watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Cơ thể người-Phần 12 - tác giả nhiều tác giả nhiều tác giả

nhiều tác giả

Phần 12

Tác giả: nhiều tác giả

167. Vì sao điện thoại công cộng dễ truyền nhiễm bệnh?
Trong cuộc sống hiện đại, điện thoại đã trở thành công cụ giao dịch thông tin rất phổ cập. Điện thoại có ở gia đình, văn phòng cơ quan, ngoài đường phố... Có thể nói hầu như hằng ngày, chúng ta đều tiếp xúc với điện thoại. Chính vì thế cho nên các bác sĩ khuyên chúng ta phải chú ý vệ sinh máy điện thoại để đề phòng chúng truyền bệnh sang người.
Vì sao máy điện thoại lại có thể truyền bệnh được? Nguyên là một máy điện thoại, nhất là máy điện thoại công cộng, hằng ngày bị nhiều người sử dụng, trong số đó có người khỏe, có người mang v16i khuẩn, kể cả bệnh nhân. Khi họ gọi, vi khuẩn bệnh trong miệng bắn theo nước bọt vào ống điện thoại. Ở đó, khuẩn bệnh nhờ điều kiện tối và ẩm mà sinh sôi nảy nở. Khi người khác sử dụng, nếu miệng để gần ống nói, sẽ có khả năng hấp thu khuẩn bệnh vào miệng.
Các nhà y học đã kiểm tra tìm kháng nguyên bệnh viêm gan B trên điện thoại công cộng và phát hiện thấy tỷ lệ dương tính là 4%. Điều đó chứng tỏ tình trạng ô nhiễm của điện thoại là không thể xem thường. Qua kiểm tra, họ còn phát hiện thấy ngoài độc tố bệnh viêm gan B, trong ống nói điện thoại còn có hơn 480 loại vi khuẩn và độc tố bệnh. Nói chung, điện thoại có tần số sử dụng càng cao thì khuẩn bệnh càng nhiều. Do đó, có thể thấy máy điện thoại đã trở thành kẻ môi giới quan trọng trong truyền bệnh.
Để đề phòng máy điện thoại truyền bệnh, bình thường, ta nên tẩy độc cho máy; khi gọi điện thoại phải chú ý để miệng cách xa ống nói, không nên áp ống nghe điện thoại sát mặt, không nên nói to để đề phòng nước bọt bắn vào máy. Ngoài ra, những người có bệnh đường hô hấp và bệnh truyền nhiễm đường tiêu hóa không nên trực tiếp gọi điện thoại; còn người khỏe sau khi gọi điện thoại nên rửa tay sạch sẽ rồi mới đụng vào thức ăn. Đương nhiên, khi có điều kiện, nên sử dụng màng tiêu độc cho điện thoại để trừ mùi hôi và diệt khuẩn.
168. Vì sao thân thể nổi nốt mề đay?
Có người sau khi ăn đồ bỗng nhiên cảm thấy toàn thân phát ngứa, nổi các nốt đỏ màu hồng hoặc màu trắng sáng, đó là mề đay. Thông thường, nốt mề đay có to có nhỏ, nhỏ như hạt gạo, to có thể rộng hơn cả bàn tay. Thời gian nổi mề đay thường không quá 24 giờ, nhưng cũng có thể kéo dài hơn.
Mề đay hình thành như thế nào? Các nhà y học giải thích rằng, người thường phát sinh mề đay là những người cơ thể rất nhạy cảm. Khi một số chất đặc biệt nào đó được đưa vào cơ thể thì cơ thể sản sinh ra một chất để kháng cự lại. Trong quá trình đề kháng, một số tổ chức, tế bào nào đó phát sinh biến đổi, nhả ra một số chất đặc biệt, khiến cho mạch máu giãn ra, huyết thanh thẩm thấu vào trong tổ chức da. Trong da, hàm lượng huyết thanh tăng lên, làm cho da phình lên, sản sinh ra mề đay. Khi huyết thanh trong da được hấp thu hết thì mề đay cũng biến mất.
