Trang 3
Tác giả: Vô Danh
11.- Mai-công đến thăm Phùng Đô-sát (câu 301 - câu 336)
Kíp truyền quân kiệu tháo lui,
Sang tòa Đô-sát, họp người đồng niên.
Phùng công ra đón rước liền,
Chủ tân một hội, hàn-huyên mấy lời.
Sự tình kể-lể lôi thôi,
Ngoài ngàn muôn dặm, trong mười mấy năm.
Xiết bao trò-chuyện tri âm,
Khói hương cao thấp, chén chầm đầy vơi.
Mai-công rằng lúc mới rồi,
310.- "Tức gan mà lại nực cười lắm sao."
Kể từ tướng-phủ mới vào,
Thế nào khinh-dể, thế nào hỏi han,
Miệng đường lại, mặt môn-quan,
Kẻ xin đòi lễ, mình toan ném tờ.
Đinh-ninh kẽ tóc chân tơ,
Từ đầu đến cuối kể qua một hồi.
Chư công rằng: " Hãy kín hơi,
"Nghĩ cho chín, mới là người tri cơ .
"Rồi đây trời cũng có ta,
320.- "Làm bao giờ, biết bấy giờ, mới cao."
Ông rằng: "Như thế thảo nào,
"Bè gian trách chẳng quyền-hào lắm ru !
"Như bây giờ việc nên lo,
"Quấy hôi đặt miệng, bày trò Trào-châu.
"Tôi đà tính trước nghĩ sau,
"Muốn yên chi khỏi lấy đầu họ Lư ?
"Thôi đừng sợ oán sợ thù,
"Rày lần mai lữa, nhập-nhù khó coi.
"Việc này giao một mình tôi,
330.- "Để mà xem Kỷ với Mai thế nào !
Ví bằng giải kết làm sao,
"Giữ-gìn Mai-thị trỏ vào lối sinh.
"Già này dù thác cũng vinh,
"Suối vàng khuất mặt cũng khinh-khích cười."
Thoắt thôi từ tạ mấy người,
Tấc lòng thề chẳng đội trời với ai.
12.- Mai-công dến mừng tiệc thọ Lư Kỷ (câu 337 - câu 410)
Ngày xuân thấm-thoắt đưa thoi,
Lư-công tuổi thọ sáu-mươi vừa tuần.
Định ngày vui mở tiệc xuân,
340.- Vua cho lễ-vật nội thần đem ban.
Lại truyền văn võ bá quan,
Cứ ngày cùng đến tướng môn lễ mừng.
Phủ-đường dọn dẹp tưng-bừng,
Rỡ-ràng kết thái trương đăng trong ngoài.
Vóc đề chữ, gấm thêu bài,
Vịnh ca Thiên-bảo, chúc lời Nghiêu-hoa ,
Dập-dìu chốn vũ nơi ca,
Trò bày bách hí, nhịp hoà bát âm.
Chong giá nến, quạt lò trầm,
358.- Rót bình rượu ngọc, dâng mâm đào vàng.
Võng đầy cửa ngựa chen đàng,
Khắp triều quan đến, khắp hoàng thân ra.
Bày phô chén ngọc đũa ngà,
Gia-hào mấy vị, trân-la mọi mùi.
Tướng-công thăm-thẳm xa ngồi,
Tiếp tân phó mặc con nuôi họ Hoàng.
Mai-công lễ vật tầm thường,
Miến vài cân với lạp-hoàng vài đôi.
Hoàng Tung trông thấy mỉm cười,
360.- Tìm Lư-công, đến tận nơi tiến trình.
Tướng công ngồi trước thọ bình,
Chói vàng bông mũ, ngắt xanh hoa bào.
Tứ bề trướng gấm màn đào,
Mùi hương-xạ ngát, tiếng thiều nhạc rung.
Trông ra nhác thấy Hoàng Tung,
Xem đơn lễ mới thung-dung dạy lời:
"Ít nhiều có lễ thì thôi,
"Hãy thu lấy đấy, khuyên mời hẳn-hoi.
