Trang kết
Tác giả: Vô Danh
61.- Mai Trạng-nguyên báo ân báo oán (câu 2485 - câu 2644)
Lần lần gió mát trăng thanh,
Thuyền đà tới phủ Đại-danh bao giờ.
Một vài thầy tớ lên bờ,
Dân tình lại tệ, giả vờ, hỏi chơi.
Khác hình ai biết là ai,
2490.- Đi lần bỗng thấy một nơi có chùa.
Cửa ngoài thấy có niêm tờ,
Phủ-nha nghiêm cấm kẻ ra người vào.
Nghĩ riêng chưa biết làm sao,
Xưa nay cửa bụt dễ nào hẹp ai ?
May sao gặp lúc vắng người
Dời chân sẽ lẻn vào nơi hậu đường.
Thấy trong thờ-phụng một giường,
Trông lên bài-vị rõ-ràng Lư-công.
Thái-sư chức tước đề trong,
2500.- Chữ "Hầu Loan phụng" một dòng đề bên.
Cầm tay cất lấy về liền
Cười rằng cấm cách nhân-duyên thế này !
Về thuyền, quân đã sắp bày,
Vào toà sát-viện sai ngay đi đòi.
Nghe quan Tuần-phủ đến nơi,
Hầu Loan mình đã bồ-hôi ướt nhè,
Mấy lời truyền hỏi xa nghe:
"Viên kia có mất của gì biết chưa ?
"Đồn rằng có ả tiểu-thư,
2510.- "Đông-sàng ngôi ấy bây giờ là ai ?"
Loan nghe chưa hết đầu đuôi,
Rung rung sợ sợ, mở lời không ra
Thưa rằng: "Có chút gái thơ,
"Mấy năm trước đã chơi xa suối vàng.
"Chức ti phận tiểu tầm thường,
"Chẳng hay thượng-hiến, sao tường duyên-do.
"Đến mừng chậm-chạp già nô,
"Dám xin thượng-hiến thứ cho được nhờ.
Quở rằng: "Lộc nước ơn vua,
2520.- "Còn lo thất hiếu mà thờ họ Lư !
"Cả gan còn dám quanh-co.
"Chứ thì bài-vị sau chùa tên ai ?
"Nghi-trưng những chuyện mới rồi,
"Bấy giờ bắt nộp họ Mai, công gì ?
"A-dua chắc những mạnh bè,
"Ai hay quyền ấy lại về tay ai ?
"Ruổi mau lệnh-tiễn kỳ-bài ,
"Đem ra chính-pháp, răn người vô lương .
Oai trời một lưới tứ phương,
2530.- Rung gan đảng nịnh, ghê xương lũ tà.
Gần gần đã thấu tin nhà,
Châu-công đã khiến người ra đón mời.
Quan quân sắm-sửa tơi bời,
Cờ giăng nhất tự , trống hồi tam liên .
Biển vàng: "Tuần-thú đại thiên. "
Một bên bảo-kiếm, một bên lệnh bài.
Phủ Châu thoắt đã tới nơi,
Châu-công ra đón cửa ngoài mừng vui.
Phấn vua rạng vẻ cân đai,
2540.- Hà-nam gia-khách vẫn người ngày xưa.
Quan cựu lại, bực tân khoa,
Tình nhạc-phụ, nghĩa ân-gia vuông tròn.
Tiệc rồi giãi chuyện hàn-ôn,
Gấm chen vẻ quí, rượu ngon giọng tình.
Sinh rằng: "Nhờ phận khoa danh,
"Quốc-gia ơn rộng, môn-đình thơm lây.
"Chiếu trời đã tỏ năm mây,
"Xong tuần đại thú, đến ngày nghênh thân.
"Khâm kỳ nghe đã gần gần,
2550.- "Một nhà xin liệu, định tuần lai Kinh."
Bước vào làm lễ gia-đình,
Tạ từ sinh đã khởi trình trẩy ra.
Tình cố-hữu, nghĩa thông-gia,
Ông đà sửa lễ, cho đưa theo thuyền.
Xuôi dòng nước chảy như tên,
Buồm giong thoắt đã tới miền Thường-châu.
Gieo neo kề bến mã-đầu ,
Sửa-sang nhà trước, vườn sau mấy tuần.
Cho tin đi đón mẫu-thân,
2560.- Sơn-đông nhà cậu cũng gần chẳng xa.
