watch sexy videos at nza-vids!
Truyện Nhị Độ Mai-Trang 8 - tác giả Vô Danh Vô Danh

Vô Danh

Trang 8

Tác giả: Vô Danh

36.- Mang tên Mục-Vinh, Mai-sinh về giúp Châu-bá-Phù (câu 1369 - câu 1396)




Bỗng đâu một chiếc kề bên,
1370.- Hỏi ra mới biết là thuyền Châu-công.
Gặp nhau kể hết sự lòng,
Họ Châu môn-đệ họ Phùng ân sư.
Châu-công rằng: "Lẽ gọi là,
"Kính dâng một lễ, gọi đưa tấc thành.
"Hà-nam vâng mệnh tuần-hành ,
"Một phương xích-tử triều-đình trong tay.
"Những là lo-lắng đêm ngày,
"Dưới màn ai kẻ đỡ thay tờ bồi.
"Ân-sư liên-hữu có ai,
1380.- "Môn-sinh xin được một người là may !"
Phùng-công rằng: "Đã sẵn đây !
"Mục-Vinh gặp mấy buổi nay cũng kỳ.
"Văn-chương tài-mạo ai bì,
"Có chăng là một chữ "thì " kém ta.
"Cánh bằng khi gặp gió xa,
"Tung mây chưa biết lên đà đến đâu,
"Nhân-duyên may gặp được nhau,
"Việc nha xem đỡ, ta sau sá gì."
Hai ông trò-chuyện dã-dề,
1390.- Mới đem họ Mục đưa về Châu-công.
Của đưa gọi chút lấy lòng,
Một hòm tân-phục, hai phong nhật trình
Tiễn rồi lại dặn Mục-Vinh :
"Trượng-phu xin chớ quản tình biệt-ly."
Yên xong trở mũi thuyền đi,
Kẻ thì phó lỵ người thì tiến kinh.
37.- Tình cảnh Xuân-sinh sau khi lạc bạn (câu 1397 - câu 1426)




Thương thay còn một Xuân-sinh,
Liền đêm hôm ấy lánh mình xa xa.
Sáng ngày thức dậy nhớ ra,
1400.- Sơn-đông quen một người là Thái Câu.
Xưa từng lỵ-phủ Nhiêu-châu,
Cách quan nghe mấy năm sau ở nhà.
Hỏi thăm tìm đến hỏi qua,
Cửa ngoài đã thấy có tờ biên-phong .
Cũng vì Lư Kỷ, Hoàng Tung,
Chứng cho một án giao-thông giặc ngoài.
Xuân-sinh thấy sự kíp dời,
Một mình mặt đất, chân trời bơ-vơ.
Than rằng thung cỗi huyên già,
1410.- Thiên-lao biết có bao giờ biện oan .
Người tuổi-tác, khách cô-đan
Để ai tan nghé, rẽ đàn vì ai ?
Xót ai thui-thủi phương trời,
Hồng-nhan khi đã ra người cửu-nguyên.
Hiếu tình đeo nặng hai bên,
Dặn dò những chắc chu-tuyền có ta,
"Mai-kha ơi, hỡi Mai-kha,
"Rời nhau một bước nên xa mấy trùng.
Một đêm sương tuyết lạnh-lùng
1420.- "Khỏi chăng ? hay đã mắc vòng trần ai ?
"Thương thay trung-nghĩa mấy người,
"Kẻ thì oan thác người nơi ngục hình.
"Trách vua Đường, ở bất minh,
"Dung bên gian-đảng mà khinh hiền-tài. "
Bên lòng trăm mối bời bời,
Trông ra một nước một trời mênh-mông.
38.- Xuân-sinh trẫm mình được ngư bà cứu sống (câu 1427 - câu 1460)




