấu bác Hồ của các em nhi đồng, em có ghét không?
- Có ạ!
Đồng chí Viên xoa đầu tôi:
- Em ngoan lắm, em sẽ được bác Hồ thương yêu, em được làm cháu ngoan bác Hồ.
Tôi nghĩ đến nhân vật bác Hồ, người từng gây ấn tượng đẹp đẽ trong đầu tôi qua những câu ca lời hát: Bác chúng em dáng thanh thanh, người cao cao, râu dài...
Tôi lột chiếc mũ chào mào nhung đen xuống, ở trên đó tôi gắn một ngôi sao vàng bằng đồng, trong lòng ngôi sao có tấm ảnh bác Hồ nhỏ xíu. Tôi giữ huy hiệu này như báu vật. Tôi từng khoe bọn nhi đồng quê mùa ở khu phố Nỉ:
- Bố tao mua cho tao hồi cách mạng tháng Tám ở Hà Nội đấy, tao có trông thấy bác Hồ thật rồi, vào đêm rằm tháng Tám ở thủ đô. Nhi đồng Thủ đô tụi tao diễn kịch ông Đinh Bộ Lĩnh cưỡi trâu quanh hồ Hoàn Kiếm, tao được bác Hồ xoa đầu...
Thật ra tôi nói phét để loè bọn nhi đồng nhà quê, tôi chưa bao giờ được bác Hồ xoa đầu, tôi chỉ nhìn thấy bác Hồ từ phía xa, giữa lớp sóng người trùng điệp lô nhô
Đồng chí Viên đội lại chiếc mũ chào mào lên đầu tôi, thân mật vỗ vai:
- Em hãy tố cáo tất cả kẻ nào nói xấu bác Hồ, nếu cha mẹ chú bác em có phản động em cũng đừng ngần ngại, mình đã làm cách mạng bắt buộc phải gạt bỏ tình cảm riêng tư.
Lời nhắn nhủ của đồng chí Viên làm tôi lạnh toát người, tôi hiểu ngụ ý của câu nói ấy. Tôi đứng dậy, kiếm cớ:
- Em về đây!
Đồng chí Viên vẫn ở nguyên chỗ cũ, tôi nhìn thấy nụ cười méo miệng bẩm sinh của anh ta, giọng nói của anh ta trở nên nghiêm nghị như ra lệnh:
- Em là cháu ngoan bác Hồ, em là nhi đồng tiến bộ ở Thủ đô nên em cần làm gương cho các em nhi đồng khác.
Tôi ù té chạy về nhà. Bác tôi vẫn ngồi uống trà. Tôi leo lên nằm rúc đầu vào lòng bác, bàn tay xương xấu của bác vuốt lên tóc tôi:
- Chó con, cứ dầm sương rồi đến ốm mất thôi! Tự nhiên tôi thấy thương yêu bác tôi hơn bao giờ hết. Tôi lắng nghe từ ngoài đường vẳng vào tiếng nạng gỗ khua lọc cọc của đồng chí Viên. Tôi ôm chặt lấy bác:
- Bác ơi, bác đừng nói xấu cụ Hồ nữa nhé.
Bác tôi ngạc nhiên nhìn sững tôi, đôi mắt bác từ từ dịu lại, bấc ôm chặt tôi vào lòng:
- Khuya rồi đó, cháu yêu của bác đi ngủ nhé!
Trong giấc ngủ chập chờn tôi nghe thấy tiếng ho của bác, bác vẫn ngồi nhìn ngọn đèn dầu lạc, tiếng ngâm thơ quen thuộc của bác lại cất lên:
Quân bật kiến Hoàng Hà chi thủy
thiên thượng lai
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi?
Đêm về khuya, thỉnh thoảng tôi lại choàng thức giấc vì tiếng súng nổ cầm canh từ đồn Tây ở núi Đôi bắn đi. Vòng tay ôm của bác tôi sao mà ấm cúng thế.
ậ
Ba chiếc máy bay cổ ngỗng quần trên bầu trời chói nắng. Tiếng loa lẫn tiếng trống ngũ liên vang rền khu phố Nỉ. Chợ Nỉ nhốn nháo, dân chúng chạy túa ra đồng, kêu gào thất thanh.