Bình thường, ta ăn một số thức ăn biển nhưng không bị mề đay. Nếu mệt mỏi quá mức hoặc uống rượu quá nhiều, đồng thời ăn thịt hoặc ăn cá nhiều, đường ruột và dạ dày sẽ không tiêu hóa hết hoàn toàn các chất anbumin; đó cũng là một trong những nguyên nhân phát sinh mề đay.
Khi cơ thể có bệnh mạn tính, như viêm ruột thừa mạn tính, sâu răng, trong đường ruột có ký sinh trùng hoặc cảm nhiễm vi khuẩn, ta đều có thể bị mề đay. Cá biệt có người vì sợ lạnh hoặc sự kích thích của nóng bức cũng sẽ sinh ra mề đay.
Có người khi uống thuốc hoặc sau khi tiêm đã bị nổi mề đay, đó là do dị ứng thuốc gây nên.
Nếu phát sinh mề đay, nên tìm rõ nguyên nhân. Khi tìm không ra nguyên nhân, nên dùng biện pháp kháng dị ứng để chữa trị.
169. Vì sao vào mùa hè, trẻ em dễ bị rôm, mụn nhọt?
Rôm và mụn nhọt đều do khuẩn cầu bồ đào thâm nhập vào da gây ra, xuất hiện nhiều vào mùa hè, nhất là ở trẻ em.
Da giống như cái áo ngoài để bảo vệ cơ thể. Trên mặt da tồn tại đủ các loại vi khuẩn, trong đó có cầu khuẩn bồ đào. Một khi da bị phá hoại (thậm chí sự phá hoại mắt thường không nhìn thấy được), cầu khuẩn sẽ thừa cơ xâm nhập, tác oai tác quái. Trước đây, có người từng kiểm tra tình trạng vi khuẩn trên da, họ thống kê số vi khuẩn trong bồn tắm của một người sau khi tắm và phát hiện: người tương đối sạch có hơn 8,5 triệu con vi khuẩn, còn người tương đối bẩn thì có hơn 1,21 tỷ con.
Mùa hè, khi bạn ra mồ hôi nhiều và không được kịp thời lau sạch thì mồ hôi sẽ bị phân giải, những chất sản sinh ra trở thành môi trường màu mỡ cho vi khuẩn phát triển. Trên mặt da toàn thân có khoảng hơn 2 triệu tuyến mồ hôi, giống như đã có hơn 2 triệu cánh cửa mở ra, làm cho vi khuẩn có thể xâm nhập bất cứ khi nào để gây nên rôm hoặc mụn nhọt.
Da của trẻ em đặc biệt non mềm và hồng nhuận; đó là vì da trẻ khá mỏng, các mạch máu dưới da phong phú, chất sừng có tác dụng bảo vệ trên mặt da cũng rất mỏng. Vì vậy, nó càng dễ bị xây xước, dễ cảm nhiễm vi khuẩn.
Ngoài ra, vì trẻ em không biết nói rõ cảm giác nóng lạnh của mình, quần áo trẻ mặc được lựa chọn căn cứ vào cảm giác của bố mẹ nên có lúc mặc quá nhiều, gây ra mồ hôi, đó là cơ hội làm tăng thêm rôm sảy.
Hơn nữa, da của trẻ em tương đối nhạy cảm, những vết thương nhỏ trên da cũng sẽ phát sinh phản ứng rất rõ. Những nốt mẩn khi phát sinh sẽ rất dễ chuyển thành mụn nhọt.
Trẻ em ra mồ hôi tự mình không biết lau sạch, càng dễ ngứa ngáy và sinh mụn nhọt. Do đó, về mùa hè, bố mẹ phải đặc biệt chú ý tắm sạch cho con và phải cho ăn mặc phù hợp với thời tiết.
170. Ho gà có phải là ho mãi "trăm ngày" không?
Bệnh ho gà do loài khuẩn đũa ho gà gây nên. Đó là loại bệnh đường hô hấp cấp tính, trẻ em 1-6 tuổi rất dễ mắc. Lúc đầu, bệnh nhân chỉ ho từng tiếng, sau đó chuyển thành ho từng trận, mỗi trận liên tục kéo dài mười mấy tiếng đến mấy chục tiếng, ho đến mức mặt đỏ tía tai, nước mắt nước mũi dầm dề, cong lưng thót bụng, thậm chí không thở được. Mỗi ngày trẻ ho ít thì mười mấy lần, nhiều đến 30 - 40 lần. Vì vậy, bố mẹ rất lo lắng và thường hỏi: ho gà có phải sẽ kéo dài mãi không?