Mấy ngày bà đã tới nhà,
Ruột dò chín khúc, lệ sa đôi hàng.
Vật mình lăn trước linh sàng .
Khúc oan kể-lể, nỗi thương ngậm-ngùi.
Nhìn chàng, than thở mấy lời,
Nghĩa sâu mẫu-tử, tình dài biệt ly.
Ôm quan khóc-lóc nằn nì,
Nghĩa phu-phụ những nặng vì nước non.
Thảm chồng thôi lại mừng con,
2570.- Thức cười nước mắt, ngủ hồn chiêm-bao
Sinh rằng: "Chín chữ cù-lao,
"Bể sâu mấy trượng, trời cao mấy trùng.
"Bấy lâu nam bắc tây đông,
"Bước chân xa cách, tấc lòng quặn đau.
"Trời cho rày được tụ đầu,
"Nợ xưa nhẹ gánh, phúc sau đền phần.
"Con vâng vương-mệnh tại thân ,
"Vinh qui, hối táng,đại tuần, một phen.
"Rồi đây táng tế cho yên,
2580.- "Mẫu-thân xin rước xuống thuyền lai Kinh.
"Chẳng lâu con cũng khởi-hành,
"Trước lầu ngữ phượng đại thành lễ thân."
Mấy ngày táng sự đến tuần,
Đã tìm đất tốt phong-thần một nơi.
Chiếc bia "trung-liệt" dựng ngoài,
Đá xanh tạc lấy được ngày treo trên.
Thành phần nóc rạp kéo lên,
Ba vòng giáo dóng, hai bên thái kỳ.
Tầng trong bày-đặt uy-nghi,
2590.- Ngậm tăm hơi miệng, kéo rề bước chân.
Tiêu thiều nhã nhạc xa gần,
Tam huyền nhịp-nhặt, song vần tiếng khoan.
Đồ điếu-phúng, lễ ngự ban,
Mấy mâm ngũ-thục, mấy bàn tam-sinh .
Chữ vàng đề trước minh-tinh
Đường-triều Thái bảo chính danh rõ-ràng.
Quan quân tiễn kiệu kéo hàng,
Hạ-liêu mấy lũ, bộ đường mấy ban
Trạng-nguyên đi trước phù-quan.
2600.- Phu-nhân nối kiệu buông màn phương-du.
Lập lăng mấy gốc tùng-thu ,
Một vùng sảng-khải đắp mồ ngưu-miên .
Bấy lâu táng lễ vừa yên,
Phu-nhân đã giục xuống thuyền đi Kinh.
Trạng-nguyên cứ việc tuần hành,
Nghi-trưng vừa mới nhật trình tới ngay.
Lạ quen cũng một miền này,
Sao xưa trốn-tránh mà rày hiển-dương ?
Thoảng qua sực nhớ mọi đường,
2610.- Chợt lòng lại động tấm thương Hỉ Đồng.
Tra ra tri-huyện Sử-công ,
Môn-sinh Lư Kỷ cũng vòng quyền gian.
Sá chi mọn mảy xẻ đàn,
Nhiêu cho tính mệnh lại hoàn thứ-nhân .
Công-lênh nhớ đến Đồ Thân,
Cho làm huyện lệnh đền ân tấm lòng.
Bắc môn ghi mả Hỉ Đồng,
Dựng bia đá, lấy sắc phong tạc liền,
Lại truyền sửa rạp một bên,
2620.- Trước mồ tế điện một phen thân hành.
Khóc than kể hết mọi tình:
"Có công-danh ấy vì mình chớ ai.
"Vì ta trót đã thiệt đời,
"Đền công, ta cũng nhớ lời khấn xưa."
Băn-khoăn đường đất cách xa,
Giao Đồ Thân, tự bấy giờ giữ coi.
Phỏng sau kế tự còn dài,
Họ Đồ nhường lại một người họ Vương
Gọi là phụng tự khói hương,
2630.- Ấy là tròn hết mọi đường thỉ-chung.
Đồ Thân vâng dạy ghi lòng,
Đem con bèn cải Hỉ Đồng họ Vương,
Lại tìm đến chốn phật đường,
Truyền đem áo tía xe vàng nghênh sư,
Tái sinh may có ơn xưa,
Khấu đầu bách bái tạ thưa mấy lời.
Chàng từ ân oán rạch-ròi,
Cất không gánh nặng, tát vơi bể sầu,
Tuần-hành mọi chốn đâu đâu,
2640- Trong lòng phép nước, trên đầu ơn vua.