"Tay này là bậc đại tài,
370.- Để ta mua chuộc làm tôi tớ nhà."
Cứ lời Tung mới bước ra,
Chào rằng: "Vâng mệnh ân-gia mời ngồi.
"Lễ đơn đây đã thu rồi,
"Dám xin vài chén tiệc vui gọi là !"
Mai-công rằng: "Những ở xa,
"Chẳng hay quí chức tuổi đà bao nhiêu ?"
Tung rằng tuổi cũng chưa nhiều,
"Năm mươi-tư tuổi gần theo cõi già."
Ông rằng: "Thực cũng khéo là,
380.- "Thế mà nghĩa-phụ thế mà ân-nhi.
"Sống lâu thấy lắm chuyện kỳ,
"Sao xưa nay vẫn không nghe tiếng đồn ?
"Mới hay vượng-khí tướng-môn ,
"Năm lên sáu tuổi sinh con đầu lòng."
Tung nghe ra giọng đâm hông,
Mặt ngăn ngắt tím, mắt sòng-sọc trông.
Các quan biết ý Hoàng Tung,
Giả điều mời rượu Mai-công ép nài.
Ông rằng: " Lượng rượu kém ai,
390.- "Tiệc vui, dù chẳng đợi mời cũng say.
"Nghe hơi tử-khí đâu đây,
"Dẫu rằng nửa chén đưa cay chẳng màng.
"Đến đây vâng mệnh Thánh-hoàng,
"Sá vui kèo rót với tuồng quyền-gian."
Hoàng Tung đỏ mặt sốt gan,
Bất thình-lình bỗng trong bàn mất vui.
Như mèo tiu-nguỷu mất tai,
Chẳng thu một lễ chẳng mời một ai.
Vào trong tức tối một hơi,
400.-Bên màn Lư Kỷ, kê ngồi nỉ-non.
Nhỏ to chua cái chua con:
"Hôm xưa kiệu đến nghi-môn còn ngồi.
"Mới rồi đưa lễ giễu chơi,
"Đã câu rủa mát, lại lời đưa chênh.
"Gần chùa gọi bụt là anh,
"Không văn-pháp nữa, còn danh-giá gì"
Lư rằng: "Con chớ lo chi,
"Ra tay, rồi sẽ liệu bề bẻ mai.
"Cho vào bạn đảng thì thôi,
410.- "Bấy giờ dẫu nghĩ kêu trời cũng xa !"
13.- Lư Kỷ hãm-hại Mai-công (câu 411 - câu 474)
Bè gian đang sắp mưu lừa,
Bỗng đâu nội-giám đã ra truyền đòi.
Liền tay thảo sớ một bài,
Theo chân nội-giám vào nơi đền vàng.
Vua Đường rằng: "Buổi thong-dong,
"Hứng vui nên triệu tướng-công hầu cờ."
Bàn son bày sẵn quân ngà,
Lư-công có ý chịu thua hai bàn.
Đứng tâu trước mặt long-nhan ,
420.- "Lòng lo việc nước, nào toan việc cờ.
"Ai hay những việc chẳng ngờ,
Lời biên-quan báo, thực là không sai.
Ong trong tay áo có người,
"Giao-thông giặc Thát toan bày nọ kia.
"Tâu lời nghe những ngô nghê..."
Một tờ đoản biểu tức thì giở ra.
Vua Đường cất lấy xem qua,
Mới hay bạn nghịch ấy là Bá Cao.
Truyền đem chính-pháp thị-tào ,
430.- Lư-công xin để buộc vào có tang.
Ghé tai tâu mật mọi đường:
"Xin làm như thế mới tường đầu đuôi."
Buổi chầu vừa rạng ngày mai,
Đường-hoàng rằng: "Mới tin ngoài lại tâu
"Ải quan rợ Thát quấy rầy,
"Định ngày tiến-thảo ngõ hầu an biên.