Ngày nay, người ta đã biết được bệnh ho gà xuất hiện do các nhánh hoặc màng khí quản bị viêm, làm ảnh hưởng đến sự vận động của các lông tơ, khiến cho các chất chung quanh niêm mạc khó bài tiết, gây nên từng trận ho co thắt. Bệnh ho gà tương đối kéo dài, có lúc quả thật đến "trăm ngày". Nhưng thực ra không phải mọi bệnh nhân đều ho lâu đến thế. Bệnh nặng hay nhẹ, lâu hay mau có liên quan đến sức đề kháng của cơ thể bệnh nhân và sự chữa trị có tích cực, kịp thời hay không. Thông thường, bệnh phát trong vòng vài ba tuần, dùng thuốc kháng sinh là đạt hiệu quả tốt.
171. Vì sao phải đề phòng bệnh đau mắt đỏ?
Đau mắt đỏ là bệnh "viêm kết mạc cấp tính", do vi khuẩn hoặc độc tố bệnh gây nên. Bệnh phát rất gấp, sau khi nhiễm vi khuẩn hoặc độc tố bệnh mấy giờ là có biểu hiện ngay. Mùa hè nóng bức, vi khuẩn và độc tố bệnh dễ phát triển nên đau mắt đỏ có khi thành dịch. Từ lúc mắc bệnh đến lúc khỏi ít thì 3-4 ngày, nhiều thì 7-8 ngày, thậm chí dài hơn.
Triệu chứng ban đầu là ngứa mắt, có cảm giác như bị bụi cát bay vào, lòng trắng mắt đỏ dần, mí mắt sưng lên, dử nhiều, buổi sáng ngủ dậy hai mí dính đầy dử. Bệnh nhân nhìn mờ, có lúc còn đau đầu, đau họng, phát sốt, lòng trắng mắt ứ máu. Nếu bệnh tình nghiêm trọng thì nhãn cầu sẽ bị ảnh hưởng, gây viêm và ảnh hưởng đến thị lực.
Bệnh đau mắt đỏ truyền chủ yếu qua tiếp xúc tay, khăn tay, khăn mặt, các bồn tắm, bể bơi... Bệnh hoàn toàn có thể đề phòng được bằng cách tập thói quen rửa tay, không dùng tay bẩn hoặc khăn bẩn giụi mắt. Lúc rửa mặt, phải dùng nước sạch, khăn sạch, không dùng chung khăn với người bệnh. Khăn mặt phải giặt bằng xà phòng, phơi chỗ thoáng gió để bảo đảm sạch sẽ, khô ráo. Bồn rửa mặt phải được giữ sạch sẽ, khăn dùng chung phải được luộc và khử độc.
Khi bị bệnh đau mắt, nên tự giác không đi bơi, không đến những nhà tắm công cộng. Đương nhiên, quan trọng nhất là phải đến bệnh viện điều trị.
172. Vì sao bệnh "mắt gà chọi" thường không tự khỏi?
Ở người bình thường, hai mắt nhìn một vật, ảnh của vật thể đó in trên võng mạc của cả hai mắt, truyền lên trung khu thị giác ở não, chập lại làm thành một vật lập thể hoàn chỉnh. Công năng này gọi là "hai mắt thành một cách nhìn". Ở trẻ sơ sinh, quá trình hình thành "hai mắt một đường nhìn" rất dễ bị ảnh hưởng của ngoại giới, khiến cho chỉ một mắt nhìn vào mục tiêu, gây lác mắt. Khi nhãn cầu nhìn vào vật xiên về phía trong thì gọi là lác trong, tức "mắt gà chọi".
