Chương 12
Tác giả: PAULO COELHO
- Chúng ta sẽ không cần nói về các khu đất và về nghĩa trang nghĩa địa gì nữa – bà vợ ông thị trưởng tuyên bố khi các vị "đại diện" nhóm họp lại ở phòng áo lễ - Chúng ta sẽ công khai.
Cả năm người đối thoại cùng bày tỏ sự nhất trí của mình.
- Linh mục của chúng ta đã thuyết phục được tôi – ông đại điền chủ lên tiếng – Đức Chúa Trời có thể biện hộ cho cả một số hành động không xứng đáng.
- Không cần phải rào đón – ông linh mục đáp – chỉ cần nhìn qua cửa sổ là đủ hiểu hết mọi chuyện. Chính vì thế mới có gió ấm – vậy là quỷ dữ cũng quyết định đứng về phía chúng ta.
- Đúng! – ông thị trưởng, vốn là người không tin vào chuyện quỷ, lên tiếng đồng tình – Không có gì cần phải thuyết phục chúng ta nữa. Vì vậy chúng ta không nên mất thêm thì giờ quý báu và sẽ bàn công khai, thẳng thắn vào vấn đề.
- Cho phép tôi được bắt đầu – bà chủ khách sạn nói – tất cả chúng ta đều ngả theo chiều hướng chấp nhận lời đề nghị của ông khách lạ. Nói cách khác, theo chiều hướng thực hiện một tội ác.
- Tức là lễ hiến sinh – ông linh mục sửa lại, vì vốn quen với các điển lễ tôn giáo.
Sự im lặng bao trùm trong phòng áo lễ đã chứng tỏ tất cả đều nhất trí với ý kiến này.
- Chỉ có những kẻ hèn nhát mới im lặng. Nào, hãy cùng cất lời cầu nguyện để Chúa nghe thấu và hiểu rằng, chúng ta thực hiện việc này là vi lợi ích của Viscos. Xin các vị hãy quỳ xuống.
Những người có mặt làm theo mặc dù trong lòng không phải không có ý phản đối, bởi họ rất hiểu – cầu xin Chúa tha thứ cho cái tội lỗi được thực hiện, cho cái tội ác họ sẽ làm là một việc vô nghĩa. Nhưng họ nhớ đến Ahab, đến "ngày chuộc tội" và quyết định khi nào đến ngày đó, họ sẽ đồng lòng gán cho Chúa cái tội đã cám dỗ, mà mắcô phải nó không phải là chuyện quá khó.
Ông linh mục yêu cầu tất cả cùng đồng thanh nhắc lại theo ông lời cầu nguyện.
- Lạy Chúa, chẳng phải Người đã nói không có ai là người nhân từ đó sao. Vậy nên xin hãy đón nhận chúng con, những kẻ thật quá đỗi lầm lỗi với lòng nhân từ vô lượng của Người và tình yêu vô hạn nơi Người. Xin Người hãy tha thứ như Người từng tha thứ cho các thập tự quân giết hại người Hồi giáo để chiếm lại Đất Thánh Jerusalem, như Người từng bỏ quá cho các quan toà giáo hội đã muốn bảo vệ sự thanh khiết cho Thánh đường của Người, cũng như Người từng mở lượng hải hà cho những kẻ đã báng bổ và dẫn giải Người lên Golgotha[1]. Xin hãy tha thứ cho chúng con vì chúng con buộc lòng phải dâng hiến một mạng sống để cứu lấy thị trấn.
- Bây giờ chúng ta chuyển sang khía cạnh thực tế của vấn đề - bà vợ ông thị trưởng nói – Chúng ta hãy cùng quyết định xem ai sẽ là người hiến sinh và ai sẽ thực hiện lễ hiến sinh.
- Cái cô gái, mà chúng ta đã giúp rất nhiều, chúng ta thường xuyên bảo trợ cho, đã dẫn lối đưa đường cho quỷ dữ đến Viscos này – ông đại điền chủ nói. Mới cách đây không lâu, chính ông ta đã ngủ với cô gái này và kể từ đó luôn sống trong nỗi lo sợ, biết đâu cô ta đang yên đang lành lại đem chuyện ấy đi kể lại cho vợ của ông – ác giả ác báo, và vì thế cô ta đáng bị trừng phạt.