Một chiếc cổ ngỗng bay vút lên cao, tôi chỉ nghe thấy tiếng động cơ máy bay xé gió rít lên khi đâm bổ xuống, kế đến tiếng đạn đum đum nổ giòn rã. Tiếng bom rơi rung chuyển cả căn hầm tôi đang nấp, ngực tôi tức thở Tôi nghe tiếng kêu rú của đàn bà, tiếng báo cáo tình hình ngọng líu của anh du kích phó Ngọt:
- Tầu bay địch đã bắn và thả bom nàng Trung Giã, nàng đang bốc cháy, yêu cầu đồng bào trật tự, ai lằm nguyên chỗ lấy, không được chạy nộn xộn.
Tiếng máy bay hú lên, tiếng đạn bom lại nổ long trời lở đất át cả tiếng báo cáo của du kích phó Ngọt.
Máy bay quần khoảng mười lăm phút rồi bay đi, xung quanh tôi lặng lẽ đến khủng khiếp. Tôi ngửi thấy mùi khen khét của khói súng, mùi đất khô, mùi tanh lờm lợm, tôi nín thở nghe ngóng. Một hồi kẻng rung, tiếng kêu gào bùng lên:
- ới Tí ơi! Mày ở đâu lên tiếng cho bu biết?
- Thầy ơi, Bu ơi! Con còn sống!
- Làng Trung Giã cháy to quá, bà con ơi!
Tôi nhảy ra khỏi hầm, tôi cũng kêu gào cuống lên:
- Bố ơi, mẹ ơi, bác Cả ơi!
Cảnh tượng lúc đó vô cùng hỗn độn. Anh du kích phó Ngọt mặc bộ quấn áo vải nâu, ống quần buộc dây lạt túm lại, đi chân đất, ngang bụng thắt một sợi dây thừng, một tay cấm loa, một tay cầm mã tấu. Trên chiếc mũ đan tre như cái sọt ngụy trang đầy lá cây. Anh ta không ngớt kêu gọi đám đông, cảnh giác:
- Đồng bào chú ý, coi chừng máy bay địch có thể về nấy thêm bom để giết đồng bào.
Nhưng anh ta nói khản cổ mà chẳng ai buồn nghe, họ còn lo tìm kẻ còn người mất, gào khóc, chơi bới vang rân.
Làng Trung Giã cháy bùng bùng, tiếng tre nổ lốp bợp, khói bốc cao làm mờ cả bầu trời buổi trưa. Tôi chạy băng qua cánh đồng về nhà, gia đình tôi yên ổn tôi lại chạy loanh quanh những nơi bị bắn phá, người chết đứt đầu cụt tay nằm rải rác khắp cánh đồng. Những chiếc cáng, chiếc võng khiêng vội vã những người bị thương đi cứu cấp, máu nhỏ giọt khắp lối đi thấm xuống nền đất in hình những ngôi sao thẫm màu.
Bác Cả tôi là thầy thuốc đang băng bó cho người bị nạn. Tiếng than khóc vang rền khắp nơi. Tôi từng quen thuộc với cảnh tượng đó, tôi nhập bọn với đám bạn nhóc đi nhặt vỏ đạn, mảnh bom để làm đồ chơi. Mãi đến chiều mới vãn hồi được sự hỗn độn. Đồng thời du kích cũng tóm được một tên Việt gian nguy hiểm. Kẻ đó chính là ông Đồng Trời. Ông Đồng Trời mặc áo the đen, đầu chít khăn nhiễu, ngang bụng thắt một chiếc thắt lưng xanh, mặc quần trắng. Rõ ràng dấu hiệu cờ tam tài. Ông bị trói giật cánh khuỷu giong đi khắp phố Nỉ. Anh du kích phó Ngọt cầm chiếc dây thừng kéo ông Đồng Trời đi như giong con bò chướng tính, anh bô bô nói trong loa:
- Đây chính nà tên Việt gian đã chỉ điểm cho máy bay địch thả bom nàng Trung Giã giết hại đồng bào. Du kích nàng đã bắt quả tang khi tên lày đánh "móc" cho máy bay địch. Ló giả vờ cúng thổ thần thổ địa giữa trời, van vái để đánh moóc. Đây, bằng chứng cờ tam tài của giặc Pháp còn trên người hắn. Du kích nàng còn khám phá thêm là trên những thỏi vàng bạc giấy của nó đều có gắn những miếng kính tròn.