Vì sao mắt gà chọi là khó tự khỏi? Để làm sáng tỏ điều này, phải bắt đầu từ các cơ vận động và thần kinh quản của nhãn cầu. Phía ngoài nhãn cầu có 6 cơ mắt; trong điều kiện bình thường, khi ta nhìn một vật nào đó thì dù mắt nhìn về hướng nào, sự chuyển động của hai mắt đều song song nhất trí với nhau. Do sự co của cơ mắt chịu sự điều tiết của thần kinh nên khi xem mục tiêu bên phải, hai mắt đều chuyển sang bên phải; khi xem mục tiêu bên trái, hai mắt đều chuyển sang trái.
Nếu hai mắt trẻ phát triển không giống nhau (một mắt nhìn lên phía trên hoặc bị tán quang, hoặc độ nhìn xa của hai mắt chênh lệch nhau rất lớn) hoặc trẻ từ bé đã thích chơi những đồ rất nhỏ, chơi trong điều kiện ánh sáng rất mờ hay chơi những trò phải nhìn gần, cơ mắt sẽ mất cân bằng, cơ thần kinh mỏi mệt, có thể phát sinh bệnh mắt gà chọi.
Ở những trẻ bị mắt gà chọi, nếu không kịp thời uốn nắn sự cân bằng của cơ mắt, bệnh sẽ không tự khỏi. Hơn nữa, do một mắt bị lác kéo dài nên người bệnh không thể dùng mắt này, lâu ngày sự phát triển của mắt sẽ bị ảnh hưởng, thậm chí gây nhược thị (rất khó phục hồi). Trẻ em bị bệnh mắt gà chọi chỉ dùng một mắt để nhìn nên không có cảm giác lập thể về đồ vật, không thể phân biệt vật xa hay gần. Ví dụ: Lúc xâu kim không thể luồn chỉ đúng lỗ; khi dùng bút chấm mực thì không chấm đúng miệng lỗ mực, khó tìm kiếm những vật nhỏ thì khó nhìn... ảnh hưởng rất nhiều đến học tập và công tác sau này.
Do đó, khi phát hiện con bị bệnh mắt gà chọi, bố mẹ phải kịp thời đưa đi chữa trị. Việc chữa bệnh sớm không những có thể uốn nắn cơ mắt mà còn giúp khôi phục thị lực. Nếu bỏ lỡ cơ hội, đứa trẻ lớn lên dù được phẫu thuật cũng khó cải thiện tình hình và nhất là không khôi phục được thị lực cũng như cảm giác lập thể.
173. Bệnh chắp sản sinh như thế nào?
Chắp gồm hai loại: chắp mắt bên ngoài mí mắt gọi là chắp ngoài; chắp nằm bên trong mí mắt gọi là chắp trong. Khi bệnh mới phát sinh, trên mí mắt (sát chân lông mi) xuất hiện một điểm đỏ, hình giống hạt gạo. Điểm nhỏ này sưng lên, sờ vào thì đau. Mấy ngày sau, vết sưng mở rộng khiến cho cả mí mắt sưng đỏ, mắt khó mở, người có thể phát sốt. Sau mấy ngày, mí dần dần làm mủ, da mí mắt vỡ, mủ chảy ra rồi dần dần sẽ khỏi.
Chắp mắt được hình thành như thế nào? Có người nói đó là hậu quả việc "trộm kim khâu" của người khác. Điều này hoàn toàn không có căn cứ. Nguyên nhân chủ yếu gây bệnh là không chú ý giữ vệ sinh mắt sạch sẽ, chẳng hạn như dùng tay bẩn hoặc khăn bẩn lau mắt, khiến cho mí mắt cảm nhiễm vi khuẩn, gây mủ.
Khi mắc bệnh này, ban đầu có thể dùng khăn ấm để chườm. Mỗi ngày chườm 4-5 lần, mỗi lần 10-15 phút, vết sưng sẽ dần dần tiêu đi. Nếu vết sưng đỏ không tiêu hoặc xuất hiện mủ màu vàng, nên đến bác sĩ, tuyệt đối không tự mình xử lý, không dùng kim chưa tẩy trùng hoặc dùng vật khác để khơi mủ, càng không nên dùng lực nặn ép. Vì điều này sẽ làm cho vi khuẩn hoặc độc tố trong mủ ép vào mạch máu, từ đó lan ra, gây bại huyết hoặc những biến chứng bất ngờ khác.