Tử sinh xem nhẹ lông hồng ,
Quyết liều, sinh đã gieo sông bao giờ.
Hay đâu khéo cũng may mà,
1430.- Gần đâu đấy, có ngư-gia đóng thuyền.
Giăng chài vớt được chàng lên,
Tỉnh dần, trông rõ hai bên ngồi nhìn.
Trẻ-già một lũ cạn khan,
Đầu cành-cạch tóc, mình nhờn-nhợt da.
Ngồi bên thuyền chủ một bà,
Kề bên một ả mặt hoa tót vời.
Ngồi trông ra rõ mặt người,
Thương ôi ! sao nỡ bỏ hoài tuổi xanh !
Ở đâu mà đến chài mình,
1440.- Hãy còn im-ỉm khí sinh lạ đời.
Thay quần đổi áo tơi bời,
Ngư-bà mới hỏi mấy lời trước sau:
"Chẳng hay quê, họ nơi đâu ?
"Gặp nhau xin tỏ cho nhau biết cùng
"Làm sao mà phải gieo sông?
"Hay là tội-lệ cát hung thế nào ?"
Xuân-sinh mới kể gót đầu:
"Quê tôi ở huyện Thường-châu cũng gần.
"Cha làm quan, họ là Trần,
1450.- "Chẳng may mắc phải gian-thần vu oan,
"Tâu vua bắt chị hòa Man ,
"Thiên-lao lại bắt thung-đường phó giam .
Tôi tiễn chị tôi xuất quan,
"Bỗng nghe mật-chỉ sai quan nã về.
"Vậy nên tôi phải lánh đi,
"Chẳng may gặp lũ gian-phi giữa đường.
"Than ôi ! đương hợp mà tan,
"Một mình tránh khỏi nguy-nàn tới đây.
"Cả liều nào quản vơi đầy,
1460.- Phúc sao, may khéo là may, gặp người."
39.- Ngư bà hứa gả con gái nuôi cho Xuân-sinh (câu 1461 - câu 1534)




Ngư-bà nghe bấy nhiêu lời,
Nhủ rằng: "Thôi cũng có trời chẳng không !
"Năm xưa vớt được giữa dòng,
"Một hòm âm-ấp những vòng với thoa.
"Khen thầy nó dặn lão-bà,
"Để cho con gái tên là Ngọc Thư.
"Gặp ông thầy số năm xưa,
"Đoán cung-mệnh cháu khen bà phu-nhân.
"Gạo công, đòi đủ trăm cân,
1470.- "Khen đi, khen lại phu-nhân khác thường,
"Bây giờ may vớt được chường.
"Mà xem tướng-mạo đường đường dáng quan.
"Hẳn rằng thiên địa tuần-hoàn ,
"Mà cho chàng lại trôi ngang vào chài.
"Nên nay lại vớt được người,
"Hai phen vớt được một đôi rõ-ràng.
"Thôi đừng quản thiệt tham hơn,
"Băn-khoăn kén cá, phàn-nàn chọn canh.
"Ngọc Thư cho két duyên lành,
1480.- "Họa là phu quí phụ vinh kịp ngày.
"Được như số đoán là may,
"Vong-hồn cũng thỏa đến thầy nó xưa."
Xuân-sinh nghĩ đã chót nhờ,
Vả xem phong-dạng Ngọc Thư ra tuồng.
Thưa rằng: "Chút phận tha hương,
"Đã thương yêu đến, dám ruồng-rẫy ru !
"Xin vâng, nhưng hãy xin chờ,
"Bảng vàng rồi sẽ đuốc hoa cũng vừa."
Bà mừng, kíp gọi Ngọc Thư,
1490.- Một lời đã định phải ra chào mời.
Thẹn-thùng lững-thững chân dời,
Nàng e còn đứng, chàng coi đã tường.
Quả nhiên nhan-sắc dị thường,
Mai hình tú bộ khác thường ngư-gia.
Khi vui nảy phút hứng thừa,
Khen thầm trong bụng nên thơ một bài.
Thấy chàng, nàng cũng mừng vui,
Dáng người thanh-thú, vẻ người văn-chương.
Chắc rằng có phận giàu-sang,
1500.- Hứng lòng cũng ngụ luật Đường bốn câu .
Dần-dà quen thuộc bấy lâu,
Mới hay nương-tử họ Châu ấy là.
Nực cười thay ! thú ngư-gia,
Sớm qua Tầm-thuỷ, tối về Hàn-san.
Ca chèo, nhịp nhặt, nhịp khoan,
Trăng lòn sau lái, gió đàn trước song.
Bốn mùa mặt nước sinh nhai,
Lưỡi câu, sợi chỉ, tay chài mặt sông.
Mặc ai danh-lợi trong vòng,
Xiêm vằn-vặn lưới, đai long-lỏng thừng,
Thoi đưa nấn-ná ba đông,
1510.- Trải phần đông-quí, sang chừng xuân qua.
Tết trung náo-nức gần xa,
Neo thuyền giặt lưới, giăng bè dựng nêu.
Ngư-bà mới bảo Ngọc Kiều ,
Mượn điềm bói cá thay gieo tú cầu:
"Lưới này như được cá đầu,
"Duyên con thì định xuân sau kén ngày.
"Ví bằng ba lưới không tay,
"Thành thân thong-thả sau này sẽ hay."
Bàn rồi chia việc làm ngay,
1520.- Kẻ buông tay lưới, người gay cột chèo.
Cầm sào chàng cũng đẩy theo,
Ngọc Thư đỡ lấy có chiều lần-khân.
Lạ gì đôi lứa vừa xuân,
Ai hay rơm bén, lửa gần với nhau ?
Ngư-bà liếc thấy vừa hai,
Nghĩ thầm chuyện ấy có người, có ta!
Người yểu-điệu, kẻ tài-hoa,
Khi vào sát áo, khi ra chạm quần.
Nghe nặng lưới, kẻo lên dần,
1530.- Lý-ngư đâu đấy trần-trần một đôi.
Sinh rằng: "Ăn những ngồi rồi,
Này xin đem bán chợ chơi một lần"
Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Mà cho trải với thế-nhân đủ điều.
40.- Cướp gái đẹp Giang-Khôi bị phạt (câu 1535 - câu 1624)