"Cho Đông Sơ với Lạc Thiên,
"Kẻ quyền tham tán, người quyền Đổng binh ,
"Văn-thần ra sức đãng bình.
440.- "Dẹp yên khói giặc, quét thanh bụi Hồ."
Hai người nghe nói căn-do,
Trước thềm phủ phục, mướt bồ hôi lưng.
Mai-công ra trước tâu rằng:
"Dám bày lòng kiến xin dâng bệ rồng.
"Phen này động việc binh-nhung,
"Cũng vì Lư Kỷ, Hoàng Tung hai người.
"Khéo là bày việc trêu ngươi,
"Cầm cơ chẩn-mễ, cướp mồi tiểu-di .
"Thóc kho, của nước thiếu chi,
450.- "Xin cho chẩn-thải theo y lệ thường.
"Lấy đầu hai gã Lư, Hoàng,
"Ắt là Thát trở về hàng không sai.
"Can chi gây việc cõi ngoài,
"Đem tài qua-giáp, ép người văn-chương.
Đường-hoàng nổi giận vội-vàng,
Rằng: "Vì giặc Thát tìm đường hoãn binh. "
Kíp truyền đao-phủ chỉnh hình,
Mới hay tấm dạ kiên trinh khác thường.
Hãy còn ngảnh lại triều-đường,
460.- Miệng còn sỉ-nhục Lư, Hoàng chưa thôi.
Thương thay trung nghĩa như ai,
Sa cơ một phút ra người cửu-nguyên .
Trần Đông Sơ với Lạc Thiên,
Vạ lây cũng phải cách quyền hồi dân.
Hai người thương kẻ trung-thần,
Nghĩ tình bạn-hữu ân-cần thở-than.
Cùng Mai Bạch mới lo toan,
Vào chùa Tướng-quốc bàn-hoàn với sư.
Xin đem linh-cữu để nhờ,
470.- Giục chàng Mai Bạch về nhà đưa tin.
Mới hay tục-ngữ thế truyền,
Lời rằng: "Họa chí vô đơn "cũng thường."
Lòng chua xót, bước phong sương,
Nửa đường Bạch cũng suối vàng chơi xa.
14.- Gia-quyến nhà họ Mai lánh nạn (câu 475 - câu 504)
Lư-công mạo chỉ truyền ra,
Đến Thường-châu nã một nhà họ Mai.
Ruổi mau lệnh-tiễn hỏa-bài ,
Mấy ngày thoắt đã tới nơi châu Tường.
Còn đương trách cứ phủ-đường,
480.- Mỏng tai may có một chàng Đồ Thân.
Đêm khuya kíp vội dời chân,
Mách công-tử với phu-nhân liệu đường.
Mẹ con xiết nỗi kinh-hoàng,
Cùng xuôi nỗi thảm, vội-vàng trốn đi.
Chia đường tìm chốn trợ thì,
Đỡ khi gấp rút, đỡ khi vận cùng.
Phu-nhân sang đất Sơn-đông,
Có em lỵ đó cũng trong đồng-bào.
Đồ Thân lòng tiết nghĩa sao,
490.- Tưởng ân-nghĩa trước xin theo đi cùng.
Sửa-sang hành-lý vừa xong,
Một công-tử với Hỉ Đồng đi ra.
Nghi-trưng huyện ấy chẳng xa.
Nhạc-thân lỵ đó tên là Hầu Loan.
Ngại-ngần gặp bước gian-nan,
Người bâng-khuâng mẹ, kẻ bàn-hoàn con.
Trời đà mở lối sinh môn,
Rồng về biển, cọp về non bao giờ ?
Phủ-binh khen khéo hững-hờ,
500.- Canh năm vừa kéo đến nhà họ Mai.
Trước sau nào có một ai,
Khói nhà lạnh ngắt, tiếng người vắng tanh.
Sai-nha thấy thế nghi tình,
Bảo nhau tầm-nã chung quanh trong làng.