174. Vì sao nhân dân một số vùng dễ bị bướu cổ?
Ở những vùng núi rừng, người dân thường mắc bệnh bướu cổ (y học gọi là phù tuyến giáp trạng địa phương). Nguyên nhân chủ yếu nhất là hàm lượng iốt trong nước uống, muối ăn, rau xanh và lương thực ở những vùng này rất thấp.
I ốt là chất không thể thiếu được đối với hoạt động của tuyến giáp trạng. Nó tham gia vào hoạt động hấp thu đào thải của cơ thể. Cơ thể người giống như một cỗ máy vô cùng tinh vi, phức tạp. Khi thiếu iốt, việc sản xuất chất nội tiết tuyến giáp sẽ giảm. Lúc đó, cơ thể sẽ thông qua chức năng điều tiết của hệ thống thần kinh tự động sản sinh ra "tín hiệu" kích thích hai bộ phận chủ quản tuyến giáp, đó là đồi não dưới và thùy thể hưng phấn. Như vậy, lượng tiết ra của chất nội tiết tuyến giáp sẽ tăng lên. Điều này tác động vào tổ chức tuyến giáp, gây các biến đổi. Những tế bào tuyến giáp từ hình lập phương biến thành hình hộp to hơn để thích ứng với việc sản xuất nhiều nội chất tiết. Do đó, thể tích tuyến giáp trạng cũng tăng lên, gây bệnh bướu cổ.
175. Vì sao trẻ em cũng cao huyết áp?
Nói đến cao huyết áp, người ta thường nghĩ đó là bệnh của người già, không liên quan đến trẻ em. Thực ra trẻ em, thậm chí trẻ sơ sinh cũng có thể mắc bệnh huyết áp cao, tỷ lệ mắc bệnh ngày càng có xu hướng tăng lên. Theo nhiều kết quả thống kê, bệnh huyết áp cao chiếm khoảng 3% tổng số trẻ em. Rất nhiều người lớn mang bệnh huyết áp cao có căn nguyên từ thời trẻ em.
Bệnh huyết áp cao của trẻ em có thể chia thành hai loại: một là kế phát của một số bệnh nào đó như viêm thận cấp tính, viêm mạch máu thận biến chứng, động mạch chủ bụng bị hẹp và một số bệnh nội tiết. Loại khác liên quan với các yếu tố di truyền, béo phì hoặc bị căng thẳng.
Phải tranh thủ phát hiện sớm những nhân tố nguy hiểm gây nên bệnh cao huyết áp để có lợi cho việc đề phòng và khống chế sự phát sinh, phát triển của bệnh.
176. Vì sao người bị bệnh tim thường bị tím môi?
Trong cơ thể có hai loại máu: máu động mạch chứa nhiều ôxy nên có màu đỏ tươi; máu tĩnh mạch chứa CO2 nên màu hơi đen.
Máu động mạch đưa ôxy đến khắp các cơ quan, làm cho cơ thể hoạt động bình thường. Khi ôxy đã bị tiêu hao hết, máu động mạch sẽ trở thành máu tĩnh mạch. Sau đó, máu trao đổi khí ở phổi để bổ sung ôxy, tiếp tục theo động mạch đến các tế bào. Trong quá trình này, tim đóng vai trò rất quan trọng. Nó giống như cái bơm không ngừng bơm máu động mạch, mang nhiều ôxy đi khắp toàn thân và thu hồi máu trong tĩnh mạch để đưa lên phổi, tiến hành trao đổi khí. Một khi tim mắc bệnh thì công năng bơm sẽ giảm yếu hoặc mất đi, ảnh hưởng đến tuần hoàn máu.