Công không sót, tội không tha,
Phân hào chẳng lẫn, tóc tơ nào lầm.
Mấy phen mực nẩy, cân cầm,
Trong veo lại tệ, nổi bồng dân ca .
62.- Sau khi đi tuần thú, Trạng nguyên trở vê kinh (câu 2645 - câu 2658)
Lần lần đông lại xuân qua,
Một vòng tuần-thú tính đà khắp quanh
Định ngày phục mệnh lai Kinh,
Sớ-văn một tập, hiện thành tâu lên.
Chín lần đã động tiếng khen,
2650.- Tấc lòng công chính, mấy phen nhọc-nhằn.
Trên vì nước dưới vì dân,
Ban cho cực-phẩm Tể-thần đền công.
Truyền Khâm-thiên-giám hội-đồng,
Chọn ngày đại-cát động phòng nghênh thân.
Trạng-nguyên thay áo Tể-thần,
Dưới thềm năm lạy tạ ơn khấu đầu.
Nhàn chơi lui tới thiếu đâu,
Phủ Trần đi lại, phủ Khâu ra vào.
63.- Hai đám cưới long trọng (câu 2659 - câu 2734)
Trời xuân minh mị thế nào,
2660.- Lưỡi oanh ríu-rít, bông đào so le.
Phượng lâu sắp sẵn lễ nghi,
Khâm-thiên đã định nhật kỳ tư ra.
Tháng ba vừa bữa mồng ba,
Là ngày hoàng-đạo, là giờ thiên-ân .
Xiết bao khí ngoạn kim-ngân ,
Phủ Mai lĩnh trước, phủ Trần lĩnh sau.
Bạc, vàng, ngà, ngọc, thiếu đâu,
Cung-hương, mã-não, minh-châu, mấy bàn.
Rỡ-ràng phẩm phục mới ban,
2670.- Mãng-bào hai bộ, hoa-quan bốn toà .
Hôm sau vừa rạng mồng ba,
Cao cao lầu phượng, xa xa mặt rồng.
Ngai vàng thăm-thẳm bên trong,
Bách quan văn-võ hội đồng bấy lâu.
Trạng-nguyên trước, Bảng-nhãn sau,
Yết câu vạn tuế, khấu đầu lạy xa.
Ban cho ngự tửu, cung-hoa ,
Hai yên ngựa trước, bốn toà kiệu sau.
Trước sau phân đạo ruổi mau,
2680.- Phủ Trần nhộn nhịp, phủ Châu linh-đình.
Thiếu gì vẻ quí màu thanh,
Rỡ-ràng kết thái, rập-rình trương đăng.
Hai bên tiếp đãi tưng-bừng,
Nhạc râm-rỉ vỗ, hương lừng-lẫy xông.
Khéo là thu-xếp cũng thông,
Châu-công đã hợp Trần-công một nhà.
Mai-sinh lạy bốn ông bà,
Bên là công đẻ, bên là công nuôi.
Vân Anh, Trần Hạnh hai người,
2690.- Cung-trang sắm-sửa cùng ngồi kiệu hoa.
Bên kia Khâu-phủ xa xa,
Xuân-sinh gióng ngựa cũng vừa tới nơi.
Ông bà Khâu-thị cùng ngồi,
Chàng vào tám lẽ, lễ rồi bước ra.
Giường bên bốn lạy Ngư-bà,
Tình là bán tử, nghĩa là tái sinh.
Vân Tiên, Châu Ngọc sắm-sanh.
Kiệu đà ghé bến trước bình cùng lên.
Vừa xong lễ sính đôi bên,
2700.- Trước sau một lũ kéo liền thẳng giong.
Trạng-nguyên ngựa trước song song,
Khác nào như thể cỡi rồng lên tiên,
Ngựa sau Bảng-nhãn theo liền,
Giải đào chân để, nệm sen mình ngồi.
Rườm-rà chân chỉ hạt trai,
Vàng suy miệng hậu, cừ nhồi mã yên.
Nối sau bốn kiệu kéo liền,
Tám đòn nhận ngọc, bốn bên buông rèm.
Liễu-hoàn, chị chị, em em,
2710.- Chạy gần che quạt, theo chen ôm lò.
Kiệu hoa nhẹ bước từ từ,
Kiệu theo ngựa trước, ngựa chờ kiệu sau.