Trong số những người họp mặt, có hai người đồng ý sau khi nêu ra ý kiến cho rằng Prym là người duy nhất ở Viscos không thể tin tưởng được vì cô ta tự cho mình không giống những người khác và không hề giấu giếm việc sẽ có lúc rời bỏ thị trấn.
- Cô ta chẳng còn mẹ. Bà thì cũng đã chết. Không có ai nhận thấy sự biến mất của cô ta – ông thị trưởng, người thứ ba ủng hộ ý kiến này, lên tiếng.
Nhưng ngay lập tức bà vợ ông ta đã lên tiếng phản đối.
- Giả sử cô ta biết số vàng chôn giấu ở đâu. Xét cho cùng thì chính cô ta là người duy nhất được tận mắt thấy chúng. Ngoài ra, có thể tin tưởng cô ấy chính vì những lý do đã nêu: rằng cô ấy đã đưa cái Ác đến thị trấn của chúng ta, rằng cô ấy đã khiến dân chúng ở đây phải nghĩ đến tội ác. Các vị có thể nói gì tuỳ ý, nhưng nếu tất cả những người đồng hương khác của chúng ta sẽ im lặng, thì kết quả sẽ là, lời nói của cô gái, mà có thể nói là chẳng phải đức hạnh gì, trái ngược với lời nói của chúng ta, những người phần nào đó cũng đã thành đạt trong đời.
Ông thị trưởng liền thắc mắc hỏi lại, lần nào cũng vậy mỗi khi bà vợ ông ta đưa ý kiến của mình.
- Vì cớ gì mà bà cứ cố cứu Chantal nào? Chẳng phải là bà không thể nào chịu nổi cô ta đấy thôi?
- Tôi hiểu vì sao rồi – ông linh mục nói – Để tội lỗi trút xuống đầu cái kẻ đã gây nên tấn bi kịch. Phải để cho cô ta đeo cái gánh nặng ấy đến những ngày cuối đời mình và không loại trừ rằng cô ta cũng sẽ kết thúc như Juda, cái kẻ đã phản bội Jesus Christ và tự kết liễu đời mình trong cơn tuyệt vọng. Tuy nhiên, hoàn toàn vô nghĩa bởi hắn đã tạo ra hết thảy những điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tội ác.
Bà vợ ông thị trưởng lấy làm ngạc nhiên bởi lý lẽ của ông linh mục. Đó cũng chính là điều bản thân bà nghĩ đến. Chantal xinh xắn, trẻ trung, khiến đám đàn ông mê mẩn, không muốn sống như tất cả mọi người ở Viscos, luôn mồm than thở rằng, cô ta phải sống lay lắt ở cái thị trấn tẻo tèo teo heo hút này, dù với tất cả những khiếm khuyết của nó, vẫn là nơi có những người dân cần mẫn và lương thiện, vẫn là nơi mà nhiều người chỉ mơ ước được sống ở đó (ý muốn nói những người nước ngoài, giã từ thị trấn rồi mới nhận ra cái cuộc sống ở đây có thể buồn chán kinh khủng nhưng luôn tràn đầy thanh bình và yên ấm).
- Còn tôi không thấy một ai khác có thể thế vào chỗ của cô ấy – bà chủ khách sạn đồng tình. Đầu tiên bà cũng đắn đo do dự vì khó mà tìm được ai thay cho cô, nhưng sau mới ngẫm ra, sau khi nhận được phần vàng của mình, bà có thể đóng cửa cái quán trọ, nói thẳng ra là thế, và rời bỏ đi thật xa. Những người nông dân và những người chăn cừu rất đoàn kết, có gia đình, nhiều người con cái đã rời bỏ Viscos lâu rồi. Nếu có điều gì xảy ra với một ai đó, bà con họ mạc sẽ ngờ ngay rằng có chuyện chẳng lành. Prym là người duy nhất có thể mất tích.