Tim có 2 tâm nhĩ và 2 tâm thất. Chúng giống như bốn gian phòng. Tâm nhĩ trái và tâm thất trái thông với nhau, chứa máu động mạch; tâm nhĩ phải và tâm thất phải cũng thông với nhau, chứa máu tĩnh mạch. Trong trường hợp bình thường, tâm nhĩ trái và tâm nhĩ phải, tâm thất trái và tâm thất phải không thông với nhau. Nhưng ở một số bệnh nhân tim, vách ngăn giữa hai bên xuất hiện lỗ thủng nhỏ, khiến máu tĩnh mạch vốn ở tâm nhĩ phải và tâm thất phải sẽ lẫn sang máu động mạch. Khi đó, hàm lượng ôxy trong máu sẽ thấp đi. Chúng đi theo động mạch đến khắp cơ thể, cho nên môi của bệnh nhân có màu đậm hơn so với người bình thường, thậm chí có màu tím.
Môi màu tím không chỉ xuất hiện ở người bệnh tim. Nếu phổi trao đổi khí không tốt, hoặc cơ thể bị lạnh nặng, máu cung cấp không đủ cũng sẽ xuất hiện môi tím.
177. Vì sao khi bị lạnh, người ta dễ bị tiêu chảy?
Dù mùa hè hay mùa đông, cơ thể bị lạnh sẽ dễ tiêu chảy. Tiêu chảy do lạnh khác với tiêu chảy do ngộ độc thức ăn, viêm ruột, kiết lỵ. Nó có hai đặc điểm: bụng sôi liên tục kèm theo đau từng cơn; phân không vón từng cục mà là nước loãng, kèm cặn bã thức ăn chưa hoàn toàn tiêu hóa.
Lạnh giá là một loại kích thích khá mạnh. Khi cơ thể bị lạnh, đặc biệt là bụng dưới bị lạnh, nhu động ruột tăng lên khiến cho những thức ăn trong ruột chưa được tiêu hóa hoặc hấp thu hết bị đào thải ra ngoài cùng một lượng lớn nước. Cho nên khi bụng kêu liên tục, đau co thắt từng cơn sẽ đi ra phân lỏng.
Vì vậy, đêm ngủ tốt nhất nên dùng vải mỏng đắp kín phần bụng, nếu không sẽ dễ bị đi chảy.
178. Bệnh đau dạ dày có truyền nhiễm không?
Mọi người đều biết viêm gan, lao phổi đều là bệnh truyền nhiễm, nhưng nếu nói đau dạ dày cũng truyền nhiễm thì lại cảm thấy khó tin. Thực ra, đó là một phát hiện mới của y học trong những năm gần đây.
Bệnh đau dạ dày liên quan với một loại vi khuẩn đũa hình xoắn ốc. Khoảng 50-95% bệnh nhân đau dạ dày đều cảm nhiễm loài vi khuẩn này. Nó là thủ phạm đứng đầu gây bệnh dạ dày. Vi khuẩn đũa xoắn ốc sống trong dạ dày người và động vật cao cấp, nó cũng truyền nhiễm giống như các loài vi khuẩn khác.
Các kết quả nghiên cứu đã chứng tỏ loài khuẩn đũa xoắn ốc có thể truyền nhiễm qua thức ăn. Ở những người dùng chung công cụ ăn uống, tỷ lệ nhiễm loại vi khuẩn này rất cao. Các bác sĩ đã kiểm tra những bệnh nhân dạ dày mang loại vi khuẩn này và phát hiện là trong cặn răng, nước bọt và chất nôn của họ đều có vi khuẩn đũa xoắn ốc, trong phân cũng có loài vi khuẩn này.
Từ đó, có thể thấy, viêm dạ dày cũng là loại bệnh truyền nhiễm. Do đó, muốn đề phòng bệnh dạ dày, phải tránh cảm nhiễm loài vi khuẩn trên. Nên tránh dùng bát đũa chung và không ăn rau sống. Hãy tập thói quen rửa tay trước khi ăn và sau khi đại tiện.
179. Viêm ruột thừa có phải do hay ăn cơm cháy gây ra không?
Trước kia, người ta thường gọi viêm ruột thừa là viêm mãng tràng, cho rằng nó phát sinh là do ăn cơm cháy, hạt cơm rơi vào mãng tràng. Thực ra điều này không đúng.