Vòng ngoài nhộn-nhịp quân hầu,
Ngửa trông đã thấy phượng-lâu dưới thềm.
Khen rằng sáu gã thanh-niên,
Trai tài gái sắc, hai bên kịp thì.
Thơ đào ngợi chữ vu-qui ,
Ban thêm châu ngọc cho về thành thân.
Đôi tài-tử, bốn giai-nhân,
2720.- Phủ Mai bài trí, phủ Trần sửa-sang.
Đuốc hoa, màn gấm, sẵn-sàng,
Định ngôi gửi rể, chia buồng đông tây.
Rượu mừng mặt, lễ bắt tay,
Nơi vui bàn ngọc, nơi vầy cuộc tiên.
Rạng mai vào lễ thánh tiền ,
Ban cho bồi yến ngự diên hai chàng.
Thiên-nhan gần gũi tấc gang,
Nến hoa đối mặt, chén vàng trao tay.
Tiệc vui chầu-chực tối ngày,
2730.- Lại ban ngự-chức đưa ngay đến lầu.
Dần-dà cách mấy đêm sau,
Ban đòi tân phụ vào chầu từ cung.
Bốn nàng dự yến đền trong,
Ân vua gội thấm, tiếng chồng thơm lây.
64.- Hạnh phúc gia đình của hai họ Mai, Trần (câu 2735 - câu 2816)
Rồi ra yến-ẩm mấy ngày,
Khi vui Mai-phủ, khi vầy Trần-gia.
Mời nhau lần-lượt tiệc hoa,
Thôi bên Trần-thị, lại toà Khâu-công.
Phong-lưu phú-quí cùng chung,
2740.- Bõ ngày truân-hiểm , bõ công sách đèn.
Hai tài-tử, bốn thuyền-quyên,
Tiếng người mới, vẫn người quen bao giờ.
Dàn trước gió, rượu bên hoa,
Câu thơ trong tuyết, cuộc cờ dưới trăng.
Xướng tuỳ đều giữ đạo hằng,
Một nhà hảo-hợp dễ chăng mấy người.
Có phen ôn chuyện trùng-đài,
Có phen nhắc chuyện thoa rơi nực cười,
Có phen nhắc chuyện lôi-thôi,
2750.- Đền Chiêu Quân điện thủa đời Hán-gia .
Bèn đem tâm-sự tâu qua,
Lại xin ở đấy đợi chờ chiêm-bao.
Canh khuya thấy sứ đòi vào,
Bảo qua mấy tiếng tiêu-hao sự nhà.
Hôm sau đến Hắc-thủy hà,
Gieo châu, bỗng thấy thần đưa đem về.
Đằng vân giá vũ, cũng ghê,
Một giây bỗng thấy đưa về Trung-hoa.
Xin làm ngọc-xuyến, kim-hoa,
2760.- Mượn người thương khách đem đưa sang Hồ.
Hỏi thăm đến tối linh-từ,
Chiêu Quân là hiệu, bấy giờ tiến lên.
Khấn rằng là của Hạnh Nguyên,
Cho sai đưa đến án tiền tạ ân.
Lại ra các bộ sứ-thần,
Tạ từ cơ thiếp, vân vân mấy lời.
Có phen kể tích Giang Khôi,
Có phen nhớ nỗi vớt chài cầu vui.
Hai nhà phúc hậu vẹn mười,
2770.- Thung-thăng cõi thọ đứng ngồi đền xuân .
Đông hàng lông phượng gót lân ,
Kìa nhà ngũ quế, nọ sân bát đồng .
Đời đời khoa-mục đỉnh-chung,
Rõ nền thi-lễ, nối dòng thư-hương.
Hiếu, trung, tiết, nghĩa đủ đường,
Dựng bia muôn kiếp, để gương nghìn đời.
65.- Đoạn kết (câu 2736 - câu 2816)
Cho hay trời cũng ngồi rồi,
Tuần-hoàn đem lại vòng dài rút chơi.
Dữ, lành bỏ lửng mà coi,
2780.- Sắp đâu vào đấy chẳng sai phân hào !
Gian-tà chớ vội bảnh bao,
Tung lên cho đến, buộc vào tự nhiên.
Trước dù lỏng-lẻo dường thiên,
Sau càng ráo-riết, mới tin tay già.
Trung-lương còn bỏ lửng-lơ,
Xoay trăm nghìn cấp, thử ba bốn lần.
Hãy cho đeo-đẳng đủ phần,
Rõ lòng sắt đá liệu dần gỡ cho.