Chàng vừa đi khỏi chợ chiều.
Thuyền ai đâu đã ghé chèo tới nơi.
Trên mui ngồi tốt một người,
Nghênh-ngang dáng cậu, nói cười giọng quan.
Một thuyền vâng dạ đã rân,
1540.- Tiểu-hầu, đầy tớ một đoàn như rươi.
Khoe-khoang một tấc đến trời,
Quần hồ sột-soạt, áo mồi trai lơ.
Trông sang nhác thấy Ngọc Thư,
Xúm quang,rắn ếch, bướm hoa, động lòng.
Đặt ra một mẹo hư không,
Bạc năm mươi lạng một phong sẵn-sàng.
Giao cho đầy tớ đưa sang,
Mua làm tiểu-thiếp, mong đường ép duyên.
Thuận lòng bao quản sang hèn,
1550.- Tam-bành bà đã nổi lên một hồi.
Ngọc Thư ngấm-nguýt một hai,
Trong khi quá giận, lắm lời sam-sưa.
Khuyển, Ưng một lũ mắt đưa,
Để phong bạc, bắt Ngọc Thư đem về.
TIếng nàng kêu dậy giang khê ,
Một đoàn thuyền-hộ kéo bè la om.
Vác sào quơ gậy ỳ-òm,
Lao-xao nổi tép nổi tôm một vùng.
Lời thô tiếng tục như ong,
1560.- Kẻ toan cướp lại, người hòng đánh nhau.
Bàn dày, bàn mỏng giờ lâu,
Xuân-sinh trong chợ may đâu vừa về
Can rằng: "Xin hãy im đi,
"Khôn không qua lẽ, phép thì có quan."
Bảo nhau tìm chốn kêu oan.
Giắt theo chứng tá, một đoàn ngư-nhân .
Bước đi bóng đã xế dần,
Nửa đường gặp lũ quan-quân dài dài.
Đèn lồng trước kiệu hàng hai,
1570.- Hiệu đèn Đề-đốc chữ nhồi nét son.
Giữa đường quì xuống kêu dồn.
Nghe truyền dừng kiệu, ôn tồn hỏi tra.
Thưa rằng: "Chút phận ngư-gia,
"Gặp chàng công-tử, họ là họ Giang.
"Khinh người hèn, cậy mình sang.
"Lấy điều thân-thế, toan đường hiếp ai.
"Kề thuyền cướp lấy vợ người,
"Chuyện này, muôn đợi đèn trời xét cho.
"Cao-minh xin thứ dân ngu,
1580.- "Vội-vàng kêu miệng, nào lo kịp tờ."
Lệnh quan một tiếng truyền ra :
"Con quan quen ỷ thế cha, cũng thường.
"Tên này phong-dạng ra tuồng,
"Nhìn xem chưa hẳn là phường ngư-gia!"
Kịp truyền tới bến đại hà.
Bắt Giang công-tử về nha tức thì.
Nguyên-đơn cũng bắt đem về,
Kiệu đi một lúc đã kề đại-doanh
Hiên-môn vẽ hổ trước bình,
1590.- Giáo thăm-thẳm dóng, quân sình-sịch hơi.
Thung-dung xuống kiệu sảnh ngoài,
Tiếng loa thị-sự, hồi còi thu quân
Hầu bên hai dãy biền-thân,
Nệm trăm-trắm trải, nến rần-rật giong (chong ).
Ngậm tăm lặng ngắt như không,
Trại ngoài điểm trống, dinh trong đóng kèn.
Một vòng quân khảo như nêm
Hàng giăng giá nọc, chật lèn túi roi.
Giao canh trống mới sang hai,
1600.- Phạm tù đã thấy lôi-thôi điệu về.
Giang Khôi dường cũng khiếp uy.
Liếc trông mặt sắt lặng nghe tiếng đồng.
Quở rằng: "Cậy thế thị hùng,
"Ra ngoài văn-pháp vào trong dâm-tà.
"Án này cứ miệng ngư-gia,
"Phỏng như tội ấy, nghĩ đà đáng chưa ?"
Kiên gan Khôi cũng lôi-la,
Rằng mua rằng bán, rằng lừa trăm khoanh.
Rồi ra chứng-tá phân minh,
1610.- Dường cưng-cứng lưỡi, dường quanh-quẩn lời.
Quan-môn biết sự chẳng sai,
Lấy điều nhỏ-nhặt truyền đòi Ngọc Thư.
Hỏi ra mới biết rằng là:
"Liễu dù gặp gió, sen chưa nhuốm bùn!"
Đòi Giang tri-phủ quở dồn:
"Khen làm dân-mục dung con bất tài .
"Mắt trông tay trỏ đủ mười ,
"Phép vua khôn thứ, miệng người khôn che.
"Tội con phạt bốn mươi bê,
1620.- "Cha đà biết tội tha về lượng cho.
"Nguyên-đơn một lũ họ Châu,
"Chờ mai thẩm lại mới hồ tha xong."
Truyền cho ở lại nha-phòng,
Sáng mai sẽ hỏi xem trong tình đầu. Chú thích:

môn-đệ : Học-trò hay là người chịu ơn, thuộc viên cũng xưng được là môn-đệ.
ân sư : Thày dạy, người chấm trường cho đỗ cũng gọi là ân-sư.
Hà-nam : Một tỉnh bên Tàu. Tỉnh lỵ là huyện Khai-phong bây giờ.
tuần-hành : Đi tuần xét phong-tục chính-trị, cũng như kinh-lý.
xích-tử : con đỏ, trỏ vào dân-chúng địa-phương.
Văn-chương tài-mạo : Chữ nghĩa tài hoa và bóng dáng người.
Cánh bằng : Con chim to, nói bóng về công danh bay nhảy (xem chú thích ở dưới)
tân-phục : Quần áo mới.
nhật trình : Đồ hành-lý đi đường.
phó lỵ : Đến chỗ làm quan đây trỏ Châu-công.
[Back to the top]
tiến kinh : Lên kinh, đây trỏ Phùng-công.
Nhiêu-châu : Tên một phủ thuộc tỉnh Giang-tây. Bây giờ là huyện Phiên-dương.
biên-phong : Tịch-biên và niêm-phong, nhà có tội người bị bắt, gia-sản bị tịch-biên, nhà cửa bị niêm-phong.
biện oan : Phân-trần cho rõ sự oan-uổng.
cô-đan : Lẻ-loi, một thân một mình, cô đơn.
Hồng-nhan : Má hồng, câu này nói về Hạnh Nguyên, chị gái của Xuân-sinh phải đi cống Hồ, chả biết còn hay đã chết.
chu-tuyền : chữ chu-tuyền đây có nghĩa là săn-sóc.
Mai-kha : Anh họ Mai, trỏ Mai-sinh.
trần ai : Bụi-bậm, chữ trần-ai đây có nghĩa là nơi hiểm-nghèo.
oan thác : Chết oan, trỏ Mai-sinh.
[Back to the top]
ngục hình : Phải giam-cầm, trỏ ông bà Trần-công.
bất minh : Không sáng-suốt.
gian-đảng : Đảng gian-nịnh.
hiền-tài : Bậc hiền-lành, tài giỏi.
lông hồng : bởi chữ Hồng-mao, lông chim hồng, thứ lông rất nhẹ.
khí sinh : Bởi chữ sinh-khí : Hơi sống.
gian-thần : Bầy tôi gian-nịnh.
hòa Man : Hòa với rợ Man tức nước Sa đà.
phó giam : Bắt giao giam giữ tại ngục.
Ngọc Thư : Sau là chính-thất của Xuân-sinh.
[Back to the top]
thiên địa tuần-hoàn : chữ tuần-hoàn đây có nghĩa như giong-ruổi.
Mai hình tú bộ : mai hình : vóc mai ; Tú bộ : gót thêu . thủa xưa con gái Tàu ưa thân hình mảnh-khảnh và bó chân, đây nói về tướng người con gái lịch-sự bóng-bảy thanh-thấu.
nên thơ một bài : Thơ của Xuân-sinh :