15.- Nông-nỗi Mai-sinh trong khi lánh nạn (câu 505 - câu 572)
Phu-nhân phận ấy đã cam,
Cũng may được chốn nhà em nương mình.
Thương thay công-tử tuổi xanh,
Long-đong mấy hội, gập ghềnh mấy phen.
Từ khi thầy tớ xuống thuyền,
510.- Thuận giòng thủy-đạo tới miền Nghi-trưng.
Tới nơi lên bộ dùng-dằng.
Vào nơi phạn-điếm hỏi chừng trước sau.
"Lạ-lùng xin tỏ cho nhau,
"Huyện-quan có phải họ Hầu tên Loan ?"
Nhà hàng thấy nói hỏi-han,
Trình rằng: "Thôi chớ hỏi bàn làm chi.
"Lòng người ăn xổi ở thì,
"Nặng bên danh-lợi, nhẹ bề thân-hơi.
"Cho hay giàu điếc sang đui,
520.- "Tìm vào trước đã lắm người ra không."
Nghe thôi công-tử ngại-ngùng,
Ngồi bên, khen gã Hỉ Đồng mỏng tai.
Đêm khuya ghé lại rỉ lời:
"Lòng người nham hiểm, thói đời viêm-lương .
"Mời rồi nghe chuyện nhà hàng,
"Họ Hầu đây cũng là phường lăng-nhăng.
"Mà ta lánh nạn băng chừng,
"Chúng tôi dại dạ, nghĩ đừng vội tin.
"Chấp kinh nếu chẳng tòng quyền,
536.- "Sợ chi muôn một chu-tuyền làm sao ?
"Tôi xin thay mặt trước vào,
"Nghe tình-hình ở thế nào thử xem.
"Bằng ra lòng cá dạ chim,
"Tôi đương nạn ấy, người tìm nẻo xa."
Túi hành-lý gửi vào nhà,
Tớ thầy đổi áo bước ra lên đường.
Lạ-lùng lẫn-lộn hèn sang,
Hỉ Đồng đi trước, để chàng theo sau.
Đồng đà liệu trước mưu sau,
540.- Mua tì-sương đã buộc đầu đai lưng.
Bước vào cửa huyện Nghi-trưng.
Để công-tử chực nghe chừng một nơi.
Cậy người môn lại thưa lời,
Đưa tin bán-tử họ Mai sang hầu.
Truyền cho vào tận trong lầu,
Hầu Loan hỏi hết gót đầu vân vân.
Hỉ Đồng thưa chuyện xa gần,
Nỗi nhà oan khốc, nỗi thân lạc-loài.
Thoắt thôi gỉa cách sụt-sùi,
550.- Nào hay Hầu-thị là người bạc đen.
Dứt lời trở mặt quở liền:
"Tội-nhân ai dễ cò quyền dám dong ?
"Con ta yểu-điệu khuê-phòng,
"Có Tây-tử đó, thiếu đông-sàng nào !
"Ở đây mười mắt trông vào ,
"Rõ-ràng án ấy, tha sao cho đành."
"Kíp truyền ngục tốt giao canh,
"Rồi đây ta sẽ tiến kinh cho rồi !"
Bấy giờ công- tử đứng ngoài,
560.- Trông vào đã thấy tơi-bời điệu ra.
Quá thương dường muốn hỏi qua.
Hỉ Đồng liếc mắt xa đưa ý chàng.
Trong mình sẵn gói tì-sương,
Giở ra nuốt ực quyết đường quyên-sinh.
Nghĩ người con trẻ thương tình,
Nghĩa thầy-tớ nặng xem thân mình không.
Tưởng là Mai-thị thân vong ,
Giả hình ai biết Hỉ Đồng là ai ?
Một đoàn ngục tốt tơi-bời,
570.- Khiêng ra cửa bắc, táng ngoài đồng không.
Mai-sinh theo hút xa trông,
Viếng thăm làm dấu, mới phong nên phần. Chú thích:
Phùng công : tức Phùng Lạc Thiên, bạn của Mai-công.