Voi chẳng đẻ, đẻ thì to,
2790.- Bấy giờ mới rõ thực lò Hóa-công.
Truyện này xem thấu thỉ-chung,
Suy ra mới biết trời không có lầm.
Dữ, lành trong một chữ tâm,
Cơ thâm thì họa cũng thâm là thường.
Ví hay tu tỉnh mọi đường,
Trước dù chịu thiệt, sau càng thấy hơn.
Bàn riêng mấy bạn kim-lan,
Phường ta bất quá sàn-sàn bực trung.
Dở đâu như Kỷ như Tung,
2800.- Hay đâu ví với Mai-công mà rằng.
Bình cư giữ lấy đạo hằng ,
Hễ người trung-chính xin đừng tự khi .
Đã là nam tử tu my ,
Vào vòng công-nghiệp, ấy thì có vua.
Mới hay từ tóc đến tơ,
Miếng cơm, tấm áo cũng nhờ quân-ân.
Sao cho được chữ trung-thần ,
Thờ vua chớ có vị thân mới đành.
Thế rồi trời cũng có mình,
2810.- Lo gì phúc hậu, công-danh kém người.
Phòng văn nhân buổi ngồi rồi,
Học đòi tấp-tểnh mấy lời nôm-na.
Trước là rõ kẻ trung, tà,
Sau là ta dặn lấy ta mọi bề.
Biết bao lời kệch tiếng quê,
Thôi thôi bất quá là nghề mua vui !
= HET= Chú thích:
Thái-sư : Một chức quan tột bực, đứng đầu tam Thái ( Thái sư, Thái-phó, Thái-bảo ),
Tuần-phủ : Theo quan-chế Tàu thì Tuần-phủ là chức thay vua đi tuần-thú để phủ an dân chúng các địa-phương.
Chức ti phận tiểu : Chức thấp phận nhỏ.
thượng-hiến : Quan trên.
lệnh-tiễn kỳ-bài : đã chú-thích ở trên.
vô lương : Không có lương-tâm.
nhất tự : Chữ nhất.
tam liên : Ba hồi thống
Tuần-thú đại thiên : Thay vua đi tuần thú.
Khâm kỳ : Kỳ-hạn đi khâm-mạng.
[Back to the top]
mã-đầu : Bến tàu đỗ.
linh sàng : Giường thờ người chết gọi là linh-sàng, nghĩa là cái giường thiêng, cũng như quan-tài gọi là linh-cữu.
Chín chữ cù-lao : Câu này do câu " ai ai phụ-mẫu sinh ngã cù-lao" nghĩa là thương thay cha mẹ, sinh ta khó nhọc ; trong thơ Lục-nga kinh Thi có chín chữ nói về công khó-nhọc của cha mẹ đối với con, cho nên ta thường nói "chín chữ cù lao " hay là " cửu tự cù lao" cũng thế,
vương-mệnh tại thân : mệnh vua ở mình, nghĩa là mình mang mệnh-lệnh của nhà vua.
Tiêu thiều nhã nhạc : Sáo và nhạc thiều là đồ nhã nhạc cũng như âm-nhạc.
ngũ-thục, mấy bàn tam-sinh : ngũ-thục có lẽ là ngũ quả hay ngũ cốc ? Tam sinh : lễ thịt trâu,dê, lợn.
minh-tinh : Cờ nêu. Đó là một tấm lụa hay vải đỏ, người ta dùng phấn trắng viết quan-chức, họ tên người chết, treo vào một cái giá hay một cần nêu dẫn đi trước cữu trong khi đưa ma. Lúc hạ huyệt thì đem tấm lụa ấy phủ lên trên mặt cữu. ( Ngô học lục).
Thái bảo : là chức của vua Đường truy-tặng Mai-công.
Hạ-liêu : quan dưới, tức thuộc viên.
phù-quan : phò quan-tài.
[Back to the top]
tùng-thu : cây thông và những cây về loài thông, người ta quen trồng tại nơi lăng-mộ.
sảng-khải : sáng-sủa cao-ráo.
ngưu-miên : Đào-Khản mất con trâu, có người bảo : Trên gò núi kia có một con trâu nằm, chỗ đất ấy mà táng được sẽ phát được đến cực-phẩm. Vì thế người ta gọi huyệt quí là "Ngưu-miên" nghĩa là trâu nằm.