Quốc-sắc thiên tư khởi tại trang,
Bố quần ngư tráo thắng nghê-thường.
Nhược xuyên hoàn-bội nghinh phong lập,
Nghị thị Hằng-nga hạ thử phương.
Nghĩa là :



Sắc đẹp thiên-nhiên không phải ở đồ trang-sức,
quần vải lưới cá hơn cả nghê-thường,
nếu đeo vòng xuyến mà đứng trược gió,
thì ngờ là ả Hằng-nga đã giáng-hạ nơi này.
luật Đường bốn câu : Thơ của Ngọc Thư :


Cốt cách thanh kỳ thực khả khoa,
Thân xuyên ngư phục tác ngư gia,
Nhược đắc xuân bôi long báo tín,
Bất thì thượng-uyển hảo khan hoa.
Nghĩa là cốt cách thanh-nhã lạ-lùng thực đáng khoe, vì mình mặc áo chài nên làm nhà thuyền chài. Nếu được tiếng sấm mùa xuân rồng báo tin, bất thần có lúc xem hoa tại vườn Thượng-uyển.
Sớm qua Tầm-thuỷ, tối về Hàn-san : Tầm thủy : Sông Tầm, bên Tàu có hai con sông là Tầm-giang thuộc tỉnh Quảng-tây và Tầm-dương thuộc tỉnh Giang-tây, nơi Bạch-cư-Dị bị biếm.
Hàn-san : Tên một ngôi chùa ở ngoài thành Cô-tô thuộc tỉnh Giang-tô bên Tàu. Chữ Tầm-tủy và Hàn-san trong câu này, chỉ là mượn tên để nói về cảnh sông nước.
đông-quí : Cuối mùa đông.
Ngọc Kiều : tức Ngọc Thư.
tú cầu : quả cầu bằng vóc. Tục kén rể bên Tàu : Con gái ngồi trên lầu tung quả cầu xuống, ai nhặt được là trúng tuyển.
Lý-ngư : Cá chép.
rắn ếch, bướm hoa : Câu này ý nói thấy gái đẹp như rắn thấy ếch, như bướm thấy hoa.
[Back to the top]
Tam-bành : Ba vị hung-thần trong mình người ta hay xui giục người nổi cơn giận dữ.
Khuyển, Ưng : Khuyển : chó ; Ưng : chim cắt. chó săn chim cắt là hai vật dữ tợn, dùng ví với bọn đầy tớ hung tợn đắc lực.
giang khê : Đây trỏ nơi sông bến.
thuyền-hộ : Đây trỏ về dân chài lưới.
ngư-nhân : Người thuyền chài, người đánh cá.
Đề-đốc : Một chức quan về ngành võ quan cao cấp.
Giang công-tử : Công-tử họ Giang tức Giang Khôi.
Nguyên-đơn : người đứng tên trong đơn đi kiện, tục quen gọi là bàn nguyên.
đại-doanh : Dinh lớn, đại bản-doanh, nơi võ-quan đóng.
Hiên-môn : hay viên môn : Quan tướng đóng đâu có xe chất lên làm cổng, gọi là viên-môn.
sảnh : tức sảnh đường : Một nơi dinh-thự to, nơi công đường.
thị-sự : Coi việc : tức là buổi xét xử công việc quan.
biền-thân : Nha lại, thuộc viên.
Phạm tù : Kẻ can-phạm
Giang Khôi : tức kẻ bị cáo.
mặt sắt : bởi chữ thiết diện. Nói về ông quan nghiêm-nghị, đanh thép, không tư-vị ai.
Quan-môn : cửa quan.
Giang tri-phủ : Quan Tri-phủ họ Giang, bố Giang Khôi.
dân-mục : Người chăn nuôi dân, tức là quan đầu hạt.
bất tài : Chẳng có tài, mất nết, chữ bất tài đây có nghĩa là nết xấu.
Mắt trông tay trỏ đủ mười : Câu này bởi chữ thập mục sở thị, thập thủ sở chỉ : Mười mắt cùng trông, mười tay cùng trỏ.
bốn mươi bê : có lẽ là 40 trượng hay 40 roi.
họ Châu : Họ của Ngọc Thư.
nha-phòng : Nơi phủ-nha.
Nhị Độ Mai
Giới thiệu
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang kết