Chủ tân : Chủ với khách.
hàn-huyên : Hàn : lạnh; huyên : ấm . Xa cách nhau lâu ngày trải qua mùa lạnh sang mùa ấm, khi gặp, chuyện-trò hỏi thăm nhau, gọi là hàn-huyên.
Chư công : Các ông, các ông bạn của Mai-công họp mặt ở nhà Phùng công hôm ấy.
tri cơ : Biết việc sẽ xảy ra.
Trào-châu : là một địa-phương thuộc tỉnh Quảng-đông, nơi Hàn Du bị biếm, nhưng việc đó ở về đời Đường Hiếu-tông. Không hiểu câu này ý-nghĩa ra sao ?
Kỷ với Mai : Kỷ là Lư Kỷ, Mai là Mai Bá Cao (Mai-công) còn có nghĩa Kỷ là cây kỷ, mai là cây mai nữa. Câu này có ý đem "mai" chọi với "kỷ" cùng là hai loài cây, lối chơi chữ của tác-giả, cũng như câu "thì vin cành quít cho cam sự đời" của Nguyễn Du !
thề chẳng đội trời : do chữ "thệ bất cộng đới thiên".
thấm-thoắt đưa thoi : do chữ "tuế nguyệt như thoa".
[Back to the top]
nội thần : quan trong, tức nội giám, hoạn quan.
kết thái trương đăng : kết hoa trưng đèn.
Thiên-bảo : Một chương trong Kinh Thi (Nhã phong), có 9 chữ như chúc tụng nhà vua :
Như sơn như phụ,
như cương như lăng,
như xuyên như phương chí dĩ mặc bất tăng,
như nguyệt chi hằng,
như nhật chi thăng,
như nam sơn chi thọ, bất khiên bất băng,
như tùng bách chi mậu, vô bất nhĩ hoặc thừng.
Người ta gọi "Thiên bảo cửu như" là thế.
Nghiêu-hoa : Vua Nghiêu đi tuần thú đến đất Hoa, có Phong-nhân (người coi ấp) chúc vua giàu có, sống lâu và nhiều con trai, nên có câu : "Hoa-phong tam chúc" . Nghĩa là 3 điều chúc của Phong-nhân ấp Hoa.
bách hí : Trăm trò chơi.
bát âm : tám thứ âm-nhạc.
triều quan : Quan trong triều.
hoàng thân : Họ nhà vua.
Gia-hào : đồ nhắm ngon.
trân-la : rau thơm, rau quí.
[Back to the top]
lạp-hoàng : tức hoàng lạp, sáp vàng.
thiều nhạc : bản nhạc đời vua Thuấn bên Tàu. Đây chỉ nói về âm-nhạc.
ân-gia : nghĩa là cha nuôi, Lư Kỷ là bố nuôi của Hoàng Tung.
Lễ đơn : tờ kê lễ-vật.
nghĩa-phụ : cha nuôi.
ân-nhi : con nuôi.
vượng-khí tướng-môn : bởi chữ : tướng môn vượng khí , khí thịnh vượng trước cửa nhà quan Tướng.
nghi-môn : cửa chính ở các dinh-thự hay lâu đài nào, nhà lớn.
bạn đảng : đảng làm phản, bọn phản đối.
long-nhan : mặt rồng, mặt vua.
[Back to the top]
biên-quan : quan coi ngoài biên-giới.
giặc Thát : tức rợ Thát-đát nguyên là biệt bộ nước di dịch về hạng Hung nô , Đột-quyết, về sau là Mông-cổ, một dân tộc thượng võ đã có phen làn rung-động hoàn cầu.
đoản biểu : tờ biểu ngắn.
chính-pháp thị-tào : xử theo phép chính, nghĩa là đem chém. Thị tào : nơi chém người, cũng như nói "pháp trường".