Chị Thắm bụng chửa vượt mặt chạy theo cha khóc như ri, đầu tóc chị rũ rượi như con ma, chị xồ xề như một con lợn nái:
- Thầy ơi thầy, sao thầy khổ thế thầy ơi, thầy tôi oan, làng xóm ơi!
Những tiếng mắng mỏ của đồng bào mất của, thiệt hại, đồ lên đầu bố con ông Đồng Trời:
- Con gái vừa được Tây hiếp, thằng bố đã vội đi làm Việt gian rồi. Quần bất nhân bạc ác. Giết chết chúng nó đi.
Những mụ đàn bà quai mồm chửi bới không thiếu một lời lẽ tức tằn nào. Bố con ông Đồng Trời bị xô đẩy ngã xiêu ngã vẹo trên đường giải đi. Anh du kích phó Ngọt lo le thanh mã tấu đi trước, người anh ngụy trang lá cây, hò hét luôn miệng như sắp sửa lâm trận. ông Đồng Trời không cãi tiếng nào, ông cúi gầm mặt nhìn xuống chân mình...
Tôi thấy bác Cả của tôi đứng bên lề đường, tay cầm thùng thuốc nhìn theo rồi quay đi.
Có người còn dựng đứng câu chuyện ông Đồng Trời làm Việt gian cho thêm phần quan trọng:
- Khi tàu bay địch đánh bom, tôi nằm gần đó, tôi thấy chỗ tên Việt gian Đồng Trời nhá nhá ánh sáng chiếu lên trời thành một quầng sáng toàn là "moóc" không. Chúng ghê thật, trăm phương ngàn kế. Rồi coi, du kích làng ta sẽ còn bắt nhiều tên Việt gian nữa. Phải cảnh giác có người trông tử tế lại chính là những quân Việt gian phản động hạng nặng.
Một bà mẹ chiến sĩ đội khăn vuông xùm xụp tấm tắc khen:
- Du kích làng ta giỏi thật, thế nào cũng có giấy ban khen.
Dân phố Nỉ có vẻ hả hê về thành tích bắt sống tên Việt gian liếm gót giầy cho Tây. Bác Cả tôi lắc đầu:
- Nó tìm ra con dê tế thần rồi!
Buổi tối hôm đó, đồng chí Viên tập họp tất cả nhi đồng, thiếu niên, thiếu nữ ở phố Nỉ tại sân đình. Chống nạng đi đi lại lại trong bóng tối nhá nhem, đồng chí Viên lắc đầu:
- Thật buồn quá, chúng ta sống trong tình cảnh này không còn tin được ai. Tất cả mọi người không có ai nghi ông Đồng Trời là Việt gian, vậy mà lão ta làm Việt gian cho Tây, liếm gót giầy cho Tây. Tôi báo cáo cho các em biết tên Việt gian Đồng Trời đã được tòa án nhân dân kết án tử hình chiều nay, tên này đã thú nhận tất cả tội lỗi. Ngày Tây đi qua đây hiếp con gái lão ta, cho lão ta rất nhiều bơ sữa. Thế là lão bán rẻ lương tâm, làm chó săn cho chúng, con gái lão, con đĩ Thắm đã chửa với Tây. Bố con lão phản quốc. Nhưng nhân dân vì lòng nhân đạo, tha tội cho con gái lão, chỉ tuyên án chặt đầu lão thôi.
- Đả đảo Việt gian!
Hằng trăm cánh tay giơ lên cương quyết. Đuốc được đốt sáng trưng. Tàn lửa bay tứ tung, những khuôn mặt non choẹt đằng đằng sát khí, những cái miệng còn hôi sữa hò hét giết người, sân đình ồn ào, đồng chí Viên hét lên:
- Chính lão ta đã thú nhận, lão bảo tại thương con, thương đứa trẻ sắp ra đời. Các em thử tưởng tượng xem nếu con gái Việt gian đẻ, nó có đẻ ra người Việt không?