Trên thực tế, ruột thừa là một đoạn nhỏ giống như con giun, nằm bên ngoài mãng tràng. Nó dễ viêm không phải do hay ăn cơm cháy mà chủ yếu là nó rất nhỏ, dễ bị sỏi hoặc trứng ký sinh trùng làm tắc. Hơn nữa, ruột thừa nhỏ và dài nên khi di động dễ bị xoắn. Ngoài ra, các động mạch của ruột thừa đều là phần cuối, không có nhánh tuần hoàn. Nếu đoạn ruột thừa nối với mãng tràng bị tắc thì những chất nội tiết trong niêm mạc ruột thừa sẽ không đào thải ra được, áp lực trong ruột thừa sẽ tăng cao, khiến cho máu chảy trong thành ruột thừa không tuần hoàn được. Nếu bộ phận này không được nuôi dưỡng tốt, các vi khuẩn gây bệnh trong ruột sẽ nhân cơ hội xâm nhập, gây viễm nhiễm.
Triệu chứng chủ yếu của viêm ruột thừa là đau bụng. Ban đầu thường đau ở phần bụng hoặc chung quanh rốn, rất giống đau dạ dày. Mấy giờ sau, vùng đau chuyển dần sang bên phải bụng dưới. 70 - 80% bệnh nhân đều có chứng đau điển hình này. Đau nặng hay nhẹ chủ yếu do mức độ viêm quyết định.
Ngoài đau bụng, người bị viêm ruột thừa còn hay kèm theo nôn. Nếu bụng mềm, phía phải bụng dưới (vị trí ruột thừa) bị đau khi ấn vào ấn thì đau, thân nhiệt không cao chứng tỏ chứng viêm còn nhẹ. Nếu viêm nặng, đã có mủ, hoại tử, hoặc đã thủng thì bệnh nhân đau bụng rất dữ dội, phạm vi sờ đau cũng mở rộng, kèm theo sốt cao, khi ấn bụng thì cơ bụng căng cứng, hoặc phía bên phải bụng dưới có cục cứng.
Dù viêm nặng hay nhẹ, một khi đã phát hiện viêm ruột thừa, bệnh nhân phải đến ngay bệnh viện để điều trị.
180. Vì sao người bị bệnh tiểu đường thường hay đói?
Trong bộ phim nước ngoài có tình tiết sau: buổi tối, một em bé gái nhân lúc gia đình đi ngủ đã lén xuống nhà ăn lấy, ăn để. Khi bị người nhà phát hiện và ngăn lại, cô ta còn giật một miếng thịt nhét vào miệng. Có phải đó là cô bé bị ngược đãi không? Không phải. Cô ta là con cưng của một nhà giàu, vì cô ấy bị bệnh tiểu đường nên rất dễ đói. Tại sao thế?
Muốn hiểu được điều này, phải bắt đầu bàn về nguyên nhân cơ bản của bệnh tiểu đường. Nói một cách dễ hiểu, tiểu đường là loại bệnh đường trong nước tiểu quá cao. Công năng hấp thu và đào thải của đường trong cơ thể chịu sự điều tiết của tuyến tụy. Có người vì thiếu insulin nên sự hấp thu đường bị trở ngại. Phần đường "thừa ra" sẽ được bài tiết theo nước tiểu. Như vậy, tổ chức tế bào của cơ thể sẽ không thể dùng đường gluco để sản sinh ra năng lượng cần thiết, vì vậy, người bệnh luôn rơi vào trạng thái đói, luôn muốn được bổ sung thức ăn.
Người bị tiểu đường không những ăn nhiều mà còn uống và đi tiểu nhiều, trọng lượng giảm. Có người gọi bệnh tiểu đường là "bệnh trọng lượng giảm", "bệnh ba nhiều, một ít".
Nguyên nhân căn bản sinh bệnh tiểu đường là insulin không đủ, cho nên có thể dùng phương pháp tiêm insulin để chữa bệnh tiểu đường. Đương nhiên, những bệnh nhân còn nhẹ chỉ cần khống chế ăn uống là có thể điều chỉnh được.
Cơ thể người
Phần 1
Phần 2
Phần 3
Phần 4
Phần 5
Phần 6
Phần 7
Phần 8
Phần 8
Phần 9
Phần 10
Phần 11
Phần 12
Phần 13
Phần 14
Phần 15
Phần 16