Đường-hoàng : vua nhà Đường
tham tán, người quyền Đổng binh : Tham-tán, Đổng-binh : hai chức coi việc hành quân đánh giặc.
lòng kiến : do chữ nghĩ khốn.
chẩn-mễ, tiểu-di : chẩn-mễ : gạo phát chẩn , Tiểu-di : quân mọi-rợ nhỏ.
chẩn-thải : phát chẩ và cho vay.
qua-giáp : qua : ngọn giáo; giáp : áo giáp che tên đạn. Qua-giáp là nói về quan võ.
[Back to the top]
văn-chương : nói về quan văn.
hoãn binh : làm chậm việc binh lại, có ý để chờ dịp gì đáng ngờ.
đao-phủ : đao búa, thứ khí-giới để hành-hình kẻ bị phạm tội chết.
cửu-nguyên : cũng như cửu tuyền : chín suối, đường âm.
cách quyền hồi dân : bị cách chức về làm thường dân
Mai Bạch : người gia-đinh theo hầu Mai công.
Tướng-quốc : nghĩa đen là giúp nước, cũng như hộ quốc, tên một ngôi chùa ở kinh-đô bấy giờ.
Họa chí vô đơn : bởi câu họa vô đơn chí, tai vạ bao giờ cũng bị dồn-dập chứ không khi nào chỉ đến lẻ-loi có một việc mà thôi.
lệnh-tiễn hỏa-bài : lệnh-tiễn : lá cờ nhỏ của các quan tướng dùng làm hiệu lệnh để ban phát. Trong lá cờ có đề chữ "lệnh", ngọn cờ hình nhọn như mũi tên.
hỏa-bài : Phiến gỗ có viết chữ, cầm làm hiệu-lệnh của các nha-môn, việc gì khẩn cấp thì phê chữ "hỏa" nghĩa là nóng như lửa, hỏa tốc.
đồng-bào : cùng bọc sinh ra, anh chị em ruột, câu này nói người làm quan đó là em ruột của Mai phu-nhân.
[Back to the top]
Hỉ Đồng : thư-đồng của Mai-sinh.
Nghi-trưng : Một huyện thuộc đạo Duy-dương tỉnh Giang-tô bên Tàu đời bấy giờ.
Nhạc-thân : Bố vợ Mai-sinh.
sinh môn : cửa sống, lối sống, con đường sống.
Phủ-binh : lính phủ, tức lính ở phủ Thường-châu, sở tại, quê Mai-công.
thủy-đạo : đường thuỷ.
phạn-điếm : hàng cơm.
viêm-lương : viêm : nóng ; lương : mát .Thói đời viêm-lương : ý nói thói đời cứ tùy theo kẻ suy người thịnh mà coi trọng coi khinh, cũng như tiết trời lúc nóng lúc lạnh thay đổi thất thường.
chu-tuyền : làm cho trọn vẹn.
tì-sương : vị thuốc độc.
[Back to the top]
môn lại : người coi cửa.
bán-tử : nửa con, tức là con rể.
Tội-nhân : người có tội
Tây-tử : tức Tây Thi, gái đẹp đời Xuân-thu, Việt-vương Câu Tiễn bị Ngô-vương Phù Sai đánh thua, đem Tây Thi dâng cho vua Ngô để cầu hòa. Vua Ngô bị Tây Thi mê hoặc đến nỗi lại bị Việt-vương đánh thua, suýt phải mất nước.
đông-sàng : giường bên đông. Đời Tấn, Hy Giám có con gái, cho người đến nhà Vương Đạo kén rể. Con cháu họ Vương đều hy-vọng, duy Vương Hy Chi chỉ nằm phơi bụng tại giường bên đông ăn bánh, coi như không có chuyện gì. Hy Giám bèn gả con gái cho Hy Chi, sau quả nhiên hiển-đạt hơn cả.
mười mắt trông vào : bởi chữ thập mục sở thị .
ngục tốt : lính canh ngục.
thân vong : chết
phần : nấm mả, phần mộ.