Đồng chí Viên quắc mắt nhìn đám đông, đám đông bỗng cuống lên:
- Không, nó đẻ ra Việt gian con?
Một đứa nào đó nói chữa:
- Nó đẻ ra thằng Tây con.
Giọng đồng chí Viên đanh lại:
- Kẻ thù của chúng ta là ai?
Bọn trẻ trả lời như máy:
- Kẻ thù của chúng ta là giặc Pháp và Việt gian!
- Các em có thể để cho một thằng Tây hay Việt gian sống ở đây được không?
- Không, cương quyết không!
- Vậy chúng ta phải làm sao?
- Giết chúng!
Tiếng hô xôn xao sắt thép vang dội sân đình.
Đám trề con trở nên cuồng nộ, tôi cuồng nộ, tôi thét lên những tiếng giết ghê rợn. Rồi đám đông kéo đi. Tiếng đồng chí Viên vang vang:
- Ngày mai chúng ta kéo ra sân đá bóng xem chặt đầu tên Việt gian phản động? Giết, đả đảo Việt gian, giết Tây con.
Tiếng giết kéo dài cuồng nộ như cuồng phong thổi vào khu phố Nỉ vốn dĩ hiền hòa. Vó ngựa sắt Phù Đổng Thiên Vương đã phi qua con đường này sau khi dẹp xong giặc Ân từ bốn ngàn năm trước, dấu chân ngựa còn in lên đỉnh núi Sóc Sơn ở mạn xuôi kia. Tôi nhìn thấy ngọn núi Sóc Sơn.
ậ
Sương sớm còn phủ mờ cảnh vật. Ngọn Tam Đảo trắng xóa mây mù. Núi Sóc Sơn mạn Đông Anh chưa nhìn rõ, trên đó có đền thờ đức Phù Đổng Thiên Vương khi ngài hiển thánh bay lên trời, mà chúng tôi quen gọi là Thánh Gióng. Những bước chân âm thầm từ các ngả đường đổ về bãi đá bóng. Tất cả mọi người đều lặng lẽ, không ai nói với ai một câu, trời rét căm căm.
Tôi thu hai tay trong bọc, răng đập vào nhau cầm cập, bàn tay tôi chạm vào túi áo, ở đó có viên đá xanh to tướng. Hòn đá đó tôi đã nhặt trên đường đi, như những đứa trẻ khác. Hãy giết nó, giết nó! Câu nhắc nhở của anh Viên gào thét trong đầu tôi, thôi thúc tôi, thôi thúc những đứa trẻ hối hả đi về bãi đá bóng trong tâm địa giết người. Chắc chắn trong tôi áo mỗi thằng đều có một viên đá xanh. Cảm nghĩ chúng như tôi, phải tiêu diệt thằng Tây con ngay lúc còn trong bụng mẹ. Thế nào con Thắm cũng phải có mặt. Dù nó được nhân dân ta tha thứ, nhưng các cháu ngoan của bác không tha thứ. Dù đầu óc bị xao động, tôi vẫn thấy mình quan trọng vì sắp góp một tay vào công cuộc diệt địch của toàn dân. Đồng chí Viên đã nói với chúng tôi như vậy. Sương mù vẫn còn dầy đặc, tôi nhìn thấy một chiếc cọc tre mới đóng ở giữa sân bóng, chiếc cọc cao chừng một thước, đầu cọc bị vồ đập bẹt dí toét toè loe. Du kích làng đứng gác dung quanh bãi, họ vác mã tấu, bụng đeo lựu đần và khắp người ngụy trang lá cây như sắp ra tđa.
Bọn nhi đồng chúng tôi đứng lẫn trong đám đông đứng xem chờ đợi, ngong ngóng nhìn về phía cổng đồn. Tử tội sẽ bị điệu từ trong đó ra trói vào chiếc cọc tre kia để thọ hình.
Họ xầm xì bàn tán về tử tội:
- Không ngờ hắn ta lại có thể là Việt gian.
Một bà phụ lão dài mồm ra nói có vần có điệu:
- Con ăn phải bả Tây, bố lây lạ gì!