Ông linh mục không muốn chỉ rõ người nào vì nhớ đến Chúa Jesus đã nguyền rủa những kẻ kết án người vô tội. Nhưng ông biết nên đưa ai ra làm người hiến sinh và phải làm thế nào để mọi người thấy rõ điều này.
- Dân Viscos sớm khuya đầu tắt mặt tối. Mỗi người đang thực hiện một bổn phận, ai nấy đều có công việc của mình, thậm chí cả cô gái nghèo hèn ấy, người mà quỷ dữ đã quyết định lợi dụng cho các mục đích độc ác của mình. Chúng ta, quả thật đâu còn có nhiều người, nên chúng ta không thể cho phép mình xa xỉ phí hoài thêm một nhân công nữa.
- Nếu vậy thì, thưa cha, chúng ta sẽ chẳng còn biết lấy ai ra làm người hiến sinh đây. Chỉ còn nước hy vọng vào phép màu thôi. May ra đến chiều nay có thêm một người khách lạ đến Viscos. Nhưng ngay cả tình huống này cũng mạo hiểm bởi anh ta chắc hẳn phải có gia đình và họ sẽ đi tìm anh ta khắp chốn cùng nơi. Trong thị trấn của chúng ta ai chẳng làm việc cật lực những mong kiếm cho mình một miếng bánh nuôi thân, đó chính là miếng bánh được người bán bánh chở đến trên chiếc xe của mình.
- Các vị nói đúng – ông linh mục tiếp – Có lẽ, từ chiều hôm qua chúng ta hoàn toàn chỉ tự an ủi mình bằng những ảo tưởng viễn vông. Người nào ở Viscos cũng có những người thân. Khi phát hiện thấy người nhà mất tích, người ta sẽ nói "Đừng có đụng đến người nhà tôi!" Trong thị trấn của chúng ta chỉ có ba người một thân một mình. Đó là tôi, bà lão Berta và cô Prym.
- Cha sao vậy? Tự đưa mình ra làm người hiến sinh à?
- Có gì mà không dám làm vì lợi ích của quê hương?
Cả năm người cùng thở phào nhẹ nhõm. Họ chợt hiểu ra vì sao ngày thứ bảy mặt trời rạng ngời, sẽ không có bất cứ một tội ác nào. Sẽ chỉ có sự tuẫn tiết. Như có một phép màu, bầu không khí căng thẳng v zmb đây còn bao trùm trong phòng áo lễ chợt dịu hẳn đi. Bà chủ khách sạn chỉ muốn lao đến quỳ xuống dưới chân vị thánh ấy.
- Chỉ có một khó khăn duy nhất – ông linh mục nói tiếp – các vị sẽ phải thuyết phục cho mọi người hiểu rằng, việc giết một người phụng sự Chúa đó không phải là một tội chết.
- Xin cha hãy tự giải thích cho dân trong thị trấn điều này – ông thị trưởng reo lên, khấp khởi khi nghĩ đến những cải cách ông sẽ tiến hành với khoản tiền nhận được, một chiến dịch q uảng cáo sẽ được tung ra trên các mặt báo, những khoản vốn đầu tư sẽ ùn ùn kéo đến nhờ việc giảm thuế, du khách sẽ đổ xô đến sau khi ông cho xây dựng một khách sạn đầy đủ tiện nghi và kéo thêm đường cáp điện thoại mới tránh cho họ những khó khăn về thông tin liên lạc.
- Không, tôi không thể làm cái điều này – ông linh mục trả lời – những người tuẫn tiết không bao giờ đi phản kháng lại, khi dân chúng muốn họ bị giết. Nhưng bản thân họ cũng không tự đi tìm cái chết, bởi nhà thờ luôn răn dạy chúng ta rằng, cuộc sống là ân ban của Chúa. Tự các vị phải giải thích thôi.
- Sẽ không có ai tin chúng tôi. Nhất định họ sẽ coi chúng tôi cùng một giuộc táng tận lương tâm như những kẻ sát nhân đi sát hại một con người sống thánh thiện, làm cái việc như Juda bị tiền bạc cám dỗ đã bán đứng Chúa Kitô.