Sử-công : Tên người. Tên viên Tri-huyện là môn-sinh -môn-hạ - Lư-kỷ.
Nhiêu cho tính mệnh lại hoàn thứ-nhân : Không bõ giết, chỉ cách chức đuổi về làm thứ nhân.
Tái sinh : Sống lại
Khấu đầu bách bái : Cúi đầu trăm lạy.
Trong veo lại tệ, nổi bồng dân ca : Ý nói những tệ-hại về quan tham lại nhũng đều tẩy trong veo làm nổi bật lên những tiếng ca-tụng ở trong đám dân-chúng.
cực-phẩm Tể-thần : Chức Tể-thần - Tể-tướng - tột bực, tức là chức Thủ-tướng đứng đầu hàng bách quan.
Khâm-thiên-giám : Tòa Thiên-văn, coi việc làm lịch, xem ngày, chiêm-nghiệm khí-hậu...
[Back to the top]
đại-cát : Rất tốt, tốt nhất.
minh mị : Tươi-sáng, đẹp-đẽ.
Phượng lâu : Lầu phượng.
hoàng-đạo, là giờ thiên-ân : Hoàng-đạo : Theo "Hiệp-kỷ biện-phương". Hoàng-đạo là một ngày tốt, cứ những ngày trực : trừ, nguy, định, chấp thành, khai là ngày Hoàng-đạo, Thanh-long, Minh-đường, Kim-quĩ, Thiên-đức, Ngọc-đường, Tư-mệnh là 6 giờ của Hoàng-đạo. Thiên-ân : Một ngôi sao tốt trong trong cung số Tử-vi, giờ Thiên-ân là giờ tốt vì có sao Thiên-ân chiếu.
khí ngoạn kim-ngân : Đồ dùng đồ chơi bằng vàng bằng bạc.
Cung-hương, mã-não, minh-châu : Đều là những thứ quí.
Mãng-bào hai bộ, hoa-quan bốn toà : Mãng-bào, hoa quan : áo thêu rắn, mũ giát hoa, đều là phẩm-phục cao cấp.
ngự tửu, cung-hoa : rượu vua ban, hoa trong cung.
Cung-trang : Ăn vận theo lối trang-phục trong cung vua, như các phi-tần,
lễ sính : Lễ cưới.
[Back to the top]
chữ vu-qui : Thơ Đào Yêu trong kinh Thi có câu " chi tử vu qui, nghi kỳ gia nhân " : Người ấy về nhà chồng hòa thuâ75n với mọi người trong nhà.
thánh tiền : đây nói trước mặt vua.
bồi yến ngự diên : Bồi yên : Hầu tiệc ; Ngự diên : Chiếu rượu nhà vua, Tiệc vua ban.
truân-hiểm : Gian-nan hiểm-trở.
Xướng tuỳ : bởi chữ phu xướng, phụ tùy : Chồng xướng-xuất, vợ noi theo.
hảo-hợp : bởi câu " thê tử hảo hợp, như cổ sắt cầm " : Vợ con hòa hợp, như gảy đàn sắt đàn cầm.
Hán-gia : Nhà Hán.
thương khách : Khách buôn.
cõi thọ : bởi chữ thọ vực.
đền xuân : bởi chữ xuân đài.
lông phượng : bởi chữ phượng mao.
[Back to the top]
gót lân : bởi chữ lân chỉ.
ngũ quế : Năm cành quế . Đậu Vũ Quân hiệu là Yên Sơn, dạy 5 con trai đều hiển đạt, có thơ khen rằng : " Linh thung nhất châu lão đan quế ngũ chi phương ". Nghĩa là : Một gốc linh thung già, năm cành đan quế thơm.
bát đồng : tám cây đồng. Họ Hàn có 8 anh em đều phát đạt. Người ta khen rằng " Hàn-gia bát đồng ", 8 cây đồng nhà họ Hàn.
Hóa-công : Câu này do câu " Thiên-địa vi lô, tạo-hóa vi-công " Trời đất là lò, tạo-hóa là thợ.
Cơ thâm thì họa cũng thâm : Câu này do chữ mưu thâm họa diệc thâm.
Bình cư giữ lấy đạo hằng : Bình cư : Lúc ở thường ; Đạo hằng : Đạo thường.
tự khi : Mình tự dối mình.
nam tử tu my : Nam tử : Con trai ; Tu-my : Râu mày.
trung-thần : Bầy tôi trung.
vị thân : Vì mình.