Họ nói nhiều chuyện động trời khác về ông Đồng Trời. Toàn chuyện xấu xa. Tôi nhìn thấy sự căm thù hiện trên mặt họ, hình như họ có sn quyết tâm. Tôi cũng căm thù vì những chuyện họ kể. Tay nắm chặt hòn đá, tôi nghếch cổ nhìn về phía cổng đồn.
Bỗng đám đông nháo nhác:
- Nó ra là, cả con nó!
Ông Đồng Trời bị trói giật cánh khuỷu, hai du kích xã cắp mã tấu đi hai bên. Ông chủ tịch xã đi đầu, phía sau ông Đồng Trời, chị Thắm lúp xúp chạy theo gào khóc. Đi sau rốt là đồng chí phó Ngọt. Anh ta vác cây mã tấu lưỡi sáng quắc trên vai. Mặt trời mọc, tôi nhìn thấy trên lười mã tấu phản chiếu ánh nắng loè sáng khi vai anh ta đung đưa theo nhịp bước chân. Đám đông lao nhao hỏi nhau:
- Hôm nay ai được trúng tuyển chém Việt gian?
- Chắc đồng chí phó Ngọt, hắn có nghề đồ tể lại có quyết tâm cao.
- ừ thảo nào hắn oai gớm.
Ông Đồng Trời càng bị điệu gần đến cây cột thọ hình, tiếng khóc của cô con gái càng thê lương:
- Con cắn rơm cắn cỏ lạy các ông các bà, thầy con oan, con xin thế mạng cho thầy con...
Hai anh du kích chạy ra giữ rịt cô Thắm lại. Cô lăn lộn trên bãi cỏ ướt sương đêm. Ông chủ tịch xã kiêm chánh án tòa án nhân dân lớn tiếng:
- Đừng nỏ mồm, tội ai làm người nấy chịu, nhân dân không lầm. Bố con mày cần nói với nhau điều gì thì nói đi. Đó là ân huệ cuối cùng của nhân dân ban cho.
Chị Thắm khóc khản cổ không ra tiếng, cái bụng bầu của chị xề xuống, chị lê lết trên bãi cỗ:
- Bố ơi, thầy ơi!
Ông Đồng Trời đã bị ấn quì xuống, những vòng dây thừng quấn vội vã ông ta vào cọc. Mặt ông hướng về phía núi Tam Đảo. Mặt trời đã lên cao được hai con sào nắng từ phía sau lưng chiếu lại làm bóng ông ta và bóng mấy người du kích đổ dài trên cỏ. Ông Đồng Trời tuyệt vọng. Ông không hề than thở hay xin xỏ một câu. Ông nhìn đứa con gái bụng chửa vượt mặt đang lồng lộn trong bốn cánh tay lực lưỡng của hai gã du kích. Ông gân cổ nói với con:
- Thôi con ơi, số mạng thầy đến đây là tận, con có khóc có xin thì thầy cũng chết. Con can đảm lên, cố sống để nuôi con, đứa con trong bụng mày, dù nó là con Tây đen, Tây trắng thì cũng là giống người.
Bỗng có tiếng hét trong đám đông:
- Đập vỡ mõm nó ra, chết đến đít mà vẫn phản động?
Chị Thắm nhếch nhải khóc:
- Thầy ơi, con của con là người Việt Nam, con đã có mang nó trước khi...
- Đả đảo phản động! Phải giết luôn con Tây hiếp phản quốc đó đi, cho tuyệt nòi tuyệt giống, nhà nước ta nhân đức quá, thà giết oan hơn tha lầm.
Những tiếng la ó của đám đông dậy khí thế đấu tranh lấn át tiếng gào la của chị Thắm. Chị bị một gã du kích bịt miệng lôi ra xa, đầu tóc xổ tung. Tiếng cán bộ nào đó phân giải:
- Muốn thế thì sẽ được thôi, ý nguyện của nhân dân, nhà nước chấp hành.