Ông linh mục nhún vai. Có cảm tưởng như mặt trời lại bị che khuất bởi những đám mây đen và trong phòng áo lễ lại bao trùm bầu không khí căng thẳng.
- Thế thì chỉ còn bà Berta – ông đại điền chủ nói.
Im lặng hồi lâu, ông linh mục mới lên tiếng.
- Bà ấy rõ ràng rất đau khổ vì mất chồng. Đã bao năm qua bất kể thời tiết thế nào, hết ngày này qua ngày khác cứ thẫn thờ ngồi ở cửa nhà mình, chẳng làm gì, chỉ buồn nhớ. Và tôi ngờ rằng, bà lão đáng thương đang ngày một lú lẫn đi. Nhiều lần đi ngang qua, tôi nghe thấy bà lão lầm rầm trò chuyện một mình.
Một cơn gió oi nồng lại vụt ập vào căn phòng và ai nấy đều giật thót người vì cửa sổ bỗng đóng sập lại.
- Cuộc sống của bà lão buồn ghê gớm – bà chủ khách sạn tiếp lời – Tôi nghĩ, bà lão sẵn sàng cho đi mọi thứ trên đời này chỉ để mong được đến ngay nơi ông chồng yêu quý đang chờ bà ấy. Các ông các bà có biết vợ chồng họ đã sống với nhau đến bốn chục năm không?
Mọi người chả biết, nhưng chẳng có ai bận tâm đến.
- Một người phụ nữ ở vào cái tuổi quá quá ư là thọ rồi, có thể nói, gần đất... – ông đại điền chủ thêm vào – và sau nữa, là người duy nhất của thị trấn chúng ta thực sự không còn phải bận tâm về bất cứ chuyện gì quan trọng nữa. Có lần tôi hỏi bà lúc nào cũng cứ ngồi, thậm chí kể cả vào mùa đông trước cửa nhà để làm gì, và các vị có biết bà Berta trả lời tôi thế nào không? Rằng, bà lão ngồi canh chừng để không cho xảy đến cái ngày cái Ác sẽ xuất hiện ở thị trấn.
- Vậy rõ ràng là bà lão đã không hoàn thành trách nhiệm của mình rồi.
- Lật ngược vấn đề - ông linh mục nói – Theo tôi hiểu, qua lời các vị thì ai để cho cái Ác lọt vào Viscos thì người đó phải đuổi nó đi.
Dấu lặng lại lơ lửng treo, nhưng tất cả đều hiểu cuối cùng cũng đã chọn được phải hy sinh.
- Còn điều cuối cùng – bà chủ khách sạn xả một tràng – Chúng ta đã biết khi nào sẽ diễn ra lễ hiến sinh vì sự phát đạt của thị trấn, đã biết ai là người phải hy sinh, nhờ cái thể thức này linh hồn ngoan đạo sẽ được lên thiên đường thay cho những đau khổ tràn ngập cuộc sống nơi trần thế này, và sẽ được hưởng hạnh phúc. Chỉ còn phải biết xem chúng ta sẽ thực hiện việc đó như thế nào.
- Cần thông báo cho tất cả đàn ông ở Viscos – ông linh mục nói – Chín giờ tối đến tập trung ở quảng trường. Tôi thiết nghĩ mình đã biết "như thế nào". Trước thời hạn đã định một chút, chúng ta sẽ lại gặp nhau ở đây trong phòng áo lễ này và bàn kín thêm.
Trước khi mọi người rời khỏi phòng áo lễ, ông linh mục đề nghị bà vợ ông thị trưởng và bà chủ khách sạn theo hướng mà buổi họp đã bàn, đến nhà bà Berta và trò chuyện với bà lão. Mặc dù bà lão không bao giờ đi đâu vào chiều tối, xong cẩn thận trước cũng không thừa.
Chú thích:
[1] Theo truyền thuyết trong Kinh Thánh, Golgotha là ngọn đồi nơi Chúa Jesus bị đóng đinh câu rút