Tôi thấy đồng chí Viên len lỏi trong đám đông, tìm từng đứa nhi đồng ghé tai nói nhỏ, chúng gật đầu. Đồng chí Viên nói với tôi:
- Tí nữa chém xong là tràn ra ngay nhé? Chúng ta phải tiêu diệt giặc Pháp ngay từ trong trứng nước. Tôi hăng hái gật đầu, tôi đưa cho đồng chí Viên nhìn thấy hòn đá trong tay mình. Đồng chí Viên có vẻ hài lòng, xoa đầu tôi rồi chạy ra chỗ khác ghé tai. ở ngoài bãi, ông chủ tịch kiêm chánh án đã đọc xong bản án, lui ra. Anh du kích phó Ngọt bước lại gần nạn nhân, tay cầm thanh mã tấu. Ông Đồng Trời bình tĩnh một cách kỳ lạ:
- Có chém thì chém cho ngọt nhé, phó Ngọt, tao không sợ đâu, tao từng đi theo ngài Đề Thám chém giặc nhiều rồi. Mày nhớ mấy đường đao tao đã dậy mày...
Du kích phó Ngọt hơi ngần ngại, ông Đồng Trời vươn cổ ra chờ:
- Can đảm lên, mày chém đi!
Hình như sự dũng cảm của ông Đồng Trời làm phó Ngọt kinh hãi, anh ta giơ lưỡi mã tấu lên bằng cả hai tay nắm cán mà vẫn run bẩn bật, ánh mặt trời lấp loáng. Pháp trường im phắc, nghẹt thở.
- Phập!
Lưỡi dao vạt xuống như lằn chớp, tôi giật nẩy mình.
- Ôi!
Nạn nhân hét lên, nhát dao trúng vai, chiếc đầu vẫn đính ở cổ. Phó Ngọt cuống cuồng chém thêm nhát nữa. Tôi nghe tiếng nạn nhân ong óng kêu:
- Chém tao chết đi.. ối trời...
Pháp trường xôn xao, ông chủ tịch xã hét toáng:
- Chém cho đứt đầu đi!
Không hiểu sao anh phó Ngọt đưa lưỡi mã tấu lên coi, giọng anh ta báo cáo líu cả lưỡi:
- Báo cáo nưỡi dao mẻ rồi, cổ ló cứng quá!
Nạn nhân giẫy giụa rên rỉ, chiếc cọc rung lên bần bật như muốn bung khỏi mắt đất, máu phun cả lên người phó Ngọt, chiếc đầu nhầy nhụa máu, phun phè phè. Ông chủ tịch lại hét:
- Chém nữa đi Ngọt!
Phó Ngọt cuống cuồng, chém lia lịa, băm vằm rồi cuối cùng dùng cả hai tay ấn chuôi dao xuống nhay cưa. Nạn nhân dẫy đành đạch, đổ xiêu người một bên. Chiếc cổ nát bét và chiếc đầu vẫn không chịu lìa. Du kích phó Ngọt quăng con dao xuống cỏ cúi ngó nạn nhân, máu phun ướt mặt anh ta như nhuộm đỏ. Anh vuốt mặt:
- Ló chết rồi?
Tôi thấy nhiều người yếu bóng vía nhắm nghiền mắt, rùng mình. Có người rú lên ngã lăn ra. Chị Thắm ngã trên cỏ bất tỉnh, nhưng rồi chị tỉnh ngay, chồm lên lăn vào xác cha.
- Đả đảo Việt gian!
- Đả đảo! Giết nó?
Những tiếng hò hét cuồng nộ vang rần, hàng trăm bước chân chạy ra pháp trường, đá xanh bay vun vút. Tôi nghe tiếng rú của chị Thắm. Tôi nhấc chân không nổi, hòn đá trên tay tôi bây giờ nặng đến ngàn cân, những ngón tay tôi không còn giữ nổi, nó tuột khỏi tay rơi xuống đất. Một cái gì đó trong đầu tôi dậy bảo làm thế là dã man tàn bạo. Tôi bỏ mặc đám đông, thết thểu đi như một kẻ mất hồn. Có lẽ mặt tôi thất sắc, ấn tượng quá mạnh cho tuổi ấu thơ.
Mặt trời đã lên cao, sương mù vẫn chưa tan hết trên ngọn Tam Đảo. Kia lâ đinh Sóc Sơn, núi Đôi, thành Cổ Loa.
Vòng tay bác Cả ôm quanh vai tôi, dìu tôi về nhà.
Sài gòn 1958